intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Cập nhật các chỉ định can thiệp ngoại khoa điều trị suy tĩnh mạch nông mạn tính chi dưới

Chia sẻ: ViUzumaki2711 ViUzumaki2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

62
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bệnh lý suy giãn tĩnh mạch nông chi dưới mạn tính là bệnh lý thường gặp, gặp nhiều ở phụ nữ hơn nam giới, bệnh do sự trào ngược và suy van trong lòng tĩnh mạch. Bệnh gặp nhiều ở các nước phát triển, có liên quan mật thiết đến lối sống. Nhu cầu điều trị bệnh ngày càng tăng, hiện có nhiều phương pháp và lựa chọn trong điều trị.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Cập nhật các chỉ định can thiệp ngoại khoa điều trị suy tĩnh mạch nông mạn tính chi dưới

  1. CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC Cập nhật các chỉ định can thiệp ngoại khoa điều trị suy tĩnh mạch nông mạn tính chi dưới Đoàn Quốc Hưng**, Nguyễn Thế May*, Nguyễn Công Huy*, Nguyễn Văn Đại* Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức**, Bệnh viện Hữu nghị Việt Tiệp* TÓM TẮT nguyên nhân tĩnh mạch. Đây là một vấn đề sức khỏe và xã hội trầm trọng hiện nay: Tại Pháp: Kinh phí Bệnh lý suy giãn tĩnh mạch nông chi dưới mạn điều trị suy tĩnh mạch chiếm khoảng 2,6% tổng tính là bệnh lý thường gặp, gặp nhiều ở phụ nữ hơn kinh phí cho ngành y tế; Tại Mỹ: chi phí khoảng 1 nam giới, bệnh do sự trào ngược và suy van trong lòng tỷ đô la/năm cho điều trị loét mạn tính do nguyên tĩnh mạch. Bệnh gặp nhiều ở các nước phát triển, có nhân tĩnh mạch…[2] liên quan mật thiết đến lối sống. Nhu cầu điều trị Hiện nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của bệnh ngày càng tăng, hiện có nhiều phương pháp và khoa học kỹ thuật, điều trị bệnh lý suy tĩnh mạch lựa chọn trong điều trị. Điều trị bằng phẫu thuật cho mạn tính chi dưới có nhiều phương pháp mới kết quả tốt, bắt đầu và duy trì bằng điều trị nội khoa tiên tiến và đem lại hiệu quả cao, có tính thẩm với thuốc làm tăng sức bền thành tĩnh mạch và tất mỹ, cải thiện tốt triệu chứng và mang lại sự hài y khoa. Việc điều trị kết hợp giữa nội khoa – phẫu lòng cho người bệnh. Trong khuôn khổ bài viết thuật và tất y khoa cho kết quả tốt và lâu dài. này, chúng tôi trình bày cập nhật các phương Từ khóa: Suy tĩnh mạch nông chi dưới mạn tính. pháp điều trị ngoại khoa, can thiệp trong điều trị suy tĩnh mạch nông mạn tính chi dưới hiện đang ĐẶT VẤN ĐỀ được áp dụng. Suy tĩnh mạch mạn tính chi dưới là bệnh phổ ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU biến, chiếm từ 15 – 25% dân số người lớn nói chung và là một trong những nguyên nhân khám bệnh Đối tượng nghiên cứu thường gặp nhất trên lâm sàng, bệnh gặp ở nữ gặp Các phương pháp điều trị ngoại khoa, can thiệp nhiều hơn nam (tỷ lệ 3 nữ/1 nam) [1]. Bệnh có điều trị suy tĩnh mạch mạn tính chi dưới hiện nay thể gây ra các biến chứng như giãn tĩnh mạch nông, đang được áp dụng ở Việt Nam và Thế giới. huyết khối tĩnh mạch, thuyên tắc động mạch phổi, Phương pháp nghiên cứu loét chi…làm giảm đáng kể chất lượng cuộc sống và Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết. tăng gánh nặng chi phí cho nền y tế. Bệnh gặp nhiều Khái niệm suy tĩnh mạch mạn tính [3] ở những nước phát triển, có mối liên quan mật thiết - Suy tĩnh mạch mạn tính chi dưới là tình trạng với lối sống, tính chất công việc… Hiện nay, ở Pháp suy giảm chức năng hệ tĩnh mạch chi dưới do suy có khoảng 18 triệu người bị suy tĩnh mạch chi dưới, các van tĩnh mạch thuộc hệ tĩnh mạch nông và/ trong đó có khoảng 10 triệu người giãn tĩnh mạch. hoặc hệ tĩnh mạch sâu, có thể kèm theo thuyên tắc Có khoảng 1% dân số thế giới bị loét chi dưới do tĩnh mạch hoặc không. TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 78.2017 63
  2. CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC - Suy tĩnh mạch sâu xảy ra khi các van trong hệ (tĩnh mạch xuyên Hunter) và ở phía trên bắp chân tĩnh mạch sâu bị tổn thương, ví dụ do huyết khối (tĩnh mạch xuyên Boyd). tĩnh mạch sâu. Vì không có van bình thường để Phân loại suy tĩnh mạch mạn tính theo hệ thống ngăn cản dòng chảy ngược trong hệ tĩnh mạch sâu CEAP nâng cao[3] nên áp lực thủy tĩnh trong hệ tĩnh mạch chi dưới sẽ Phân loại CEAP được áp dụng rộng rãi trên toàn tăng lên rất cao, tình trạng này được gọi là hội chứng thế giới. Gồm các tiêu chí: sau huyết khối (postphlebitic syndrom). Phân loại lâm sàng (Clinique) - Suy tĩnh mạch nông là thể hay gặp nhất của suy C0: Không có biểu hiện bệnh lý tĩnh mạch có tĩnh mạch. Trong suy tĩnh mạch nông, các van trong thể quan sát hoặc sờ thấy hệ tĩnh mạch sâu có thể bình thường, máu từ hệ tĩnh C1: Giãn mao tĩnh mạch mạng nhện hoặc dạng mạch sâu chảy vào các tĩnh mạch nông bị giãn do lưới Ø < 3 mm các van bị hở. C2: Giãn tĩnh mạch Ø > 3 mm Các van tĩnh mạch nông bị hở do nhiều nguyên C3: Phù chi dưới, chưa có biến đổi trên da nhân. Tổn thương trực tiếp hoặc huyết khối tĩnh C4: Biến đổi trên da do bệnh lý tĩnh mạch mạch sâu có thể gây suy van tiên phát. Thành tĩnh C4a: rối loạn sắc tố và/hoặc chàm tĩnh mạch mạch bị yếu bẩm sinh có thể bị giãn dưới áp lực bình C4b: Xơ mỡ da và/hoặc teo trắng kiểu Milian thường, gây suy van thứ phát. Các van bất thường C5: Loét đã liền sẹo bẩm sinh cũng có thể bị hở dưới áp lực tĩnh mạch C6: Loét đang tiến triển nông bình thường. Các tĩnh mạch và van bình thường cũng có thể bị căng ra quá mức do ảnh hưởng của các hormon (ví dụ trong khi có thai). Theo thời gian, các tĩnh mạch nông bị giãn to tới mức các van tĩnh mạch không thể khép kín được nữa, các tĩnh mạch này ngày càng giãn to và ngoằn nghoèo. Khi đó được gọi là giãn tĩnh mạch. Hầu hết các trường hợp suy van tĩnh mạch nông xảy ra sau một điểm dò áp lực cao duy nhất giữa hệ tĩnh mạch sâu và nông. Áp lực cao có thể đổ vào các tĩnh mạch nông do hở các van ở bất cứ điểm nối nào giữa hệ tĩnh mạch sâu và nông. Hai nguồn chính gây dò áp lực cao từ hệ tĩnh mạch sâu vào hệ tĩnh mạch Hình 1. Phân loại lâm sàng theo CEAP nông là hở van ở các quai tĩnh mạch hiển và hở van của các tĩnh mạch xuyên. Hở van ở quai tĩnh mạch Phân loại nguyên nhân (Etiologie) hiển: Hay gặp nhất là hở van tiên phát tại chỗ nối Ec: Bẩm sinh giữa tĩnh mạch hiển lớn và tĩnh mạch đùi chung. Ep: Tiên phát Dạng ít gặp hơn là hở van tiên phát ở chỗ nối giữa Es: Thứ phát tĩnh mạch hiển bé và tĩnh mạch khoeo. Hở van của En: Không xác định được nguyên nhân tĩnh mạch các tĩnh mạch xuyên: Vị trí hay gặp nhất là hở van Phân loại giải phẫu (Anatomique) của các tĩnh mạch xuyên ở một phần ba trên đùi As: Tĩnh mạch nông 64 TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 78.2017
  3. CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC Ad: Tĩnh mạch sâu Phẫu thuật stripping[4],[5] Ap: Tĩnh mạch xuyên Stripping là kỹ thuật lột bỏ toàn bộ tĩnh mạch An: Vị trí tĩnh mạch không xác định hiển bị suy (tĩnh mạch hiển lớn hoặc hiển nhỏ) Phân loại sinh bệnh học (Pathogénie) bằng cách sử dụng dây rút tĩnh mạch (stripper), có Pr: Trào ngược thể phối hợp thắt hoặc cắt các tĩnh mạch xuyên bị Po: Tắc nghẽn suy. Phương pháp này được thực hiện phổ biến từ Pr/o: Trào ngược và tắc nghẽn năm 1950 đến ngày nay. Với phẫu thuật stripping, sử Pn: Không xác định được bệnh sinh dụng hai vết rạch da ở chân: vết rạch khoảng 3 cm ở Chẩn đoán bẹn để bộc lộ quai tĩnh mạch hiển lớn, các nhánh đổ Dựa vào các tiêu chí: về quai và vết rạch 1 cm ở trước mắt cá trong bộc lộ - Tiền sử bệnh đầu xa của tĩnh mạch hiển lớn. Thắt và cắt quai tĩnh - Khám lâm sàng mạch hiển lớn, các nhánh đổ về quai, luồn stripper - Thăm dò cận lâm sàng không xâm nhập: siêu vào lòng tĩnh mạch từ 2 vết rạch ở mắt cá chân và âm doppler màu tĩnh mạch: xác định được suy van ở bẹn. Tĩnh mạch hiển sau đó sẽ được kéo rút ra tĩnh mạch, huyết khối, đường kính tĩnh mạch, vẽ sơ và các vết rạch được khâu lại. Phẫu thuật stripping đồ tĩnh mạch… tương đối nhanh chóng: khoảng 30 phút đối với 1 - Thăm dò cận lâm sàng xâm nhập: hiếm khi sử chân và 1 giờ đối với 2 chân. Bệnh nhân hoàn toàn dụng, chỉ sử dụng khi cần xác định mức độ nặng tỉnh táo, có thể ăn uống, đi lại bình thường và xuất của bệnh hay khi cần cân nhắc chỉ định phẫu thuật: viện ngay ngày hôm sau. chụp cản quang hệ tĩnh mạch… KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN Phẫu thuật stripping Các phương pháp điều trị ngoại khoa Mục tiêu chính của các phương pháp điều trị là cải thiện tuần hoàn tĩnh mạch bằng cách loại bỏ dòng trào ngược trong lòng các tĩnh mạch bị suy. Chỉ định ngoại khoa được đặt ra khi suy tĩnh mạch không đáp ứng với điều trị nội khoa và xuất hiện các biến chứng của dòng trào ngược. Phẫu thuật Muller (phlebectomy) Tùy theo tổn thương nằm ở hệ tĩnh mạch nông, Phẫu thuật Muller được chỉ định trong những sâu, xuyên, bác sĩ phẫu thuật sử dụng các phương trường hợp các nhánh tĩnh mạch nông bàng hệ pháp phẫu thuật khác nhau. Các kỹ thuật cổ điển (thuộc hệ tĩnh mạch hiển hoặc không) giãn to bao gồm thắt với stripping, thắt đơn thuần và ngoằn nghoèo dưới da và suy tĩnh mạch chi dưới phân chia dòng tĩnh mạch (trong các trường hợp mức độ nặng, với điều kiện đã điều trị triệt để hở van tĩnh mạch xuyên), điều trị gây xơ (có thắt suy tĩnh mạch hiển. Phẫu thuật Muller được bác hoặc không) và hai kỹ thuật tiên tiến hiện nay sĩ Robert Muller đề xướng vào năm 1962. Với đang được áp dụng mạnh mẽ và rộng rãi trên thế phẫu thuật này, bác sĩ tiến hành rạch những vết giới là loại bỏ tĩnh mạch bằng sóng radio và bằng mổ nhỏ khoảng 2 – 3 mm(microphlebectomy) laser nội tĩnh mạch. ngay vị trí các tĩnh mạch nông giãn, qua đó dùng TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 78.2017 65
  4. CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC móc hoặc kẹp chuyên dụng rút bỏ các tĩnh mạch xuyên. Phẫu thuật Linton điều trị được những vết này. Đây là phương pháp phẫu thuật mang lại hiệu loét tĩnh mạch, thế nhưng tỉ lệ nhiễm trùng vết mổ quả cao. Một ngày sau phẫu thuật, bệnh nhân có lại khá cao, xấp xỉ 50%. Nguyên nhân được Linton thể đi lại bình thường, các vết bầm dọc theo tĩnh và các tác giả khác ghi nhận là do đường mổ dài, bóc mạch sẽ tự mất sau 3-4 tuần. tách rộng. Sau đó, nhiều cải tiến được nghiên cứu nhằm khắc phục biến chứng nhiễm trùng của phẫu Phẫu thuật Mueller (phlebectomy) thuật Linton. Phẫu thuật ít xâm lấn, phẫu thuật nội soi Những năm gần đây, cùng với sự phát triển của phẫu thuật nội soi, phẫu thuật nội soi cắt tĩnh mạch Dr. Robert Mueller xuyên dưới cân đang là 1 lựa chọn tốt trong điều trị. Bệnh nhân có tĩnh mạch xuyên bệnh lý (dòng trào ngược trên 0,5 giây, giãn trên 3,5mm, phân độ C5- C6) có thể điều trị bằng phẫu thuật nội soi loại bỏ các tĩnh mạch xuyên dưới cân cơ (SEPS: subfascial endoscopic perforator vein surgery). Giữa thập kỉ 80, một số tác giả Châu Âu đã báo cáo kỹ thuật mổ Phẫu thuật CHIVA (chirurgie vasculaire ambulatoire) ít xâm lấn trong điều trị suy tĩnh mạch xuyên và [6] sau đó được hưởng ứng bởi các tác giả người Mỹ. Dựa vào bản đồ tĩnh mạch chi dưới với đánh Năm 1985, Hauer đã áp dụng phẫu thuật nội soi dấu tỉ mỉ vị trí tĩnh mạch có dòng trào ngược (bằng để cột nhánh tĩnh mạch xuyên Cockett bị suy. siêu âm Doppler), thắt hoặc cắt bỏ những vị trí tĩnh Năm 1996, Gloviczki đã mô tả hàng loạt trường mạch là nguyên nhân gây ra sự trào ngược, trong khi hợp áp dụng phẫu thuật nội soi trong điều trị suy bảo tồn tối đa tĩnh mạch hiển. tĩnh mạch xuyên. Năm 1997, Pierik đã thực hiện Phẫu thuật CHIVA nghiên cứu ngẫu nhiên có đối chứng trên 2 nhóm bệnh nhân suy tĩnh mạch xuyên. Kết quả cho thấy tỉ lệ nhiễm trùng trong nhóm mổ hở là 53% so với không trường hợp nào trong nhóm mổ nội soi. Dr. Claude Franceschi Các phương pháp can thiệp nội mạch [6],[7] Từ cuối thập niên 90, một số phương pháp điều trị dòng trào ngược tĩnh mạch ít xâm lấn, ít đau, ít biến chứng và thời gian hồi phục nhanh được báo cáo trong điều trị bệnh lý suy tĩnh mạch chi dưới. Đó là các phương pháp can thiệp nội tĩnh mạch: tia Phẫu thuật Linton laser, sóng cao tần, tiêm xơ. Tuy nhiên, các phương Với suy tĩnh mạch xuyên, điều trị ngoại khoa cổ pháp này chỉ can thiệp trên tổn thương ở tĩnh mạch điển được biết đến là phẫu thuật Linton. Năm 1938, nông. Các phương pháp này hiệu quả, an toàn được Linton đã tiến hành phẫu thuật cột các nhánh tĩnh áp dụng ngày càng nhiều trên thế giới. Các thủ thuật mạch xuyên trong điều trị loét do suy tĩnh mạch này nên được thực hiện trong môi trường ngoại 66 TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 78.2017
  5. CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC khoa, bởi các bác sĩ ngoại mạch máu, hoặc nội mạch mạch hiển lớn – tĩnh mạch đùi chung hoặc điểm máu can thiệp nối giữa tĩnh mạch hiển bé với tĩnh mạch khoeo Phương pháp tiêm xơ tĩnh mạch bằng chất xơ 10 – 20 mm, bơm dung dịch gây tê và làm mát tạo bọt xung quanh đoạn tĩnh mạch hiển cần can thiệp, Phương pháp tiêm xơ bắt đầu được công bố do đó sẽ tách rời được tĩnh mạch hiển ra khỏi da 1986 – 1989. Nguyên tắc của phương pháp này là và các cấu trúc dưới cân nhằm bảo vệ mô khỏi bị tiêm chất xơ vào lòng tĩnh mạch sẽ làm tan lớp màng nhiệt năng của sóng RF/laser. Khởi động chế độ fibrinogen bảo vệ nội mạc làm phá hỏng lớp nội đốt RF/laser, sond được rút ra từng đoạn hay rút mạc và thành phần lân cận của lớp trung mạc. Fibrin đều đặn trên suốt chiều dài của tĩnh mạch theo lắng đọng trong và xung quanh thân tĩnh mạch tạo đúng quy trình của từng máy. Phương pháp can ra phản ứng viêm gây xơ hóa tĩnh mạch trong vòng thiệp này có nhiều ưu điểm như: can thiệp tối khoảng 6 tháng và làm nghẽn mạch. Các loại thuốc thiểu, không cần nằm viện, có thể gây tê tại chỗ, tiêm xơ thường được dùng: Polidocanol, Iodine, không để lại sẹo, thời gian phục hồi nhanh, ít đau. Sodium tetradecylsulfate, Sodium salicylate… *Phương pháp xơ hoá tĩnh mạch bằng nhiệt Tuy nhiên, phương pháp này chỉ được áp dụng cho cao tần: Phương pháp can thiệp nội tĩnh mạch những trường hợp tĩnh mạch giãn có đường kính bằng nhiệt cao tần trong điều trị suy tĩnh mạch nhỏ: suy thân tĩnh mạch hiển với điều kiện tĩnh nông chi dưới được công bố năm 1998. Nguyên mạch giãn không quá 1 cm; suy các tĩnh mạch xuyên, lý của phương pháp này là tác dụng nhiệt trực tiếp có thể gây giãn tĩnh mạch tái phát nếu không điều lên thành tĩnh mạch để làm teo và xơ hoá lòng tĩnh trị; giãn các tĩnh mạch bàng hệ của hệ tĩnh mạch mạch. Hiệu quả của phương pháp này khá cao, hiển, với điều kiện đã điều trị tình trạng giãn và khoảng 97%. Phương pháp có tác dụng tốt nhất với suy của hệ tĩnh mạch hiển đó. Các biến chứng có những tĩnh mạch có đường kính ≤ 12mm và vận thể gặp là: phản ứng dị ứng, thuyên tắc xa, hoại tử tốc trào ngược lớn hơn 10 cm/giây. Các thông số mô nếu chất tạo xơ thoát ra ngoài lòng mạch, thay này được xác định qua siêu âm Doppler tĩnh mạch. đổi sắc tố da, tiêm vào lòng động mạch có thể gây Phương pháp xơ hoá tĩnh mạch bằng laser tắc động mạch và hoại tử chi, viêm tĩnh mạch hay Phương pháp laser nội tĩnh mạch được công quanh tĩnh mạch do tiêm quá nhiều chất xơ, tỷ lệ bố vào năm 1999. Nguyên lý của phương pháp này là tái phát cao. dùng năng lượng của ánh sáng laser để biến đổi thành Điều trị nhiệt nội tĩnh mạch nhiệt thông qua sự hấp thụ của Hemoglobin trong Nguyên lý: Phóng thích một năng lượng nhiệt máu để tác động lên thành tĩnh mạch. Phương pháp vừa đủ vào trong lòng tĩnh mạch để phá hủy tĩnh này áp dụng được cho hầu hết mọi đường kính tĩnh mạch bằng những phản ứng sinh lý không thể đảo mạch nhưng tốt nhất là ≤ 20mm. Laser nội tĩnh ngược. Có hai phương pháp hiện nay đang được mạch cũng cho kết quả thành công cao, khoảng 97 áp dụng rộng rãi và phổ biến trên thế giới: Điều – 98%, và ít tai biến. trị nhiệt nội tĩnh mạch bằng sóng cao tần (RF) Nhìn chung, các phương pháp can thiệp nội và điều trị nhiệt nội tĩnh mạch bằng laser. Với hai mạch áp dụng hiệu quả cho điều trị suy tĩnh mạch phương pháp này, luồn sợi dây đốt RF/laser qua nông chi dưới. Các phương pháp này chỉ mới phát da vào lòng tĩnh mạch dưới hướng dẫn của siêu triển trong khoảng 30 năm trở lại đây. Tại Việt Nam, âm. Xác định vị trí đầu đốt cách điểm nối tĩnh các phương pháp này được triển khai khoảng một TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 78.2017 67
  6. CHUYÊN ĐỀ KHOA HỌC thập kỉ nay, chủ yếu là với phương pháp tiêm xơ dưới quá trình lịch sử lâu dài, nhiều phương pháp điều siêu âm. Trong vài năm trở lại đây, phương pháp xơ trị được áp dụng, đánh giá và chắt lọc. Ngày nay, hoá tĩnh mạch bằng laser nội tĩnh mạch và sóng cao điều trị suy tĩnh mạch chi dưới là một sự kết hợp tần đã được thực hiện tại Việt Nam và bước đầu đã nhiều phương pháp nội – ngoại khoa từ thay đổi lối thu được những kết quả nhất định. sống, uống thuốc, mang tất y khoa, phẫu thuật và can thiệp nội mạch nhằm đem lại một kết quả tốt KẾT LUẬN nhất và sự hài lòng cho người bệnh. Trong đó các phương pháp điều trị nội mạch như sử dụng Laser, Suy tĩnh mạch chi dưới là một bệnh lý được phát sóng cao tần để làm xơ hóa tĩnh mạch và triệt tiêu hiện và mô tả từ rất lâu với tổn thương đặc trưng là dòng trào ngược của tĩnh mạch nông ngày càng dòng máu trào ngược do sự suy yếu hoặc mất chức chứng minh hiệu quả của nó cả về phương diện năng của các van trong lòng tĩnh mạch. Trải qua điều trị lẫn phương diện thẩm mỹ cho bệnh nhân. SUMMARY Surgical treatment indications for low extremities chronic venous insuficiency and varicose vein Doan Quoc Hung**, Nguyen The May*, Nguyen Cong Huy*, Nguyen Van Dai Viet Duc hospital**, Viet Tiep hospital* Chronic venous insuficiency and varicose vein is a common disorder that affects the veins of the legs, common problem, especially in women. In which the venous valves incompetence cause reflux flow and malfunction of venous system. This is a very common problem in many developed countries and is affected by modern lifestyle. There are many methods in the treatment of lower extremities varicose and chronic venous insuficiency disease, include: medical care; pressure stocking and surgical technologies. Surgical treatment proved to be a good choice when it was combined with phlebologic drugs and pressure stocking. Key word: Chronic venous insuficiency. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Mark H, Meissner, Pannier F (2007). Primary chronic venous disorders. J Vasc sur; 46: 54s-65s. 2. Khirurgiia (Mosk) (2002). Surgical technologies in the treatment of lower extremity varicose disease – (1): 10-5 Related Articles, Books. 3. Nguyễn Tuấn Hải (2012). Cập nhật điều trị suy tĩnh mạch mạn tính chi dưới. Hội nghị Tim mạch toàn quốc lần thứ XIII. 4. Lê Nữ Thị Hòa Hiệp, Văn Tần (2003). Kết quả bước đầu điều trị ngoại khoa suy tĩnh mạch nông chi dưới mạn tính tại Bệnh viện Bình Dân và Nhân dân Gia Định. Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh, Tập 7, số 2. 5. Hồ Khánh Đức, Cao Văn Thịnh, Nguyễn Công Minh, Phan Thanh Hải, Văn Tần, (2014). Điều trị suy tĩnh mạch nông chi dưới bằng phương pháp laser nội tĩnh mạch (kết quả sau 2 năm theo dõi), Tạp chí Y học Thành Phố Hồ Chí Minh, Tập 18, Số 1. 6. Phạm Thắng và Đoàn Quốc Hưng (2007). Bệnh mạch máu ngoại vi, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội. 7. Robert F. Merchant, Robert L. Kistner (2009). Radiofrequency treatment of the incompetent saphenous vein. Handbook of venous disorders, p. 415. 68 TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 78.2017
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0