intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Cấu trúc câu thơ "Lửa thiêng" Phần 1

Chia sẻ: Milu Nguyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:10

55
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Thơ lục bát ở Lửa thiêng đạt tới mức tinh vi, bác học, cổ điển mà hiện đại. Cái tôi nhà thơ vẫn lẩn khuất giấu mặt, đúng hơn là thiếu vắng, không có đại từ.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Cấu trúc câu thơ "Lửa thiêng" Phần 1

  1. Cấu trúc câu thơ "Lửa thiêng" Phần 1
  2. Thơ lục bát ở Lửa thiêng đạt tới mức tinh vi, bác học, cổ điển mà hiện đại. Cái tôi nhà thơ vẫn lẩn khuất giấu mặt, đúng hơn là thiếu vắng, không có đại từ. Các câu thơ đều gieo vần bằng, chủ yếu ngắt nhịp hai, vốn là nhịp đặc trưng của thơ lục bát, thảng hoặc có nhịp ba. Trong 8 bài thơ lục bát, 8 câu thơ có nhịp ba: - Gió đưa hơi / gió đưa hơi - Màu thanh thiên / đã vào ôm / giữa hồn - Gió qua lá / ngọn triều lên (Trông lên) - Phất phơ buồn / tự thuở xưa / thổi về (Chiều xưa) - Mái nghiêng nghiêng / gửi buồn theo / hút người (Đẹp xưa) - Ngủ đi em / mộng bình thường (Ngậm ngùi) - Đêm vừa nhẹ / gió vừa mơn (Xuân ý) - Nai cao gót / lẫn trong mù (Thu rừng) Chính nhịp 2 tạo nên sự nhịp nhàng cân đối cho thơ: "Mây bay lũng thấp giăng màn âm u", "Chim đi, lá rụng, cành nghe lạnh lùng" (Thu rừng), "Hiu hiu gió đẩy thuyền trên biển trời" (Trông lên), "Lòng run thêm lạnh nỗi hàn bao la" (Buồn đêm mưa). Có khi tạo nên tiểu đối 4/4 trong cấu trúc câu thơ: "Nghìn cây mở ngọn / muôn lòng hé phơi" (Xuân ý), "Trăng phơi đầu bãi / nước dồn mênh mang" (Thuyền đi), "Đèo cao quán chật / bến đò lau thưa" (Chiều xưa), "Trời xa sắc biển / lá thon mình thuyền"
  3. (Trông lên)... Không đơn thuần là ngôn ngữ, nhịp điệu, tính cân đối là đặc điểm của mỹ học cổ điển và chất cổ điển trong thơ Huy Cận trước hết là ở đây. Những câu thơ 8 chữ trong lục bát, với thính giác nhịp 2 vẫn thích hợp; với ngữ nghĩa nhịp 4 phân chia thành những thông báo thẩm mỹ. Ngược lại, câu thơ nhịp 3 bớt mềm mại nhưng gấp hơn, nhanh hơn. Đó là nhịp mới, hiện đại. Tất nhiên tính hiện đại của thơ bộc lộ nổi trội là ở nội dung cảm hứng, ở những liên tưởng phong phú, phóng túng, đậm cá tính sáng tạo. Thực ra, theo tôi cần chú ý đến cấu trúc câu thơ phần thơ 7 chữ (19 bài) và 8 chữ (16 bài). Nhiều cấp độ: loại từ, cấu tạo từ, thanh điệu, vần điệu, nhịp điệu... tạo nên giọng điệu Lửa thiêng. Ở đây từ láy phát huy tác dụng, nó là công cụ tạo hình rất đắc lực cho nghệ thuật thơ mà chỉ riêng tiếng Việt mới có. Khi trường độ câu thơ được nới rộng, từ láy có đất dung thân. Mấy bài lục bát, phần nhiều từ láy thanh bằng: vu vơ, hững hờ, lạnh lùng, tiêu điều, hiu hiu, ngập ngừng, héo hon, trơ vơ, buồn buồn... đến câu thơ 7 chữ, 8 chữ, từ láy được cấu tạo và biểu hiện với nhiều sắc thái, “song hiệu quả ngữ nghĩa chung của chúng vẫn là: thứ nhất, diễn đạt sự lặp đi lặp lại, kéo dài, trải rộng của tính chất hoặc hoạt động, động tác; thứ hai, biểu thị các trạng thái động của sự vật, hiện tượng; thứ ba, có khả năng gợi các ấn tượng cụ thể, có tính hình ảnh đậm nét; thứ tư, có khả năng biểu thị, phản ánh cách đánh giá, tình cảm, sự cảm thụ chủ quan của người nói đối với sự vật, hiện tượng được nêu ra"(1). Nhà thơ chủ động bày tỏ thái độ của mình trước cuộc sống quẩn quanh, đìu hiu, chán chường, ảo não... Có câu thơ ôm chứa đến hai từ láy: - Cả không gian hồn hậu rất thơm tho Gió hương đưa mùi, dìu dịu phất phơ... (Đi giữa đường thơm) - Chớ ảo não, chán chường không phải lẽ Ngày về đó, đậm đà và mới mẻ. (Vỗ về) - Trời mênh mông nên rất đỗi nhớ nhung Trời buồn buồn giữa hương sắc tưng bừng. (Họa điệu)
  4. - Tiếng nức nở gửi gió đường quạnh quẽ (Nhạc sầu) - Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu (Tràng giang) - Với gió xa xôi lạnh lẽo ngàn (Mưa) Có bài thơ đậm đặc từ láy. Bài Tràng giang, 16 câu thơ có 9 từ láy, bài Mưa, 16 câu thơ có 8 từ láy... Cũng như các nhà thơ lãng mạn thời kỳ Thơ mới, Huy Cận dùng nhiều từ láy tạo cho câu thơ mượt mà, uyển chuyển, từ ngữ như bay lượn, lôi cuốn. Từ láy ngoài chức năng miêu tả, nó còn biểu cảm. Các từ láy toàn bộ làm giảm nhẹ tính chất nhưng làm tăng thêm sự lan tỏa của tính chất: nhỏ nhỏ, run run, nhẹ nhẹ, nghiêng nghiêng, xiêu xiêu, buồn buồn, rưng rưng, lâng lâng: - Tim run run trăm tình cảm rụt rè (Tựu trường) - Hồn mới lim dim, bước dùm nhẹ nhẹ (Lời dịu) - Chiều hiu hiu khơi gợi nhớ nhung hờ (Trò chuyện) Ngay như từ láy toàn bộ gốc động từ cũng làm giảm nhẹ cường độ của tác động (buồn điệp điệp), dù cho động tác được tăng lên, lặp đi lặp lại. Và từ láy toàn bộ gốc danh từ diễn tả hiện tượng, sự vật... tiếp nối dâng cao hay tỏa rộng, kéo dài như hiện ra trước mắt người đọc (lớp lớp mây cao, bàn tay ngón ngón thon...). Đa phần từ láy ở Lửa thiêng là láy phụ âm đầu hay láy phần vần. Láy toàn bộ hay bộ phận, từ láy góp phần làm cho câu thơ Lửa thiêng du dương, giàu nhạc điệu, có hình khối cụ thể, gây ấn tượng tới thị giác, thính giác, xúc giác... của chủ thể sáng tạo và cả với đối tượng tiếp nhận. Trong tiếng Việt, từ gốc mang cảm nhận cụ thể khi chuyển sang từ láy là chuyển sang một thế giới tình cảm, tức là từ cảm giác chuyển sang cảm xúc. Điều này thường
  5. gặp ở Lửa thiêng: thơm tho, dìu dịu (“Cả không gian hồn hậu thơm tho - Gió hương đưa mùi, dìu dịu phất phơ” - Đi giữa đường thơm); dịu dàng (“Dịu dàng gió nhạt thổi mây xanh” - Bình yên); đậm đà,mới mẻ (“Ngày về đó đậm đà và mới mẻ” - Vỗ về); bàng bạc (“Muôn sao bàng bạc sầu không gian” - Hồn xa); đau đớn (“Sẽ nằm im! Ôi đau đớn chừng nào” - Chết); lạnh lẽo (“Với gió xa xôi lạnh lẽo ngàn” - Mưa). Có thể nêu thêm cách tạo từ ngữ và nhờ thế tạo ngữ nghĩa mới của Huy Cận. Không phải là từ ghép mà là cách ghép từ để tạo ngữ mới mang đậm sắc thái biểu cảm chủ quan, nói được độ sâu của tâm trạng. - “Hờ hững thế! Không chịu cầm lưu luyến” (Tình mất) Đặt vào tương quan với câu thơ trên “Những bàn tay đáng lẽ phải giao nhau” sẽ hiện lên cầm lưu luyến, bớt cụ thể, mở rộng cảm xúc. - “Rưng rưng hoa phượng màu thương nhớ” (Giấc ngủ chiều) thì có sự khu biệt giữa các màu sắc của tự nhiên với màu sắc tâm trạng. Lưu luyến, thương nhớ trong những kết hợp từ có chức năng định hướng tình cảm, phi cụ thể hóa để tưởng tượng hoạt động. Phương thức kết hợp từ này có giới hạn, đòi hỏi tư duy trừu tượng cao không phải nhà thơ nào cũng thế. Ngay Xuân Diệu ở Thơ thơ hầu như vắng bóng phương thức này và chính Huy Cận cũng chỉ có mấy trường hợp nữa mà thôi: - “Chiều thịnh trị: ngày xiêu nhưng nắng phới” (Họa điệu) - “Chiều mồ côi, đời rét mướt ngoài đường” (Nhạc sầu) - “Sầu chi lắm trời ơi! Chiều tận thế!” (Nhạc sầu) “Chiều” là một thời khắc được xác định hướng về kết thúc của một ngày. “Chiều thịnh trị” theo một hướng khác, phát triển và thể hiện tâm thế cả một thời “ngày xiêu nhưng nắng phới”. “Chiều mồ côi”, “Chiều tận thế” là trạng thái của một đời, một đời đơn chiếc và tan rã. Các ngữ nghĩa mới đã thoát khỏi nghĩa ban đầu của từ gốc. Nói một cách khác:
  6. từ từ ngữ + nghĩa + nghĩa ý nghĩa (ngữ nghĩa mới) Từ ngữ có vai trò quan trọng, hàng đầu của văn bản. Với thơ, từ ngữ lại chịu nhiều áp lực tương quan: thanh, vần, nhịp... thơ 7 chữ, 8 chữ ở Lửa thiêng dùng nhiều từ láy và ghép từ tạo ngữ có ý nghĩa độc đáo. Và nhìn chung từ ngữ ở đây hàm súc, mực thước, cổ điển. Chính vì thế lại cản trở khả năng sáng tạo vần. Hầu như Huy Cận không có sáng tạo vần, từ đó là ổn định trong việc cấu trúc khổ thơ, bài thơ. Các bài thơ 7 chữ thường là 3 khổ hoặc 4 khổ, 12 hoặc 16 câu thơ nhịp nhàng. Các bài thơ 8 chữ thường dài hơn, tình cảm được thể hiện phóng khoáng hơn, có 3 bài (Trình bày, Thân thể, Bi ca) được chia khổ và gieo vần như thơ 7 chữ, mang hơi hướng thơ 7 chữ. Các bài 8 chữ khác (13 bài) chia khổ hai câu một hoặc không theo một khuôn mẫu nào mà chủ yếu là chia theo nội dung cảm xúc. Các bài thơ 7 chữ nghiêm túc trong việc chia khổ và gieo vần. Mỗi khổ gồm 4 câu thơ và gieo vần theo những khuôn mẫu định sẵn quen thuộc như bài thơ tứ tuyệt. Dẫn một bài tiêu biểu và xuất sắc của Lửa thiêng, bài Tràng giang chẳng hạn, chúng ta nhận ra hai loại vần. Khổ I, vần chân gián cách Khổ II, vần chân hỗn hợp Khổ III giống loại vần khổ II, khổ IV giống loại vần khổ I. Chỉ thế thôi! Những bài thơ 7 chữ khác cũng không thoát khỏi hai loại vần đó. Thơ 8 chữ chia khổ tự do hơn nhưng cũng chỉ sử dụng một loại vần liền, hai câu một. “Một buổi trưa không biết ở thời nào, Như buổi trưa nhè nhẹ trong ca dao, Có cu gáy, có bướm vàng nữa chứ, Mà đôi lứa đứng bên vườn tình tự”. (Đi giữa đường thơm)
  7. Một số câu thơ vắt dòng cũng là để đảm bảo cho gieo vần đúng khuôn mẫu - vần gián cách: “Khi niềm tơ tưởng vướng chân, và - Khi cầm không được, anh ngồi khóc - Ấy lúc em tôi đã tới nhà” (Em về nhà), “Và sau này nữa, dấu chân ai - Sẽ ghi rồi xóa trên đường bạc - Mỗi lúc trời đau gió thở dài” (Dấu chân trên đường), không phải cách vắt dòng sáng tạo như Bích Khê: “Buồn và xanh trời. (Tôi trôi với bờ) Êm biếc - khóc với thu: lời úa ngô Vàng... khi cách biệt - giữa hồn xây mộ”. (Duy tân) Thủ pháp nghệ thuật này làm rõ sự khác biệt ranh giới giữa câu thơ và dòng thơ. Đến đây chúng ta lại thấy, dòng thơ lớn hơn câu thơ. Một dòng thơ có nhiều thông báo thẩm mỹ, ít nhất là hơn một. Câu thơ vắt dòng phá vỡ sự thống nhất của câu thơ nhịp nhàng và nhấn mạnh đời sồng nhịp điệu của nó độc lập với các luật lệ. Đôi khi nó phục vụ cho việc tạo ra trong câu thơ ngữ điệu của khẩu ngữ gần như là ngữ điệu của văn xuôi. Điểm chung với tất cả những câu thơ vắt dòng đó là từ ngữ chiếm ưu thế so với các luật thơ. Có thể nói Bích Khê là nhà thơ có tài sử dụng một cách nghệ thuật những câu thơ vắt dòng: - “Thoảng tiếng gáy của cu Cườm. Hiu hiu vàng đượm” - “Như mặt trời lọc qua khóm liễu, một Hoàng hôn. Đàn môi, chim báu tớt”(2) Huy Cận chú trọng đến vần. Vần, nói chung chỉ nhấn mạnh sự phân chia ra các dòng thơ. Và một trong những chức năng cơ bản của vần là nhấn mạnh chỗ kết thúc dòng thơ. Đó cũng là đặc trưng duy nhất của thơ cách luật. Như vậy vấn đề tiếp tục đặt ra cho câu thơ 7 chữ, 8 chữ ở Lửa thiêng? - Vấn đề nhịp điệu. Như trên đã nói, chỉ có ba loại vần thay nhau biểu diễn trong 35 bài thơ ấy (19 bài 7 chữ, 16 bài 8 chữ): vần gián cách, vần hỗn hợp, vần liền. Các loại vần này quy định nhịp điệu các câu thơ, dòng thơ. Hãy tiến hành mấy khảo sát sau đây: - “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
  8. Con thuyền xuôi mái nước song song”. (Tràng giang) - “Chiều ơi hãy xuống thăm ta với! Thiên hạ lìa xa, đời trống không”. (Tâm sự) Các câu thơ bảy chữ ngắt nhịp đều đặn 2/2/3, nhịp truyền thống và phổ biến. Huy Cận linh động hơn khi ngắt nhịp câu thơ 8 chữ: - “Người biết đấy / lòng tôi / trong trắng lắm 3/2/3 Người cho sao / tôi giữ vậy / như gương” 3/3/2 (Trình bày) - “Phố đìu hiu / màu đá cũ / lên sương 3/3/2 Sương / hay chính bụi / phai tàn lả tả?” 1/3/4 (Nhạc sầu) Cũng có thể ngắt nhịp: “Sương hay chính bụi / phai tàn lả tả” 4/4 “Sương hay chính bụi / phai tàn/ lả tả” 4/2/2 hoặc “Sương / hay chính bụi / phai tàn / lả tả” 1/3/2/2 Dù nhịp thế nào thì nghĩa và xúc cảm thẩm mỹ vẫn không thay đổi. Sự thực là ngắt nghĩa chứ không phải ngắt nhịp. Nhịp điệu phải tương ứng với thanh điệu. Khi ngắt nhịp sẽ tạo ra ngữ điệu và nhịp điệu nằm chung trong trường nhịp điệu. Vì vậy câu thơ trên sẽ có nhịp điệu 3/3/2 mới phù hợp với nhịp điệu câu thơ trước nó: “Phố đìu hiu / màu đá cũ / lên sương Sương hay chính / bụi phai tàn / lả tả?” Nhịp điệu này vang lên từ tâm thức, từ thói quen, quán tính nhờ sự hỗ trợ của thanh điệu. Nó độc lập với nghĩa, nó có sức sống riêng, vì nó là nhịp điệu tâm hồn. Nhưng nếu không có thanh điệu hỗ trợ thì không thể có nhịp điệu ấy. Bời vì khi ngắt
  9. nhịp là tạo ra một ngữ điệu. Điều này sẽ được chứng minh khi chúng ta khảo sát cấu trúc câu thơ toàn thanh bằng (hay toàn thanh trắc). Rất khó ngắt nhịp cho câu thơ loại này. Chỗ ngừng, chỗ ngắt chỉ có thể ở cuối câu thơ. Cả câu thơ phải được đọc (phát âm) liền một mạch, một hơi, ngữ điệu rơi vào cuối dòng thơ, như thế mới giữ được cái giọng điệu cần có và từ đó là cái mỹ cảm đặc biệt: Ô trời hôm nay sao mà xanh! Ngọc trăng xây vàng trên muôn cành, Nhung mây tê ngời sao kim cương Dạ lan tê ngời say men hương; (Nghê thường - Bích Khê) Nếu ngắt nhịp nghĩa sẽ rõ ràng, mất đi “độ nhòe”, sức vang vọng của rung động nội tâm vốn là ngụ ý, mục đích của phương thức cấu trúc câu thơ toàn thanh bằng. “Chất thơ” ở đây đậm hơn chính là nhờ ở cái “thơ lơ mơ” ấy. Chúng ta có thể thống nhất với nhau về quan niệm nhịp điệu không phải chỉ đối với thơ và nhạc mà cả trong nghệ thuật nói chung, như văn xuôi chẳng hạn, đều có nhịp điệu. Tất nhiên không phải là thuộc tính, không bắt buộc văn xuôi phải có nhịp điệu. Nhịp điệu văn xuôi không ổn định, linh động và tự do hơn. Với thơ, nhịp điệu là hình thức phân bố các thanh điệu chuyển động trong thời gian mà chúng ta cảm nhận được và gây ra ở người đọc (người nghe) sự cộng hưởng, sự cảm xúc về nhịp điệu. Sự chuyển động được lặp lại đều đặn trong câu thơ khác với sự chuyển động không có trật tự trong câu văn xuôi. Những sự chuyển động được chúng ta thừa nhận và cảm thụ phải thỏa mãn hai điều kiện: một là có ngữ điệu, hai là có tình cảm, chứ không phải là sự chuyển động rập khuôn máy móc. Nói nhịp điệu của thơ cũng chính là nói tới nhịp điệu ngôn ngữ. Về mặt hình thức các từ ngữ giăng mắc với nhau trong một câu thơ và đan cài với các câu thơ khác để thành bài. Về mặt nghĩa, các từ ngữ hỗ trợ nhau tạo thành thông báo. Khi thơ không hướng về những hình thức ổn định mà chủ yếu hướng về cái riêng, cái cá biệt thì vai trò
  10. của vần, của thể loại không còn nữa. Từ đó nảy sinh khuynh hướng nhà thơ gần với nhà văn chứ không phải là ca sĩ, ngữ điệu ngâm nhường quyền cho ngữ điệu nói. Nhịp điệu câu thơ Lửa thiêng luôn giữ vẻ đẹp cân đối hài hòa, theo nghĩa đó, thơ gần với âm nhạc, với lời ca, vậy thì tạo nên chất Lửa thiêng, chất ngậm ngùi, sầu não, tái tê như dồn nén từ nghìn năm trước làm lạnh lẽo cả một không gian mênh mông thăm thẳm là từ ngữ - một hệ từ ngữ buồn buồn, quạnh quẽ. Với kiến thức liên ngành, như bộ ba công cụ: lý luận văn học, ngôn ngữ học, tâm lý học soi vào hệ từ ngữ ấy sẽ làm hiện lên phong cách thơ Huy Cận ở Lửa thiêng
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2