intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Chân dung nhân vật trong truyện Nôm dưới góc nhìn kí hiệu học

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

27
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong truyện Nôm Việt Nam, chân dung nhân vật được miêu tả thông qua những chi tiết trên khuôn mặt, chứa đựng những kí hiệu cần được khảo sát và giải mã. Tiếp cận kho tàng văn học cổ từ góc nhìn hiện đại là một hướng đi mới cần được phát huy.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Chân dung nhân vật trong truyện Nôm dưới góc nhìn kí hiệu học

  1. KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC SINH VIÊN NĂM HỌC 2018-2019 CHÂN DUNG NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NÔM DƯỚI GÓC NHÌN KÍ HIỆU HỌC LÊ THẢO NHI Khoa Ngữ văn Email: lethaonhi261@gmail Tóm tắt: Trong truyện Nôm Việt Nam, chân dung nhân vật được miêu tả thông qua những chi tiết trên khuôn mặt, chứa đựng những kí hiệu cần được khảo sát và giải mã. Tiếp cận kho tàng văn học cổ từ góc nhìn hiện đại là một hướng đi mới cần được phát huy. Từ khóa: Nhân vật, truyện Nôm, kí hiệu học 1. MỞ ĐẦU Mỗi đặc điểm trên gương mặt nhân vật đều là một kí hiệu, mà ở đó chứa đựng cả thế giới cần được chúng ta nghiên cứu giải mã để hiểu nhân vật, hiểu câu chuyện và hiểu cả những gì mà tác giả, dù là vô danh gửi gắm. “Nhân vật trong văn học là một hiện tượng nghệ thuật” [2; 126]. Đó là một hiện tượng mang tính ước lệ, không sao chép y nguyên mà thể hiện qua những đặc điểm điển hình. Con người theo nghĩa rộng, có tên hoặc không có tên, cũng có thể là sự vật loài vật khác ít nhiều mang bóng dáng, tính cách con người, hình tượng về con người. Văn học không thể thiếu nhân vật. Nhân vật là phương tiện cơ bản để nhà văn khái quát hiện thực một cách hình tượng, thể hiện nhận thức nhà văn. Nhân vật tạo nên cốt truyện, tạo nên các tình tiết. Trước đây, xu hướng nghiên cứu truyện Nôm ở Việt Nam thường được tiếp cận theo khuynh hướng thi pháp học. Trong những năm gần đây, nhân vật trong truyện Nôm được đọc thêm từ nhiều góc nhìn khác nhau như diễn ngôn giới, góc nhìn văn hóa,… Tuy nhiên, vận dụng những thành tựu của lý thuyết kí hiệu học trong việc lí giải chân dung nhân vật truyện Nôm ở Việt Nam vẫn chưa phổ biến và ít thành tựu. Đây vẫn còn là khoảng trống trong đường hướng nghiên cứu nhân vật truyện Nôm hiện nay. Đặc biệt, nghiên cứu về chân dung nhân vật trong truyện Nôm dưới góc nhìn kí hiệu học văn học là một đề tài mới, chưa từng được nghiên cứu trước đây. 2. NỘI DUNG Khảo sát các kiểu chân dung nhân vật trong truyện Nôm, chúng tôi phân chia theo kiểu nhân vật, gồm có kí hiệu chân dung nhân vật chính - nhân vật phụ và kí hiệu chân dung nhân vật chính diện - nhân vật phản diện. 2.1. Chân dung nhân vật chính - nhân vật phụ Nhân vật chính là “Nhân vật then chốt của cốt truyện, giữ vị trí trung tâm trong việc thể hiện đề tài, chủ đề và tư tưởng của tác phẩm” [3; 226]. Trong truyện Nôm, nhân vật chính thường xuất hiện đầu truyện với những câu thơ chứa các kí hiệu về chân dung. Nhân vật Công Chúa trong truyện Nàng Công được miêu tả “Mặt hoa, mày liễu, má hồng”. Kí hiệu 5
  2. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ chân dung gương mặt ngắn gọn và rõ nét. “Mặt” được ví như “hoa”, tươi tắn và xinh đẹp, “mày” hình lá liễu mảnh mai sắc sảo, “má” mang màu hồng dịu dàng của người con gái. Khảo sát hệ thống truyện Nôm, người đọc dễ dàng bắt gặp hàng loạt kí hiệu chân dung nhân vật, cả nam lẫn nữ trong các dẫn chứng thú vị như: Thúy Kiều “làn thu thủy, nét xuân sơn” (Truyện Kiều, Nguyễn Du); Kiều Nguyệt Nga “má hồng đương xinh” (Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu); Ngọc Hoa “má đào, mặt ngọc, tóc mây rườm rà” (Ngọc Hoa); Trần Kiều Liên “mặt gương… từ nhan… mày ngang bán nguyệt, miệng cười trăm hoa”, (Phan trần); Tấm “má hường mặt hoa” (Tấm Cám); nàng Công “hây hây ngọc đúc…mặt nhìn trăm thức hoa sen” (Lý Công); Cúc Hoa “mặt phượng, môi son” (Phạm Công Cúc Hoa); Hạnh Nguyên “mặt vành vạnh nguyệt” (Nhị độ mai); (Phan Trần); công chúa “mặt hoa, mày liễu, má hồng” (Lý Công); còn nàng Dương “cổ cao ba ngấn… long nhan sắc sảo” (Phạm Công Cúc Hoa); Ngọc Hoa “mặt mộc… má phấn” (Phạm Tải Ngọc Hoa); Hồ Quý Ly “mày loan, tóc phượng” (Truyện Trinh Thử); Phương Hoa “môi son má phấn… rà rà tóc phượng, ngang ngang mày ngài… mày liễu… mặt hoa” (Phương Hoa); Phương Hoa “má hồng… má phấn” (Phương Hoa phụ lục); Cúc Hoa “mặt phai nét ngọc… mặt võ mày vàng” (Tống Trân Cúc Hoa); Công chúa “mặt hoa…/ Cổ cao ba ngấn, miệng cười trăm hoa/ Vẻ thanh trong ngọc trắng ngà? Trăng tròn nét mặt, núi xa dáng mày” (Bà Chúa Ba); Xuân Hoa “môi son, mắt phượng, má đào” (Hoàng Trừu); Công chúa “Má đào phấn điểm hồng hồng/ Tóc mây một mái đòng đòng xanh non/ Môi tươi một ngấn hồng son/ Mày ngang lá liễu, mắt tròn bóng gương” (Hoàng Trừu); Thị Mầu “ba trăng mặt ủ da chì” (Quan Âm Thị Kính); Trần Công “văn mạo giá nên anh hào” (Phương Hoa); Tống Trân “tuấn tú tốt lành… khôi ngô rạng vẻ văn tinh” (Tống Trân Cúc Hoa); Từ Hải “hàm én mày ngài” (Truyện Kiều); Lục Vân Tiên “mày tằm, mắt phụng, môi son” (Lục Vân Tiên); Tất Chánh “ba đình nở nang” (Phan Trần); Lý Công “mặt võ… mặt hoa lồ lộ” (Lý Công);… Kí hiệu gợi lên sự liên tưởng về hình ảnh gương mặt nhân vật. Chúng tôi đã khảo sát về sự xuất hiện các kí hiệu chân dung nhân vật chính trong truyện Nôm (xin xem bảng thống kế của chúng tôi ở cuối bài). Những nhân vật chính trong truyện Nôm được khắc họa thông qua hình ảnh của gương mặt, đôi mắt, má, chân mày, môi, miệng; bên cạnh đó còn có tóc, cổ, hàm. Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy có 17 truyện xuất hiện kí hiệu chân dung của 24 nhân vật chính. Trong đó, nhân vật nữ chính chiếm số lượng lớn 75% (18/24), còn số lượng nhân vật nam chính chỉ chiếm 25% (6/24). Một trong những giá trị của truyện Nôm là ca ngợi người phụ nữ. Người phụ nữ có vai trò quan trọng, nhất là trong việc thúc đẩy những kết thúc có hậu trong truyện Nôm. Điều này đã lí giải vì sao trong truyện Nôm, kí hiệu nhân vật nữ chính nhiều hơn nhân vật nam chính. Trong những truyện Nôm đã khảo sát, có khoảng 47 kí hiệu về chân dung nhân vật chính. Chân dung nhân vật chính chủ yếu được miêu tả tập trung vào việc nhận xét mặt 32% (15/47). Má và mày là hai bộ phận cũng được miêu tả khá nhiều, chiếm 19% (9/47). “Nhân vật chính thường xuất hiện nhiều lần trong tác phẩm và được nhà văn khắc họa đầy đặn” [3; 226]. Nhân vật phụ là “Nhân vật giữ vị trí thứ yếu so với nhân vật chính trong diễn biến của cốt truyện, trong quá trình triển khai đề tài, thể hiện tư tưởng và chủ đề của tác phẩm” [3; 6
  3. KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC SINH VIÊN NĂM HỌC 2018-2019 231]. Có loại nhân vật phụ ở bình diện thứ hai, chỉ sau nhân vật chính: Thúy Vân “Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang” (Truyện Kiều); Thị Trình “Mày ngài mắt phượng long lanh” (Phương Hoa phụ lục); Tú Bà “Thoắt trông nhờn nhợt màu da/ Ăn chi to lớn đẩy đà làm sao” (Truyện Kiều); có loại nhân vật phụ ở bình diện thứ ba, chỉ thấp thoáng trong các tình tiết của truyện như Đức Trang Vương “mặt đồng” (Bà Chúa Ba). Nhân vật phụ được người viết khắc họa về chân dung ít hơn. Kí hiệu chân dung nhân vật phụ tuy chỉ được nhắc đến ở một số điểm không nhiều, thế nhưng lại góp phần không hề nhỏ trong việc thể hiện nội dung truyện Nôm. Nhân vật phụ không những không lấn át nhân vật chính mà còn giúp soi rõ hình ảnh nhân vật chính. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đề cập hình ảnh Thúy Vân trước để làm đòn bẩy, hình ảnh Thúy Kiều xuất hiện sau càng trở nên “sắc sảo mặn mà” hơn. Cũng trong Truyện Kiều, Mã Giám Sinh là kiểu nhân vật sở khanh, phản diện, nhại lại hình ảnh của Từ Hải; vì thế không lấn át mà làm nổi bật lên giữa cái giả và cái thật, làm cho người đọc thêm mến vẻ đẹp anh hùng của Từ Hải. Trong truyện Phương Hoa phụ lục, chân dung Thị Trình cũng hiện lên thật đẹp, nhưng khó có thể sánh bằng vẻ đẹp của Phương Hoa. Trong truyện Nôm, kí hiệu chân dung nhân vật chính chiếm tỉ lệ lớn 89% (47/53) so với kí hiệu chân dung nhân vật phụ. Hình ảnh nhân vật chính luôn được khắc họa rõ nét và sâu đậm hơn trong tác phẩm để thể hiện những tư tưởng của tác giả. 2.2. Kí hiệu chân dung nhân vật chính diện - nhân vật phản diện Nhân vật phản diện là “Nhân vật văn học mang những phẩm chất xấu xa, trái với đạo lí và lí tưởng của con người, được nhà văn miêu tả trong tác phẩm với thái độ chế giễu, lên án, phủ định” [3; 230]. Trong Truyện Kiều phải kể đến các nhân vật phản diện: Đầu tiên là Tú Bà với kí hiệu “nhờn nhợt màu da”, thể hiện được con người và nghề nghiệp bà, là con người thường sống về đêm, ít tiếp xúc ánh mặt trời và có thể được xem như kẻ buôn những cô gái lầu xanh, đầy âm mưu, thủ đoạn. Người thứ hai là Mã Giám Sinh “mày râu nhẵn nhụi”, một kẻ tầm thường nhưng muốn nổi bật, ít học nhưng tỏ vẻ hiểu biết, lại hay “cò kè bớt một thêm hai”. Còn chân dung nhân vật Hồ Tôn Hiến có xuất hiện kí hiệu “mặt sắt”. Trong truyện Bà Chúa Ba cũng có khắc họa hình ảnh nhân vật phản diện là Đức Trang Vương “mặt đồng”, một vị vua nóng nảy, hung dữ dám “đốt chùa” và “giết hại chẳng tha Thần Phật”. Gương mặt được so sánh với đồng và sắt – những thứ kim loại, thể hiện bản chất con người lạnh lẽo, không có tình cảm. Có nhiều nhân vật phản diện trong truyện Nôm, nhưng chỉ có 5 nhân vật xuất hiện kí hiệu chân dung. Nhân vật chính diện chứa đựng nhiều kí hiệu về chân dung hơn những nhân vật phản diện. Các chi tiết về chân dung nhân vật chính diện được miêu tả với màu sắc trong sáng “ngọc… son… tươi… hồng… đào…”, những hình dáng mềm mại “tròn… hây hây… ngang…”, và được ví với những hình ảnh của thiên nhiên hiền lành “hoa sen… trăng… tằm… núi…”. Kí hiệu của nhân vật chính diện được sáng tạo phong phú, rõ nét đã xây dựng nên hình tượng nhân vật vừa có tài lại vừa có đức như Thúy Kiều, Thúy Vân, Lục Vân Tiên, Tất Chánh,… Còn kí hiệu chân dung nhân vật phản diện được xây dựng ít hơn, thể hiện cái xấu, cái ác trong xã hội. 7
  4. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ 2.3. Ý nghĩa kí hiệu chân dung nhân vật trong truyện Nôm Kí hiệu chân dung nhân vật trong truyện Nôm mang nhiều giá trị ý nghĩa. Thứ nhất, kí hiệu tạo nên công thức cho chân dung nhân vật trong truyện Nôm. Trong văn xuôi tự sự Trung đại Việt Nam, chân dung nhân vật cũng được hiện lên với những kí hiệu về đặc điểm trên khuôn mặt: Cảnh Kiên “trán rộng, mắt sáng, đầu vích” (Hoan Châu kí); Bà Triệu: “mũi hổ, trán rồng, đầu báo, hàm én” (Lệ Hải bà vương kí); Mai Thúc Loan: “đầu hổ, mắt rồng” (Hương Lãm Mai đế kí); Nhân tôn hoàng đế: “trán cao mặt rồng” (Đại Việt sử kí toàn thư); Hoàng thượng Lê Hiển Tông “râu rồng, mũi cao, tóc hạc, mắt phượng”, Hoàng tôn Lê Duy Kỳ thì “mày rồng mắt phượng” (Hoàng Lê nhất thống chí). “Trước đây, vào thời cổ đại, các nhân vật tiên đế thần thoại được miêu tả qua sự so sánh hàng loạt với từng bộ phận của khuôn mặt và thân thể phù hợp với bộ phận tương ứng của thân thể một loài thú nào đó, mà thường là các vật tổ (tô tem). Dần dần khi hệ thống kí hiệu trở nên bền vững dùng để miêu tả thì các nhân vật lịch sử bắt đầu được miêu tả thông qua sự so sánh từng bộ phận của khuôn mặt và thân thể họ không phải với thú vật, mà với các vị tiên tổ đã được lí tưởng hóa” [6; 37]. Cũng có những điểm tương đồng với cách xây dựng chân dung nhân vật trong văn xuôi tự sự Trung đại Việt Nam, các tác giả vay mượn công thức thánh nhân trong thần thoại Trung Quốc thể hiện ở những so sánh với động vật và thực vật, vũ trụ; trong truyện Nôm, vẫn còn những kí hiệu về loài vật. Khi xây dựng hình ảnh nhân vật như Cúc Hoa “mặt phượng” (Phạm Công Cúc Hoa); Hồ Quý Ly “tóc phượng” (Truyện Trinh Thử); Thị Trình “mày ngài mắt phượng” (Phương Hoa phụ lục); Từ Hải “hàm én mày ngài” (Truyện Kiều), Lục Vân Tiên “mày tằm, mắt phụng” (Lục Vân Tiên); những bộ phận trên gương mặt nhân vật được ví với những loài như “phượng, tằm, én,…”. Nhưng, những kí hiệu về loài vật này không nhiều, chỉ góp phần tô điểm cho chân dung nhân vật. Chiếm phần nhiều trong truyện Nôm là những kí hiệu về hình ảnh thiên nhiên. Thứ hai, kí hiệu có khả năng dự báo tương lai, số phận nhân vật. Cái hay trong truyện Nôm chính là việc dự báo tương lai thông qua chân dung nhân vật. Thật vậy, mặc dù hình ảnh nhân vật xuất hiện ở đầu tác phẩm, nhưng chính những kí hiệu từ trong chân dung có thể cho ta nhận biết về số phận của nhân vật sau này. Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, Thúy Vân mang một vẻ đẹp “trang trọng khác vời” tạo cho người đọc ấn tượng về một vẻ đẹp quý phái. Kí hiệu “khuôn trăng” chỉ hình dáng gương mặt tròn trịa, phúc hậu; “nét ngài nở nang” chỉ đôi lông mày người con gái đẹp, cong vút và dài như râu con ngài; kí hiệu “hoa cười, ngọc thốt” diễn tả âm thanh lời nói nhẹ nhàng, cách cư xử nhã nhặn. Với những từ “trang trọng, đầy đặn, nở nang, đoan trang, mây thua, tuyết nhường” tạo tình cảm trân trọng, yêu mến, độ lượng. Đó là một vẻ đẹp hợp nhãn, dễ dàng được xã hội công nhận và dung nạp. Kí hiệu chân dung Thúy Vân như dự báo, sắp đặt cho một cuộc đời yên ổn, không có bão tố. Thúy Kiều có những gì Thúy Vân có nhưng ở mức độ sắc sảo hơn, mặn mà hơn. Khi Kiều xuất hiện, đến hoa kia, liễu nọ cũng phải ghen hờn. Khi miêu tả nhân vật Thúy Kiều, Nguyễn Du không liệt kê nhiều chi tiết như khi tả Thúy Vân mà chỉ tập trung nhiều ở đôi mắt - cửa sổ tâm hồn. Kí hiệu “Làn thu thủy, nét xuân sơn” diễn tả một đôi mắt long lanh, lóng lánh, đa tình, dạt dào 8
  5. KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC SINH VIÊN NĂM HỌC 2018-2019 tình cảm. Chúng tôi đồng tình với quan điểm của nhà nghiên cứu Nguyễn Tài Cẩn cho rằng Nguyễn Du đã sử dụng tướng học khi dựng nên chân dung hai chị em Kiều. Cụ thể ở đây, “Làn thu thủy” với vẻ đẹp của hồ nước mùa thu gợi ra dáng vẻ của một tướng về mắt là “đào hoa nhãn” chỉ những con người đào hoa, đa tình, số phận thường long đong. Ý trên có tính logic và xuyên suốt với lời nhận xét của người thầy tướng, xem tướng cho Kiều lúc còn thơ: “Tinh anh phát tiết ra ngoài/ Ngàn thu bạc mệnh một đời tài hoa”. Kiều còn có vẻ đẹp của tài năng, nó đạt đến mức toàn diện, chuẩn mực của bậc tài hoa theo quan niệm thẩm mĩ của xã hội Phong kiến, giỏi cả “cầm, kì, thi, họa”, đặc biệt là tài đàn. Nhan sắc ở Kiều độc đáo, kì lạ vượt lên trên sự bình thường. Đó là loại nhan sắc hiếm có trên đời, thường được tôn sùng và cũng thường bị đố kị, luôn gây ra sóng gió cho mình. Tài của Kiều là cái tài toàn diện: cầm, kì, thi, họa mà tài nào cũng ở mức tuyệt đỉnh, trọn vẹn. Thúy Kiều đúng là người hiếm có ở đời. Ở Kiều là sự kết hợp giữa tài - sắc - tình - mệnh. Từ những kí hiệu trong bức chân dung ấy, chúng ta có thể cảm nhận được kiếp đời chẳng mấy êm đềm của nàng. Không chỉ có Thúy Kiều, mà rất nhiều cô gái khác trong truyện Nôm cũng gặp cuộc đời lắm truân chuyên được dự báo qua các kí hiệu chân dung. Dễ nhận thấy nhất chính là vẻ đẹp khuôn mặt, cô gái nào có gương mặt đẹp sắc sảo, mặn mà, nổi trội,… thường bị trời ghen ghét, làm khổ. Kiều Nguyệt Nga trong truyện Lục Vân Tiên có “Má hồng đương xinh”, một người con gái hồng nhan thường bạc mệnh, quả đúng là sau này gặp nhiều thử thách trong cuộc sống: nàng chưa được chung tình với người tình chung thì phải buộc ôm cầm qua bến khác. Dao Tiên trong truyện Hoa tiên có vẻ đẹp “Mặn mà chìm cá nhạn rơi/ Nguyệt ghen gương phép, hoa hờn thắm bay” cũng gặp nhiều nỗi khổ đau ê chề giống Thúy kiều. Nàng duy nhất bị dằn vặt bởi chữ “tình”, yêu mà phải giữ mình trong “Nền thi lễ, nết cân đai, giá nào dầu nhắc đồng cân cũng già”, để rồi “Mảnh riêng riêng để chất đầy một bên”; dằn vặt vì nghĩ mình bị phản bội khi Lương Sinh cưới Ngọc khanh, nàng suýt “Liều bạc mệnh kẻo sa chữ đồng”. Hạnh Nguyên Trong Nhị Độ Mai thì bị bọn Lư Kỷ, Hoàng Tung bắt ép gả cho nước Sa Đà để cầu thân; Trần Kiều Liên trong truyện Phan Trần thì bị lưu lạc vì cha mất, gia đình gặp đại nạn. Không chỉ có kí hiệu chân dung các cô gái dự báo tương lai, mà những kí hiệu chân dung chàng trai cũng có thể cho ta biết được những điềm báo trước. Hớn Minh trong sự nhận định của Lục Vân Tiên là “Hễ người dị tật ắt là tài cao”. Quả thật, Hớn Minh là một con người tài cao, nhưng trên chặng đường đời cũng gặp không ít thử thách. Hớn Minh vì trừng trị công tử Đặng Sinh ỷ thế làm càn mà chàng phải bỏ thi, sống lẩn lút trong rừng, sau này Hớn Minh đón Vân Tiên về an dưỡng bệnh. Cuối cùng, Hớn Minh được tiến cử làm phó tướng. Còn Lục Vân Tiên sau khi về nhà thăm cha mẹ, Vân Tiên cùng tiểu đồng lên đường đi thi, ghé thăm Võ Công, người đã hứa gả con gái là Võ Thể Loan cho chàng. Từ đây, Vân Tiên có thêm người bạn đồng hành là Vương Tử Trực, tới kinh đô lại gặp Trịnh Hâm, Bùi Kiệm. Thấy Vân Tiên tài cao, Hâm, Kiệm sinh lòng đố kị, ghen ghét. Lúc sắp vào trường thi, Vân Tiên nhận được tin mẹ mất, liền bỏ thi trở về quê chịu tang. Dọc đường về, Vân Tiên đau mắt nặng, rồi bị mù cả hai mắt, lại bị Trịnh Hâm lừa đẩy 9
  6. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ xuống sông. Nhờ Giao Long dìu đỡ đưa vào bãi, Vân Tiên được gia đình ông Ngư cứu mạng và được nhận làm con nuôi. Sau đó chàng lại bị Võ Công khinh rẻ và bị Võ Thể Loan gạt bỏ vào hang núi Thương Tòng. Được thần tiên cho thuốc chữa mắt, Vân Tiên may mắn gặp lại Hớn Minh. Cả Hớn Minh và Lục Vân Tiên đều có những vẻ đẹp anh hùng, nhưng chính những kí hiệu chân dung anh hùng ấy lại dự báo về một tương lai đầy thử thách, luôn bị kẻ xấu ganh tị hãm hại, phải vượt qua bao nhiêu khó khăn mới có được niềm vui hạnh phúc. Thứ ba, kí hiệu tạo nên tính logic cho cốt truyện. Sự logic của truyện thể hiện ở điểm đầu và cuối của câu chuyện có mối quan hệ nguyên nhân kết quả. Chúng tôi khẳng định như vậy, bởi lẽ, như đã trình bày ở trên, những nhân vật có vẻ đẹp đặc biệt khác người thường gặp những thử thách trong cuộc sống. Thì chính những kí hiệu về chân dung đã tạo nên sự hợp lí hóa trong cốt truyện: Vì tài sắc nên gặp nhiều hoạn nạn “Chữ tài đi với chữ tai một vần”. Và cũng chính nhờ vẻ đẹp tài năng đầy bản lĩnh ấy giúp các nhân vật vượt qua mọi biến cố để đi đến hạnh phúc đích thực. Điều này cũng một lần nữa khẳng định kết cấu logic trong truyện Nôm là “gặp gỡ - tai biến - đoàn viên”. 3. KẾT LUẬN Như vậy, qua khảo sát có thể thấy, trong truyện Nôm, những kí hiệu về loài vật không nhiều, chỉ góp phần tô điểm cho chân dung nhân vật; chiếm phần lớn là những kí hiệu về hình ảnh thiên nhiên khi xây dựng các kiểu loại nhân vật: nhân vật chính - nhân vật phụ, nhân vật chính diện - nhân vật phản diện. Chính những kí hiệu về chân dung nhân vật đã tạo nên công thức cho chân dung nhân vật trong truyện Nôm. Bên cạnh đó, kí hiệu chân dung nhân vật trong truyện Nôm còn góp phần dự báo tương lai, số phận nhân vật và tạo nên tính logic cho cốt truyện. Khảo sát chân dung nhân vật trong truyện Nôm từ góc nhìn kí hiệu là tiền đề để phát triển quá trình nghiên cứu những nét giá trị truyền thống thông qua những lý thuyết hiện đại, từ đó góp phần lưu giữ kho tàng văn hóa của dân tộc Việt. Đồng thời, chân dung nhân vật được đặt trong trục so sánh đối chiếu theo các kiểu kí hiệu sẽ giúp chúng ta cảm nhận được những giá trị nghệ thuật đặc sắc. Đây sẽ là tiền đề cho việc nghiên cứu chân dung nhân vật, không chỉ trong truyện Nôm mà còn trong các thể loại khác, trong các giai đoạn khác ở những công trình nghiên cứu sau này. Bảng khảo sát về sự xuất hiện các kí hiệu chân dung nhân vật chính trong truyện Nôm Nhân Giới tính Các bộ phận vật xuất Tác hiện kí Stt Môi/ phẩm hiệu Nữ Nam Mặt Mắt Má Mày Hàm Tóc chân Miệng dung Lục Vân Lục Vân 1 X X X X Tiên Tiên 10
  7. KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC SINH VIÊN NĂM HỌC 2018-2019 Kiều Nguyệt X X Nga Ngọc Ngọc 2 X X X X Hoa Hoa Trần Kiều X X Phan 3 Liên Trần Tất X X Chánh Tấm 4 Tấm X X X Cám Nàng X X X Công 5 Lý Lý Công X X Công Công X X X X Chúa Phạm Cúc Hoa X X X 6 Công Con Cúc nàng X X Hoa Dương Nhị Độ Hạnh 7 X X Mai Nguyên Phạm Tải Ngọc 8 X X X X X X Ngọc Hoa Hoa Truyện Hồ Quý 9 Trinh X X X Ly Thử Phương Trần 10 X X Hoa Công Phương Phương 11 Hoa X X Hoa Phụ Lục Tống Trân 12 Cúc Hoa X X X Cúc Hoa Bà Công 13 Chúa X X X X Chúa Ba Xuân X X X X Hoàng Hoa 14 Trừu Công X X X X X X Chúa 11
  8. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ Quan 15 Âm Thị Thị Mầu X X Kính Tống Trần Tống 16 X X Cúc Trần Hoa Thúy X X Truyện Kiều 17 Kiều Từ Hải X X X Tổng 17 24 18 6 15 3 9 9 1 6 4 TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Nguyễn Du Vân Hạc (Lê Văn Hòe chú giải) (2011). Truyện Kiều chú giải, NXB Lao động, Hà Nội. [2] Hà Minh Đức (1999). Lí luận văn học, NXB Giáo dục. [3] Lê Bá Hán (2011). Từ điển thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục Việt Nam. [4] Đỗ Đức Hiểu và các tác giả (2004). Từ điển văn học, bộ mới, NXB Thế giới, Hà Nội. [5] Kiều Thu Hoạch (1992). Truyện Nôm - Nguồn gốc và bản chất, NXB Khoa học xã hội. [6] Trần Thị Thanh Nhị (2017). Nhân vật trong văn xuôi tự sự trung đại Việt Nam dưới góc nhìn tướng thuật, Tạp chí Khoa học, Đại học Sư phạm Hà Nội, số tháng 2, tr.34 - 41. [7] Trần Đình Sử (2003). Lý luận và phê bình văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội. [8] B.L.Riftin (Trần Đình Sử dịch) (2013). Tính chất kí hiệu của chân dung nhân vật bằng ngôn từ trong văn học cổ điển Trung Quốc, https://trandinhsu.wordpress.com/2013/07/02/tinh-chat-ki-hieu-cua-chan-dung-nhan- vat-bang-ngon-tu-trong-van-hoc-co-dien-trung-quoc/ [9] Bùi Thị Ngọc Hà (2016). Về cách xây dựng nhân vật trong truyện thơ Nôm, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 390, tháng 12, https://websrv1.ctu.edu.vn/coursewares/supham/vhvntrungdai2/ch5.htm. 12
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2