intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

CHẤT NHÂN VĂN TRONG TÁC PHẨM CỦA ĐINH RÚ

Chia sẻ: Nguyen Nhi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

59
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Những ai đã từng đọc 12 gương mặt của hoạ sĩ Nam bộ đều biết đến một nét riêng trong tính cách của nhà điêu khắc Đinh Rú với sự dí dỏm trong nói năng, khả năng đối phó nhanh nhạy trong mọi tình huống và tính cách bộc trực đến hầu như khó có thể kìm chế được nóng giận. Gặp anh trong những ngày tháng sau khi thoát lưỡi hái của tử thần với chuyến mổ sọ não cấp cứu vì tăng huyết áp. ...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: CHẤT NHÂN VĂN TRONG TÁC PHẨM CỦA ĐINH RÚ

  1. CHẤT NHÂN VĂN TRONG TÁC PHẨM CỦA ĐINH RÚ ĐINH RÚ-Chân dung-Gỗ
  2. Những ai đã từng đọc 12 gương mặt của hoạ sĩ Nam bộ đều biết đến một nét riêng trong tính cách của nhà điêu khắc Đinh Rú với sự dí dỏm trong nói năng, khả năng đối phó nhanh nhạy trong mọi tình huống và tính cách bộc trực đến hầu như khó có thể kìm chế được nóng giận. Gặp anh trong những ngày tháng sau khi thoát lưỡi hái của tử thần với chuyến mổ sọ não cấp cứu vì tăng huyết áp. Người đàn ông trĩu nặng vai gánh vác gia đình trong tuổi “Thất thập cổ lai hy” đã trầm tĩnh hơn rất nhiều và điềm tĩnh kể lại những câu chuyện đã xảy ra trong cuộc đời anh, trong đó có những chi tiết mà khi anh hỏi, bản thân tôi cũng không còn nhớ được - dù hình như tôi đã loáng thoáng có nghe vì ngày đó cùng sinh hoạt chung với anh dưới một mái trường. Khi nói về mình - điêu khắc gia Đinh Rú thường cười buồn mà cho rằng mình lanh lợi bởi sinh ra đã chịu lắm thiệt thòi, không được may mắn như nhiều anh em khác. Điều này có lẽ hoàn toàn đúng - bởi anh chào đời ngày 10/10/1937 tại một vùng quê nghèo ở xã Phước Sơn, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận ngày nay. Lên 10 tuổi thì mồ côi cả cha lẫn mẹ, buộc anh phải một mình bỏ xứ ra đi tha phương cầu thực. Nói về những ngày tháng thơ dại, điều duy nhất được anh nhắc tới là đã từng theo học tới lớp ba với một ông giáo làng và học cụ là bút lá tre, chấm nước khoai mỡ làm mực để viết nên con chữ. Những ngày tháng sau đó là ra Huế chăn bò cho người ta, đến năm 12 tuổi chính thức thoát ly đi làm giao liên cho bộ đội giải phóng ở Nam Trung bộ (Phú Yên), và đến năm 1954 tập kết ra Bắc trong Trung đoàn 120 đóng
  3. binh tại Nghệ An. Về Hà Nội học trường Chu Văn An khoảng 6 tháng thì năm sau anh chuyển vào trường Dân tộc học. Tại đây trong lần gặp thầy Đinh Trọng Khang đi vẽ người dân tộc ở đó, anh theo thầy luôn. Đến cuối năm 1958 anh thi đỗ vào hệ Trung cấp 3 năm tại Trường Mỹ thuật Việt Nam rồi sau đó học tiếp lên hệ Cao đẳng ở Khoa Điêu khắc và làm bài thi năm 1968 với tác phẩm 5000m vải cho miền Nam. Kể về những ngày tháng này, không một chút ngượng ngùng anh cười cười cho biết những tháng đầu tiên anh đã phải đi lấy lại quần áo từ những tiệm giặt để giặt thuê (cứ 20 bộ được 8 hào) để kiếm thêm tiền ăn học. Mãi cho đến khi tốt nghiệp trung cấp xong anh mới chuyển sang hoạt động vẽ trang trí cho những tiệm ăn, lân la ra cả phía ngoại thành Hà Nội. Tốt nghiệp năm 1968 anh làm tiếp tác phẩm Hũ gạo kháng chiến rất được nhiều người biết đến, rồi thừa thắng xông lên liên tục làm các phác thảo (sẽ hoàn thành khi trở về miền Nam) như Uống rượu cần (1969 - 1980), Dệt khố (1973 - 1980) hiện đang lưu giữ ở Bảo tàng Mỹ thuật Hà Nội. Sau ngày đất nước hoàn toàn thống nhất, anh trở thành giảng viên của Trường Đại học Mỹ thuật TP/HCM trong một khoảng thời gian ngắn (1978 - 1989) để rồi sau đó xin nghỉ hưu - lui về hoạt động như một nhà sáng tác chuyên nghiệp với một sức sáng tạo mãnh liệt và một khả năng tư duy độc đáo, nổi bật lên trong những thập niên 90 như là một hiện tượng đặc biệt đối với chuyên ngành điêu khắc lúc bấy giờ. Có một điều mà chắc chắn ai cũng phải thừa nhận là: được đào tạo như
  4. nhau những tri thức hàn lâm khoa học Châu Âu, những hình tượng mà điêu khắc gia Đinh Rú sản sinh ra không chỉ là những công thức chung như mọi người đã được trang bị mà đã được biến hoá để trở thành những hiện hữu bất ngờ. Tượng của anh dù tạc về người kinh hay dân tộc thiểu số, dù chứa đựng nội dung chiến tranh hay hoà bình, dù kích cỡ to lớn hay nhỏ bé... tất cả đều thấm đẫm những ý tưởng mới lạ, nhưng rõ ràng những ý tưởng đó không phải xuất phát từ văn học mà là ý tưởng tạo hình, thậm chí có cả những ý tưởng mà chỉ có thể là do chính Đinh Rú nghĩ ra. Từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường - anh đã ý thức được là một tác phẩm mỹ thuật cần phải được xây dựng trên cơ sở gạt ra ngoài sự câu nệ bài bản để không sản sinh những tác phẩm giống nhau, bớt chất ứng dụng giải phẫu để đừng thấy sự lặp đi lặp lại, hạn chế văn học để giảm đi tính kể lể và cố gắng đưa được âm nhạc vào để làm sao cho tất cả chỉ còn là tạo hình. Và anh quyết tâm đi theo hướng của chính mình đã vạch ra, để những sáng tác của anh cho đến ngày hôm nay chỉ cần nhìn vào người ta nhận ngay ra những nét này không thể là của một ai khác mà chắc chắn phải là của Đinh Rú. Hãy xem lại trong Niềm vui chiến thắng tạc hình tượng 2 phụ nữ gặp lại nhau sau ngày đất nước giành độc lập. Khi đối mặt trong tư thế cả hai cùng rảo bước nhanh tới, cô gái có dáng vóc nhỏ nhắn vẫn còn mặc nguyên y phục giải phóng quân đã bộc lộ nỗi mừng bằng cách bấu vào hai cánh tay người phụ nữ kia để đu người lên. Không ai chú ý phân tích cái sai của cấu trúc tư thế tượng mà chỉ thấy cái hồn hậu duyên dáng và sẵn sàng hoà vào nỗi vui chung của hai nhân vật đang khắc hoạ
  5. niềm vui chung của toàn dân tộc. Hoặc Mưa để nghe được tiếng tí tách của những giọt nước đều đều rơi trên manh vải che mà người mẹ đang cố gắng trùm kín cho con khi phải di chuyển dưới bầu trời đang trút nước. Cho tôi xem những mẫu phác thảo tượng cũ và những tìm tòi bố cục mới bằng bút bi trên giấy, anh cho biết từ khi làm tượng đến giờ anh không bao giờ tự trói mình trong phác thảo đất, mà chỉ thử phác nên ý tường thành hai mặt trên giấy cho tới khi hài lòng thì mới làm luôn trên gỗ. Tâm sự về những sáng tác của mình – anh cũng cho biết là mình không bao giờ đặt nặng vấn đề nội dung khi bắt tay vào làm một tác phẩm và khi thi công cũng chưa bao giờ nghĩ tới việc đưa nó đạt tới đỉnh cao hay đến đích nào đó, mà chỉ làm việc dựa trên sự yêu thích và cứ đục cho đến khi bản thân mình thấy vừa ý thì mới ngừng tay. Tuy nhiên điều quan trọng là người xem luôn luôn nhìn thấy ở các tác phẩm của Đinh Rú những biểu hiện nội tâm rất sinh động: toàn bộ các pho tượng dù chứa đựng đề tài gì đều chan chứa những nỗi đau, nỗi dằn vặt, niềm tin ngây thơ và trong sáng bộc phát từ một tâm hồn phóng khoáng. Nếu trong Người đàn bà bất hạnh (Giải Khuyến khích - Triển lãm 10 năm Điêu khắc Toàn quốc 1983 - 1993 của Bộ Văn hoá Thông tin) hình ảnh người đàn bà gầy gò mặt mũi hom hem trong manh áo sờn và chiếc váy ngắn với chiếc bị nhỏ đeo trước ngực đang đứng giơ hai tay xin người qua đường bố thí đã khiến người xem phải chạnh lòng suy nghĩ về thân phận một con người trước dáng diệu vô cùng nhẫn nhục ấy thì ở tác phẩm Màu da cam, nỗi đau sau cuộc chiến (Giải Ba -
  6. Triển lãm 10 năm Điêu khắc Toàn quốc 1993 - 2003 của Bộ Văn hoá Thông tin) hình ảnh người đàn bà đang che mặt khóc trong khi đứa bé không còn sức sống, toàn thân mềm oặt thả dài xuống người mẹ lại gợi lên trong người xem một niềm đau xót trước nghịch cảnh của chiến tranh. Hai bà mẹ với hai nỗi đau: một mất con trong chiến tranh và một đói kém trong thời bình, bà mẹ nào ra bà mẹ đó và nỗi đau nào ra nỗi đau đó - dù do chính cùng một người sáng tác và chắc chắn là nó không được phép lặp lại hình tượng các bà mẹ mà những người đi trước đã từng tạo dựng. Nếu ở tượng tròn nhịp điệu đã khiến tác phẩm của Đinh Rú thêm duyên dáng và giàu chất trang trí hơn - thì ở mảng phù điêu, ngoài việc tạo dựng một không gian đầy chất núi rừng, sự kỳ lạ, bí ẩn, sôi nổi từ những nhịp điệu do anh gieo rắc đã càng khiến tác phẩm thêm muôn phần sinh động. Hãy xem Vòng tay lớn, vòng tay nhỏ (Giải Tặng Thưởng - Triển lãm Mỹ thuật Khu vực VI của Hội Mỹ thuật Việt Nam - Năm 1999) hai vòng tròn lớn từ hai cánh tay bà mẹ giơ lên đỡ đứa bé con ngồi trên vai đã lập tức liên kết ngay với hai vòng tròn nhỏ từ hai tay đứa bé giơ lên đỡ lấy con búp bê ngồi trên vai mình. Tất cả tạo nên một chuỗi liên hoàn rất đẹp và bộc lộ chất nhân văn sâu sắc, trong đó có cả tình mẫu tử và tình người mà bất cứ ai cũng có thể nhìn thấy trong cuộc sống hàng ngày. Rồi một loạt lễ hội Tây Nguyên với các buổi biểu diễn nghệ thuật cồng chiêng cũng được khắc hoạ - trong đó phù điêu Múa trống với không gian được chia thành hai phần - phần dưới là những thanh niên đang trong tư thế quỳ trên mặt đất người bẻ
  7. cong trong dáng điệu nhìn nghiêng tạo hình nửa vòng tròn, tay vỗ vào chiếc trống đang ôm gọn trước bụng. Còn phần trên là ba thiếu nữ được nhìn trực diện, hai tay dang rộng tạo thành những vòng tròn, đang trong một vũ điệu mạnh mẽ với đà dứt cuối cùng là hai bàn tay mềm mại uốn cong trước bụng. Tác phẩm vừa cho người xem thấy được cả chất hùng dũng, khoẻ khoắn của các vũ công trong khúc nhạc của núi rừng với những bờ vai ngang và bộ ngực tròn xoe, vừa cho thấy được không khí sôi nổi của buổi diễn qua những nhịp điệu từ nửa đến nguyên vòng tròn rải rác khắp mặt phù điêu, tất cả cùng quyện vào nhau và cùng tạo nhịp chạy xuyên suốt tác phẩm. Trong khi Đàn ống Tramput lại tạo hình ba thiếu nữ Tây Nguyên đang đánh đàn ống - trong đó hai cô ngồi trong cùng một tư thế nhìn nghiêng,người bẻ cong tới phía phải trước để vỗ vào đầu ống còn thiếu nữ thứ ba lại được nhìn trực diện, đầu nghiêng sang hướng trái ngược lại, đang làm nhiệm vụ nâng đàn cho các bạn đánh. Một dàn nhạc đầy chất dân tộc, duyên dáng với những đường cong và thẳng tạo nhịp điệu dìu dặt như những nốt nhạc êm đềm, ngân nga trong tâm trí người xem. Sáng tác đều đặn, nhận giải thưởng liên tục, tham gia hầu hết các trại điêu khắc cấp quốc gia, cáp tỉnh và thành phố tổ chức hàng năm, lao động không ngưng nghỉ để ngày càng hoàn thiện thêm các đề tài đang theo đuổi... Người đi đường khó ai có thể đoán được rằng người đàn ông gầy gò, nước da sậm đen, áo quần nhạt màu đơn giản vừa đi ngang qua mình là một điêu khắc gia nổi tiếng với nhiều tác phẩm đang hiện diện khắp các bảo tàng trong và ngoài nước cũng như rải rác trong bộ
  8. sưu tập thuộc sở hữu nhiều cá nhân và đã từng đạt nhiều giải thường hàng năm trong đó có cả giải thưởng lớn là Giải thưởng Nhà nước Năm 2001. Chống chọi với bệnh tật ở tuổi đời không còn được nhiều ưu đãi của tạo hóa nữa, cộng thêm gánh nặng gia đình đè nặng trên vai, nhưng hầu như anh vẫn chưa phút nào chịu bó tay đầu hàng với số phận mà cứ liên tục phác thảo thêm các mẫu tượng tròn và phù điêu, trong đó Múa quạt, Múa cồng, Múa trống, Múa chiêng... của các dân tộc (đặc biệt là nét duyên dáng của dân tộc Tây Nguyên) được anh tích cực khai thác với tất cả sở trường của mình. Và một lần nữa bản chất dí dỏm, tinh nghịch của anh lại bộc lộ một cách hết sức độc đáo trong câu chuyện ngộ nghĩnh anh kể cho tôi nghe lần này: “Khi cầm giấy của Thiếu tướng Lê Quang Hoà về Hà Nội để vào học phổ thông, tôi đến số 51 Trần Hưng Đạo thì gặp hoạ sĩ Mai Văn Hiến lúc đó đang thả bộ trong sân. Khi tôi hỏi ông đây có phải là Hội Mỹ thuật không, tôi thấy ông chăm chú nhìn mình rồi hỏi tôi cần gì. Cho đến bây giờ, tôi vẫn còn nhớ rất rõ là tôi đã hùng dũng trả lời với giọng chắc nịch rằng tôi muốn vào Hội Mỹ thuật Việt Nam. Và khi ông hỏi tôi rằng tôi đã từng học ở đâu chưa, thì tôi cũng bình thản trả lời với ông rằng tôi chưa từng học ở đâu hết. Và anh kết luận - chắc hẳn lúc đó ông già chưa từng thấy trên đời có một cái gì kinh khủng hơn”. Và với tôi - khi nghe câu chuyện anh kể tôi cũng cười ra nước mắt, bởi chính tôi cũng chưa thể tưởng tượng được hình ảnh một thanh niên trẻ
  9. măng lúc bấy giờ còn chưa thông thạo trước cảnh phố phường thủ đô và đặc biệt là chưa hiểu tí gì về nghệ thuật lại mạnh dạn khẳng định với lãnh đạo ngành rằng mình đến đây là vì muốn vào Hội. NGUYỄN KIM LOAN
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2