Đề bài: Chất thơ trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài)<br />
<br />
Hướng dẫn<br />
<br />
Tô Hoài được mệnh danh là nhà văn "sinh ra để viết" (Tế Hanh). Hơn sáu mươi năm cầm <br />
bút, ông đã để lại gần hai trăm đầu sách với nhiều thể loại – truyện ngắn, truyện vừa, <br />
tiểu thuyết, hồi kí,… Riêng truyện ngắn, độc giả nhớ nhất và bản thân nhà văn tâm đắc <br />
nhất có lẽ vẫn là Vợ chồng A Phủ. Nói về sức cuốn hút của tác phẩm này, người đọc <br />
nhắc nhiều đến vốn hiểu biết sâu sắc về phong tục, tập quán của các dân tộc miền núi; <br />
khả năng quan sát tinh tường, lối trần thuật tự nhiên, hóm hỉnh của một người cầm bút <br />
từng trải, sắc sảo; tài nghệ phân tích tâm lí nhân vật, vốn ngôn ngữ dồi dào;… Nhưng tôi <br />
vẫn nghĩ, điều thú vị nhất là ở chỗ, Tô Hoài đã mang được vào truyện ngắn Vợ chồng A <br />
Phủ cái chất thơ riêng của miền Tây Bắc.<br />
<br />
Trong cuốn sổ tay viết văn Tô Hoài từng tâm sự về những ý thơ trong văn xuôi: "Vâng, <br />
đúng là những ý thơ, đã từ lâu tôi làm, tôi cảm thấy mà chưa phân tích được". Theo ông, <br />
những ý thơ đó sẽ làm nên cái giá trị "ngoài tài liệu và trên cả sự sáng tạo". Ở đây, tác giả <br />
Sổ tay viết văn đã có sự gặp gỡ với quan niệm của nhiều nhà văn lớn:A.Puskin từng ví <br />
chất thơ trong văn xuôi như "chất nước ngọt ngào thấm trong trái táo"; L. Tônxtôi không <br />
chấp nhận ranh giới giữa văn xuôi và thi ca. Thậm chí, K. Pautốpxki còn khẳng định <br />
rằng: "Văn xuôi là sợi cốt, còn thơ là sợi ngang. Cuộc sống được miêu tả trong văn xuôi <br />
không chứa đựng chất thơ sẽ trở thành thô thiển, thành một thứ chủ nghĩa tự nhiên không <br />
cánh, không thúc gọi, không dẫn dắt ta đi đâu cả"… Cũng chính họ – các nhà văn đích <br />
thực, bằng tác phẩm của mình, đã giúp cho người đọc hiểu thế nào là chất thơ trong văn <br />
xuôi. Đó có thể là những cánh đồng Nga, tâm hồn Nga hiển hiện trên trang văn Puskin; là <br />
lời thì thầm của cây sồi mùa đông, là hình ảnh người thiếu nữ muốn bay lên cùng ánh <br />
trăng (L. Tônxtôi) hay giai điệu ngọt ngào, say đắm, nồng ấm tình đời của âm nhạc Véc<br />
đi, Lắng quả thông (Pautốpxki),… Cũng có thể là khi nhà văn khiến ta nhớ mãi cả mùi <br />
cát bụi "quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng đấy là mùi riêng của đất, của quê <br />
hương này" (Thạch Lam); hay bấy nhiêu ngạc nhiên, cảm động, bâng khuâng, ăn năn, <br />
khao khát,… được đánh thức nhờ hương thơm của một bát cháo hành (Nam Cao)… Chất <br />
thơ có khi đọng lại trong chi tiết, hình ảnh; có lúc thấm đượm trong bức tranh đời sống <br />
hay lan toả vào câu chữ…<br />
<br />
Trở lại với truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, nếu "đọc vội" cũng có thể thấy được sự phong <br />
phú của hiện thực đời sống, đón nhận được niềm cảm thương, trân trọng của tác giả <br />
dành cho những phận người cùng khổ ở miền cao Tây Bắc. Các giá trị đó được "tường <br />
minh" bằng cốt truyện với sự tương phản quen thuộc của hai phần đời. Lối kể truyền <br />
thống, cách xây dựng nhân vật cũng chưa có gì là "đột phá"… Nhưng muốn nắm bắt <br />
được những ý thơ toát lên từ cảnh sắc và tâm hồn con người nơi đây, thì có lẽ phải đọc <br />
chậm, đọc sâu.<br />
<br />
Đọc chậm để các giác quan và trí tưởng tượng có thể "theo kịp" ngòi bút của nhà văn khi <br />
vẽ nên quang cảnh Tết đầy khác biệt trên núi cao. Tết ở đây không đến trong làn mưa bụi <br />
giăng mù gọi chồi non, lộc nõn; cũng không phải với những rừng đào, rừng mận tưng <br />
bừng khoe sắc vẫn mặc nhiên hiện về mỗi khi người ta nghĩ tới mùa xuân Tây Bắc. Nó <br />
không về theo lời hẹn trước, không nhất nhất phải đồng hành cùng tháng ấy, ngày ấy trên <br />
tấm lịch… Trái lại, người dân vùng núi miền Tây "cứ ăn Tết khi gặt hái vừa xong, không <br />
kê ngày tháng nào. Ăn Tết như thế cho kịp lúc mưa xuân xuống thì đi vỡ nương mới". <br />
Nhịp sống của con người "hòa thuận" một cách hồn nhiên, tự nhiên cùng nhịp điệu của <br />
thiên nhiên, vũ trụ như thuở sơ khai. Khi "các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã <br />
xếp đầy các nhà kho", người được an nhàn, thư thái thì vui chơi đón Tết. Có phải vì thế <br />
mà Tô Hoài tả cảnh Tết đến vào lúc "gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ <br />
dội", nhưng vẫn gợi được cái không khí náo nức, tươi tắn của mùa xuân? Ngòi bút của <br />
nhà văn chỉ phác qua vài sắc màu đậm chất địa phương, vài âm thanh quen thuộc của đời <br />
thường cũng đủ khiến lòng người háo hức không kém gì đám trẻ "đợi Tết, chơi quay, <br />
cười ầm trên sân chơi trước nhà". Hình ảnh những chiếc váy hoa "đem ra phơi trên mỏm <br />
đá xoè như con bướm sặc sỡ" trong các làng Mèo Đỏ và tiếng sáo gọi bạn đi chơi "lấp ló <br />
ngoài đầu núi" mang hương vị độc đáo của mùa xuân Tây Bắc. Tết ở đây gắn liền với <br />
những đêm tình nồng nàn, mê đắm: "trai gái đánh pao, đánh quay rồi đêm đêm rủ nhau đi <br />
chơi. Suốt đêm, con trai đến nhà người mình yêu, đứng thổi sáo xung quanh vách". Có cả <br />
bữa cơm Tết cúng ma, bữa rượu bên bếp lửa, rồi "người nhảy đồng, người hát"… Bằng <br />
lối "điểm xuyết" như thế, Tô Hoài dần xoá đi khoảng cách thời gian và không gian, đưa <br />
người đọc nhập vào nhịp sống riêng của miền đất này.<br />
<br />
Đọc sâu để "đầu và tim" (theo cách nói của Nguyễn Tuân) có thể cảm nhận được cái chất <br />
thơ vút lên từ cuộc sống của những con người bị vùi dập trong đau khổ, bất hạnh nhưng <br />
chưa bao giờ lụi tắt khát vọng sống, khát vọng tình yêu và tự do. Một A Phủ mồ côi cha <br />
mẹ từ nhỏ, không họ hàng thân thích mà lớn lên vẫn là chàng trai tài khéo, mạnh mẽ, táo <br />
bạo của núi rừng: "biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo". <br />
Dẫu nghèo khó, "Tết đến […] chẳng có quần áo mới như nhiều trai khác […] chỉ có độc <br />
một chiếc vòng vía lằn trên cổ", A Phủ vẫn mang khèn, sáo đi tìm người yêu. vẻ hoang sơ <br />
của những cánh rừng, vóc dáng hiên ngang của những ngọn núi miền Tây như đã hun đúc <br />
cho chàng trai này tính cách bướng bỉnh, gan góc và lòng ham sống mãnh liệt. Nó trao cho <br />
A Phủ sức mạnh để đối mặt với bạo lực, cường quyền; vượt lên những nỗi hèn, nỗi sợ <br />
truyền kiếp để giành lại cuộc sống tự do…<br />
<br />
Chất thơ toả sáng từ tâm hồn Mị – người con gái dẫu đi qua chốn địa ngục trần gian vẫn <br />
ấp ủ trong lòng bao xúc cảm đẹp đẽ và nồng ấm tình người. Tôi cứ nghĩ về nhân vật này <br />
như cô Tấm miền Tây Bắc – bị đày đọa đến chết đi sống lại nhưng luôn tiềm tàng sức <br />
sống. Diễn biến hai cuộc hồi sinh của tâm hồn Mị xứng đáng được liệt vào hàng những <br />
trang văn giàu ý thơ nhất của Tô Hoài.<br />
<br />
Cuộc hồi sinh thứ nhất diễn ra trong đêm hội mùa xuân ở Hồng Ngài. Lúc đó, kiếp con <br />
dâu gạt nợ ở nhà thống lí đã biến Mị từ một cô gái trẻ trung, tài hoa, mạnh mẽ… thành <br />
người đàn bà nhẫn nhục, chai sạn trước đau khổ. Cô vẫn sống nhưng đã mất dần những <br />
dấu hiệu của một con người: không giao tiếp, không xúc cảm và suy nghĩ, không kí ức, <br />
"chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau vẽ ra trước mặt, mỗi năm mỗi mùa, <br />
mỗi tháng lại làm đi làm lại" như con trâu phải nhớ luống cày, con ngựa phải nhớ đường <br />
đi. Mị mất cảm giác về thời gian, không gian; mất luôn cả ý thức về sự tồn tại của chính <br />
mình. Với cô, thế giới bên ngoài chỉ còn là một ô vuông bằng bàn tay "mờ mờ trăng trắng" <br />
không biết là sương hay là nắng, là sáng hay là chiều. Mị cũng nghĩ mình sẽ lặng lẽ "ngồi <br />
trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi"… Nhưng bất chấp số phận <br />
cay đắng, nghiệt ngã, trái tim Mị vẫn âm thầm gìn giữ niềm khao khát tình yêu, hạnh <br />
phúc. Khi đau khổ xoá mờ kí ức, Mị vẫn không quên giai điệu ngọt ngào, tha thiết của <br />
tiếng sáo gọi bạn tình. Nó quấn quýt, vương vấn, thức tỉnh, nâng đỡ, chắp cánh cho tâm <br />
hồn Mị: "Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha bổi hổi […] Tai Mị văng vẳng tiếng sáo <br />
gọi bạn đầu làng […] Mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường […] Trong <br />
đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo…". Tiếng vẫy gọi của tình yêu đã làm sống dậy những <br />
cảm xúc và kỉ niệm Mị từng chôn vùi, quên lãng Người đàn bà câm lặng suốt bao năm <br />
tháng giờ đây đang ngồi "nhẩm thầm bài hát" của người thổi sáo. Từng câu hát nồng nàn, <br />
tình tứ gọi về trong tâm tưởng những tháng ngày hạnh phúc, tươi sáng nhất: "Mùa xuân <br />
này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như <br />
thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị". Trong khoảnh <br />
khắc, Mị vượt qua mọi khoảng cách của thời gian, không gian, băng qua ranh giới của quá <br />
khứ và hiện tại để trở về sống trọn với tuổi thanh xuân tươi đẹp. Tâm hồn Mị đã hồi <br />
sinh. Cô lại ý thức được về bản thân mình, cảm nhận được nguồn sức sống đang trào <br />
dâng: "Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày <br />
trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ". Người phụ nữ đang chết mòn trong tuyệt vọng lại <br />
muốn được sống cuộc sống có niềm vui, có tự do: "Mị muốn đi chơi, Mị cũng sắp đi <br />
chơi". Trái tim cô không còn "quen khổ" nữa mà thấm thía hơn bao giờ hết nỗi bất hạnh <br />
của đời mình: "Huống chi A sử với Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau! <br />
Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại <br />
nữa. Nhớ lại, chỉ thấy nước mắt ứa ra". Cảm biết được nỗi đau, biết phẫn uất – Mị trở <br />
lại là người con gái mạnh mẽ, giàu tinh thần phản kháng của ngày xưa! Kể từ giây phút <br />
"đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn", Mị đã biến thành một <br />
con người khác. Cô không chỉ khơi ngọn đèn làm sáng căn buồng mờ tối mà còn thắp lên <br />
ngọn lửa của tình yêu cuộc sống trong chính lòng mình! Đi chơi Tết đối với Mị chính là <br />
một hành động "nổi loạn" để chấm dứt kiếp tù nhân, giành lại quyền được sống như một <br />
con người. Thậm chí, cá lúc bị A Sử trói đứng vào cột nhà, lòng MỊ vẫn nồng nàn, tha <br />
thiết nhớ, vẫn đắm trong tiếng gọi yêu thương; tiếng sáo "đưa Mị đi theo những cuộc <br />
chơi, những đám chơi"… Khát vọng tình yêu và hạnh phúc đã là nguồn sức mạnh kì diệu <br />
nuôi dưỡng tâm hồn MỊ.<br />
<br />
Cuộc hồi sinh lần thứ hai đã không được báo trước bằng bất kì "tín hiệu" nào (như không <br />
khí tưng bừng của mùa xuân, men rượu say nồng bên bếp lửa hay tiếng sáo gọi bạn tình,<br />
…). Nó đến bất chợt, bất ngờ – với người đọc và với cả chính bản thân Mị. Bởi vì, sau <br />
đêm bị trói đứng, Mị rơi vào cái chết tinh thần nặng nề, đau đớn. Người phụ nữ cô đơn, <br />
bất hạnh ấy đã hoàn toàn tách biệt với xung quanh "chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa". Cô <br />
không còn tìm được chút hơi ấm nào từ cuộc sống. Mị bám víu lấy bếp lửa không chỉ vì <br />
cái lạnh của những đêm đông trên núi cao mà còn vì sự buốt giá của lòng mình: "nếu <br />
không có bếp lửa sưởi kia thì Mị cũng đến chết héo. Mỗi đêm, Mị đã dậy ra thổi lửa hơ <br />
tay, hơ lưng, không biết bao nhiêu lần". MỊ thờ ơ, vô cảm với chính mình và với mọi sự <br />
xung quanh. Có đêm, A Sử bắt gặp, đánh MỊ ngã ngay xuống cạnh bếp nhưng đêm sau cô <br />
vẫn thản nhiên ra sưởi lửa như đêm trước. Tôi có cảm giác nếu A Sử đánh chết Mị bên <br />
bếp lửa, thì cô cũng sẽ lặng thinh và thờ ơ như thế. Thân còn chẳng thiết) nên khi tận <br />
mắt chứng kiến cảnh tượng A Phủ chết dần trong đói rét, đau đớn, Mị vẫn dửng dưng: <br />
"Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi"!<br />
<br />
Miêu tả cái chết tinh thần ấy, Tô Hoài đã tự đặt mình trước một thử thách lớn. Làm sao <br />
nhà văn lại khiến người đọc tin rằng, từ trạng thái vô cảm kia, Mị có thể thức tỉnh, cắt <br />
dây trói của A Phủ và tự cứu chính mình? Làm sao ông có thể tìm được "chìa khoá" để <br />
mở lại cánh cửa của một cõi lòng đã đóng chặt và cơ hồ đã chết? Vì thế, không ít lần tôi <br />
ngẫm đi ngẫm lại cái câu văn tả "dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám <br />
đen lại" của A Phủ. Không phải là nước mắt khiếp sợ của kẻ hèn nhát hay giọt lệ van <br />
xin, cầu khẩn lòng thương hại. Dòng nước mắt kia chất chứa nỗi đau đớn, uất hận thầm <br />
lặng mà dữ dội của một con người tràn đầy sức mạnh, có thừa lòng can đảm mà đành bất <br />
lực trước cái chết oan ức, phi lí. Nó đập mạnh vào trái tim Mị – trái tim dường như chỉ <br />
còn nỗi đau. Cô bừng tỉnh trong mối đồng cảm sâu xa với người cùng chung cảnh ngộ đau <br />
thương, uất hận: "Nhìn thấy tình cảnh như thế, Mị chợt nhớ lại đêm năm trước. A Sử trói <br />
Mị, MỊ cũng phải trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống <br />
cổ, không biết lau đi được". Lúc trước, miêu tả cảnh Mị bị trói đứng, Tô Hoài nhắc nhiều <br />
đến những đau đớn về thể xác: "tay chân đau không cựa được […] khắp người bị dây trói <br />
thít lại, đau nhức […] cổ tay, đầu, bắp chân bị dây trói siết lại, đau đứt từng mảnh thịt <br />
[…] Sợi dây gai dưới bắp chân vừa lỏng ra, Mị ngã sụp xuống […] Mị quên cả đau, đứng <br />
lên. Nhưng không nhích chân lên được". Nỗi đau thể chất này, thời gian có thể làm nhòa <br />
đi nhưng nỗi đau tinh thần kia thì vẫn hằn sâu trong tâm trí, khi con người bị tước đoạt <br />
đến cả cái quyển đưa tay lên lau những giọt nước mắt của chính mình! Từ chỗ biết <br />
thương mình, trong lòng Mị dâng lên nỗi xót xa, thương cảm cho bao kiếp người bị đày <br />
đọa: "Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bất mình chết cũng thôi, nó bắt trói <br />
đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này". Cùng với tình thương, trong lòng <br />
MỊ sống dậy cả lòng căm thù, sự phẫn nộ: "Chúng nó thật độc ác". Với A Phủ, Mị chia sẻ <br />
nỗi đau đớn bằng cả trái tim vì chính cô đã từng biết thế nào là "chết đau, chết đói, chết <br />
rét, phải chết" trên cây cột trói người. Đột nhiên, nhưng cũng là tự nhiên, tất yếu với một <br />
con người giàu "năng lực" yêu thương, Mị xót xa cho A Phủ hơn chính bản thân mình: "Ta <br />
là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây <br />
thôi… Người kia việc gì mà phải chết thế".Trong khoảnh khắc, người con gái có tâm hồn <br />
trong sáng, nhân hậu của ngày xưa đã lại trở về! Bấy nhiêu cảm xúc trỗi dậy khiến MỊ <br />
không cảm thấy sợ hãi cả khi tưởng tượng mình phải trói thay A Phủ. Bằng sức mạnh <br />
của tình yêu thương, sự đồng cảm, lòng vị tha, Mị đã vượt lên nỗi sợ cường quyền, cắt <br />
dây trói cứu A Phủ, để rồi lòng ham sống mãnh liệt lại giúp cô vượt qua nỗi ám ảnh thần <br />
quyền, tự cứu chính mình… Vẫn là cái quy luật muôn thuở của tình người bất diệt <br />
"Thương người như thể thương thân", nhưng qua ngòi bút Tô Hoài, nó đã mang đậm sắc <br />
màu riêng của tính cách, tâm hồn con người Tây Bắc – chân chất, mộc mạc mà nồng nàn, <br />
sâu sắc; lặng lẽ mà quyết liệt trong khát vọng sống, khát vọng tự do.<br />
<br />
Những ý thơ trong Vợ chồng A Phủ cũng gắn liền với một Tô Hoài đặc biệt chú trọng <br />
đến chuyện "tinh thông về chũ". Ông từng tâm niệm và ao ước: "Mỗi chữ phải là hạt <br />
ngọc buông xuống những trang bản thảo, hạt ngọc mới nhất của mình tìm được, do <br />
phong cách văn chương của mình mà có". Tôi đã thấy những "hạt ngọc" như thế lấp lánh <br />
trong Vợ chồng A Phủ. Công phu dùng chữ của tác giả hiện rõ qua lời kể, lối miêu tả, <br />
nghệ thuật xây dựng ngôn ngữ nhân vật,… Từ đối thoại, độc thoại đến những đoạn ngôn <br />
ngữ nửa trực tiếp,… chưa bao giờ thấy gợn lên sự thiếu hài hòa giữa lai lịch, vốn sống, <br />
tâm trạng và tính cách,… với lời ăn tiếng nói của nhân vật. Có những câu nói chỉ bớt đi <br />
một từ thôi (chúng tôi in đậm), nó đã không còn là cách nói riêng của người miền cao – <br />
mộc mạc, đầy hình ảnh và cảm xúc chân thật, tự nhiên: lời khen ngợi A Phủ của các cô <br />
gái trong làng: "Đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà"; lời của <br />
người cha già hiểu con, thương con mà đành bất lực: "Mày về lạy chào tao để mày đi <br />
chết đấy à? […] Không được, con ơi!" hay tiếng vọng đau đớn vang lên từ tâm trí Mị, <br />
nhắc nhở về nỗi tủi nhục, cay đắng đến tận cùng của kiếp nô lệ: "Nhiều lần khóc, nước <br />
mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được"… Màu sắc địa phương đậm <br />
đà ấy đã góp phần không nhỏ làm nên vẻ sinh động, độc đáo của các nhân vật.<br />
<br />
Tác giả Vợ chồng A Phủ cũng sáng tạo nhiều kiểu câu văn giàu nhịp điệu "như biết co <br />
duỗi nhịp nhàng" (Nguyễn Tuân). Có kiểu câu với cấu trúc tầng lớp, trùng điệp các vế, <br />
thường được dùng để miêu tả các sự kiện kéo dài, lặp lại, triền miên, nặng nề: tả kiếp <br />
đàn bà như con trâu con ngựa "chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi" trong nhà thống lí <br />
("Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa, mà lúc nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống <br />
nhau, tiếp nhau vẽ ra trước mặt, mỗi năm mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại: Tết <br />
xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ <br />
bắp, và dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước <br />
thành sợi"); tả cảnh hành hạ người dã man, quái gở ("Cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, <br />
càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút"),… Có kiểu câu ngắn, dồn dập, diễn <br />
tả những biến động bất ngờ: "Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu <br />
người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. […] Hơi rượu toả. Tiếng sáo. Tiếng chó sủa xa <br />
xa. Mị lúc mê, lúc tỉnh". Những cấu trúc mới lạ, phong phú đan xen, phối hợp với nhau <br />
một cách linh hoạt mang đến cho lời vãn tính đa thanh, phức điệu.<br />
<br />
Ngôn ngữ văn xuôi của Tô Hoài giàu chất thơ, chất hoạ. Không thiếu những đoạn văn, <br />
đọc lên, ngỡ như mình đang đứng trước một bức tranh hay đang xem một trường đoạn <br />
phim với góc quay thật rộng: "Hai người đi liền hơn một tháng. Họ đi thuyền trên những <br />
triền núi cao ngất, lốm đốm nhà, thấp thoáng ruộng, đất đỏ, suối trắng tinh, trông thấy ở <br />
trước mặt mà đi mấy ngày chưa tới. […] A Phủ làm nhà thèo đảnh ra một ngọn đồi gianh. <br />
Những ngày quang trời trông thấy dòng sông và cánh đồng Bản Pe có ruộng xòe như cánh <br />
quạt". Gần rồi xa, cao và thấp, diện và điểm, đậm xen nhạt, khi thì sắc nét như ở ngay <br />
trước mặt, lúc lại thấp thoáng mơ hồ như ở ngoài tầm mắt; vừa trải rộng với những nét <br />
vẽ sông, suối mềm mại, đã lại sừng sững thu về trong dáng núi gân guốc, hùng vĩ… Tả <br />
con đường vượt suối, băng rừng mà thấy được hành trình và khát vọng đi tìm cuộc sống <br />
tự do. Tái hiện khung cảnh thiên nhiên mà gợi được vẻ đẹp mạnh mẽ, phóng khoáng, <br />
lãng mạn của hồn người…<br />
<br />
Những ý thơ trong Vợ chồng A Phủ được tạo nên bằng ngòi bút của một người "thợ chữ" <br />
tài hoa và kiên tâm trên con đường sáng tạo. Phải nói đến cả tình cảm gắn bó thắm thiết, <br />
sâu nặng của nhà văn: "thiên nhiên và con người miền Tây đã để thương để nhớ cho tôi <br />
nhiều quá, tôi không bao giờ quên" (Tô Hoài). Không chỉ nhà văn, mà cả người đọc cũng <br />
muốn nói lời tri ân núi rừng, sông suối và con người Tây Bắc – nguồn "nguyên liệu" thấm <br />
đẫm chất thơ! Tô Hoài đã trả được món nợ ân tình đó khi truyền cho người đọc những <br />
rung cảm sâu xa với cảnh, với người. Ông cũng đã thực hiện được điều mà mọi nhà văn <br />
đều mong ước: "trong văn xuôi, cần phải đượm hồn thơ, có như thế vãn xuôi mới trong <br />
sáng cất cao"<br />