Chính sách tài chính hỗ trợ tăng trưởng xanh: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam
lượt xem 1
download
Trong phạm vi bài viết "Chính sách tài chính hỗ trợ tăng trưởng xanh: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam", tác giả tập trung tìm hiểu kinh nghiệm của một số quốc gia về chính sách tài chính hỗ trợ tăng trưởng xanh, từ đó gợi ý một số khuyến nghị cho Việt Nam. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Chính sách tài chính hỗ trợ tăng trưởng xanh: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam
- CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH HỖ TRỢ TĂNG TRƯỞNG XANH: KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VÀ KHUYẾN NGHỊ CHO VIỆT NAM Ths. Nguyễn Thị Kim Dung1 Tóm tắt Thời gian qua, thế giới đã chứng kiến những thành tựu to lớn trên lĩnh vực kinh tế tại hầu hết các quốc gia. Hàng hóa, dịch vụ được tạo ra ngày càng nhiều hơn, với chất lượng cao hơn do đó đã thỏa mãn tốt hơn nhu cầu của con người, chất lượng cuộc sống dần được nâng lên. Tuy nhiên, mô hình phát triển kinh tế trước đây chủ yếu dựa vào việc sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên, coi đó là nhân tố chính để tạo ra tăng trưởng kinh tế thì đã xuất hiện nhiều vấn đề liên quan đến sự bền vững của quốc gia. Do đó, tăng trưởng xanh được xem là một giải pháp hợp lí trong việc thỏa mãn được mục tiêu vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhưng vẫn đảm bảo được sự bền vững. Trong phạm vi bài viết này, tác giả tập trung tìm hiểu kinh nghiệm của một số quốc gia về chính sách tài chính hỗ trợ tăng trưởng xanh, từ đó gợi ý một số khuyến nghị cho Việt Nam. Từ khóa: Tăng trưởng xanh, chính sách tài chính, nhà nước. 1. Khái niệm tăng trưởng xanh và thực tế tại Việt Nam Trong sự phát triển chung của toàn cầu, nhiều quốc gia đã có sự đánh đổi giữa việc hi sinh nguồn tài nguyên, chấp nhận các hậu quả môi trường sinh thái để có được một tốc độ tăng trưởng cao. Ngay cả tại các quốc gia phát triển như Mỹ, các nước Tây Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc…cũng đã không tránh được “lối mòn” này. Chính vì vậy, trên phạm vi toàn thế giới, diện tích rừng đã giảm khoảng 40% trong vòng 300 năm qua; 50% diện tích đất ngập nước đã biến mất từ năm 1900; nguồn lợi từ các hệ sinh thái đó đang suy giảm, ô nhiễm môi trường xảy ra ở nhiều nơi, các thảm họa thiên nhiên diễn ra với tần suất và cường độ ngày càng cao hơn…Đó là lý do dẫn đến việc ra đời của ý tưởng phát triển mô hình tăng trưởng xanh, kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường tự nhiên, giảm khí thải carbon, xóa đói giảm nghèo và hướng tới tiến bộ xã hội vào những năm 1970 của thế kỷ trước. Đây là vấn đề mang tính cấp bách trong thời gian qua đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 trên toàn thế giới. Năm 2008, “Sáng kiến kinh tế xanh” được Liên Hợp Quốc (UNEP) phát động với mục tiêu phát triển hợp tác quốc tế đối phó với tài chính bị khủng hoảng kết hợp với xử lý những khó khăn toàn cầu nhằm định hướng hỗ trợ phát triển kinh tế trên thế giới sau khi xảy ra khủng 1 Trường Đại học Tài chính – Quản trị kinh doanh 764
- hoảng. Một năm sau, chiến lược tăng trưởng xanh đã được Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) đưa ra. Đến nay, vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau liên quan đến khái niệm tăng trưởng xanh. Theo OECD để phát triển và tăng trưởng kinh tế cần dựa vào tăng trưởng xanh. Tăng trưởng xanh giúp giảm bớt việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên, giảm sự mất cân bằng đa dạng sinh học, môi trường được bảo tồn. Theo Ủy ban Tăng trưởng xanh của Hàn Quốc, việc giảm suy thoái môi trường và giảm khí thải nhà kính chính là tăng trưởng xanh. Ở Việt Nam, tăng trưởng xanh là việc sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, tăng cường tái cấu trúc, tăng tính cạnh tranh trong phát triển kinh tế dựa vào việc tăng cường và đổi mới công nghệ, công cụ tài chính và vốn tự nhiên. Qua đó hạn chế được sự những tác động tiêu cực lên khí hậu, thoát nghèo và kinh tế được phát triển bền vững. Như vậy hiểu một cách cơ bản, tăng trưởng xanh là quá trình tái cơ cấu lại hoạt động kinh tế và cơ sở hạ tầng nhằm hướng đến sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, giảm phát thải khí nhà kính, đảm bảo tăng trưởng GDP, xóa đói giảm nghèo, và hướng đến sự tiến bộ xã hội. Tăng trưởng xanh và phát triển bền vững đều có ý nghĩa là môi trường cần được bảo vệ và kinh tế cần phải phát triển (Hình 1). Có thể nói, tăng trưởng xanh là nền tảng và là công cụ để giúp cho việc phát triển bền vững. Vì vậy, tăng trưởng xanh gồm 3 nội dung lớn là (i) sự thận trọng khi đầu tư vào vốn tài nguyên giảm năng lượng hóa thạch và được thay bằng năng lượng tái tạo; (ii) giao thông ít xả khí thải và đô thị phát triển bền vững; (iii) tạo lập và xây dựng các chính sách hỗ trợ và hoàn thiện cơ chế pháp lý phù hợp. Tăng trưởng kinh tế hỗ trợ, bảo vệ, cải thiện môi trường Kinh Tác động Môi tế trường (Tăng hỗ trợ (Xanh trưởng) ) Mô hình phát triển kinh tế thúc đẩy tăng trưởng từ việc bảo vệ môi trường Hình 1. Mối quan hệ tương hỗ giữa môi trường và tăng trưởng kinh tế từ tăng trưởng xanh (Nguồn: Committee on Green Growth, South Korea) Tại một số quốc gia, tăng trưởng xanh đã trở thành một mô hình và công cụ để thực hiện phát triển bền vững với ba thành tố quan hệ chặt chẽ với nhau gồm: phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh - tăng cường phúc lợi xã hội, và bảo vệ môi trường. 765
- Việc chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng xanh ở mỗi quốc gia đều không giống nhau. Các nước phát triển chú trọng vào yếu tố môi trường nhiều hơn còn các nước kém phát triển lại chú trọng vào tăng trưởng với môi trường ít khí thải. Bên cạnh đó, bước chuyển mình sang mô hình xanh đòi hỏi phải có nguồn tài chính và thời gian nhất định ở mỗi đất nước là khác nhau. Điều này còn tùy thuộc vào nguồn lực con người, trình độ và tự nhiên của mỗi quốc gia. Với những quốc gia nguồn lao động có trình độ, phong phú về tài chính thì việc chuyển sang nền kinh tế xanh sẽ giúp môi trường cải thiện nhanh hơn và tăng trưởng kinh tế hiệu quả hơn. Còn đối với các nước đang phát triển tốn nhiều thời gian hơn và cần nhiều nguồn tài chính hơn để nền kinh tế dần thích nghi với môi trường thân thiện. Ở Việt Nam, luật bảo vệ môi trường đã ra đời từ cuối năm 1993, Luật này đã được sửa đổi, bổ sung năm 2005 và tiếp tục bổ sung, sửa đổi hoàn thiện năm 2014. Tại Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 03/06/2013 đã khẳng định sự gắn kết chặt chẽ bảo vệ môi trường với kinh tế. Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia phát động qua nhiều giai đoạn từ năm 2001 đến nay và có định hướng đến năm 2030 đều hỗ trợ và tác động tích cực đến nền kinh tế, xã hội. Từ đó tạo động lực tích cực cho việc phát triển kinh tế gắn liền với bảo vệ môi trường bền vững. Từ những chính sách liên quan đến kinh tế xanh và bảo vệ môi trường cho thấy, chúng ta đang quá trình tìm tòi và hoàn thiện dần sự kết hợp hài hòa giữa hai phạm trù “Kinh tế xanh” và “bảo vệ môi trường”, rõ ràng hai phạm trù này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau và bổ sung cho nhau để hướng tới và thực hiện thành công “phát triển bền vững”. 2. Kinh nghiệm quốc tế về việc sử dụng chính tài chính thúc đẩy tăng trưởng xanh Từ việc sử dụng các yếu tố tự nhiên (tăng trưởng nâu) giúp cho tăng trưởng đã chuyển sang việc sử dụng yếu tố con người (tăng trưởng xanh) đã phát huy được hiệu quả tốt. Tuy nhiên, việc chuyển đổi một mô hình chưa bao giờ là dễ dàng, nó đòi hỏi một quá trình lâu dài, với nhiều lực đẩy cần thiết, nhất là các hỗ trợ về mặt kinh tế, tài chính vì các hoạt động này tác động trực tiếp đến chi phí và lợi ích trong hoạt động của cá nhân và doanh nghiệp, qua đó ảnh hưởng tới hành vi của họ theo hướng có lợi cho môi trường. Các biện pháp thúc đẩy tăng trưởng xanh Một là, hỗ trợ doanh nghiệp. Nhà nước đã sử dụng ngân sách quốc gia để khuyến khích các doanh nghiệp đưa công nghệ vào xử lý rác thải, nước thải, khí thải để bảo vệ môi trường. Trường hợp doanh nghiệp cam kết trong tương lai giảm tối đa việc thải các chất thải ra môi trường thì sẽ được trợ cấp không hoàn lại. Doanh nghiệp đưa ra được các phương án sản xuất kinh doanh có đề cập đến việc giảm chất thải ảnh hưởng đến môi trường còn được hỗ trợ vay vốn với lãi suất ưu đãi. Ngoài ra, doanh nghiệp có hệ thống 766
- xử lý chất gây ô nhiễm mỗi trường còn được hỗ trợ thông qua hình thức miễn, giảm thuế. Việc này tạo điều kiện để các doanh nghiệp hỗ mở rộng hơn nữa các hoạt động kinh doanh theo hướng thân thiện với môi trường. Hai là, khuyến khích bảo vệ môi trường và tiết kiệm năng lượng thông qua việc tăng chi phí đầu tư. Các hoạt động nghiên cứu và phát triển năng lượng xanh được các nước trên thế giới coi là hoạt động trọng tâm trong chiến lược tăng trưởng xanh với việc phát triển các năng lượng mặt trời, năng lượng gió và hệ thống pin mặt trời (Hàn Quốc); lập quỹ thưởng cho các doanh nghiệp tiến hành cải tạo kỹ thuật theo hướng tiết kiệm năng lượng và lập Quỹ chuyên biệt cho việc xử lý chất thải gây ô nhiễm (Trung Quốc). Việc áp dụng các công nghệ tiên tiến như ở Mỹ và Nhật Bản cũng giúp giảm thiểu lượng khí thải carbon và ô nhiễm môi trường ở những nước này. Tại Hàn Quốc, Chính phủ đã thông qua kế hoạch đầu tư 5.000 tỷ won (4,3 tỷ USD) vào năm 2008 để phát triển lĩnh vực năng lượng xanh đến năm 2012. Đây được xem là một phần trong chiến lược trọng điểm của Tổng thống Lee Myung-bak vốn được gọi là "Kế hoạch tăng trưởng xanh, ít carbon" nhằm đưa kinh tế Hàn Quốc phát triển theo hướng thân thiện với môi trường. Theo quyết định của Chính phủ Hàn Quốc, từ 2008 đến năm 2012, khoản tiền trên sẽ được chi cho việc nghiên cứu và phát triển năng lượng xanh như: năng lượng mặt trời, năng lượng gió và hệ thống pin mặt trời. Trong khi đó, tại Trung Quốc, tháng 6/2011, Ủy ban cải cách phát triển Trung Quốc và Bộ Tài chính Trung Quốc đã có thông báo về việc thành lập các quỹ thưởng chuyên biệt có nguồn từ ngân sách nhà nước để thưởng cho các doanh nghiệp tiến hành cải tạo kỹ thuật theo hướng tiết kiệm năng lượng, quỹ này là sự đổi mới khi thực hiện trên tinh thần trao thưởng thay cho hỗ trợ tài chính. Ngoài ra, Trung Quốc cũng thực hiện một số biện pháp khác như: hỗ trợ tài chính cho người tiêu dùng khi lựa chọn sử dụng các sản phẩm tiết kiệm năng lượng (2009); thành lập Quỹ chuyên biệt cho việc xử lý chất thải gây ô nhiễm (2007). Chính phủ Trung Quốc cũng thực hiện các chính sách trợ cấp nhằm khuyến khích phát triển nguồn năng lượng tái sinh thông qua các chương trình, dự án quốc gia như: Tài trợ từ ngân sách nhà nước cho dự án “Mặt trời vàng” thực hiện trong giai đoạn 2009- 2011; Quỹ hỗ trợ tài chính cho việc mở rộng tiêu chuẩn tiết kiệm năng lượng và sử dụng nguồn năng lượng mới đối với xe ôtô. Ba là, hỗ trợ chi phí cho ngành giáo dục. Việc này giúp cải thiện đáng kể cho việc tạo ra nguồn lao động có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu xã hội, giảm bớt tình trạng thất nghiệp, tạo công ăn việc làm cho người lao động. Theo kết quả khảo sát của OECD cho thấy rằng đa phần các quốc gia đều chọn hình thức đào tạo và giáo dục (Mỹ, Úc, Áo, Bỉ, Séc, Hungary, Slovenia, Thổ Nhĩ Kỳ, Hàn Quốc) làm biện pháp thực hiện liên quan đến 767
- tăng trưởng xanh, và cũng có một số nước sử dụng hình thức trợ cấp việc làm (Úc, Bỉ, Séc, Hy Lạp, Hungary). Quan sát việc hỗ trợ tăng trưởng xanh tại các quốc gia cho thấy, trợ cấp và chính sách hỗ trợ công nghệ là những công cụ chi tiêu tiềm năng hỗ trợ cho chiến lược tăng trưởng xanh. Mặc dù trợ cấp đòi hỏi chi phí ngân sách lớn, nhưng trợ cấp khuyến khích chuyển đổi sang các hoạt động xanh thường được sử dụng nhiều hơn các công cụ định giá bởi lẽ nó tác động trực tiếp đến hoạt động của sản xuất của doanh nghiệp và hành vi mua mua của người tiêu dùng, trong đó các công cụ định giá tác động gián tiếp thông qua việc thay đổi về giá bán do tăng hoặc giảm chi phí (tăng hoặc giảm thuế) cho các doanh nghiệp. Thuế và phí môi trường Ở nhiều nước trên thế giới đang áp dụng các thuế, phí liên quan đến môi trường như phí gây tiếng ồn, phí rác thải, phí ô nhiễm nguồn nước… Chính sách này giúp các doanh nghiệp có định hướng ngay từ khi thành lập doanh nghiệp phải tính trước được phương án xử lý chất thải do mình tạo ra. Từ đó khuyến khích giảm việc xả thải ra môi trường. Và khoản phí này được tính vào giá thành của sản phẩm tạo ra. Điều này có nghĩa là doanh nghiệp - người gây ra ô nhiễm và người tiêu dùng, sử dụng sản phẩm do doanh nghiệp bán ra cũng phải trả tiền. Từ đó, tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Các hình thức cụ thể được áp dụng tại các nước được thể hiện trong bảng 1 dưới đây: Bảng 1. Các loại thuế, phí và lệ phí môi trường tại các quốc gia trên thế giới Thuế Thuế mua Thuế Phí sử bao bì Phí ô Phí bán, sử Thuế Phí dụng và Quốc gia nhiễm rác sử dụng carbon gây ồn môi thuế nước thải dụng hóa trường xử lý xe cơ chất bao bì giới Mỹ + + + + + Anh + + + Pháp + + + + Bỉ + + + Nhật Bản + + + Hàn Quốc + Trung Quốc + + + (Nguồn: OECD) Thứ nhất, thuế carbon. Để hướng đến tăng trưởng xanh thì việc đánh thuế là biện pháp hữu hiệu và đem lại nguồn thu cho ngân sách mỗi quốc gia. Khoản thuế đánh vào môi trường sẽ giúp giảm bớt được lượng chất gây ô nhiễm tạo ra cho môi trường tự nhiên. Và khoản thuế này trong tương lai còn tiếp tục tăng do nền kinh tế ngày càng phát triển. Dự 768
- báo vào năm 2025, với mức giá của mỗi tấn khí carbon là 50 USD, doanh thu mang lại chiếm 1-3% GDP và có thể tăng hơn phụ thuộc vào điều kiện riêng của mỗi quốc gia Bảng 2. Doanh thu tài chính tiềm năng từ thuế về khí carbon1 Giá của 1 tấn EU27 Nhật Bản và Hoa Kỳ khí CO2 và Hàn Quốc EFTA 10 USD 0,2 0,4 25 USD 0,7 0,5 1,0 50 USD 1,1 1,0 1,7 100 USD 1,7 1,7 2,9 (Nguồn: OECD) Thứ hai, thuế đối với việc mua/bán và sử dụng xe cơ giới. Việc áp dụng loại thuế này có ở nhiều nước (Trung Quốc, Áo, Mỹ…). Điều này có thể định hướng đến mục đích điều tiết tiêu dùng các loại xe cơ giới và huy động nguồn thu cho ngân sách. Thuế đối với việc bán và đăng ký xe chỉ tính một lần thường được phân biệt bởi trọng lượng hoặc kích cỡ động cơ của ô tô hay xe tải. Ở Áo, Mỹ và Canada, thuế bán xe dựa vào tiêu chí môi trường, ví dụ như lượng khí thải và nhiên liệu sử dụng. Ở Mỹ, họ tính mức thuế khi kinh doanh xe ô tô là tính trên quãng đường xe đó có thể đi. Trong khi đó, ở Trung Quốc, thuế mua xe cơ giới áp dụng đối với các cá nhân, đơn vị mua xe trong nước và mức thuế phải nộp được tính theo giá của xe cơ giới. Ngoài ra, để điều tiết thu nhập, khống chế việc sử dụng và tiêu thụ tàu thuyền và xe công bằng hơn, kể từ ngày 25/10/2010 thuế sử dụng tàu thuyền và xe cơ giới của Trung Quốc được chia thành 7 mức (từ 60 – 5400 NDT) dựa theo thông số động cơ. Thứ ba, thuế bao bì và thuế đối với xử lý chất thải từ bao bì. Do một số loại bao bì khó phân hủy nên gây ảnh hưởng đến môi trường nên nhiều nước đã đưa ra các mức thuế đánh vào bao bì để giảm việc sử dụng bao bì và rác thải từ việc sử dụng bao bì tạo ra. Tuy nhiên cũng có một số nước khuyến khích doanh nghiệp và người tiêu dùng nên tái chế hoặc tái sử dụng bao bì đó. Đan Mạch, Hàn Quốc và Na Uy cũng đánh thuế vào các thùng chở hàng khác, với những mức thuế suất khác nhau cho các loại nguyên liệu được dùng trong các thùng. Mức thuế suất khác nhau có thể khuyến khích việc tái sử dụng và tái chế lại nguyên liệu đóng gói, ví dụ tại Na Uy, chỉ những thùng đựng đồ uống không thể thay thế mới phải chịu thuế, và tại Phần Lan mức thuế suất phụ thuộc vào loại thùng có thể tái chế hay không. 1 Hay hệ thống kinh doanh khí phát thải 769
- Ngoài ra, các nước cũng có chính sách thuế điều chỉnh việc xử lý chất thải cuối cùng đối với bao bì hoặc các sản phẩm cụ thể có thể gây ra những vấn đề liên quan đến chất thải. Tại Áo, chính phủ áp dụng các mức thuế suất khác nhau đối với bãi chôn lấp tùy thuộc vào hiệu quả của các phương tiện theo 3 mức: 58 EUR/tấn chất thải (loại không hiệu quả), 29 EUR/tấn chất thải (loại bình thường), hoặc 15 EUR/tấn chất thải (loại hiệu quả). Trong khi đó, tại Đan Mạch, chính phủ áp dụng các mức thuế khác nhau giữa việc đốt và chôn lấp chất thải; chất thải được chôn lấp (50 EUR/tấn chất thải) sẽ chịu mức phí cao hơn chất thải bị đốt (45 EUR/tấn chất thải), chất thải được gửi tại cơ sở phục hồi năng lượng sẽ chịu mức thuế thấp hơn (38 EUR/tấn chất thải). Thứ tư, thuế sử dụng hóa chất và làm hao mòn tài nguyên thiên nhiên. Tại các nước Bỉ, Canada, Đan Mạch, Phần Lan và Na Uy, Chính phủ đã đánh thuế đối với việc sử dụng thuốc trừ sâu. Hà Lan có một hệ thống kế toán khoáng sản, trong đó, trên 10 kg phốt phát bị dư đối với 1 ha sẽ bị đánh thuế là 4,54 EUR/kg và Nitơ bị dư sẽ bị đánh thuế 0,68 EUR/ha. Thụy Điển đánh thuế đối với phân bón, với mức thuế suất là 0,2 EUR/ 1 kg nitơ và 3,4 EUR/gam catmi. Mỹ tính thuế đối với phân bón với các mức thuế khác nhau từ 0,9 EUR đến 3,7 EUR trung bình 1 tấn sản phẩm. Trong khi tại Trung Quốc, thuế được đánh đối với tất cả các sản phẩm tài nguyên, đồng thời mở rộng việc đánh thuế trên doanh thu số bán dầu thô và khí tự nhiên từ một số khu vực ra phạm vi cả nước. Thuế đối với dầu thô và khí tự nhiên sẽ là 5 – 10% trong tổng doanh số bán. Trung bình một thùng dầu thô bán với giá 80 USD thì thuế tài nguyên là 4 USD/thùng, gấp 6-13 lần so với mức thuế trước khi có cải cách này. Đối với than cốc, thuế sẽ ở mức 8 - 20 NDT/tấn, và thuế đối với đất hiếm là 0,4 – 60 NDT/tấn. Thuế áp dụng đối với than đá giữ nguyên ở mức 0,3 – 5 NDT/tấn. Phát triển thị trường tài chính xanh Do xã hội ngày càng phát triển, công nghệ ngày càng hiện đại nên việc tiêu thụ năng lượng ngày càng nhiều. Việc sử dụng năng lượng nhiều dẫn tới tạo ra các chất gây ô nhiễm môi trường ngày một lớn. Vì vậy, cần có nguồn lực tài chính dồi dào để hỗ trợ và thúc đẩy quá trình tăng trưởng xanh của mỗi quốc gia. Hiện nay, việc xanh hóa thị trường tài chính được nhiều quốc gia hướng tới. Cụ thể, Trung Quốc sau nhiều năm chỉ tập trung phát triển kinh tế, coi lợi ích kinh tế đặt lên hàng đầu mà quên đi việc bảo vệ môi trường. Thực tế cho thấy việc phát triển các ngành công nghiệp ở Trung Quốc đã tạo ra lượng chất thải, khí thải, gây ô nhiễm môi trường, ô nhiễm tiếng ồn đã làm tổn hại, ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường sống của con người, nhiều người dân bị các căn bệnh liên quan đến hô hấp, ung thư… từ đó gây áp lực lên ngành y tế. Nhận thức được tác hại của việc thiếu quan tâm đến môi trường, Chính phủ Trung Quốc đã đưa ra những chiến lược tăng trưởng xanh phù hợp và lành mạnh. Trung 770
- Quốc tập trung sử dụng nhiều công cụ tài chính, đưa ra nhiều quy định, hỗ trợ giảm chi phí đầu tư cho các dự án xanh, cải thiện cơ chế cấp vốn xanh, chính phủ khuyến khích và cùng phối hợp với doanh nghiệp mở các tổ chức tài chính chuyên đầu tư xanh và đầu tư xanh. Trong khi đó, một số nước khác chọn hình thức phát hành trái phiếu xanh. Đây là khoản đầu tư thân thiện với môi trường, khoản đầu tư này có sự bảo lãnh của chính phủ. Kỳ hạn trái phiếu trung bình là từ 5 đến 6 năm. Những trái phiếu xanh được nhà nước miễn thuế, mức độ rủi ro khá thấp và cho lợi nhuận cao. Ngoài ra, mô hình Ngân hàng xanh cũng được áp dụng thành công tại một số quốc gia. Đây là ngân hàng chính sách của Chính phủ chuyên đầu tư vào các dự án, cơ sở hạ tầng rủi ro cao. Chính phủ Anh cung cấp nguồn vốn điều lệ cho ngân hàng trị giá 3,8 tỷ bảng và là một thành viên trong Hội đồng quản trị. Ngân hàng hoạt động độc lập và Chính phủ không kiểm soát quá trình hoạt động của nó. Ngân hàng đầu tư xanh chủ yếu tài trợ cho các dự án cơ sở hạ tầng xanh. Chính phủ Anh cũng mong muốn thu hút được các nguồn vốn tư nhân cho các dự án xanh này. Ngân hàng chủ yếu đầu tư cho các hạng mục liên quan đến xử lý nguồn nước ô nhiễm, rác thải, tiếng ồn… 3. Khuyến nghị cho Việt Nam Trên cơ sở đánh giá những thách thức mà Việt Nam phải đối mặt trong quá trình hướng đến tăng trưởng xanh, kết hợp với bài học kinh nghiệm về sử dụng chính sách tài chính nhằm hỗ trợ tăng trưởng xanh ở một số nước trên thế giới, có thể gợi ý một số khuyến nghị chính sách cho Việt Nam như sau: Thứ nhất, đánh giá, rà soát lại các quy định của pháp luật đảm bảo sự phù hợp và tác động ngăn ngừa, răn đe. Ở nước ta hiện nay đã đưa ra các loại thuế như nghị định thu phí nước thải, Thuế tài nguyên, Thuế bảo vệ môi trường, Nghị định trả phí môi trường, Nghị định bồi thường môi trường, v.v.. Nhưng các văn bản này còn nhiều thiếu sót, kẽ hở đôi khi còn chồng chéo chẳng hạn thuế bảo vệ môi trường. Ở các nước khác thuế tài nguyên của họ thường rất cao, với kim loại quý hiếm còn cao hơn nữa. Nhưng ở Việt Nam lại ngược lại, vì vậy cần có sự điều chỉnh luật để đưa mức thuế tài nguyên này tăng lên, tăng nguồn thu ngân sách nhà nước. Các doanh nghiệp mua hệ thống xử lý chất thải ra môi trường thường bỏ ra chi khá cao, tuy nhiên việc tính mức phí bảo vệ môi trường lại khá thấp. Vì vậy, cần xây dựng tiêu chí để tính mức phí bảo vệ môi trường được chính xác, đầy đủ để mức phí này phải đảm bảo cao hơn chi phí vận hành máy móc, hệ thống xử lý chất thải gây ô nhiễm môi trường. Đồng thời, có những chính sách hỗ trợ, ưu đãi, khuyến khích các doanh nghiệp coi trọng việc bảo vệ môi trường lên hàng đầu. Bên cạnh đó, Nhà nước cần đưa ra các hình thức xử phạt nghiêm minh và năng tay đối với những cá nhân, tổ chức hoặc doanh nghiệp có hành vi không xử lý rác thải, đổ trực tiếp ra môi 771
- trường gây ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân quanh đó. Nhiều doanh nghiệp chỉ vì chạy theo mục tiêu lợi nhuận mà ko quan tâm đến việc xử lý rác thải cũng cần phải xử phạt nghiêm minh. Hiện nay, nhà nước ta chưa có những biện pháp, chế tài đủ mạnh để răn đe, trừng phạt những hành vi gây ô nhiễm môi trường. Thứ hai, công tác hoạch định chính sách tài khóa (thuế và chi ngân sách) cần phù hợp với chiến lược tăng trưởng xanh của quốc gia. Định hướng chính sách thuế khuyến khích sử dụng sản phẩm ít ô nhiễm môi trường; đồng thời kết hợp với việc hạn chế các biện pháp trợ giá, trợ cấp nhiên liệu hoá thạch (như xăng, dầu hoả, dầu mazut…) không cần thiết. Bên cạnh đó, cần nghiên cứu tính khả thi của các nguồn nhiên liệu thay thế, như nhiên liệu sinh học. Thứ ba, Nhà nước cần xây dựng các chính sách ưu đãi đặc biệt là các lĩnh vực liên quan đến thuế, phí, cho vay sao cho phù hợp. Đây là những biện pháp rất thiết thực cho các doanh nghiệp. Bởi với mức thuế áp dụng hiện nay còn khá thấp chưa đủ mạnh để răn đe và ngăn chặn các hành vi gây ô nhiễm môi trường. Hơn nữa, để đầu tư hệ thống xử lý chất thải đòi hỏi nguồn kinh phí không nhỏ nên nếu đi vay trực tiếp từ các ngân hàng thường sẽ phải chịu các mức lãi suất rất cao, do đó doanh nghiệp cần nhà nước hỗ trợ cho vay với mức lãi suất thấp để doanh nghiệp không bị áp lực lãi vay phải trả khi đầu tư dự án xanh này. Từ đó khuyến khích các doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư, đổi mới sang công nghệ xanh tạo động lực thúc đẩy sự cạnh tranh của chính doanh nghiệp trên thị trường. Thứ tư, hỗ trợ và tăng chi ngân sách cho các doanh nghiệp có ngành nghề sản xuất kinh doanh áp dụng năng lượng và công nghệ sạch. Khoản chi trên được Chính phủ sử dụng để hỗ trợ nghiên cứu, ứng dụng công nghệ sản xuất tiết kiệm tài nguyên, tiêu hao ít năng lượng, đồng thời đưa ra các chương trình hỗ trợ nhằm thúc đẩy từng khâu trong chu kỳ công nghệ, bao gồm cả khâu nghiên cứu và phát triển (R&D), thương mại hoá và tuyên truyền. Ngoài ra, cần khuyến khích các công ty đầu tư trực tiếp vào phát triển và triển khai những công nghệ mới, giảm công nghệ lạc hậu đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng công nghệ sạch thông qua các kênh như: chính sách thuế, văn bản pháp lý, thủ tục, cơ chế đầu tư thuận lợi. Với việc thực hiện đồng bộ, quyết liệt và linh hoạt nhiều giải pháp trên, trong thời gian tới Việt Nam mới có thể hoàn thành mục tiêu về tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững./. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ban chấp hành trung ương (2013), Nghị quyết số 24-NQ/TƯ Về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. 2. Kyoto University Japan, National Institute for Environmental Studies (2010), Primilimery study on sustainable low carbon development towards 2030 in Vietnam. 772
- 3. Ministry of Government Legislation, Korea (2010), Framework Act for Low Carbon, Green Growth. 4. UNTACD (2014), The World Investment Report. 5. UNEP (2011), Towards a Green Economy: Pathways to Sustainable Development and Poverty Eradication. 6. Thủ tướng Chính phủ (2012), Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011 - 2020 và tầm nhìn đến năm 2050 ban hành theo Quyết định số 1393/2012/QĐ-TTg ngày 25 tháng 9 năm 2012. 7. Thủ tướng Chính phủ (2014), Phê duyệt kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2014 - 2020 ban hành theo Quyết định số 403/2014/QĐ-TTg ngày 20 tháng 3 năm 2014. 773
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Hướng dẫn thực hiện cơ chế, chính sách tài chính phát triển kinh tế - xã hội vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn: Phần 2
354 p | 18 | 8
-
Hướng dẫn thực hiện cơ chế, chính sách tài chính phát triển kinh tế - xã hội vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn: Phần 1
46 p | 14 | 7
-
Cơ chế, chính sách tài chính hỗ trợ phát triển doanh nghiệp trong giai đoạn hiện nay: Phần 2
161 p | 11 | 6
-
Chính sách tài chính góp phần phát triển công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam: Phần 2
172 p | 13 | 6
-
Cơ chế, chính sách tài chính đối với công tác dạy nghề và tạo việc làm cho người lao động: Phần 2
146 p | 9 | 6
-
Cơ chế, chính sách tài chính đối với công tác dạy nghề và tạo việc làm cho người lao động: Phần 1
208 p | 11 | 6
-
Cơ chế, chính sách tài chính hỗ trợ phát triển doanh nghiệp trong giai đoạn hiện nay: Phần 1
263 p | 12 | 6
-
Hướng dẫn thực hiện cơ chế, chính sách tài chính đảm bảo an sinh xã hội: Phần 1
389 p | 10 | 6
-
Hoàn thiện cơ chế, chính sách tài chính cho huy động vốn của doanh nghiệp khởi nghiệp tại Việt Nam
4 p | 37 | 6
-
Chính sách tài chính hỗ trợ khởi nghiệp: Kinh nghiệm quốc tế và bài học với Việt Nam
5 p | 81 | 6
-
Một số gợi ý về chính sách tài chính hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo ở Việt Nam
3 p | 51 | 5
-
Cơ chế, chính sách tài chính hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp
4 p | 76 | 5
-
Cơ chế, chính sách tài chính liên quan đến quản lý và sử dụng đất đai: Phần 2
242 p | 10 | 5
-
Phát huy vai trò của chính sách thuế trong hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu
9 p | 5 | 3
-
Tìm hiểu một số chính sách phát triển, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tại thành phố Thái Nguyên hiện nay
6 p | 78 | 3
-
Chính sách tài chính và vấn đề tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp
4 p | 70 | 2
-
Vai trò của tài chính hỗ trợ doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong tình hình mới: Phần 1
287 p | 3 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn