VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
Bùi Quang Sơn
CHÍNH SÁCH THU HÚT LAO ĐỘNG CHUYÊN MÔN CAO NƯỚC
NGOÀI VÀO PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA MỘT SỐ NƯỚC
VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM
Chuyên ngành: Kinh tế Thế giới và Quan hệ Kinh tế Quốc tế
Mã số: 62.31.07.01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
Giáo viên hướng dẫn: 1. GS.TS. Nguyễn Thiết Sơn
2. TS. Vũ Bá Thể
HÀ NỘI - 2014
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
BÙI QUANG SƠN
CHÍNH SÁCH THU HÚT LAO ĐỘNG CHUYÊN MÔN CAO NƯỚC
NGOÀI VÀO PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA MỘT SỐ NƯỚC
VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM
Chuyên ngành : Kinh tế Thế giới và Quan hệ Kinh tế Quốc tế
Mã số : 62.31.07.01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
Giáo viên hướng dẫn: 1. GS.TS. Nguyễn Thiết Sơn
2. TS. Vũ Bá Thể
Hà Nội, 2014
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nghiên cứu nêu trong luận án là trung thực và chưa từng có ai
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận án
ii
MỤC LỤC
i ii iii v vi vii 1 10
Trang bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng Danh mục các hình MỞ ĐẦU Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHÍNH SÁCH THU HÚT LAO ĐỘNG CHUYÊN MÔN CAO NƯỚC NGOÀI 1.1.
10
1.1.1.
10
1.1.2. 1.1.3.
18 24
1.2.
29
1.2.1.
29
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CHÍNH SÁCH THU HÚT LAO ĐỘNG CHUYÊN MÔN CAO NƯỚC NGOÀI Những vấn đề lý luận về lao động chuyên môn cao và lao động chuyên môn cao nước ngoài Các chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài Tác động của lao động chuyên môn cao nước ngoài đối với nước tiếp nhận và nước gửi lao động ra nước ngoài CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA CHÍNH SÁCH THU HÚT LAO ĐỘNG CHUYÊN MÔN CAO NƯỚC NGOÀI Quá trình phát triển và đặc điểm di chuyển lao động chuyên môn cao nước ngoài trên thế giới Tác động của chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước
1.2.2.
33
ngoài đối với một số nước trên thế giới
39 40
TỔNG QUAN LAO ĐỘNG CHUYÊN MÔN CAO NƯỚC NGOÀI Ở
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 Chương 2: CHÍNH SÁCH THU HÚT LAO ĐỘNG CHUYÊN MÔN CAO NƯỚC NGOÀI TRÊN THẾ GIỚI: TRƯỜNG HỢP SINGAPORE VÀ TRUNG QUỐC 2.1.
40
KHU VỰC CHÂU Á
Thực trạng lao động chuyên môn cao nước ngoài ở khu vực châu Á
2.1.1.
40
Đánh giá chung về lao động chuyên môn cao nước ngoài ở khu vực
2.1.2.
44
châu Á
2.2.
CHÍNH SÁCH THU HÚT LAO ĐỘNG CHUYÊN MÔN CAO
50
iii
2.1.1.
50
2.1.2.
55
2.1.3.
66
2.2.
79
2.2.1.
79
2.2.2.
85
2.2.3.
92
2.3.
102
2.3.1.
102
2.3.2.
108
NƯỚC NGOÀI CỦA SINGAPORE Nguyên nhân dẫn tới việc thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài của Singapore Một số chính sách cơ bản để thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài của Singapore Tác động của chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài ở Singapore CHÍNH SÁCH THU HÚT LAO ĐỘNG CHUYÊN MÔN CAO NƯỚC NGOÀI CỦA TRUNG QUỐC Nguyên nhân dẫn tới việc thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài của Trung Quốc Một số chính sách cơ bản để thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài của Trung Quốc Tác động của chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài ở Trung Quốc SO SÁNH VÀ ĐÁNH GIÁ CHÍNH SÁCH THU HÚT LAO ĐỘNG CHUYÊN MÔN CAO NƯỚC NGOÀI CỦA SINGAPORE VÀ TRUNG QUỐC So sánh chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài của Singapore và Trung Quốc Đánh giá chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài của Singapore và Trung Quốc
118 120
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 Chương 3: CHÍNH SÁCH THU HÚT LAO ĐỘNG CHUYÊN MÔN CAO Ở VIỆT NAM, BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH QUA NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP SINGAPORE VÀ TRUNG QUỐC 3.1.
120
3.1.1. 3.1.2. 3.1.3. 3.2.
120 122 126 128
3.2.1.
128
CHÍNH SÁCH THU HÚT LAO ĐỘNG CHUYÊN MÔN CAO NƯỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM THỜI GIAN QUA Chính sách Một số kết quả ban đầu Những tồn tại và nguyên nhân BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH CHO VIỆT NAM QUA NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP SINGAPORE VÀ TRUNG QUỐC Những điểm tương đồng và khác biệt trong chính sách thu hút lao động chuyên môn cao ở Việt Nam so với Trung Quốc và Singapore
iv
3.2.2. 3.2.3.
134 140
3.2.4.
146
Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam Khuyến nghị chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài tại Việt Nam Các điều kiện cần thiết để áp dụng thành công bài học kinh ngiệm và thực hiện khuyến nghị chính sách tại Việt Nam
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO
148 149 151
v
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
APO
Tổ chức Năng suất Châu Á
ASEAN
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
EU
Liên minh Châu Âu
S$
Đô la Singapore
GDP
Tổng sản phẩm quốc nội
HDI
Chỉ số phát triển con người
ILO
Tổ chức lao động quốc tế
IMF
Quỹ tiền tệ quốc tế
ISCED
Tổ chức phân loại tiêu chuẩn quốc tế về giáo dục
ISCO
Phân loại tiêu chuẩn nghề nghiệp quốc tế
ODA
Viện trợ phát triển chính thức
OECD
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
OSU
Ủy ban người Singapore ở nước ngoài
PAP
Đảng Hành động Nhân dân
R&D
Nghiên cứu và triển khai
TFP
Năng suất lao động tổng nhân tố
UNESCO
Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa của Liên hợp quốc
USD
Đô la Mỹ
WB
Ngân hàng thế giới
WTO
Tổ chức thương mại thế giới
vi
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1.
Những nguyên nhân dẫn đến di chuyển lao động chuyên môn
13
cao trên thế giới
Bảng 1.2.
Nhân tố tác động đến di chuyển lao động chuyên môn cao theo
15
nhóm ngành nghề
Bảng 1.3.
Hệ thống thang điểm khác nhau đối với lao động nước ngoài
20
chuyên môn cao ở một số nước trên thế giới
Bảng 1.4.
Những tác động kinh tế của lao động chuyên môn cao nước
28
ngoài
Bảng 1.5.
Các ưu tiên chính sách và chiến lược của một số nước để thu
29
hút lao động chuyên môn cao nước ngoài
Bảng 1.6.
Tỷ lệ % lao động nước ngoài có trình độ đại học trở lên tính
32
theo quốc tịch và địa điểm tiếp nhận lao động, 1990 và 2000
Bảng 2.1.
Lao động nước ngoài ở các nước châu Á năm 2010-2011
42
Bảng 2.2.
Lao động nước ngoài trên thị trường lao động châu Á năm
43
2010 tính theo quốc tịch Kiều hối và tầm quan trọng đối với kinh tế của nước gửi lao
Bảng 2.3.
49
động ra nước ngoài
Bảng 2.4.
Dân số Singapore phân theo nhóm tuổi
54
Bảng 2.5.
Các cơ chế thẻ lao động áp dụng cho lao động chuyên môn cao
59
nước ngoài ở Singapore (áp dụng đến tháng 6/2010)
Bảng 2.6.
Những thay đổi về mức thuế áp dụng cho lao động nước ngoài
61
kể từ tháng 7 năm 2010
Bảng 2.7.
Những thay đổi đối với các loại thẻ lao động bắt đầu từ tháng
63
8/2011
Bảng 2.8.
Người nước ngoài ở Singapore phân theo quốc tịch
68
Bảng 2.9.
Lao động trong nước và lao động nước ngoài theo ngành ở
69
Singapore năm 2008
Bảng 2.10.
Lao động chuyên môn cao nước ngoài ở Singapore giai đoạn
70
2007-2012
vii
Bảng 2.11. Một số chỉ tiêu trong Đề cương nhân tài của Trung Quốc
86
Bảng 2.12. Mức thuế thu nhập của người nước ngoài ở Thượng Hải,
91
Trung Quốc
Bảng 2.13.
So sánh số sinh viên Trung Quốc ra nước ngoài học tập và trở
93
về nước làm việc, giai đoạn 1996-2010
Bảng 2.14.
Số sinh viên Trung Quốc ở nước ngoài phân theo lĩnh vực học
94
tập nghiên cứu và điểm đến, 1978-1999
Bảng 2.15.
Số lượng chuyên gia nước ngoài vào Trung Quốc giai đoạn
96
1992-1999
Bảng 2.16.
Lao động nước ngoài phân theo khu vực ở một số nước châu Á
105
năm 2010
Bảng 2.17.
Di chuyển lao động ở một số nước châu Á năm 2010
106
Bảng 3.1.
Số lượng và tỷ lệ cấp phép của lao động nước ngoài tại một số
124
tỉnh, thành phố năm 2009
Bảng 3.2.
Bước chuyển dân số ở một số nước châu Á
129
Phân loại mô hình di chuyển lao động của một số nước châu Á
130
Bảng 3.3.
viii
DANH MỤC HÌNH
Các nhân tố thuộc về môi trường chính sách quyết định việc
Hình 1.1.
18
lựa chọn điểm đến của lao động chuyên môn cao nước ngoài
Hình 1.2.
Tỷ lệ % lao động nước ngoài có trình độ giáo dục đại học trở
33
lên, năm 2000 và 2010
Hình 2.1.
Dòng lao động di chuyển trong khu vực Đông Nam Á
41
Hình 2.2.
Tỷ lệ sinh ở Singapore giai đoạn 1957-2001
53
Hình 2.3.
Tăng trưởng dân số Singapore trong giai đoạn 1970-2010
66
Hình 2.4.
Cơ cấu dân số Singapore giai đoạn 1970-2010
67
Hình 2.5.
Số lượng sinh viên Trung Quốc ra nước ngoài và trở về nước
95
làm việc, giai đoạn 1996-2011
Hình 2.6.
Sự suy giảm dân số trong độ tuổi lao động ở châu Á
103
Chỉ số hấp dẫn lao động chuyên môn cao nước ngoài
104
Hình 2.7.
ix
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Phát triển nguồn nhân lực là một trong những vấn đề quan trọng và luôn được ưu
tiên hàng đầu trong chính sách phát triển của mỗi quốc gia. Để phát triển nguồn nhân
lực có thể thực hiện theo hai cách, cách thứ nhất là thông qua giáo dục và đào tạo
nguồn nhân lực tại chỗ, cách thứ hai là thu hút đội ngũ lao động chuyên môn cao ở
nơi khác đến. Di chuyển lao động nước ngoài chuyên môn cao giữa các quốc gia
đang là một hiện tượng phổ biến trên thị trường do tác động của toàn cầu hóa, cuộc
cách mạng khoa học công nghệ và sự thiếu hụt cung cầu trên thị trường lao động
quốc tế. Tuy nhiên, di chuyển lao động quốc tế luôn có tính hai mặt, buộc các chính
phủ phải có những chính sách can thiệp của nhà nước để phát huy tính tích cực của
lực lượng lao động chuyên môn cao nước ngoài trên thế giới, đồng thời hạn chế
những tiêu cực nảy sinh. Hiện nay trên thế giới, nhiều quốc gia đã coi chính sách thu
hút lao động chuyên môn cao nước ngoài là một trong những chính sách hàng đầu để
đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế. Tại một số nước châu Á như Singapore, Trung
Quốc, lao động chuyên môn cao nước ngoài có những đóng góp quan trọng đối với
sự phát triển kinh tế, bổ sung sự thiếu hụt lao động chuyên môn cao trong nước,
đóng góp tích cực cho tăng trưởng kinh tế và năng suất lao động, góp phần tích cực
vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hình thành nền tảng công nghệ mới cho
quá trình công nghiệp hóa và tạo hiệu ứng tốt cho phát triển nguồn nhân lực trong
nước. Tuy nhiên, quản lý lao động chuyên môn cao nước ngoài đòi hỏi các nước
phải có những chiến lược bài bản, rõ ràng để tránh những tác động xấu đến nước tiếp
nhận, đặc biệt trong vấn đề giải quyết xung đột tranh chấp giữa lao động trong nước
và lao động nước ngoài, hạn chế tiếp nhận lao động không đúng kỹ năng và nhu cầu
của đất nước v.v…. Trung Quốc và Singapore là hai nước châu Á điển hình có
những điểm tương đồng và khác biệt trong chính sách thu hút lao động chuyên môn
cao, nhưng cả hai nước đều gặp hái được những kết quả tích cực trong phát triển
kinh tế do nguồn lao động chuyên môn cao nước ngoài mang lại.
Tại Việt Nam, chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài bắt đầu
được chú trọng từ năm 2003 đến nay, nhưng chưa đồng bộ và thống nhất. Những hạn
chế của các chính sách này còn nhiều, gây ra những khó khăn, vướng mắc trong thu
hút và quản lý lao động chuyên môn cao nước ngoài. Là một nước đông dân, Việt
Nam rất cần phải có hệ thống chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước
1
ngoài thống nhất, chặt chẽ để tránh những hệ lụy khó tháo gỡ trong việc quản lý lao
động nước ngoài, đặc biệt là lao động kỹ năng thấp nhập cư ngày càng nhiều vào
Việt Nam. Kinh nghiệm thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài của Singapore
và Trung Quốc là hết sức cần thiết trong điều kiện Việt Nam hiện nay bởi chúng ta
có thể học hỏi được cách thức quản lý lao động chuyên môn cao nước ngoài bài bản
(như ở Singapore – nước có dân số ít) và học hỏi được chính sách thu hút trí thức
ngoại kiều về nước làm việc (như ở Trung Quốc – nước có dân số đông). Với những
lý do đó và từ thực tiễn hiện nay đặt ra, đề tài “Chính sách thu hút lao động chuyên
môn cao nước ngoài vào phát triển kinh tế của một số nước và bài học cho Việt
Nam” là mang tính cấp thiết nhằm đánh giá những chính sách và tác động của chính
sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài ở một số nước và rút ra những bài
học kinh nghiệm quý báu cho Việt Nam trong việc hoạch định và thực thi chính sách
thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài trong thời gian tới. Đây cũng chính là
lý do cho việc lựa chọn đề tài nghiên cứu của luận án.
2. Tình hình nghiên cứu:
Nghiên cứu chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài là một
trong những chủ đề được nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước bàn đến, phần sau
đây tôi xin trình bày một số nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước.
2.1. Nghiên cứu trong nước:
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về chính sách thu hút lao
động chuyên môn cao nước ngoài còn rất ít và mới chỉ dừng ở giai đoạn nghiên cứu
ban đầu và mang tính tổng quan, phổ quát. Đây cũng là điều dễ hiểu bởi mảng đề tài
nghiên cứu về lao động chuyên môn cao nước ngoài mới được Việt Nam chú trọng
và nhấn mạnh kể từ đầu thập niên 2000 khi đất nước bắt đầu chuẩn bị thực thi chính
sách tuyển dụng lao động nước ngoài. Có thể kể đến một số tác phẩm tiêu biểu là:
- “Di chuyển lao động quốc tế”, tác giả Nguyễn Bình Giang (chủ biên), NXB
Khoa học xã hội, Hà nội 2011. Cuốn sách phân tích những vấn đề nổi bật trong di
chuyển lao động trên thế giới thập niên đầu thế kỷ XXI, những xu hướng cơ bản của
di chuyển lao động quốc tế, các chính sách mà các chính phủ thường sử dụng, những
tác động chủ yếu của di chuyển lao động quốc tế đối với nước tiếp nhận và nước gửi
lao động, xu hướng di chuyển quốc tế đến năm 2020. Tác phẩm này đem lại những
kiến thức cơ bản về dòng di chuyển lao động ra thế giới của nhiều quốc gia điển
hình. Tuy nhiên, thực trạng di chuyển lao động chuyên môn cao quốc tế không được
phân tích sâu và không đi vào những kinh nghiệm cụ thể.
2
- “Chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài của Trung
Quốc”, tác giả Lại Lâm Anh – Nguyễn Minh Phương, tạp chí Những vấn đề kinh tế
và chính trị thế giới, số 7/2010. Bài nghiên cứu này phân tích chính sách nhân tài của
Trung Quốc trong thu hút lao động chuyên môn cao người Hoa kiều về quê hương
làm việc, đặc biệt ở hai thành phố Bắc kinh và Thượng Hải. Tuy nhiên, bức tranh
tổng thể về Chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài của Trung
Quốc trong cả hai khía cạnh: thu hút lao động nước ngoài và thu hút lao động Hoa
Kiều chưa được làm rõ và chưa cập nhật tình hình.
- “Chiến lược nhân tài của Trung Quốc từ năm 1978 đến nay”, Nguyễn Thị
Thu Phương (chủ biên), Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009. Cuốn sách
góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề về khái niệm nhân tài và cơ sở hình thành chiến
lược nhân tài của Trung Quốc, đánh giá về thành tựu trong chiến lược nhân tài của
Trung Quốc từ năm 1978 đến nay và rút ra một số bài học kinh nghiệm cho chiến
lược phát triển nhân tài của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
- “Chính sách thu hút nhân tài của Singapore: bài bản và chuyên nghiệp”, tác
giả Hà Minh, đăng trên Dân trí ngày 24/1/2008. Bài viết phân tích những chính sách
tuyển dụng tài năng trong nước và ngoài nước của Singapore trong nhiều lĩnh vực
kinh tế, chính trị, xã hội, những đặc điểm cơ bản của chính sách. Tuy nhiên, các
chính sách cụ thể để thu hút nhân tài nước ngoài và tác động của các chính sách đó
đối với phát triển kinh tế Singapore chưa được đề cập đến.
- “Kinh nghiệm trọng dụng nhân tài để hình thành nền kinh tế tri thức của
một số quốc gia châu Á và những gợi ý cho Việt Nam”, tác giả Lê Thị Hồng Điệp,
Tạp chí Khoa học Đại học quốc gia Hà nội, số 25, năm 2009. Bài viết đã tổng kết
kinh nghiệm trong dụng nhân tài của một số quốc gia châu Á, trong đó có Singapore
và Trung Quốc, trong đó có những kinh nghiệm thu hút nhân tài nước ngoài của
Singapore bằng những ưu đãi và ràng buộc thông qua kênh giáo dục đại học của
Singapore và những kinh nghiệm trong thu hút Hoa kiều tài năng của Trung Quốc, từ
đó đề xuất 5 gợi ý cho Việt Nam trong thu hút và trọng dụng nhân tài.
Ngoài các tác phẩm, bài viết tiêu biểu kể trên, những công trình nghiên cứu
trong nước về kinh nghiệm thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài và bài học
rút ra cho Việt Nam còn rất thiếu vắng. Chỉ có thể kể tên một số bài viết trên báo chí
Việt Nam như: Văn Hòa (2005), Chính sách chiêu mộ nhân tài là Hoa Kiều của
Trung Quốc, Báo công an nhân dân, ngày 28/9, chuyên mục An ninh thế giới; HSBC
(2012), Các chuyên gia nước ngoài giàu có đổ về khu vực Đông Nam Á, Tin News
3
Release, ngày 10/11; Mai Lan (2011), Chuyên viên kỹ thuật ngày càng thiếu, Báo
Tuần Việt Nam, ngày 11/9; Vũ Nguyên (2010), Chuyên gia ở Bình Dương phải thuê
nhà ở Thành phố Hồ Chí Minh, Báo Sài gòn Tiếp thị, ngày 2/7….
2.2. Nghiên cứu ngoài nước:
Nghiên cứu ngoài nước về vấn đề liên quan để đề tài “Chính sách thu hút lao
động chuyên môn cao nước ngoài vào phát triển kinh tế của một số nước và bài học
cho Việt Nam” tương đối nhiều, mỗi tài liệu đề cập một nội dung cụ thể khác nhau.
Về cơ sở lý thuyết của đề tài, có thể kể đến một số công trình nghiên cứu như:
“Labour migration and risk aversion in less developed countries”, tác giả Katz và
Stark (1986), đăng trên Journal of labor economics, trang 131-149; “Economic
developement with unlimited supplies of labour”, tác giả Lewis w.Arthur (1954),
đăng trên The Manchester School of economic and social studies, trang 139-191;
“International mobility of highly skilled”, tác phẩm của OECD năm 2001. Những tác
phẩm này đã phân tích về những khái niệm và nguyên nhân xuất hiện di chuyển lao
động chuyên môn cao nước ngoài, những tác động cơ bản của dòng di chuyển này.
Tuy nhiên, các nội dung phân tích còn rời rạc, chưa mang tính hệ thống, chưa nêu
bật được vấn đề luận án cần quan tâm.
Về kinh nghiệm thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài, có thể kể đến
một số tác phẩm như: “International mobility of the highly skilled: the case between
Eurrope and Latin America”, tác giả Andres Solimano, Molly Pollack (2004) đăng
trên Working Papers, No 1, Santiago, Chile; “Foreign labour in Singapore: trends,
policies, impacts and challenges”, tác giả Chia Siow Yue (2011), đăng trên
Discussion paper series No 2011-2014, Philippine; “Singapore’s structural
dependence on foreign talent: causes and consequences”, tác giả Kris Terauds
(2008), đăng trên Graduate institute of international and development studies,
Geneva, Switzarland; “China’s competition for global talents: strategy, policy and
recommendations”, tác giả Huiyao Wang (2012), đăng trên Asia Pacific Foundation
of Canada, May 24; hoặc tác phẩm của McKinsey & Company (2005), Addressing
China’s looming talent shortage, McKinsey Global Institute, October….Những tác
phẩm nghiên cứu này phân tích những chính sách cơ bản mà các nước đang phát
triển thường sử dụng để thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài, đặc biệt là
Trung Quốc và Singapore, tác động của chính sách đó cả về mặt tích cực lẫn tiêu cực
đối với nước tiếp nhận. Đây là những tài liệu cơ bản để tác giả luận án có những luận
cứ và dữ liệu phân tích các chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài
4
của Trung Quốc và Singapore, từ đó rút ra kinh nghiệm và kiến nghị chính sách cho
Việt Nam.
2.3. Đánh giá chung về các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước:
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đây cả về mặt lý thuyết lẫn thực
tiễn đã giải quyết những vướng mắc về cơ sở lý luận, thực tiễn và kinh nghiệm một
số nước trong thực hiện chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài,
đặc biệt là ở Trung Quốc và Singapore. So với các công trình nghiên cứu ngoài
nước, thì các công trình nghiên cứu trong nước còn khá ít, mới chỉ dừng ở cung cấp
thông tin và những đánh giá bước đầu. Chưa có tác phẩm nghiên cứu nào đánh giá
hoàn thiện về hệ thống chính sách và tác động của hệ thống chính sách thu hút lao
động chuyên môn cao nước ngoài ở Trung Quốc và Singapore, vì vậy các kinh
nghiệm và các đề xuất kiến nghị chính sách không được phân tích đánh giá một cách
bài bản, hữu ích và khả năng áp dụng trên thực tế. Ngay trong mảng nghiên cứu
chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài ở Việt Nam cũng còn thiếu
vắng trong các công trình nghiên cứu trong nước, vì thế không phát hiện được toàn
diện những yếu kém của hệ thống chính sách này và những hệ lụy đối với phát triển
kinh tế xã hội ở Việt Nam.
Các công trình nghiên cứu ngoài nước tương đối phong phú, cung cấp những
thông tin, dữ liệu cần thiết cho luận án. Tuy nhiên, các công trình này được phân tích
ở nhiều quan điểm khác nhau, trong đó có cả những quan điểm của nước chủ nhà
thực hiện chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài, có các quan điểm
của các chuyên gia nước ngoài, các nhà đầu tư, doanh nghiệp trong nước v.v… Quan
điểm đa chiều, số liệu chưa cập nhật và hệ thống, hàm lượng phân tích về các bài học
rút ra cho các nước đang phát triển (trong đó có Việt Nam) không nhiều.
Từ việc tìm hiểu tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước có thể thấy, các
công trình nghiên cứu nói trên còn rời rạc, chưa hệ thống, chưa cập nhật, còn nhiều
khoảng trống về mặt lý luận và thực tiễn, chính sách và tình hình thực thi chính sách
thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài ở một số nước như Trung Quốc,
Singapore. Đặc biệt, từ trước tới nay, Việt Nam chưa có công trình nghiên cứu riêng
biệt, chuyên sâu nào về chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài ở
Singapore, Trung Quốc và rút ra bài học và kiến nghị chính sách cho Việt Nam. Do
vậy, đề tài của luận án là hoàn toàn mới và mang tính cấp thiết.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu:
5
Đề tài chủ yếu tập trung nghiên cứu chính sách thu hút lao động chuyên môn
cao nước ngoài của khu vực châu Á, điển hình là Singapore, Trung Quốc, Việt Nam.
Tác giả luận án lựa chọn khu vực châu Á là đối tượng nghiên cứu (chứ không
lựa chọn các nước khác trên thế giới) bởi vì Việt Nam là nước nằm trong khu vực
này, có sự tương đồng và phụ thuộc với nhiều nước châu Á về cơ cấu kinh tế, cơ cấu
xuất nhập khẩu, thị trường lao động, nên rất cần xem xét khu vực châu Á có những
chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài như thế nào để có thể rút ra
bài học kinh nghiệm. Tác giả luận án lựa chọn Trung Quốc và Singapore làm trường
hợp nghiên cứu điển hình là vì: Singapore là nước châu Á có hệ thống chính sách thu
hút lao động nước ngoài chuyên môn cao bài bản nhất châu Á, có thể học tập được
nhiều kinh nghiệm trong hoàn thiện chính sách cho Việt Nam; còn Trung Quốc có
nhiều điều kiện tương đồng với Việt Nam (dư thừa lao động, có lực lượng ngoại kiều
tri thức lớn ở nước ngoài, rất có nhu cầu thu hút lao động chuyên môn cao nước
ngoài…), vì vậy có thể học tập được kinh nghiệm của Trung Quốc trong thu hút
ngoại kiều trí thức về nước làm việc.
Việt Nam cũng là một đối tượng nghiên cứu của luận án nhằm mục đích so
sánh, đối chiếu và rút ra bài học kinh nghiệm sau khi nghiên cứu các trường hợp điển
hình ở châu Á là Trung Quốc và Singapore.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về thời gian: Luận án chủ yếu tập trung nghiên cứu trong giai đoạn từ năm
2000 đến nay. Cụ thể là:
+ Trung Quốc: Nhấn mạnh từ 2002 đến nay khi Trung Quốc thực
hiện Kế hoạch xây dựng nhân tài quốc gia.
+ Singapore: Nhấn mạnh giai đoạn từ sau năm 1998 đến nay khi
Singapore có những thay đổi trong cơ chế quản lý lao động nước ngoài.
+ Việt Nam: Nhấn mạnh từ năm 2008 khi Việt Nam thực hiện Nghị
định 34 về lao động chuyên môn cao nước ngoài
+ Về không gian: Luận án chỉ tập trung nghiên cứu chính sách thu hút lao
động chuyên môn cao nước ngoài ở Trung Quốc và Singapore qua ba khía cạnh:
nguyên nhân dẫn đến việc thực hiện chính sách, các chính sách cơ bản và tác động
của các chính sách đó. Luận án xin phép không nghiên cứu chính sách quản lý lao
động chuyên môn cao nước ngoài ở hai nước này và không nghiên cứu tác động đối
với nước gửi lao động chuyên môn cao ra nước ngoài.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
6
- Mục đích nghiên cứu:
Làm rõ các vấn đề lý luận cơ bản và thực tiễn trong chính sách thu hút lao
động chuyên môn cao trên thế giới, để từ đó xem xét kinh nghiệm thu hút lao động
chuyên môn cao của của một số nước, trong đó nhấn mạnh hai trường hợp điển hình
là Trung Quốc và Singapore. Phân tích các chính sách cơ bản trong thu hút lao động
chuyên môn cao của Trung Quốc và Singapore, những tác động của chính sách đó,
sự tương đồng khác biệt, thuận lợi khó khăn trong thu hút lao động chuyên môn cao
ở hai nước này, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm và kiến nghị chính sách cho
Việt Nam.
Nhiệm vụ nghiên cứu: -
Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là thực hiện được các công việc sau:
Thứ nhất, nghiên cứu, phân tích các vấn đề có tính lý luận về chính sách thu
hút lao động chuyên môn cao nước ngoài của một số nước trên thế giới và tác động
của chính sách đối với nước tiếp nhận lao động chuyên môn cao nước ngoài.
Thứ hai, nghiên cứu, phân tích, đánh giá chính sách thu hút lao động chuyên
môn cao của hai nước điển hình là Trung Quốc và Singapore. So sánh hai mô hình
thu hút lao động chuyên môn cao của Trung Quốc và Singapore để thấy rõ điểm
tương đồng, khác biệt và nguyên nhân của nó. Phân tích kết quả và hạn chế của
chính sách thu hút lao động chuyên môn cao của hai nước điển hình là Trung Quốc
và Singapore.
Thứ ba, phân tích chính sách và kết quả thu hút lao động chuyên môn cao của
Việt Nam trong thời gian qua, ưu điểm và hạn chế của chính sách thu hút lao động
chuyên môn cao của Việt Nam và nguyên nhân của nó.
Thứ tư, từ thực tiễn của Trung Quốc và Singapore, kết hợp với tình hình thực
tiễn trong thu hút lao động chuyên môn cao của Việt Nam, luận án đưa ra các bài
học kinh nghiệm trong chính sách thu hút lao động chuyên môn cao của Trung Quốc
và Singapore, cả bài học thành công lẫn không thanh công để từ đó nêu các giải pháp
có tính khuyến nghị trong chính sách thu hút lao động chuyên môn cho Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài dự kiến sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:
(i) Các phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử, và các
phương chung trong nghiên cứu khoa học xã hội, trong kinh tế học, phương pháp
trừu tượng hoá khoa học....
(ii) Các phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp.
7
(iii)Phương pháp so sánh để làm rõ hơn về chính sách thu hút lao động
chuyên môn cao ở các nước trên thế thế giới cũng như so sánh với Việt Nam, để đưa
ra các dự báo và làm rõ hơn đặc điểm, bản chất, nội dụng nghiên cứu.
(iv) Luận án sử dụng phương pháp Swot (phân tích điểm mạnh, điểm yếu)
trong chính sách của Trung Quốc và Singapore
(v) Luận án sử dụng phương pháp nghiên cứu diện (rộng) và không gian
nghiên cứu điểm (trường hợp điển hình: Trung Quốc, Singapore).
+ Ở phương pháp nghiên cứu diện, tác giả luận án chủ yếu phân tích những
ưu tiên chính sách và chiến lược của một số nước trên thế giới trong thu hút lao động
chuyên môn cao nước ngoài (Mỹ, EU, Nhật Bản, một số nước châu Á), từ đó phân
tích tình hình lao động chuyên môn cao nước ngoài ở một số nước châu Á trong thời
gian vừa qua, những nhân tố dẫn đến di chuyển lao động chuyên môn cao nước
ngoài ở một số nước châu Á và một số tác động cơ bản đối với nước châu Á tiếp
nhận lao động chuyên môn cao nước ngoài.
+ Ở phương pháp nghiên cứu điểm, tác giả luận án tập trung nghiên cứu
chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài ở Singapore và Trung Quốc
và những tác động đối với Trung Quốc và Singapore;
6. Những đóng góp khoa học của luận án:
Luận án có những đóng góp khoa học sau đây:
- Khái quát và hệ thống hóa những vấn đề lý luận về di chuyển lao động
chuyên môn cao quốc tế, phân biệt rõ lao động chuyên môn cao và lao động phổ
thông; hệ thống chính sách biện pháp chủ yếu để thu hút lao động chuyên môn cao
quốc tế; những tác động chủ yếu (tích cực và tiêu cực) của dòng lao động chuyên
môn cao nước ngoài đối với nước tiếp nhận lao động. Đúc rút một số xu hướng và
đặc điểm của dòng lao động chuyên môn cao trên thế giới hiện nay.
- Đánh giá khách quan, khoa học và phát hiện ra các vấn đề cần giải quyết
trong chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài của Trung Quốc và
Singapore, có sự so sánh hiệu quả, hạn chế của hai mô hình này.
- Rút ra những bài học kinh nghiệm hữu ích cho Việt Nam (cả bài học thành
công và bài học thất bại), từ đó nêu những kiến nghị quan điểm, chính sách, biện
pháp cho Việt Nam nhằm thu hút hiệu quả dòng lao động chuyên môn cao nước
ngoài trong tương lai.
7. Kết cấu luận án:
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận án gồm 3 chương:
8
Chương 1: Nêu những vấn đề lý luận cơ bản và thực tiễn về chính sách thu
hút lao động chuyên môn cao nước ngoài.
Chương 2:Trình bày chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài
của Trung Quốc và Singapore.
Chương 3: Nêu bài học kinh nghiệm trong Chính sách thu hút lao động
chuyên môn cao của thế giới, đặc biệt của Trung Quốc và Singapore, và khuyến nghị
chính sách cho Việt Nam.
9
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHÍNH SÁCH THU HÚT LAO
ĐỘNG CHUYÊN MÔN CAO NƯỚC NGOÀI
1. 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CHÍNH SÁCH THU HÚT LAO ĐỘNG CHUYÊN
MÔN CAO NƯỚC NGOÀI
1.1.1. Những vấn đề lý luận về lao động chuyên môn cao và lao động
chuyên môn cao nước ngoài
1.1.1.1. Khái niệm
- Chuyên môn:
Theo từ điển tiếng Việt, chuyên môn là lĩnh vực kiến thức riêng của một ngành
khoa học, kỹ thuật.
- Lao động chuyên môn:
Có rất nhiều định nghĩa liên quan đến lao động chuyên môn của các tổ chức
quốc tế. OECD cho rằng lao động chuyên môn là lao động có kỹ năng. Theo định
nghĩa của OECD (2001), lao động kỹ năng là những người có kỹ năng làm việc cho
những lĩnh vực nhất định trên thị trường lao động. Nhìn chung, lao động kỹ năng
phản ánh trình độ nguồn nhân lực trên thị trường lao động. Lao động kỹ năng cao
đồng nghĩa với phát triển nguồn nhân lực. Kỹ năng được phản ánh rất đa dạng, từ
những việc làm đòi hỏi một nhóm người để hoàn thành một nhiệm vụ được giao liên
quan đến các công việc cần sự phối hợp bằng tay và mắt, sự khéo léo và sức mạnh,
đến các công việc liên quan đến kỹ năng nhận thức (phân tích, tổng hợp, kỹ năng
toán học, kỹ năng nói...) và kỹ năng phối hợp (lãnh đạo, tư vấn...)[77].
Tổ chức phân loại tiêu chuẩn quốc tế về giáo dục (ISCED – International
standard classification of education,1997), thuộc UNESCO cho rằng lao động
chuyên môn là lao động phải qua đào tạo. Lao động có chất lượng phản ánh trình độ
nhất định về giáo dục hoặc bằng cấp chính thức của một cá nhân trên thị trường lao
động [49].
Từ các định nghĩa trên, có thể đưa ra khái niệm như sau: Lao động chuyên
môn là những lao động thực hiện các công việc chuyên môn, phải qua đào tạo. Lao
động chuyên môn là những công việc đòi hỏi phải được thực hiện bởi chỉ một loại
10
lực lượng lao động có kỹ năng làm việc đặc thù, chuyên nghiệp, đã được đào tạo
nhằm đáp ứng được việc thực hiện các công việc đó.
- Lao động chuyên môn cao:
Lao động chuyên môn cao những lao động được đào tạo chuyên sâu, có kinh
nghiệm thực hành, đầy đủ năng lực và kỹ năng làm việc trong một lĩnh vực cụ thể.
Người được công nhận là lao động chuyên môn cao thường phải trải qua các khóa
huấn luyện, đào tạo chuyên biệt, bao gồm các nhà quản lý, quản trị doanh nghiệp,
chuyên gia tư vấn, các doanh nhân, các giáo sư, các nhà khoa học, những người đã
tốt nghiệp đại học trở lên ở nhiều chuyên ngành khoa học kỹ thuật, có chuyên môn
cao, có nghiệp vụ kỹ thuật cao, hoặc những người lao động có kỹ năng lao động giỏi
hoặc đã được chuyên môn hóa, có khả năng hòa nhập và thích ứng với những thay
đổi của xã hội, của khoa học công nghệ, tham gia lao động có hiệu quả cao, có khả
năng đóng góp cho sự phát triển của các tổ chức và toàn xã hội.
- Lao động chuyên môn cao nước ngoài:
Lao động chuyên môn cao nước ngoài là những lao động chuyên môn cao, có
khả năng di chuyển lao động trên thị trường lao động trong nước từ các tổ chức quốc
tế hoặc các công ty xuyên quốc gia, hoặc tìm kiếm việc làm trên thị trường lao động
quốc tế. Các nước tiếp nhận đều hoan nghênh những lao động chuyên môn cao nước
ngoài và có những chương trình khuyến khích thu hút lao động chuyên môn cao
tham gia thị trường trong nước.
Như vậy, lao động nước ngoài chuyên môn cao là một khái niệm rộng liên
quan đến cả nền tảng giáo dục và cơ sở nghề nghiệp của người lao động. Khái niệm
này chưa được định nghĩa theo tính chất quốc tế, mà chỉ theo những tiêu chí và quy
ước của các tổ chức như OECD, UNESCO và EU.
Có thể phân lao động chuyên môn cao nước ngoài theo ba loại sau:
+) Lao động chuyên môn cao nước ngoài trực tiếp tham gia các lĩnh vực sản
xuất: bao gồm các doanh nhân, kỹ sư, chuyên gia kỹ thuật, sáng chế kỹ thuật, sáng
tạo kinh doanh. Họ là những người trực tiếp tham gia các lĩnh vực sản xuất và có tác
động trực tiếp đến sản xuất hàng hóa và dịch vụ.
+) Lao động nước ngoài diện chuyên gia học thuật: bao gồm các nhà khoa học,
các học giả, các sinh viên quốc tế. Những cá nhân này thường làm việc trong các
trường đại học, các viện nghiên cứu, các phòng thí nghiệm...Họ không tham gia trực
11
tiếp sản xuất nhưng lại có khả năng chuyển giao các kết quả nghiên cứu theo hướng
thương mại hóa, hoặc làm tăng giá trị sản phẩm.
+) Lao động chuyên môn cao nước ngoài trong các ngành văn hóa và xã hội:
bao gồm các bác sĩ, y sĩ, nhà văn, họa sĩ, nhạc sĩ v.v...Họ liên quan trực tiếp đến hoạt
động của ngành chăm sóc sức khỏe, y tế, hoặc sáng tạo, gìn giữ bản sắc văn hóa.
1.1.1.2. Nguyên nhân dẫn đến di chuyển lao động nước ngoài chuyên môn cao
Di chuyển lao động nước ngoài chuyên môn cao được tuân thủ theo những
nguyên tắc nhất định của thị trường lao động quốc tế, trong đó cung và cầu lao động
chuyên môn cao trên thị trường lao động quốc tế là những nguyên nhân mang tính
chất quyết định. Di chuyển lao động chuyên môn cao là một hiện tượng bình thường,
và ngày càng xảy ra thường xuyên hơn của thị trường lao động. Nền kinh tế càng
phát triển, hiện tượng này càng phổ biến, và là điều kiện không thể thiếu của sự phát
triển lành mạnh. Những người lao động tri thức là những người có tính di động rất
cao. Muốn đẩy nhanh sự phát triển kinh tế-xã hội và xây dựng nền kinh tế tri thức,
thì các quốc gia phải khôn ngoan đối mặt với hiện tượng di chuyển của những người
lao động nói chung và người lao động tri thức nói riêng, có chính sách "trọng dụng"
họ, tạo mọi điều kiện (về vật chất và tinh thần) để họ làm việc có hiệu quả. Theo các
chuyên gia kinh tế, có 3 nhóm nguyên nhân cơ bản sau dẫn đến sự di chuyển lao
động chuyên môn cao quốc tế:
a. Nguyên nhân thuộc nguồn cung lao động chuyên môn nước ngoài:
Lý thuyết kinh tế học vĩ mô tân cổ điển đã giải nghĩa di chuyển lao động quốc
tế trong tiến trình phát triển kinh tế (Lewis 1954 [57], Ranis và Fei 1961[68], Todaro
1976 [69]). Các tác giả đưa ra giả định với những nước có trình độ phát triển gần
như nhau. Theo các lý thuyết này, di chuyển lao động quốc tế là do có sự khác biệt
địa lý về nguồn cung và nguồn cầu lao động. Các nước có nguồn cung lao động dồi
dào thường có mức lương trung bình thấp, trong khi các nước có nguồn cung lao
động khan hiếm thường có mức lương trung bình cao hơn. Sự khác biệt về lương đã
khiến lao động ở những nước có mức lương thấp di chuyển đến nước có mức lương
cao hơn.
Lý thuyết kinh tế học vi mô tân cổ điển lại giải thích di chuyển lao động quốc
tế dựa trên hành vi lựa chọn của mỗi cá nhân. Theo các lý thuyết vi mô (Sjaastad
1962[71], Todaro 1969, 1976, 1989, Todaro và Maruszko 1987), di chuyển lao động
12
quốc tế được quan niệm là một hình thức đầu tư nguồn nhân lực. Con người sẽ lựa
chọn đến những địa điểm lao động có thể cho năng suất cao nhất, thể hiện được kỹ
năng của họ tốt nhất; nhưng trước khi di chuyển họ cần phải đầu tư nhất định cho
giáo dục, nghề nghiệp, văn hóa, ngoại ngữ để thích ứng với thị trường lao động mới.
Như vậy, nhân tố quyết định nguồn cung lao động là sự khác biệt về mức
lương và các cơ hội thu nhập giữa các nước và các khu vực, khiến người lao động di
chuyển từ nước này đến nước khác. Nhìn chung, con người không thể giữ được thái
độ trung lập trước sự khác biệt lớn về thu nhập giữa các thành phố, giữa các ngành
kinh tế, giữa các quốc gia, và điều đó dẫn đến di chuyển lao động quốc tế. Động cơ
dẫn đến việc di chuyển lao động chuyên môn cao cũng không nằm ngoài xu hướng
trên, ngay cả trong những lao động chuyên môn làm việc trực tiếp trong lĩnh vực sản
xuất, cũng như những lao động làm việc trong các lĩnh vực văn hóa, xã hội, hay học
thuật. Chẳng hạn, nếu như nhà thiết kế phần mềm ở một nước đang phát triển nhận
được mức thu nhập tương xứng và ngang bằng với các nhà thiết kế phần mềm khác
trên thế giới, xu hướng di chuyển lao động quốc tế chuyên môn cao sẽ không xảy ra.
Nhưng khi chênh lệch về lương và các cơ hội thu nhập xảy ra, các nhà lao động
chuyên môn cao sẽ có động cơ di chuyển sang các nước trả lương cao hơn. Nhìn
chung, di chuyển lao động quốc tế đối với lao động chuyên môn cao phụ thuộc phần
lớn vào sự khác biệt thu nhập giữa trong nước và nước ngoài. Điều này cũng dẫn đến
sự khác biệt lớn giữa mức sống và năng suất tiềm năng giữa các nước. Các lao động
chuyên môn cao thường có xu hướng dịch chuyển từ các nước có trình độ phát triển
kinh tế thấp, sang nước có trình độ phát triển kinh tế cao hơn. Khoảng cách phát
triển giữa các nước phản ánh sự khác biệt về thu nhập bình quân đầu người và mức
sống giữa các quốc gia. Tại các nước có thu nhập thấp và trung bình, lao động có
chuyên môn cao thường có thu nhập và điều kiện sống thấp, không được ưu đãi và
khuyến khích hấp dẫn như ở nước ngoài. Chính vì vậy, nguồn cung lao động chuyên
môn cao trên thế giới có xu hướng gia tăng.
Bảng 1.1. Những nguyên nhân dẫn đến di chuyển lao động chuyên môn
cao trên thế giới
trong chi
Nhân tố đẩy (phía cung) 1. Mức chênh trả lệch lương/thu nhập lao động chuyên môn cao quốc tế Nhân tố kéo (phía cầu) 1. Thiếu lao động chuyên môn cao ở nước chủ nhà trong một số lĩnh vực 2. Sử dụng lao động chuyên môn cao
13
2. Cơ hội việc làm và triển vọng nghề nghiệp 3. Thiếu dịch vụ bảo hiểm và cơ chế quản lý rủi ro 4. Rủi ro chính trị, xã hội và sức khỏe tinh thần 5. Vì lợi ích gia đình
nước ngoài với tiền lương/thu nhập thấp hơn 3. Chính sách thu hút nguồn nhân lực chuyên môn cao ở nước chủ nhà 4. Tự do về kinh tế, chính trị 5. An sinh xã hội và bảo hiểm đầy đủ từ nước chủ nhà 6. Luật đối với lao động di cư cởi mở Nguồn: OECD (2001), International mobility of highly skilled, OECD
Publication, France , trang 86.
Ngoài vấn đề về lương, nguồn cung lao động chuyên môn cao trên thế giới còn
do những nguyên nhân khác. Nhiều lao động chất lượng cao muốn di chuyển ra nước
ngoài vì những lý do cá nhân, như thích cuộc sống độc lập không gắn bó với gia đình
hoặc quá mệt mỏi với môi trường trong nước. Ngoài vấn đề lương và thu nhập, lao
động chuyên môn cao muốn di chuyển ra nước ngoài bởi ở đó môi trường làm việc
ưu đãi, khuyến khích nhân tài, khuyến khích họ làm việc và cống hiến một cách công
bằng, tránh được những rủi ro về kinh tế, sức khỏe và tinh thần như ở trong nước. Lý
thuyết kinh tế học về di cư (economics of migration) với các lý thuyết gia nổi tiếng
như Stark và Levhari (1982 [72], Katz và Stark (1986) [53] cho rằng quyết định di
cư của một cá nhân không chỉ do chính cá nhân người đó đưa ra mà còn do những
người trong gia đình anh ta làm ảnh hưởng, không chỉ vì lý do nâng cao thu nhập,
mà còn nhằm tránh những rủi ro và sức ép do khuyết tật thị trường mang lại. Chẳng
hạn, ở các nước phát triển, rủi ro về thu nhập đối với hộ gia đình là rất thấp bởi chính
phủ thực hiện các chương trình bảo hiểm thất nghiệp và an sinh xã hội của chính
phủ, nhưng ở các nước đang phát triển, các cơ chế này còn thiếu, yếu kém và ở mức
thấp. Nhìn chung, động cơ khuyến khích lao động chuyên môn cao di chuyển ra
nước ngoài rất đa dạng và họ có được môi trường bên ngoài ưu đãi hơn so với lao
động kỹ năng thấp hoặc lao động phổ thông.
b. Nguyên nhân thuộc nguồn cầu lao động chuyên môn nước ngoài:
Lý thuyết thị trường lao động cho rằng, di chuyển lao động quốc tế xuất phát
từ nguyên nhân về cầu dài hạn về lao động nước ngoài nhập cư để bù đắp cho những
vấn đề cơ cấu kinh tế của các nước phát triển. Theo Piore (1979) [67], di chuyển lao
động quốc tế không chỉ do nhân tố đẩy từ các nước gửi lao động ra nước ngoài
(lương thấp, thất nghiệp cao), mà còn do nhân tố kéo ở các nước tiếp nhập lao động
14
(nhu cầu không thể tránh khỏi về lao động nước ngoài). Các lý thuyết gia thuộc
trường phái thị trường lao động cho rằng, tiền lương không chỉ phản ánh các điều
kiện cung và cầu lao động, mà nó còn phản ánh địa vị và uy tín, công bằng xã hội.
Nhìn chung, người lao động thường có thái độ cho rằng lương cần phản ánh địa vị xã
hội, vì vậy họ thường có nhu cầu đòi mức lương cao hơn cho tương xứng với nghề
nghiệp của họ. Kết quả là, chủ doanh nghiệp thường không đáp ứng đầy đủ các nhu
cầu tăng lương của người lao động. Họ có xu hướng đi tìm những lao động nước
ngoài để cân đối quỹ lương và cân bằng nhu cầu tăng lương của người lao động
trong nước.
Di chuyển lao động chuyên môn cao quốc tế là hậu quả của sự khan hiếm lao
động chuyên môn cao của nước nhận lao động. Sự khan hiếm lao động chuyên môn
cao được phản ánh thông qua việc trả lương cho lao động có chuyên môn cao hơn
mức thu nhập của lao động trong nước. Lao động có chuyên môn cao thường tham
gia vào các ngành công nghiệp có kỹ năng cao (high – tech), vào việc quản lý các
doanh nghiệp đa quốc gia (MNEs) và tham gia vào các ngành khoa học công nghệ,
các ngành công nghiệp tri thức toàn cầu. Di chuyển lao động chuyên môn cao được
đặc trưng bởi “cầu kéo” (demand – pull) từ phía các nước nhận lao động. Các chính
sách di chuyển lao động của nước nhận lao động phản ánh sự thiếu hụt của thị
trường lao động trong nước. Kết hợp cùng với những tác động của sự chọn lựa từ
phía cung (nước gửi lao động), điều này sẽ dẫn đến tỉ lệ di chuyển vốn nhân lực có
chuyên môn cao từ các nước đang phát triển tới các nước phát triển.
Bảng 1.2. Nhân tố tác động đến di chuyển lao động chuyên môn cao theo
nhóm ngành nghề
Nhân tố chính tác động đến sự di chuyển lao động
Theo nhóm ngành nghề Nhà quản lý, quản trị doanh nghiệp Kỹ sư, kỹ thuật viên cao cấp
Giáo sư, các nhà khoa học Các doanh nhân
Sự hợp nhất và kiểm soát quá trình đầu tư trực tiếp nước ngoài Cơ hội kinh tế ở nước tiếp nhận lao động Chính sách di chuyển lao động Các hoạt động nghiên cứu và phát triển Các nhân tố riêng khác Cơ chế hoạt động nghiên cứu và phát triển Di chuyển quốc tế giữa các viện hàn lâm khoa học Các điều kiện và cơ hội thuận lợi để phát triển kinh tế Di cư và những chính sách thuế khóa Thị trường vốn và lợi ích của đầu cơ vốn
15
Thạc sĩ, tiến sĩ
Cơ hội nghiên cứu và phát triển sau tiến sĩ Sự ủng hộ, trợ cấp về tài chính Chính sách di chuyển lao động Nguồn: Nguyễn Bình Giang (2011), Di chuyển lao động quốc tế, NXB Khoa
học xã hội, Hà Nội.
Di chuyển lao động chuyên môn cao quốc tế một phần lớn là do chính sách
thu hút nguồn nhân lực chuyên môn cao của các nước phát triển. Các nước phát triển
luôn có những điều kiện làm việc tốt hơn, cơ chế ưu đãi hơn đối với lao động chuyên
môn cao, đặc biệt là lương, thưởng, bảo hiểm, nhà cửa và nhiều tiện nghi khác. Tại
các nước đang phát triển, do thiếu thốn vốn và không đủ năng lực để phát triển khoa
học công nghệ, do vậy lao động chuyên môn cao thường phải làm việc trong điều
kiện vất vả, thu nhập thấp và mọi cơ chế chính sách không được phát huy để khai
thác hết tiềm năng của đội ngũ lao động chuyên môn cao. Chênh lệnh về lương, thu
nhập, chế độ đãi ngộ, bảo hiểm… giữa các nước phát triển và các nước đang phát
triển là nguyên nhân thúc đẩy lao động có chuyên môn di chuyển ra nước ngoài.
Ngoài ra, lao động chuyên môn cao nước ngoài còn được thúc đẩy bởi các cơ
chế quản lý rủi ro và dịch vụ bảo hiểm ở nước tiếp nhận. Ở các nước phát triển, các
rủi ro nghề nghiệp, rủi ro trong đầu tư mạo hiểm đều được tối thiểu hóa thông qua thị
trường bảo hiểm của tư nhân và chính phủ. Các chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực
công nghệ cao hoặc y tế ở các nước phát triển đều được bảo hiểm rủi ro, đặc biệt
trong môi trường làm việc với cường độ cao và mức độ rủi ro lớn. Bảo hiểm trách
nhiệm nghề nghiệp là một việc làm hết sức cần thiết để bảo vệ quyền lợi hợp pháp
cho lao động chuyên môn cao và điều này được thực hiện ở hầu hết các quốc gia
phát triển. Ở các nước đang phát triển, cơ chế quản lý rủi ro không hoàn hảo, người
lao động khó có khả năng tiếp cận được thị trường bảo hiểm. Do vậy, người lao động
có xu hướng di chuyển về thị trường lao động có bảo hiểm để tối đa hóa nguồn thu
nhập và tối thiểu hóa những mất mát, rủi ro. Những lao động tri thức, có chuyên môn
cao hơn ai hết lại là những người nhận thức rõ điều này. Và do những hạn chế, yếu
kém trong cơ chế, chính sách ở các nước đang phát triển đã tạo ra dòng di chuyển lao
động quốc tế mạnh mẽ.
c. Nguyên nhân thuộc về môi trường quốc tế
Môi trường quốc tế cũng có những ảnh hưởng quan trọng đối với di chuyển lao
động chất lượng cao trên toàn cầu. Di chuyển lao động chuyên môn cao quốc tế là do
16
kết quả của quá trình toàn cầu hóa. Quá trình toàn cầu hóa là một xu thế khách quan,
khiến các nước có nhiều cơ hội tiếp nhận nguồn vốn, công nghệ và việc làm, nhưng
cũng có xu hướng làm tăng chênh lệch thu nhập giữa các quốc gia do khả năng tiếp
nhận các cơ hội của toàn cầu hóa là khác nhau, dẫn đến trình độ phát triển không đều
về kinh tế và xã hội giữa các nước trên thế giới. Quá trình toàn cầu hóa và những
chính sách di cư chọn lựa ngày càng tạo điều kiện thuận lợi cho việc di chuyển lao
động có chuyên môn cao quốc tế. Toàn cầu hóa đi kèm với nền kinh tế tri thức khiến
tri thức và công nghệ trở thành yếu tố quyết định đến sự phát triển của một quốc gia.
Biên giới phẳng giữa các nước do toàn cầu hóa mang lại khiến việc di chuyển lao
động giữa các quốc gia ngày càng thuận tiện hơn, trong đó lao động càng có trình độ
chuyên môn cao càng có xu hướng di cư nhiều.
Cuộc cách mạng công nghệ thông tin và viễn thông trong những thập kỷ gần
đây khiến mức cầu về lao động chuyên môn cao ngày càng tăng. Kỹ sư, người lập
chương trình phần mềm tin học, nhà khoa học và những lao động chuyên môn cao
khác trong lĩnh vực thông tin và viễn thông trở nên rất có giá trị. Hơn thế, các công
ty xuyên quốc gia hiện nay đang là chủ thể đầu tư chủ yếu trên thế giới và sự phát
triển mở rộng của các công ty này kéo theo nhu cầu về đội ngũ lao động chuyên môn
cao di chuyển ra nước ngoài làm việc.
Toàn cầu hóa và cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang là một xu thế
khách quan, tạo ra động lực cạnh tranh gay gắt trong thu hút lao động chuyên môn
cao trên toàn thế giới. Ở cấp độ quốc tế, hiện nay chưa có cơ chế toàn cầu nào được
thành lập để tạo điều kiện cho lao động chuyên môn cao di chuyển trên toàn cầu và
cũng chưa có cơ chế nào thích ứng với cung và cầu lao động chuyên môn cao trên
thế giới. Vấn đề lao động chuyên môn cao nước ngoài đang trở thành mối quan tâm
trên toàn cầu, cả ở nước công nghiệp phát triển và các nước đang phát triển. Di
chuyển lao động chuyên môn cao nước ngoài hiện nay được tạo điều kiện thuận lợi
thông qua các công ước của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) và những kiến nghị của
ILO hướng tới đảm bảo quyền lợi cho người lao động. Các công ước liên quan đến
lao động nước ngoài của ILO có thể kể đến là Công ước 97 (1949) và Công ước 143
(1975); Ngoài ILO, còn có một số tổ chức khác như Tổ chức di cư quốc tế, Ủy ban
toàn cầu về di trú quốc tế (thành lập năm 2003), Diễn đàn toàn cầu về lao động di trú
và phát triển (2007, 2008).... Ở cấp khu vực, có thể kể đến một số thỏa thuận liên
17
quan đến lao động chuyên môn cao nước ngoài như: thỏa thuận đa phương về việc
công nhận bằng cấp (như UNESCO, OECD, EU), quản trị di chuyển lao động di
chuyển tự do (như EU) hoặc tạo điều kiện cho việc di chuyển lao động kỹ năng
(cộng đồng các quốc gia Caribe).... Ở cấp song phương, các thỏa thuận lao động
song phương ngày càng được ký kết nhiều hơn, tạo điều kiện thuận lợi và đảm bảo
lợi ích cho lao động chuyên môn cao nước ngoài.
1.1.2. Các chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài
Để thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài, cần phải tạo ra môi trường
chính sách hấp dẫn ở trong nước. Lực lượng lao động chuyên môn cao nước ngoài
luôn tìm kiếm các điểm đến hấp dẫn để nhập cư, hay nói cách khác là chính môi
trường trong nước là điều kiện quyết định dòng di cư lao động chuyên môn cao quốc
tế. Môi trường chính sách hấp dẫn lao động chuyên môn cao nước ngoài được thể
hiện qua mô hình sau đây:
Hình 1.1. Các nhân tố thuộc về môi trường chính sách quyết định việc lựa
chọn điểm đến của lao động chuyên môn cao nước ngoài
Nguồn: Demetrios G.Papadenetriou, Madeleine Sumption (2012), Attracting
and Selecting from the Global Talent Pool – Policy Challenges, Migration Policy
Institute, BertelsmannStiftung.
18
Như vậy, từ động cơ lựa chọn điểm đến của lực lượng lao động chuyên môn
cao, có thể thấy môi trường kinh tế - xã hội ở nước tiếp nhận lao động chuyên môn
cao đóng vai trò quan trọng. Môi trường này bao gồm các cơ hội sẵn có cho lao động
chuyên môn cao bằng nhiều hình thức khác nhau. Lực lượng lao động chuyên môn
cao thường có nhu cầu tiếp tục đầu tư phát triển kỹ năng của họ, bởi vậy nước thu
hút lao động chuyên môn cao cần phải tạo điều kiện để họ tiếp tục học tập, nghiên
cứu, triển khai các dự án, xây dựng các phòng thì nghiệm, các trung tâm công nghệ
cao và tạo dựng môi trường đầu tư mạo hiểm cho họ. Ngoài ra, môi trường kinh tế -
xã hội trong nước cũng là một điều kiện quan trọng để hấp dẫn lao động chuyên môn
cao, bao gồm mô hình xã hội của nước tiếp nhận lao động, cách sống, môi trường
sống và sự an toàn của xã hội. Chẳng hạn, một nước có hệ thống an sinh xã hội tốt
(chăm sóc sức khỏe, y tế, chăm sóc trẻ em, bảo trợ gia đình, chất lượng trường
học…) sẽ có sức hút lớn đối với lao động chuyên môn cao nước ngoài, tạo cho họ
yên tâm cống hiến và định cư lâu dài với gia đình của họ. Hơn nữa, những điều kiện
thuận lợi về ngôn ngữ (đa dạng hóa ngôn ngữ), văn hóa, tôn giáo ở nước tiếp nhận
cũng là một nhân tố hấp dẫn lao động chuyên môn cao.
Chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài chủ yếu bao gồm:
Thứ nhất, chính sách thu hút và khuyến khích lao động chuyên môn cao nước
ngoài vào nước làm việc. Các chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước
ngoài rất đa dạng, bao gồm từ cho phép ký kết hợp đồng tạm thời đến định cư vĩnh
viễn để tìm kiếm việc làm ở nước tiếp nhận. Thông thường, có 3 loại chính sách
tuyển dụng lao động chuyên môn cao nước ngoài, đó là:
- Chính sách tuyển dụng lao động theo hợp đồng sử dụng lao động: đối với loại
chính sách này, lao động chuyên môn cao nước ngoài sẽ được ký kết hợp đồng tuyển
dụng lao động tạm thời, theo đó người sử dụng lao động phải có hợp đồng lao động
với người lao động nhập cư có kỹ năng cao trước khi có thẻ visa vào làm việc [18;
90].Thông thường, chủ sử dụng lao động phải đệ trình yêu cầu tuyển dụng và chứng
minh rằng loại kỹ năng đó là không thể tìm kiếm thay thế trong nước theo cách đã
đăng ký tuyển dụng. Các nước thường áp dụng biện pháp kiểm tra người lao động
nước ngoài trước khi họ tham gia thị trường lao động. Các biện pháp kiểm tra này
được đưa ra nhằm bảo vệ tính cạnh tranh trên thị trường lao động giữa người lao
động trong nước và lao động nước ngoài. Biện pháp kiểm tra này thường rất ngặt
19
nghèo, không mang tính ưu đãi nhập cư và khuyến khích các chủ doanh nghiệp tăng
lương cho lao động trong nước. Hầu hết lao động chuyên môn cao nước ngoài đều
phải qua các biện pháp kiểm tra ở nước tiếp nhận. Các biện pháp kiểm tra này rất đa
dạng, tùy thuộc vào yêu cầu của từng nước và yêu cầu của từng ngành nghề.
- Chính sách tuyển dụng lao động theo con đường nhập cư: lao động kỹ năng
có thể được lấy visa vào các nước phát triển theo con đường nhập cư. Các tiêu chuẩn
xét chọn nhập cư và cấp visa thường dựa trên đặc tính về nhân lực muốn nhập cư.
Nhiều nước đã thiết lập hệ thống visa lao động với những quy định chặt chẽ về tiêu
chuẩn tay nghề, trình độ chuyên môn của người lao động. Ký hiệu của các loại visa
sẽ chứng tỏ nước đó ưu đãi, hay đang hạn chế người nước ngoài nhập cư. Các kỹ
năng chung cần kiểm tra để có thể được cấp visa đó là: ngôn ngữ, giáo dục, nghề
nghiệp, kinh nghiệm, tuổi tác. Hệ thống chấm điểm ở các nước đối với các kỹ năng
này là khác nhau. Chẳng hạn tại Mỹ, loại Visa mang ký hiệu H1-B là giành cho
những lao động nước ngoài chuyên môn cao ở nhiều loại nghề nghiệp khác nhau. H-
1B được đưa ra cho giai đoạn tối đa là sáu năm. Trong những trường hợp nhất định,
các cá nhân có thể gia hạn trên mức tối đa 6 năm. Còn tại Úc, loại Visa mang ký hiệu
Visa 457 là giành cho lao động nước ngoài có kỹ năng để bổ sung vào các vị trí đã
được chỉ định ở Úc trong giai đoạn từ 3 tháng đến 4 năm.
- Chương trình nhập cư đặc biệt giành cho lao động kỹ năng cao: Đó là các
chương trình như sinh viên quốc tế, chuyển dịch lao động nội bộ công ty. Chính sách
sinh viên quốc tế được nhiều nước sử dụng như là một công cụ để thu hút lao động
kỹ năng cao, trong đó có hai loại hình thu hút sinh viên quốc tế như: sinh viên vừa
học vừa làm trong thời gian học tập; và sinh viên khi tốt nghiệp xong sẽ phải cam kết
ở lại làm việc trong một khoảng thời gian nhất định. Chính sách chuyển dịch lao
động nội bộ công ty chủ yếu áp dụng cho các công ty đa quốc gia, chuyển dịch lao
động kỹ năng cao giữa công ty mẹ và các chi nhánh nước ngoài hoặc giữa các chi
nhánh nước ngoài với nhau. Thông thường, các chính phủ ở các nước tiếp nhận đầu
tư thường chỉ cho phép các công ty đa quốc gia được dịch chuyển lao động chuyên
môn cao ở cấp quản lý hoặc nhân viên cao cấp nhằm mục đích thúc đẩy đào tạo kỹ
năng và tay nghề cho lao động địa phương.
Bảng 1.3. Hệ thống thang điểm khác nhau đối với lao động nước ngoài
chuyên môn cao ở một số nước trên thế giới
20
Australia Canada New Zealand
Anh 10 10 5-20 30-50 5-45 5 15-25 15-30 5-25 40-60 5 15-20 10 0-24 bắt buộc 0-10 0-25 0-21 0-10 0-10 bắt buộc 5-30 50-55 10-30 ` 50 20 5-15
Các kỹ năng Năng lực ngoại ngữ Tiến quỹ trong giai đoạn đầu Tuổi (trẻ hơn nhiều điểm hơn) Chất lượng bằng cấp Nghề nghiệp chuyên môn Kinh nghiệm làm việc theo nghề Thu nhập gần đây Kỹ năng của người đi kèm Nghề nghiệp đang thiếu Kinh nghiệm làm việc trong nước Nghiên cứu khu vực Người đỡ đầu tại vùng dự kiến Việc làm dự kiến Bang/vùng định đến ở Kỹ năng ngoại ngữ chuyên môn Tổng điểm theo yêu cầu 95 5 25 10 5 100-120 0-10 67 50-60 100-140
Nguồn: Jonathan Chaloff and George Lamaitre (2009), Managing highly skilled labour migration: a comparative analysis migration policies and challenges in OECD countries, OECD social, employment and migration working paper No 79, trang 23.
Thứ hai, chính sách quản lý lao động chuyên môn cao nước ngoài. Để hạn
chế nhập cư lao động không có chuyên môn và lao động chuyên môn cao không đáp
ứng đúng yêu cầu của nền kinh tế, các nước thường có các cơ quan quản lý lao động
nước ngoài. Biện pháp quản lý lao động chuyên môn cao nước ngoài thường được
các nước sử dụng là hạn ngạch. Hạn ngạch là công cụ thông dụng để điều tiết số
lượng lao động trong thị trường lao động thông qua các mức trần số lượng được đưa
ra theo kế hoạch trong một giai đoạn nhất định, thông thường là trong một năm [18,
p75].Đây là một công cụ quan trọng tại các nước tiếp nhận lao động. Mức trần có thể
được tính toán là số cố định, hay theo phần trăm trong tổng lực lượng lao động của
nước tiếp nhận lao động. Hạn ngạch thường được thiết lập ở cấp quốc gia, dựa vào
kết quả dự báo kinh tế, cung cầu thị trường lao động.
Ngoài hạn ngạch, các nước tiếp nhận lao động chuyên môn cao thường ban
hành danh mục các ngành nghề khan hiếm và yêu cầu đặt ra đối với lao động nước
ngoài. Danh mục các ngành nghề này thường yêu cầu rất cụ thể trình độ chuyên môn
của lao động nước ngoài đối với các ngành nghề cụ thể, hạn ngạch tuyển dụng từng
21
ngành nghề. Ngoài ra, các nước tiếp nhận thường yêu cầu chủ doanh nghiệp phải
thường xuyên báo cáo mức cung – cầu về lao động chuyên môn cao nước ngoài,
những yêu cầu về thời hạn buộc phải thay thế lao động nước ngoài bằng lao động
trong nước và những quy định khác về mức lương giữa lao động nước ngoài và lao
động trong nước nhằm bảo vệ lao động trong nước và hạn chế thuê lao động nước
ngoài ở những ngành nghề không cần thiết.
Để hạn chế lao động không kỹ năng và lao động chuyên môn cao nước ngoài
làm việc bất hợp pháp, các nước phát triển thường áp dụng các chính sách điều tiết
lao động bất hợp pháp. Biện pháp thường áp dụng để quản lý lao động nước ngoài
bất hợp pháp là xử phạt tài chính đối với chủ sử dụng lao động và người lao động bất
hợp pháp, yêu cầu chủ sử dụng lao động phải đăng ký số lượng lao động chuyên
môn cao nước ngoài cần tuyển dụng và giải trình thời gian và lý do cần tuyển dụng
lao động nước ngoài, tăng cường quản lý dòng lao động di cư quốc tế nhằm hạn chế
lao động di cư bất hợp pháp gây tác động tiêu cực đối với sự phát triển kinh tế – xã
hội ở nước tiếp nhận.
Thứ ba, các chính sách thực thi sau khi lao động chuyên môn cao nước ngoài
tới làm việc: Sau khi lao động chuyên môn cao nước ngoài được tuyển dụng , các
nước thường áp dụng các chính sách sau đây nhằm tạo điều kiện và môi trường
thuận lợi cho lao động nước ngoài, đó là:
- Bảo vệ người lao động: Sau khi cấp visa cho lao đông nước ngoài, các nước
thường đưa ra những quy định về lương, điều kiện lao động, các loại việc làm đối
với lao động nhập cư. Hình thức bảo vệ người lao động này được áp dụng cho cả lao
động trong nước và lao động nước ngoài, và yêu cầu các chủ doanh nghiệp phải thực
hiện nghiêm túc. Một số nước đã ban hành một số luật để giúp ngăn chặn nạn bóc lột
lao động nhập cư và đảm bảo mức lương và các điều kiện của lao động trong nước
không bị cắt giảm. Các nước đều có những luật, chính sách về nhập cư, trong đó có
những vấn đề về khung hình phạt giành cho các nhà tuyển dụng vi phạm nghĩa vụ
bảo lãnh người nhập cư.
- Các cơ chế đối với người lao động nhập cư: Hệ thống chính sách của các
nước tiếp nhận lao động nhập cư thường đi kèm với những cơ chế liên quan đến an
ninh và bộ máy hành chính của họ. Quá trình tiếp nhận lao động nhập cư nghiêm
ngặt có thể làm chậm lại hoặc ngăn cản vấn đề nhập cư. Một số nước đã áp dụng một
22
số quy định buộc các bộ ngành liên quan phải chịu trách nhiệm đối với lao động
nhập cư sau khi tiếp nhận họ. Hệ thống quản lý lao động nhập cư hiện nay ở nhiều
nước đang ngày càng chặt chẽ hơn để hạn chế lao động nhập cư.
- Những quy định về trách nhiệm của người tuyển dụng: Visa lao động tạm
thời hay lâu dài đòi hỏi người nhập cư phải có câu trả lời từ người tuyển dụng. Ở hầu
hết các nước, chính sách này đưa ra rất rõ ràng, đòi hỏi người tuyển dụng phải tự sắp
xếp vấn đề lao động nhập cư, có trách nhiệm đàm phán với người nhập cư về các vấn
đề việc làm, tiền lương và các quy định khác của doanh nghiệp.
- Những quy định đối với người đi theo (vợ/chồng hoặc người sống phụ
thuộc). Các nước tiếp nhận lao động nước ngoài thường có những quy định hạn chế
rất rõ ràng đối với người đi theo (vợ/chồng hoặc người sống phụ thuộc). Thông
thường, người lao động sẽ không được phép mang theo người thân khi sang làm việc
tại người ngoài theo visa truyền thống. Tuy nhiên, một số nước đã nới lỏng quy định
này để khuyến khích lao động nước ngoài chuyên môn cao.
- Quyền lợi được cư trú lâu dài: Lao động chuyên môn cao khi làm việc ở
nước ngoài thường được cấp visa làm việc tạm thời và ban đầu họ không có ý định
làm việc lâu dài. Nhưng để khuyến khích người lao động chuyên môn cao nước
ngoài ở lại định cư lâu dài, một số nước thường đưa ra những quy định ưu đãi định
cư lâu dài đối với họ. Các quy định này thường là khác nhau giữa các nước.
- Các quyền lợi an sinh xã hội:Lao động chuyên môn cao nước ngoài sau khi
được tiếp nhận sẽ được hưởng các quyền lợi về hỗ trợ thu nhập, hỗ trợ hội nhập, trợ
cấp xã hội, bảo hiểm nghề nghiệp, bảo hiểm y tế giáo dục và các hỗ trợ tìm chỗ ở.
Những quyền lợi này đối với người lao động chuyên môn cao nước ngoài thường
tương đối bình đẳng so với lao động bản địa, khiến họ yên tâm làm việc và cống hiến
tri thức.
Nhìn chung, những ưu tiên chính sách của các nước tiếp nhận lao động
chuyên môn cao nước ngoài có sự khác nhau về chương trình và biện pháp. Hầu hết
các nước đều cố gắng thực hiện các chính sách ưu đãi đối với lao động chuyên môn
cao nước ngoài và hạn chế nhập cư lao động phổ thông, kỹ năng thấp. Tuy nhiên,
trên thực tế các chính sách này không mang lại nhiều lợi ích như mong muốn và các
nước tiếp nhận vẫn phải đối mặt với tình trạng nhập cư gia tăng – đặc biệt là với lao
động kỹ năng thấp. Chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài thường
23
theo 4 kênh cơ bản: 1) Theo hợp đồng sử dụng lao động nhập cư; 2) Theo con đường
nhập cư; 2) Theo chương trình nhập cư đặc biệt giành cho lao động kỹ năng cao; 4)
Theo chương trình tự do di cư. Trên thực tế, chỉ có những nước như Úc, Mỹ,
Canada, Đức đã tiến hành nghiên cứu có hệ thống chính sách thu hút lao động nước
ngoài chuyên môn cao, có các chương trình và biện pháp thu hút lao động nước
ngoài rất ngặt nghèo và hệ thống. Còn ở nhiều nước phát triển và đang phát triển
khác, các chương trình và biện pháp thu hút lao động nước ngoài chuyên môn cao rất
đa dạng.
1.1.3. Tác động của lao động chuyên môn cao nước ngoài đối với nước tiếp
nhận lao động
Tác động tích cực:
Nước tiếp nhận lao động chuyên môn cao nước ngoài nhận được rất nhiều tác
động tích cực, đặc biệt trong vấn đề phát triển và chuyển giao công nghệ, tăng hiệu
quả của hệ thống giáo dục và tài chính [58]. Cụ thể là:
Thứ nhất, lao động chuyên môn cao nước ngoài làm tăng hiệu quả hoạt động
kinh tế và sự phát triển của nước tiếp nhận lao động.
Di chuyển lao động chuyên môn cao ra nước ngoài đồng nghĩa với việc nước
tiếp nhận nhận được một hàm lượng chất xám tương đối lớn. Hàm lượng chất xám
của lao động chuyên môn cao nước ngoài sẽ làm tăng nguồn vốn nhân lực, khắc
phục sự khan hiếm hoặc chưa đầy đủ về kỹ năng cần thiết cho quá trình sản xuất
hoặc nghiên cứu. Nếu một quốc gia có lực lượng lao động chuyên môn cao nước
ngoài làm việc trong các ngành khoa học và công nghệ, thông tin, hóa chất v.v...
hoặc có số lượng người nước ngoài có học vị giáo sư, tiến sĩ... thì những lợi ích kinh
tế mang lại sẽ lớn hơn, trong đó có việc thúc đẩy tỷ lệ đổi mới cao hơn. Thực tế, sự
đóng góp của sinh viên và các nhà khoa học nước ngoài đối với nền tảng tri thức đã
kéo theo hiệu suất lao động tăng lên ở các nước tiếp nhận lao động.
Lao động chuyên môn cao nước ngoài làm tăng sức mạnh của tầng lớp doanh
nhân ở nước tiếp nhận lao động. Đi kèm theo lực lượng lao động có kỹ năng cao, là
tầng lớp doanh nhân tinh hoa từ nước ngoài được khuyến khích nhập cư vào các
nước tiếp nhận. Hầu hết các nước phát triển đều công khai cạnh tranh với nhau để
thu hút các tài năng quy tụ về quốc gia mình nhằm mục đích phát triển ở cấp độ toàn
cầu và sự đóng góp của những người nhập cư theo đó cũng rất khác nhau. Tầng lớp
24
doanh nhân nước ngoài là lực lượng lao động có chất lượng cao, có kỹ năng quản lý
tốt, có tiềm lực tài chính và công nghệ, sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của doanh
nghiệp và nền kinh tế của nước tiếp nhận.
Lao động chuyên môn cao nước ngoài làm tăng dòng chảy tri thức đến các
nước tiếp nhận. Họ là những người có kỹ năng, có trình độ chuyên môn, mang lại
những hiệu quả kinh tế tích cực cho các nước phát triển trong việc thúc đẩy sự phát
triển của các ngành kinh tế mũi nhọn. Nhờ chính sách thu hút lao động chuyên môn
cao mang tính ưu đãi, nhiều nước đã tiếp nhận được các chuyên gia công nghệ thông
tin, các nhà khoa học, bác sĩ, y tá... để từ đó mang lại những hiệu quả nhất định đối
với tăng trưởng kinh tế và phát triển khoa học kỹ thuật ở nước tiếp nhận.
Cùng với các tác động tích cực trên đối với phát triển kinh tế, lao động chuyên
môn cao nước ngoài còn tạo nên sự sáng tạo và đa dạng về băn hóa xã hội đối với
nước tiếp nhận lao động. Do nguồn lao động di chuyển từ nhiều quốc gia với nhiều
tôn giáo và bản sắc văn hóa khác nhau, nước tiếp nhận lao động nhập cư sẽ tiếp nhận
luôn cả nền văn hóa, phong tục tập quán, lối sống và ngôn ngữ của lao động nước
ngoài. Các trung tâm quốc tế lớn như New York, London... là những bằng chứng rất
rõ ràng cho sự đa dạng và sáng tạo này từ việc tiếp nhận lao động chuyên môn cao
nước ngoài.
Thứ hai, lao động chuyên môn cao nước ngoài làm tăng hiệu quả của hệ thống
giáo dục ở nước tiếp nhận lao động.
Việc tiếp nhận lao động chuyên môn cao nước ngoài (bao gồm cả sinh viên
nước ngoài) sẽ khiến các chương trình giảng dạy được mở rộng hoặc cải tiến. Hơn
thế, sinh viên nước ngoài được phép thi và ghi điểm cao hơn trong các chương trình
học tập ở nước tiếp nhận để từ đó có những nỗ lực đạt được bằng cấp rất cao nhằm
mục đích vượt qua những yêu cầu ngặt nghèo phải kiểm tra trên thị trường lao động.
Chính vì vậy, lợi ích của các chương trình giảng dạy đối với sinh viên (cả sinh viên
trong nước và sinh viên nước ngoài) ngày càng lớn và ngày càng phải cải tiến nhằm
đáp ứng nhu cầu học tập và cạnh tranh của sinh viên nước ngoài.
Thứ ba, lao động chuyên môn cao nước ngoài làm tăng hiệu quả tài chính đối
với nước tiếp nhận. Đối với những nước tiếp nhận đầu tư, lao động chuyên môn cao
thường đi kèm với thu nhập cao hơn và đi kèm với đó là mức thuế thu nhập cũng cao
hơn. Do vậy, người lao động có trình độ thường đòi hỏi mức lương cao hơn để phù
25
hợp với khả năng và trình độ của mình, đồng thời tìm mọi cách để không phải đóng
thuế cao hơn. Thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài sẽ giúp các nước tiếp
nhận giải quyết cả hai vấn đề: lương và thuế thu nhập. Doanh nghiệp có thể tiết kiệm
được tiền lương bởi những quy định về lương và công việc luôn rõ ràng đối với
người nước ngoài, họ có thể chấp nhận, hoặc không chấp nhận làm việc với mức
lương thấp hơn mức lương của người bản địa. Thêm vào đó, người lao động nhập cư
nước ngoài phải tuân thủ nghiêm túc các quy định về đóng thuế thu nhập, vì vậy các
khoản thất thu thuế thu nhập dường như ít xảy ra đối với lao động nước ngoài.
Người lao động nhập cư sẵn sàng chấp nhận những công việc mà người dân nước sở
tại không thích làm, hoặc không đủ người làm và sự sẵn sàng chấp nhận này đồng
nghĩa với mức lương thấp hơn người dân bản địa. Lao động nhập cư chuyên môn cao
đem lại những lơi ích tài chính nhiều hơn cho nước tiếp nhận, bởi theo cách đánh giá
của nhiều chuyên gia thế hệ nhập cư đầu tiên có thể khiến nước tiếp nhận phải trang
trải đủ các vấn đề an sinh xã hội cho người nhập cư, gây ra những chi phí tài chính
tương đối lớn so với mức đóng góp của người nhập cư; nhưng sang các thế hệ nhập
cư tiếp theo lại có xu hướng tạo ra thặng dư tài chính lớn cho chính phủ nước tiếp
nhận [18].
Thứ tư, lao động chuyên môn cao nước ngoài đem lại những tác động tích cực
đối với thị trường lao động của nước tiếp nhận.
Lao động nhập cư có tác dụng bù đắp sự thiếu hụt lao động của nước sở tại,
đặc biệt là bù đắp lực lượng lao động có chuyên môn cao đang thiếu hụt của các
nước này. Sự bù đắp những thiếu hụt về nguồn vốn nhân lực chất lượng cao sẽ đem
lại những tác động tích cực đối với năng suất và tăng trưởng kinh tế. Hơn nữa, tầng
lớp doanh nhân nước ngoài nhập cư sẽ khiến nền kinh tế hình thành những ngành
nghề kinh doanh mới hoặc đa dạng hóa các lĩnh vực kinh doanh, từ đó góp phần tạo
việc làm nhiều hơn cho thị trường lao động.
Tác động tiêu cực:
Trong thời gian gần, nhiều nước phát triển như Anh, Úc, Pháp có những tranh
luận gay gắt về vấn đề nhập cư, kể cả nhập cư lao động chuyên môn cao. Đó chính là
do những tác động tiêu cực mà dòng lao động chuyên môn cao nước ngoài mang lại
cho nước tiếp nhận. Xét về mặt lý thuyết, lao động chuyên môn cao nước ngoài đem
lại những tác động tiêu cực cho nước tiếp nhận sau đây:
26
Thứ nhất, lao động chuyên môn cao nước ngoài làm giảm những ưu đãi đối
với người dân bản địa trong việc tìm kiếm kỹ năng cao hơn.
Khi lao động chuyên môn cao nước ngoài thay thế lao động bản địa trên thị
trường lao động trong nước, thì theo quy luật cung cầu trên thị trường lao động, mức
lương sẽ giảm cùng với các nghề nghiệp có kỹ năng cao hơn [45]. Điều này dẫn đến
việc giảm những ưu đãi đối với lao động bản địa trong việc đầu tư phát triển nguồn
vốn nhân lực. Các lý thuyết kinh tế vĩ mô tân cổ điển và lý thuyết thị trường lao động
đều phân tích một số tác động tiêu cực của các mô hình đầu tư nguồn vốn nhân lực.
Các lý thuyết gia cho rằng lao động chuyên môn cao nước ngoài có thể tạo ra một
nguồn đầu tư vốn mới và bổ sung những thiếu hụt trên thị trường lao động, và việc
mở rộng lực lượng lao động chuyên môn cao hơn có thể dẫn đến những thay đổi
kinh tế, làm tăng mức cầu về các dịch vụ cho họ và vì thế làm giảm bớt áp lực của
nguồn cung lao động trong nước. Điều này dẫn đến vấn đề nhập cư lao động chuyên
môn cao sẽ được mở rộng trong hầu hết lĩnh vực đang đem lại cơ hội việc làm tương
đối tốt cho người lao động. Lao động bản địa vì thế sẽ không có cơ hội để tìm kiếm
kỹ năng cao hơn trong một số lĩnh vực nhất định đang ưu đãi lao động nước ngoài.
Thứ hai, lao động bản địa sẽ không có cơ hội tiếp cận giáo dục tiên tiến do
chính sách nhập cư lao động chuyên môn cao nước ngoài.
Khi tiếp nhận lao động chuyên môn cao nước ngoài, người dân bản địa sẽ bị
bật ra khỏi các cơ hội học tập các chương trình bậc cao và các nguồn đào tạo tiên
tiến khác. Chẳng hạn, nếu một trường đại học hạn chế chỉ tiêu sinh viên đầu vào,
một sinh viên nhập cư có trình độ cao hơn có thể cản trở cánh cửa vào trường đại
học đó của sinh viên bản địa. Tại các viện nghiên cứu và các tổ chức công nghệ cao,
những ưu tiên bằng cấp và chất lượng nghề nghiệp có thể khiến người lao động nước
ngoài nỗ lực hết mình để được tuyển dụng, trong khi cơ hội giành cho người bản địa
ở các viện nghiên cứu và các tổ chức công nghệ cao bị hạn chế do họ không có
những nỗ lực đạt được bằng cấp theo yêu cầu.
Thứ ba, những tác động tiêu cực khác.
Đó là nhập cư lao động chuyên môn cao có thể tăng sự khác biệt về văn hóa
giữa người bản địa và người lao động nước ngoài, từ đó tạo nên những rào cản đối
với người bản địa khi tham gia các hoạt động khoa học và công nghệ. Chẳng hạn tại
các trường đại học, sinh viên bản địa phải cố gắng hết mình mới hiểu được giọng nói
27
của các giáo sư đến từ nước ngoài, như vậy khả năng nắm bắt khoa học công nghệ
tiên tiến của sinh viên bản địa sẽ bị hạn chế. Hơn nữa, vị trí làm việc trong các doanh
nghiệp cũng sẽ có sự phân biệt giữa người bản địa và người nước ngoài, người khác
sắc tộc, khác quốc qua với nhau. Điều này có thể tạo ra những rủi ro chính trị - xã
hội đối với các nước tiếp nhận lao động nhập cư nước ngoài có chuyên môn cao.
Bảng 1.4. Những tác động kinh tế của lao động chuyên môn cao nước
ngoài
ĐỐI VỚI NƯỚC TIẾP NHẬN ĐỐI VỚI NƯỚC GỬI LAO ĐỘNG
1. Tác động tích cực - Phát triển và hiệu quả công nghệ + Tăng R&D + Tăng sức mạnh của tầng lớp doanh nhân + Tăng tri thức và hiệu quả kinh tế + Đa dạng văn hóa và sáng tạo - Phát triển hệ thống giáo dục cao hơn - Tăng hiệu quả tài chính - Tăng hiệu quả thị trường lao động 2. Tác động tiêu cực -Lao động bản địa không còn được ưu đãi trong các ngành kỹ năng cao - Lao động bản địa bị đẩy ra ngoài hệ thống giáo dục cao hơn - Rủi ro tiềm tàng từ sự khác biệt văn hóa, tôn giáo.... 1. Tác động tích cực - Hiệu quả phát triển + Tăng tri thức và hợp tác, tăng mối quan hệ với các viện nghiên cứu nước ngoài. + Cơ hội xuất khẩu công nghệ + Kiều hối + Kinh nghiệm quản lý có giá trị, tăng sự tiếp cận với hệ thống sản xuất toàn cầu - Hiệu quả đối với nguồn vốn nhân lực + Tăng khuyến khích đối với người bản địa để tìm kiếm kỹ năng cao hơn + Giảm rủi ro trong đầu tư giáo dục ở mức độ cá nhân 2. Tác động tiêu cực - Chảy máu chất xám, mất năng suất lao động tiềm năng - Lợi ích thấp hơn trong đầu tư giáo dục đại học (lãng phí nguồn đầu tư công) - Giảm doanh thu tài chính về thuế thu nhập đối với lao động chuyên môn cao
TÁC ĐỘNG TOÀN CẦU - Gia tăng sự lưu chuyển tri thức giữa các nước, hình thành các trung tâm nghiên cứu công nghệ quốc tế (thung lũng silicon). - Tăng hiệu quả của thị trường lao động toàn cầu đối với lao động chuyên môn cao, các nhà nghiên cứu, các chuyên gia công nghệ thông tin. - Tăng sự tập trung chi tiêu toàn cầu cho khoa học và công nghệ - Tạo nên cạnh tranh mang tính quốc về do khan hiến nguồn lực, ưu đãi thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao. - Tăng bất bình đẳng toàn cầu.
Nguồn: Andres Solimano, Molly Pollack (2004), International mobility of the highly skilled: the case between Eurrope and Latin America, Working Papers, No 1, Santiago, Chile, trang 13.
28
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA CHÍNH SÁCH THU HÚT LAO ĐỘNG
CHUYÊN MÔN CAO NƯỚC NGOÀI
1.2.1. Quá trình phát triển và đặc điểm di chuyển lao động chuyên môn
cao nước ngoài trên thế giới
Từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, di chuyển lao động quốc tế diễn ra sôi
động. Hàng triệu người dân ở các vùng địa lý trên thế giới đã vượt qua biển Atlantic,
Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương để tìm đến những vùng đất có điều kiện phát triển
kinh tế tốt hơn.Trong thời kỳ này, di chuyển lao động quốc tế được mở rộng do sự
khan hiếm lao động kỹ năng thấp, đặc biệt trong ngành nông nghiệp và khai khoáng
ở các nước châu Âu, Mỹ, Australia. Vào năm 1965, toàn thế giới có khoảng 75,2
triệu lao động làm việc ở nước ngoài, chiếm 2,3% dân số toàn thế giới, trong đó lao
động nước ngoài có quốc tịch tại các nước phát triển chiếm 40,4% và có quốc tịch tại
các nước đang phát triển chiếm 59,6%. Vào năm 1990, thế giới có 119,8 triệu lao
động làm việc ở nước ngoài, vẫn chiếm khoảng 2,3% dân số toàn thế giới, trong đó
các nước phát triển chiếm 45,3% và các nước đang phát triển chiếm 54,7% [80] .
Hầu hết những người lao động nước ngoài trong thời kỳ này có nguồn gốc từ châu
Á, Bắc Mỹ, Châu Âu và châu Phi.
Sang nửa cuối thế kỷ XX, bắt đầu có sự chuyển dịch về chất trong di chuyển
lao động quốc tế. Trong thời kỳ này, cuộc cách mạng công nghệ thông tin, viễn
thông và vận tải đã làm giảm chi phí giao dịch trên thị trường lao động, tăng lợi ích
của các nước xuất khẩu lao động nhờ những điều kiện hấp dẫn hơn của thị trường lao
động nước ngoài và bắt đầu xuất hiện những chênh lệch về lương và thu nhập trên
thị trường lao động ở các nước. Chính sách nhập cư và tuyển dụng lao động nước
ngoài của nhiều quốc gia bắt đầu thay đổi, đặc biệt là Mỹ, EU và Australia. Lao động
nước ngoài có điều kiện lựa chọn đa dạng về thị trường lao động và thị trường lao
động quốc tế có xu hướng dịch chuyển sang lao động chuyên môn cao hơn nhờ sự
thay đổi chính sách của nhiều nước phát triển. Trong những năm đầu thập niên
1990s, các nước phát triển tiến hành xây dựng khung khổ chính sách hấp dẫn để thu
hút lao động chuyên môn cao, đặt biệt là các nước châu Âu do tỷ lệ sinh tại nước này
ngày càng giảm, sự già hóa dân số và chính sách an sinh xã hội hào phóng. Các
chính sách này rất đa dạng, tùy thuộc vào nhu cầu của từng quốc gia, đồng thời chính
29
phủ các nước (đặc biệt là các nước phát triển) thường xuyên thay đổi chính sách để
cân đối cung cầu thị trường lao động chuyên môn cao tại nước mình.
Bảng 1.5. Các ưu tiên chính sách và chiến lược của một số nước để thu
hút lao động chuyên môn cao nước ngoài
Nước Canada
Khung khổ chính sách Chiến lược - Nhập cư là một yếu tố cơ bản của chiến lược phát triển, với các mục tiêu cụ thể - Nhập cư đáp ứng sự thiếu hụt kỹ năng trong nước
Kết quả và vấn đề - Đáp ứng được mục tiêu đề ra - Một số vấn đề về lao nước động ngoài chuyên môn thấp bị thiếu việc làm - Đáp ứng được mục tiêu đề ra - Một số vấn đề về kỹ năng ngoại ngữ đối với sinh viên nước ngoài
Mỹ
- Chương trình quá dài, thời gian chờ đợi quá lâu. - Phải trông chờ vào các loại visa thay thế
Australia - Nhập cư là một yếu tố cơ bản của chiến lược phát triển, với các mục tiêu cụ thể - Nhập cư đáp ứng sự thiếu hụt kỹ năng trong nước -Bảo vệ công nhân bản địa trong khi vẫn đáp ứng được các nhu cầu của giới chủ - Ngăn chặn nhập cư kỹ năng thấp và hạn chế nhpaaj cư nói chung
Anh
Hệ thống nhập cư mới vẫn đang trong quá trình thảo luận.
- Cho phép lao động kỹ năng cao nhất được nhập cư, hạn chế lao động kỹ năng thấp
Pháp Hạn chế nhập cư
- Chọn lọc những người có kỹ năng và chuyên môn cao cùng gia đình của họ, cho phép họ định cư lâu dài - Tạo điều kiện cho sinh viên nước ngoài -Chọn lọc những người có kỹ năng và chuyên môn cao cùng gia đình của họ, cho phép họ định cư lâu dài - Tạo điều kiện cho sinh viên nước ngoài - Cấp quotas cho hầu hết các loại lao động chuyên môn cao - Đệ trình việc làm dự kiến là rất cần thiết -Chương trình nhập cư tạm thời lớn - Ít tạo điều kiện cho sinh viên nước ngoài - Áp dụng hệ thống điểm để thu hút lao ngoài động nước chuyên môn cao, không cấp hạn ngạch (quotas). - Danh sách các nghề giành cho lao động chuyên môn cao rất ngắn - Tạo điều kiện cho sinh viên nước ngoài - Các biện pháp kiểm tra trên thị trường lao động rất ngặt nghèo. - Bảo vệ công nhân bản địa trong khi vẫn đáp ứng được các nhu cầu của
30
giới chủ - Tăng nhập cư vì lý do kinh tế
Hà Lan Giảm nhập cư đối với những lao động chuyên môn thấp và không thông thạo tiếng Hà Lan
- Danh sách các nghề lao động giành cho chuyên môn cao rất ngắn - Kiểm tra ngoại ngữ ngặt nghèo -Các biện pháp kiểm tra trên thị trường lao động rất ngặt nghèo - Lương cao
- Nếu đáp ứng tiêu chuẩn về chuyên môn, động lao nước ngoài sẽ có như sống cuộc mong muốn - Một số nhà tuyển dụng vẫn sử dụng giấy phép lao động - Hạn chế nhập cư Đức
- Hạn chế nhập cư trong khi vẫn cho phép lao động chuyên môn cao nhập cư - Cạnh tranh với ccs nước khác về lao động chuyên môn cao nước ngoài
Ít
Nhật Bản
- Định cư lâu dài nếu có chuyên môn cao và được trả lương cao - Áp dụng các quy định hạn chế đối với các đối tượng khác - Một số trách nhiệm đối với sinh viên nước ngoài đã ra trường - Những quy định ngặt nghèo về vị trí làm việc chuyên môn - Cho phép sinh viên nước ngoài kiếm việc làm - Chấp nhận nhập cư lao động chuyên môn cao nước ngoài trong khi vẫn tiếp tục hạn chế nhập cư đối với lao động chuyên môn thấp
- lao động chuyên môn cao nước ngoài vào Nhật mặc dù tiêu chuẩn cởi mở - Sinh viên ở lại tìm kiếm việc làm. Nguồn: Jonathan Chaloff and George Lamaitre (2009), Managing highly skilled labour migration: a comparative analysis migration policies and challenges in OECD countries, OECD social, employment and migration working paper No 79, trang 30.
Có thể nói, từ cuối thế kỷ XX cho đến nay, chính sách của nhiều nước đối với
lao động chuyên môn cao nước này đã đáp ứng được những thay đổi về công nghệ
và cấu trúc kinh tế của nền kinh tế thế giới. Cuộc cách mạng tin học là một trong
những nhân tố khiến cầu trên thị trường thế giới về lao động chuyên môn cao ngày
càng tăng, làm nới rộng khoảng cách giữa lao động chuyên môn cao và lao động
không kỹ năng về mức lương, điều kiện làm việc, điều kiện nhập cư, điều kiện sống.
Các chương trình thiết kế phần cứng, phần mềm tin học, các kỹ sư tự động hóa ở
nhiều nước đã khiến nhu cầu về lao động chuyên môn cao ngày càng tăng để thay
31
thế lao động kỹ năng thấp và làm việc tay chân. Cùng với cuộc cách mạng tin học,
xu hướng toàn cầu hóa lan rộng cũng làm giảm chi phí di chuyển lao động quốc tế,
khiến lực lượng lao động nước ngoài ngày càng tăng lên cả về số lượng và chất
lượng. Vào năm 2000, trong tổng số lao động nước ngoài người châu Âu đạt trình độ
giáo dục đại học trở lên , có tới 36,7% sinh sống ở châu Âu, 49,9% sinh sống ở Bắc
Phi, số còn lại sinh sống ở châu Á, châu Đại Dương và Mỹ latinh. Trong cơ cấu lao
động nước ngoài người châu Á năm 2000, có tới 73,1% sinh sống ở Bắc Mỹ, 14,5%
sinh sống ở châu Âu và 4,2% sinh sống ở châu Á [66].
Bảng 1.6. Tỷ lệ % lao động nước ngoài có trình độ đại học trở lên tính
theo quốc tịch và địa điểm tiếp nhận lao động, 1990 và 2000
Quốc tịch
Địa điểm tiếp nhận Năm 2000 Châu Âu Bắc Mỹ Mỹ Latinh Châu Á Châu Đại dương
Châu Âu Bắc Mỹ Mỹ Latin Châu Á Châu Đại dương Châu Phi OECD 0,6 4,6 1,3 0,1 0,1 0,1 0,7 49,9 62,1 88,3 73,1 27,2 44,5 64,8 36,7 24,9 8,0 14,5 22,4 47,8 23,6 11,3 6,1 1,0 8,0 49,6 7,6 8,5
Quốc tịch
1,6 2,3 1,4 4,2 0,7 0,1 2,4 Địa điểm tiếp nhận Năm 1990 Châu Âu Bắc Mỹ Mỹ Latinh Châu Á Châu Đại dương
Châu Âu Bắc Mỹ Mỹ Latin Châu Á Châu Đại dương Châu Phi OECD 27,2 19,1 7,9 13,5 15,3 46,8 20,3 57,2 67,2 87,3 69,0 28,5 43,2 64,9 0,8 4,8 2,2 0,2 0,1 0,1 1,0 0,9 2,9 1,2 7,7 0,8 0,1 3,2 13,9 6,0 1,5 9,6 55,3 9,8 10,7 Nguồn: OECD, World migration report 2008, chapter 2, trang 62.
32
Hình 1.2. Tỷ lệ % lao động nước ngoài có trình độ giáo dục đại học trở
lên, năm 2000/01 và 2009/10
Nguồn: OECD international migration database, 2012, trang 3.
Từ năm 2000, tỷ lệ người nước ngoài (chủ yếu là lao động nhập cư) trong tổng
dân số của các nước OECD tăng lên đáng kể. Nước có người nước ngoài đông nhất
là Luxembourg (chiếm 37,6% dân số năm 2010), Thụy Điển (26,6%), New Zealand
(23,2%), Australia (26,8%) và Canada (19,9%) [65]. Tỷ lệ lao động nước ngoài có
giáo dục cao trên thế giới tăng lên rất nhanh trong giai đoạn 2000-2010, đặc biệt là ở
các nước OECD (trừ Tây ban Nha, Hy Lạp, Italy và Mexico).Tỷ lệ lao động nước
ngoài có chuyên môn cao chiếm tỷ lệ cao nhất ở Canada (trên 50% lao động nước
ngoài có trình độ đại học trở lên), tiếp theo là Anh và Ireland. Trung bình cho cả
khối OECD, có tới 30% lao động nước ngoài đạt trình độ đại học trở lên vào năm
2010, tăng so với con số dưới 25% của năm 2000 [65].
Xu hướng lao động chuyên môn cao nước ngoài ngày càng lên trong tổng lao
động nước ngoài đã phản ánh sự đầu tư giáo dục gia tăng ở hầu hết các quốc gia trên
thế giới. Tại nhiều nước, điển hình là Canada, Australia, Anh, các chương trình tiếp
nhận và thu hút lao động nước ngoài đều được cải cách rất mạnh, chỉ tập trung vào
đối tượng lao động chuyên môn cao và hạn chế tiếp nhận lao động phổ thông. Chính
vì vậy, số lượng lao động nước ngoài chuyên môn cao ngày càng gia tăng trên thế
giới trong những năm đầu thế kỷ XXI.
1.2.2. Tác động của chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước
ngoài đối với một số nước tiếp nhận lao động trên thế giới
33
Các nghiên cứu thực tiễn cho thấy, lao động chuyên môn cao nước ngoài có
những đóng góp tích cực đối với các nước tiếp nhận lao động. Ngân hàng Thế giới
cũng ước tính nếu các nước đang có dân số giảm cho phép lực lượng lao động của
mình tăng 3% bằng việc cho thêm 14 triệu lao động nhập cư trong khoảng thời gian
từ 2001-2025 thì mỗi năm nền kinh tế thế giới sẽ có thêm khoảng 365 tỷ USD. Phần
lớn số tiền này sẽ chảy về và tạo thành nguồn vốn quan trọng cho các nước đang
phát triển. Còn đối với các nước tiếp nhận lao động, những lợi ích thu được là bổ
sung lực lượng lao động chuyên môn cao đang thiếu hụt trong nước, tăng cường hiệu
quả của nền kinh tế, tăng cường hiệu quả của thị trường lao động và nhiều tác động
tích cực khác. Chẳng hạn tại các nước EU, đóng góp của lao động chuyên môn cao
nước ngoài đáng được ghi nhận. Vào năm 2007, các nước EU15 có khoảng 27 triệu
người dân có quốc tịch nước ngoài [82]. Hầu hết họ là những lao động có tay nghề
và chuyên môn cao, đến từ các quốc gia châu Âu láng giềng, châu Á, châu Mỹ
Latinh. Tại Anh và Ireland – nơi cho phép dòng nhập cư lao động chuyên môn cao
trên quy mô lớn từ các quốc gia Đông Âu, mức sản lượng đầu ra của nền kinh tế có
thể cao hơn từ 0,5% - 1,5% trong vòng 1 thập kỷ [18]. Tại các nước có lực lượng lao
động nhập cư tương đối cao trong tổng dân số và trong tổng lực lượng lao động
(chẳng hạn như các nước vùng Vịnh), đóng góp của lao động chuyên môn cao nước
ngoài cho tổng thể nền kinh tế và cho từng lĩnh vực còn lớn hơn rất nhiều. Chẳng
hạn tại UAE, dân số năm 2008 ước tính là khoảng 6 triệu người, trong đó chỉ có dưới
20% dân số là mang quốc tịch UAE, còn lại là các chuyên gia và người lao động đến
từ khắp nơi trên thế giới. 30 năm trước đây, UAE là một trong những nước được xếp
vào hạng kém phát triển nhất trên thế giới, nhưng ngày nay đây được đánh giá là một
trong những quốc gia có thu nhập bình quân đầu người ngang bằng với các quốc gia
công nghiệp phát triển và là nước đạt thứ hạng cao trong chỉ số phát triển nguồn
nhân lực (HDI), chỉ số minh bạch quốc tế và chỉ số cạnh tranh toàn cầu. Thu hút lực
lượng lao động nước ngoài vào UAE khiến đất nước này dễ dàng thực hiện chính
sách phát triển kinh tế tăng tốc, bởi với dân số mang quốc tịch UAE quá ít, đất nước
này sẽ không thể thực hiện được các dự án kinh tế khổng lồ nếu thiếu các chuyên gia
nước ngoài. Theo số liệu thống kê của chính quyền UAEs, có tới 88% dân số và lực
lượng lao động tập trung ở Dubai và Abu Dhabi. Nếu như năm 1989, tỷ lệ biết chữ
của người dân UAE (kể cả lao động nhập cư) là 53,5%, thì năm 2003 con số này đã
34
tăng lên đạt 77,9%. Vào năm 2007, chỉ số HDI của UAE đạt 0,903, cao thứ 35 trên
thế giới, cho thấy lực lượng lao động của UAE có trình độ giáo dục, kỹ năng, tay
nghề đạt loại rất cao ở khu vực Trung Đông. Ngoài hệ thống giáo dục mở rộng (bằng
cả tiếng Arập và tiếng Anh), đất nước này còn có hệ thống chăm sóc sức khoẻ rất
hiện đại. Tổng chi tiêu cho hệ thống chăm sóc sức khoẻ trong giai đoạn 1996-2003
lên tới 436 tỷ USD, chiếm khoảng 2,6% GDP và chi tiêu sức khoẻ đầu người cho
người dân UAE bình quân là 673 USD/năm. Nhờ chú trọng phát triển hệ thống giáo
dục và chăm sóc sức khoẻ, UAE là lực hút hấp dẫn đối với đội ngũ lao động và
chuyên gia trên toàn thế giới, khiến đất nước này dễ dàng “cất cánh” trong một thời
gian rất ngắn.
Lao động chuyên môn cao nước ngoài mang lợi những lợi ích kinh tế lớn hơn
cho các nước tiếp nhận lao động. Số liệu của Mỹ cho thấy, giai đoạn 1950-2000 lao
động chuyên môn cao nước ngoài là lực lượng thúc đẩy đổi mới mạnh mẽ nhất: cứ
tăng 1,3% tỷ trọng sinh viên tốt nghiệp đại học là người nhập cư sẽ làm tăng số bằng
phát minh sáng chế lên 15%, với sự đóng góp đáng kể của các nhà khoa học và kỹ sư
nhập cư, một thành quả đáng tự hào mà người dân bản địa không làm được [18].
Theo một nghiên cứu về đăng ký bằng sáng chế trên quy mô toàn cầu, các nhà khoa
học thuộc các trường đại học Harvard, Duke và New York (Mỹ) cho biết, tỷ lệ bằng
sáng chế do những người có quốc tịch nước ngoài sống tại Mỹ đăng ký trong thập kỷ
đầu tiên của thế kỷ XXI đã tăng gấp ba. Thời báo New York Times ngày 30/8/2004
đã nhận xét rằng Mỹ là một trong những nước có ưu thế vượt trội trong các lĩnh vực
khoa học và sáng tạo mũi nhọn, trong đó có những đóng góp tích cực của lao động
chuyên môn cao nước ngoài. Ví dụ như ở lĩnh vực bằng sáng chế, Mỹ vẫn chiếm
phần lớn, trong đó người nước ngoài, đặc biệt là người châu Á, ngày càng tăng
(chiếm khoảng ¼ số bằng sáng chế do chính người Mỹ cấp) và ở một số lĩnh vực còn
vượt cả người Mỹ. Theo một cuộc nghiên cứu mới đây do Trường Đại học California
thực hiện theo yêu cầu của Viện Nghiên cứu Chính sách Công cộng California, trong
số 2.300 giám đốc doanh nghiệp của California với 90% là người nhập cư từ Ấn Độ,
TQ và Đài Loan, 82% cho biết họ chia sẻ công nghệ thông tin mới với các đồng
nghiệp ở quê nhà, 40% nói họ giúp sắp xếp các hợp đồng ở quê nhà, và, giống như
Lu, gần 20% cho biết họ đầu tư tiền của chính họ vào việc lập các công ty mới hay
các quỹ vốn nơi quê cha đất tổ của họ. Trong nhiều năm, châu Á đã gửi những sinh
35
viên tốt nhất của mình sang Mỹ để theo các bậc học cao hơn nhưng rất ít người trong
số họ hồi hương. Theo thống kê của Viện Giáo dục Quốc tế Mỹ, kể từ năm 1979,
hơn 400.000 người TQ đại lục ra nước ngoài du học, nhưng chỉ 10-20% trong số này
quay trở về nước. Phần lớn các sinh viên TQ tốt nghiệp ngành khoa học máy tính
đến các bang California, Texas hay Washington để gia nhập đội ngũ cùng hàng ngàn
người Ấn Độ, những người vào Mỹ bằng các thị thực tạm thời H1-B dành cho những
người nhập cư có các kỹ năng cần thiết cho các công ty công nghệ cao mới được
thành lập. Sự hiện diện của những người châu Á đã giúp thay đổi bộ mặt của ngành
công nghệ cao Mỹ. Những người châu Á lưu lại tại Mỹ sau khi tốt nghiệp hay tận
dụng quy chế thị thực H1-B của Mỹ đã được nhìn nhận như những nhà lãnh đạo
doanh nghiệp tài năng. Người TQ và Nam Á điều hành khoảng 30% các doanh
nghiệp công nghệ cao của Silicon Valley. Họ tạo ra 19,5 tỉ USD doanh số hàng năm
cho Silicon Valley và 72.800 việc làm [18]. Chính môi trường làm việc thuận lợi ở
Mỹ đã là động cơ tốt đối với lao động chuyên môn cao nước ngoài. Mỹ là một địa
điểm có sức hút hấp dẫn đối với giới khoa học, chủ yếu do chính sách nhập cư hấp
dẫn và chính sách ưu đãi nhân tài của chính phủ Mỹ. Các nhà khoa học nước ngoài
học tập và nghiên cứu tại Mỹ đều có xu hướng muốn ở lại Mỹ làm việc. Mặc dù
trong thời kỳ gần đây, các chính sách nhập cư ở Mỹ ngày càng thắt chặt,khiến Mỹ
rơi vào tình trạng chảy máu chất xám ngược, nhưng những đóng góp của lao động
nhập cư đối với việc thúc đẩy đổi mới và phát triển khoa học công nghệ đối với Mỹ
là rất lớn, đặc biệt trong những lĩnh vực đỉnh cao như nghiên cứu về sự sống trên sao
Hỏa, tiến bộ trong lĩnh vực vật lý nguyên tử…Các nhà khoa học nói rằng lực lượng
lao động chuyên môn cao nước ngoài là "động cơ" của nền kinh tế và ngành phát
minh công nghiệp của Mỹ.
Lao động chuyên môn cao nước ngoài còn góp phần phân khúc thị trường lao
động, khiến lao động các nước tiếp nhận dễ dàng hơn trong việc tìm kiếm việc làm.
Nó góp phần giảm bớt tình trạng già hóa dân số ở một số nước tiếp nhận, đặc biệt là
ở các nước EU, Nhật Bản. Chẳng hạn tại Đức, nhằm đối phó với tình trạng thiếu lao
động trong khi tỷ lệ dân số già hóa cao, chính phủ Đức vừa lần đầu tiên công bố
danh sách những ngành nghề cần tuyển dụng công nhân có tay nghề từ các nước
ngoài Liên minh châu Âu (EU) .Bộ trưởng Lao động Ursula von der Leyen ngày
22/7/2013 cho biết Đức cần những lao động nhập cư có tay nghề nhằm đảm bảo sự
36
phát triển thịnh vượng lâu dài. Tại Nhật Bản, tình trạng già hóa dân số cũng diễn ra
trầm trọng, buộc chính phủ Nhật Bản phải kiếm tìm giải pháp cân đối thị trường lao
động bằng lao động chuyên môn cao nước ngoài. Theo quan điểm quốc tế, khi tỉ lệ
người già trên 65 tuổi vượt trên 7% dân số thì gọi là già hóa dân số. Con số này ở
Nhật Bản từ năm 1970 đã là 7,1%, năm 1980 là 9,1%, 1990 là 12,1%, 2010 là 26%,
dự báo đến năm 2020 sẽ là 27,8% (số liệu của Viện nghiên cứu Đông Bắc Á – Viện
Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam). Hiện nay Nhật Bản đang phải nhập khẩu lao
động trong lĩnh vực công nghệ thông tin và một số lĩnh vực khác từ các nước Đông
Nam Á và Ấn Độ. Trong thời đại toàn cầu hóa, sự cạnh tranh ngày càng quyết liệt về
công nghệ và kinh tế đòi hỏi Nhật Bản phải tính đến một điều không mong muốn, đó
là nới lỏng chế độ cho người nhập cư, hoặc thực hiện chế độ nhập cư chính thức lao
động từ nước ngoài.
Lao động chuyên môn cao nước ngoài cũng góp phần giúp hiệu quả tài chính
của các nước tiếp nhận lao động được cải thiện đáng kể. Một nghiên cứu mới đây
của Đại học London (Anh) cho biết trong năm 2008-2009, những người nhập cư từ
Đông Âu đóng thuế cho nước Anh nhiều hơn 37% so với mức phúc lợi họ được
nhận.Tại Mỹ, Hội đồng Cố vấn kinh tế của Tổng thống cũng ước tính nền kinh tế
đầu tàu thế giới mỗi năm thu được khoảng 37 tỷ USD nhờ những người nhập cư và
trên 10% số người tự kinh doanh là người nhập cư.
Tuy nhiên, bên cạnh những yếu tố tích cực, di cư quốc tế lại là vấn đề gây không
ít phiền toái đối với nhiều nước. Lao động nhập cư gây ra nhiều vấn đề cho nước
nhập cư. Sự phân biệt đối xử, sự chênh lệch về trình độ dân trí, sự khác biệt về văn
hóa, xã hội cũng là mầm mống gây xung đột xã hội. Đối với lao động chuyên môn
cao nước ngoài, các tác động tiêu cực không nhiều đối với các nước tiếp nhận lao
động. Tuy nhiên, nếu khung khổ luật pháp không rõ ràng và hợp lý, lao động chuyên
môn cao nước ngoài sẽ làm mất cân đối thị trường lao động, gây thiếu hụt lao động ở
ngành cần lao động và gây dư thừa lao động ở những ngày không cần lao động, dẫn
đến những xung đột xã hội và gánh nặng tài chính cho lao động nhập cư. Lao động
nước ngoài chuyên môn cao làm giảm động lực đào tạo kỹ năng cho lao động trong
nước, khiến lao động trong nước thường bị giảm mức lương và ngày làm. Tại Mỹ,
trong một số ngành nhập khẩu nhiều lao động kỹ năng cao như tin học, thí nghiệm
sinh hóa, lao động nhập khẩu đã lấy đi nhiều việc làm của lao động trong nước [18].
37
Tại châu Âu, kể từ khi cơ chế tự do đi lại dành riêng cho hơn 400 triệu người ở EU
ra đời vào năm 1995, do có vị trí gần nhất với châu Phi, Italia đã trở thành "cửa
khẩu" để những người vượt biên có thể nhập cư vào các nước Châu Âu. Kể từ khi
bất ổn nổ ra tại khu vực Bắc Phi, theo thống kê, có tới hơn 25.000 người vượt biển
sang các đảo ở miền Nam Italia. Điều này khiến Italia đã ra quyết định cấp thị thực
Schengen 3 tháng cho những người này cùng với quyền di chuyển khắp Châu Âu,
trong đó có Pháp. Động thái này khiến Pháp và Italia xảy ra bất đồng bởi Pháp
không muốn chịu những áp lực của dòng người di trú đang có xu hướng tăng nhanh.
Cùng với Pháp, nhiều quốc gia EU cũng dần cảm nhận được sự bất cập của hệ thống
đi lại tự do không cần visa, không bị kiểm soát ở đường biên giới khi tỷ lệ tội phạm
gia tăng đồng hành với tỷ lệ nhập cư. Hậu quả là có tới 15/25 thành viên Hiệp ước
Schengen đã ủng hộ việc xem xét lại chính sách đi lại tự do trong Châu Âu. Đan
Mạch đã đơn phương thiết lập vĩnh viễn các trạm kiểm soát biên giới nhằm giải
quyết tình trạng tội phạm và nhập cư bất hợp pháp. Tuy nhiên, việc thay đổi hiệp
định đã tồn tại suốt 16 năm qua đang có nguy cơ thổi bùng một cuộc tranh cãi lớn
hơn trong nội bộ EU, giữa một bên là Áo, Đức, Hà Lan - những quốc gia không
muốn vác thêm gánh nặng người nhập cư trong hoàn cảnh nợ công đang kéo dài và
khó giải quyết như hiện nay. Hiệp ước Schengen nhằm tạo điều kiện tự do đi lại cho
công dân toàn EU, và một trong số những mục đích đó là thu hút lao động chuyên
môn cao từ các nước EU mới sang làm việc tại các nước EU cũ. Tuy nhiên, những
bất cập của làn sóng lao động dịch chuyển ồ ạt sang EU15 khiến các nước này đang
gặp phải nhiều gánh nặng trong việc giải quyết các vấn đề xã hội trong nước.
38
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Từ những nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về chính sách thu hút lao
động chuyên môn cao nước ngoài, tác giả đi đến một số kết luận sau đây:
Thứ nhất, di chuyển lao động chuyên môn cao nước ngoài là một xu hướng
tất yếu của di cư lao động quốc tế. Trong thế giới có nhiều thay đổi về chất, cùng với
xu hướng toàn cầu hóa, các cuộc cách mạng khoa học công nghệ cuối thập niên
1990, lao động nước ngoài đang có xu hướng thay đổi từ lao động phổ thông, kỹ
năng thấp, sang lao động chuyên môn cao để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế của
các quốc gia đang khan hiếm lao động chuyên môn cao. Những nghiên cứu về cơ sở
lý luận cho thấy, lao động chuyên môn cao nước ngoài có những đặc điểm cá biệt so
với lao động nước ngoài nói chung, lao động phổ thông nói riêng. Chính vì vậy, hệ
thống chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài cũng rất rõ ràng, ngày
càng được điều chỉnh mang tính ưu đãi hơn nhằm thu hút lao động chuyên môn cao.
Đóng góp của lao động chuyên môn cao nước ngoài so với lao động phổ thông đối
với cả nước tiếp nhận, nước gửi lao động, và trên phạm vi toàn cầu luôn mang tính
hai mặt: tích cực và tiêu cực.
Thứ hai, xét về bối cảnh lịch sử, lao động chuyên môn cao nước ngoài trên
thế giới bắt đầu phát triển mạnh mẽ từ thập niên 1990s, sôi động ở thập niên 2000s
trở lại đây. Số lượng lao động và chất lượng lao động chuyên môn cao nước ngoài
ngày càng được cải thiện. Ngoài một số khu vực tiếp nhận lao động chuyên môn cao
nước ngoài truyền thống như Mỹ, EU, Australia, New Zealand, các khu vực khác
trên thế giới bao gồm cả các nước đang phát triển cũng đang nỗ lực điều chỉnh chính
sách để thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài.
Thứ ba, lao động chuyên môn cao nước ngoài đem lại những tác động đa
chiều cả ở những nước tiếp nhận và những nước gửi lao động. Chính vì thế, rất cần
phải có sự phối hợp chính sách ở cả nước tiếp nhận và nước gửi lao động để có thể
tận dụng những đóng góp của lao động chuyên môn cao nước ngoài, đồng thời hạn
chế những tác động tiêu cực hoặc những tác động không mong muốn của lực lượng
lao động này đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt ở các nước tiếp nhận lao
động, cần có những chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài ổn định
nhất để bù đắp những thiếu hụt về nguồn lực, tri thức, công nghệ, kỹ năng và giúp
nền kinh tế quốc gia tham gia hiệu quả hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.
39
Chương 2
THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH THU HÚT LAO ĐỘNG CHUYÊN MÔN CAO
NƯỚC NGOÀI TRÊN THẾ GIỚI: TRƯỜNG HỢP SINGAPORE VÀ TRUNG
QUỐC
2.1. TỔNG QUAN LAO ĐỘNG CHUYÊN MÔN CAO NƯỚC NGOÀI Ở KHU
VỰC CHÂU Á
2.1.1. Thực trạng lao động chuyên môn cao nước ngoài ở khu vực châu Á
Châu Á là khu vực có tỷ lệ lao động di cư sang nước ngoài đông nhất , đồng
thời cũng là nơi tiếp nhận lao động nước ngoài đông nhất trong nhóm nước đang
phát triển. Trong những năm gần đây, châu Á là nơi cung cấp lao động lớn nhất ra
thế giới, đặc biệt là vào các nước OECD. Đặc điểm chung của lao động châu Á là có
trình độ giáo dục và kỹ năng cao. Vào giữa thập niên 2000s, có tới 15,5 triệu người
châu Á độ tuổi 15 trở lên sinh sống ở các nước OECD, chiếm tới 17% trong tổng số
người lao động có quốc tịch nước ngoài sinh sống ở OECD. Người châu Á chiếm
đông nhất ở Canada (33% năm 2005/06), ở Anh (29%), ở Australia (28%) và ở Mỹ
(19%) [65], trong đó đông nhất là người Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Philippin và
Việt Nam, tiếp theo là người Nhật Bản và Hàn Quốc. Khoảng 49% người châu Á di
cư ra nước ngoài có trình độ giáo dục cao và tỷ lệ người châu Á có giáo dục cao
ngày càng tăng nhanh hơn kể từ năm 2000 trên thị trường lao động quốc tế. Chẳng
hạn, trong giai đoạn 5 năm (2000-2005), những người châu Á lao động tại các nước
OECD có trình độ đại học trở lên đã tăng từ 52% lên 56%. Tại các nước tiếp nhận
lao động chuyên môn cao như Australia, Canada, New Zealand, người nước ngoài
châu Á có giáo dục cao còn được phép mang theo gia đình, khiến lao động nước
ngoài người châu Á trên các thị trường này ngày càng tăng. Tại một số nước phát
triển, sinh viên châu Á được khuyến khích ở lại làm việc ngắn hạn sau khi ra trường.
Châu Á cũng là địa điểm hấp dẫn người nước ngoài đến làm việc và sinh
sống. Theo đánh giá của Ủy ban toàn cầu về di cư quốc tế (GCIM) năm 2005, những
nước châu Á chủ yếu có người dân di cư ra nước ngoài là Trung Quốc, Philippin, Ấn
Độ, Bangladesh, Srilanca, Pakistan, Cambodia, Indonesia, Myanmar, Lào, Việt Nam,
Nepal; Những nước châu Á chủ yếu nhập cư lao động nước ngoài là Hàn Quốc, Nhật
Bản, Đài Loan, Hồng Kong, Singapore và Brunei. Chỉ có hai nước có luồng di cư và
40
nhập cư lao động tương đối cân đối, đó là Malaysia và Thái Lan. Vào năm 2001, các
nước châu Á kể trên có tổng số lượng lao động nước ngoài là 6.053.967 người, trong
đó Nhật Bản có khoảng 870.000 người nước ngoài, Hàn Quốc có khoảng 423.597
người nước ngoài, Đài Loan khoảng 600.177 người nước ngoài, Singapore khoảng
580.000 người nước ngoài, Malaysia (1.359.500 người), Thái Lan (1.623.776), Hồng
Kong (216.863), Brunei (91.800), Macau (27.000), Trung Quốc (90.000), Việt Nam
(30.000), Indonesia (91.736), Philipin (9.168) và Myanmar (40.350) [46]. Vào năm
2010, lao động nước ngoài chiếm tới 46,3% trong tổng lực lượng lao động của
Brunei, chiếm 40,5% ở Maldives, 36% ở Singpapore, 16,7% ở Malaysia, 7,5% ở
Hong Kong, 3,8% ở Đài Bắc, 3,5% ở Thái Lan, 2,1% ở Hàn Quốc và 1,1% ở Nhật
bản [65].
Hình 2.1. Dòng lao động di chuyển trong khu vực Đông Nam Á
Nguồn: Graeme Hugo (2005), Migration in the Asia-Pacific Region, Global
Commission on international migration (GCIM), September.
Lĩnh vực thu hút lao động nước ngoài ở khu vực châu Á chủ yếu là xây dựng,
công nghiệp chế tạo, nông nghiệp, dịch vụ, chăm sóc sức khỏe, nhà hàng khách sạn,
hộ lý v.v... Tại Malaysia, trong tổng số 1,941 triệu người lao động nước ngoài năm
2010, có 671 nghìn người làm việc trong ngành chế tạo, 301 nghìn người làm việc
trong ngành xây dựng, 500 nghìn người làm việc trong ngành nông nghiệp và ngư
nghiệp, 227 nghìn người làm việc trong ngành dịch vụ [65]. Hay tại Nhật Bản, năm
2010 có 694 nghìn lao động nước ngoài, trong đó có 265 nghìn lao động là việc ở
41
ngành chế tạo, 75 nghìn người làm trong các nhà hàng khách sạn, còn lại là các
ngành nghề kinh doanh khác [65].
Bảng 2.1. Lao động nước ngoài ở các nước châu Á năm 2010-2011 (nghìn
người)
Điểm đến
Nước gửi lao động ra nước ngoài
Nepal Bangladesh Indonesia Srilanca Thailand Ấn Độ
Pakistan Philippin Việt Nam
2010/11
2010
2011
2010
2011 2010 2008
2010
2010
Năm
1
11
3
1
66
8
Brunei
76
48
37
28
Đài bắc
50
3
22
101
Hongkong
1
134
4
4
21
2
10
12
Malaysia
106
39
48
1
11
16
70
42
323
10
78
21
2
264
49
107
0
2
0
9
-
45
6
5
Singapore Châu Á a Nhật Bản
1
3
11
5
11
-
2
12
9
4
3
14
5
20
-
2
18
14
4
287
18
8
241
204
228
610
421
661
7
19
2
23
0
4
73
0
1
37
5
16
3
4
1
22
0
1
Hàn Quốc Châu Áb Vùng Vịnh OECDc MENAd Khác
0
15
15
82
5
1
6
1
14 Nguồn: OECD (2012), The changing role of Asia in international migration,
trong “International Migration outlook 2012”, trang 169
Ghi chú: (a) Các nước châu Á không phải thành viên OECD; (b) Các nước châu Á là thành viên OECD; (c) Các nước OECD không phải châu Á; (d) Các nước bắc Phi và Trung Đông
Một điều đáng chú ý là, lao động nước ngoài trên thị trường châu Á chủ yếu
đến từ các quốc gia trong nội bộ khu vực. Chẳng hạn tại Đông Nam Á, lao động
nước ngoài đến từ các nước Đông Nam Á láng giềng hoặc Singapore hoặc một số
nước Nam Á như Ấn Độ, Pakistan, Srilanca.... Người lao động nước ngoài đến từ
các nước công nghiệp phát triển Âu – Mỹ chiếm tỷ lệ rất thấp.
Trong năm 2010-2011, tại các điểm đến hấp dẫn đối với người nước ngoài ở
khu vực châu Á là Brunei, Đài Bắc, Hongkong, Malaysia, Singapore, Nhật Bản, Hàn
Quốc và các nước châu Á khác, lao động nước ngoài chủ yếu đến từ Nepal,
Bangladesh, Indonesia, Srilanka, Thái Lan, Ấn Độ, Pakistan, Philippin và Việt Nam.
42
Lao động chuyên môn cao nước ngoài ngày càng tăng nhanh trên thị trường
lao động châu Á, đặc biệt là sinh viên nước ngoài sau khi tốt nghiệp đã ở lại làm việc
trên các thị trường này. Tại Malaysia năm 2010 có khoảng 87.000 sinh viên quốc tế,
trong đó 50% số sinh viên này có quốc tịch châu Á, chủ yếu là Iran (12.000), Trung
Quốc (10.000) và Indonesia (10.000) [Malaysian – Department of the Treasury,
2012.] Ngoài ra, châu Á cũng là thị trường thu hút nhiều lao động nước ngoài đến từ
các nước châu Âu, Mỹ, Canada, Australia, New Zealand và các khu vực khác trên
thế giới.
Bảng 2.2. Lao động nước ngoài trên thị trường lao động châu Á năm
2010 tính theo quốc tịch (%)
Nguồn: Shandre Mugan Thangavelu (2012), Economic growth, welfare and
foreign workers: case of Singapore, National University of Singapore, trang 14.
Đi cùng với động thái thu hút lao động trong nội bộ khu vực, các nước châu Á
hiện nay đang là điểm đến hấp dẫn của lao động châu Âu, Châu Mỹ và các khu vực
khác trên thế giới. Vào năm 2010, tại thị trường Nhật Bản, lao động nước ngoài có
quốc tịch Đông Á chiếm 55,8%, Đông Nam Á chiếm 15,3%, nam Á chiếm 2,4%,
trong khi đó lao động nước ngoài có quốc tịch châu Âu chiếm 2,4%, Australia và
New Zealand chiếm 0,7%, Bắc Mỹ chiếm 2,9% và các khu vực khác chiếm 20,6%.
Hay tại Hàn Quốc, người châu Âu chiếm 1,1% trong tổng số lao động nước ngoài ở
nước này, người Australia và New Zealand chiếm 0,7%, người Bắc Mỹ chiếm 8% và
các khu vực khác chiếm 10,2% [70].
43
Nhìn chung, kể từ thập niên 2000 trở lại đây, các nước châu Á đang rất cố
gắng để thu hút nhân tài nước ngoài phục vụ cho sự phát triển kinh tế xã hội của đất
nước. Tuy chưa nhiều nước châu Á áp dụng hệ thống chính sách thu hút lao động
chuyên môn cao nước ngoài, nhưng thực trạng trên cho thấy lao động chuyên môn
cao nước ngoài đang ngày càng trở thành tài sản tri thức và nhân lực vô cùng quý giá
đối với cả những nước khan hiếm lao động tài năng cũng như đối với những nước dư
thừa lao động nhưng vẫn rất cần lao động chuyên môn cao từ nước ngoài.
2.1.2. Đánh giá chung về lao động chuyên môn cao nước ngoài ở khu vực
châu Á
Theo nghiên cứu của McKinsey (2013), trong một thập kỷ tới châu Á sẽ nổi lên
với vị trí là trung tâm của lao động và các phát kiến của toàn thế giới với hai điểm
sáng là Trung Quốc và Ấn Độ. Lao động chuyên môn cao nước ngoài đến thị trường
châu Á ngày càng tăng bởi một số nhân tố sau đây:
Thứ nhất, châu Á đang trở thành khu vực có môi trường thuận lợi đối với lao
động nhập cư. Điều này đáp ứng tốt động cơ và sự thuận lợi của lao động chuyên
môn cao nước ngoài (xem lại Hình 1.1.). Sự phát triển kinh tế của nhiều nước châu
Á (đặc biệt là ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á) đang đem lại sự giàu có cho
người dân, mở rộng các cơ hội việc làm, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư
và kinh doanh nước ngoài. Theo Báo cáo đầu tư thế giới năm 1995 (Wordl
Investment Report 1995), châu Á – Thái Bình Dương, đặc biệt là Đông và Đông
Nam Á nổi lên là khu vực năng động nhế trên toàn thế giới. Nhiều chuyên gia nghiên
cứu cho rằng thế kỷ XXI là thế kỷ của châu Á. Các nền kinh tế công nghiệp hóa mới
(NIEs), ASEAN, Trung Quốc đều đạt được mức tăng trưởng trung bình rất cao, từng
bước nâng cao thu nhập bình quân đầu người. Góp phần vào những thành công đó,
phải kể đến vai trò của giáo dục và sự phát triển khoa học công nghệ. Đặc tính chung
của xã hội Đông Á là luôn có ý thức vươn lên trình độ trên trung học và học vấn cao
hơn. Vì vậy, thành tựu giáo dục ở Đông Á trong mấy thập niên lại đây rất gây ấn
tượng. Điều này lại góp phần to lớn vào việc nâng cao năng suất lao động và phát
triển trình độ sản xuất. Hơn nữa, kinh tế phát triển khiến điều kiện sống và thái độ xã
hội ở nhiều nước châu Á ngày càng cởi mở hơn với thế giới bên ngoài. Sự ổn định
chính trị và xã hội trong khu vực đã tạo điều kiện thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế
và phát triển nhanh chóng trong các thập niên vừa qua và trong tương lai. Đây chính
44
là điều kiện thuận lợi đối với lực lượng lao động chuyên môn cao nước ngoài. Theo
kết quả nghiên cứu mà ngân hàng HSBC công bố ngày 30/10/2013, châu Á là một
trong những nơi được những người nước ngoài đến làm việc xếp hàng đầu về chất
lượng cuộc sống. Có 5 quốc gia và vùng lãnh thổ châu Á nằm trong bảng xếp hạng
những địa điểm làm việc được ưa thích nhất: Thái Lan đầu bảng, Trung Quốc đứng
hạng 3, Singapore hạng 6, Ấn Độ hạng 7 và Đài Loan hạng 8. Hơn 1/3 những người
làm việc ở châu Á đánh giá là cuộc sống xã hội của họ phong phú lên từ khi chuyển
đến châu lục này, trong khi đó tỉ lệ những người đánh giá về cuộc sống xã hội phong
phú trên thế giới là 26%. Ông Dean Blackburn - Giám đốc phụ trách bản nghiên cứu
hàng năm Expat Explorer của HSBC cho biết châu Á còn được đánh giá cao vì giúp
người lao động ngoại quốc mở rộng tầm nhìn về mặt xã hội. Những người đi làm
việc ở nước ngoài mang theo gia đình con cái lại có những ưu tiên khác.
Thứ hai, một số nước châu Á bắt đầu chú trọng đến chính sách thu hút lao
động chuyên môn cao nước ngoài bởi những thiếu hụt nguồn cung. Một số nước
châu Á đang gặp phải vấn đề già hóa dân số (như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore),
trong khi một số nước châu Á khác đang thiếu hụt lao động chuyên môn cao (đặc
biệt là những nước đông dân như Indonesia, Việt Nam, Thái Lan). Mặc dù dân số
ASEAN hiện nay được đánh giá là trẻ, nhưng theo dự báo xu hướng già hóa dân số ở
ASEAN sẽ bắt đầu từ năm 2030, với tỷ lệ người già trên 60 tuổi ở Indonesia sẽ
chiếm 16% dân số, ở Philippin sẽ là 11,3% và Việt Nam là 18,2%, Singapore là
35,6%, Thái Lan 21,6% (số liệu của Hiệp hội các nước ASEAN, 2012).Chính vì vậy,
các nước ASEAN đang nhanh chóng thực thi các chính sách giải quyết vấn đề suy
giảm dân số theo cách mà Singapore đã làm trong vài năm gần đây nhờ chính sách
thu hút nhân tài nước ngoài bên cạnh đẩy mạnh chất lượng dân số. Nhiều nước châu
Á đã nỗ lực xóa bỏ các rào cản đối với lao động chuyên môn cao nước ngoài, thực
hiện chính sách hỗ trợ lao động chất lượng cao cả về lương và thời hạn lao động dài
hạn. Malaysia đã áp dụng hệ thống giấy phép 10 năm đối với lao động chất lượng
cao và đưa ra các quy chế định cư dài hạn đối với lao động chuyên môn cao nước
ngoài. Nhật Bản và Hàn Quốc trong thời gian gần đây đã áp dụng các điều kiện
thuận lợi cho nhập cư lao động kỹ năng cao, cho phép họ tiếp cận các điều kiện định
cư lâu dài. Vào năm 2012, Nhật Bản đã áp dụng hệ thống chấm điểm, cho phép lao
động chuyên môn cao nước ngoài được định cư tại Nhật sau 5 năm (trước đây là 10
45
năm) làm việc ở Nhật và đáp ứng được những yêu cầu về mức lương, kinh nghiệm
làm việc, trình độ giáo dục, tuổi và ngoại ngữ. Cơ chế này rất cởi mở đối với các nhà
học giả nước ngoài, các chuyên gia kỹ thuật tay nghề cao, các nhà quản lý, các
chuyên gia trong lĩnh vực kinh doanh. Tại Hàn Quốc, hệ thống chấm điểm cũng
được áp dụng từ năm 2010 dựa trên độ tuổi, bằng cấp, tiếng Hàn và kinh nghiệm làm
việc. Cơ chế này tạo điều kiện thuận lợi cho lao động nước ngoài có chuyên môn cao
muốn ở lại định cư lâu dài tại Hàn Quốc. Còn tại các nước ASEAN, những thỏa
thuận hợp tác lao động song phương giữa các quốc gia châu Á trong thời gian gần
đây, đặc biệt là việc thực hiện Cộng đồng ASEAN vào năm 2015 đã giúp cho việc di
chuyển lao động chuyên môn cao trong khu vực này ngày càng trở nên thuận lợi.
Trong lộ trình xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN 2015, các quốc gia thành viên
phải thực hiện cam kết về tự do luân chuyển lao động. Trong Hiệp định ASEAN về
di chuyển thể nhân được các nước thành viên ký kết năm 2012 có ghi: "Các quốc gia
cần tạo điều kiện thuận lợi cho việc di chuyển thể nhân, hướng tới tự do hóa lao
động có kỹ năng trong ASEAN". Cho đến nay ASEAN đã thực hiện miễn thị thực
cho công dân các quốc gia thành viên đi lại trong khối. Trong tương lai không xa
cùng sự ra đời của Cộng đồng kinh tế ASEAN, người lao động có thể tự do luân
chuyển công việc. Đối với doanh nghiệp, cơ hội tiếp cận nguồn nhân lực tốt, có chất
lượng là không hề nhỏ. Song thách thức trong việc xây dựng chiến lược quản lý và
giữ chân nhân sự để tránh dẫn tới hiện tượng chảy máu chất xám lại lớn hơn rất
nhiều.
Thứ ba, lao động chuyên môn cao nước ngoài ở khu vực châu Á chủ yếu là
lao động di chuyển nội bộ khu vực bởi những nhân tố phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế.
Sự phụ thuộc lẫn nhau này bắt nguồn từ việc phát triển kinh tế theo mô hình Đàn
nhạn bay đứng đầu là Nhật Bản sang các nước Đông Á, sau đó dịch chuyển dần sang
các nước Đông Nam Á. Điều này thấy rõ trong cơ cấu thương mại và đầu tư nội bộ
khu vực Đông Á. Hơn nữa, những hiệp định thương mại tự do giữa ASEAN với
Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, khiến Đông Á trở thành một thị trường tương đối
thống nhất. Một điều dễ nhận thấy là hầu hết các hiệp định di chuyển lao động quốc
tế ở khu vực châu Á là các hiệp định song phương, phản ánh mức độ ưu tiên khác
nhau trong thu hút lao động nước ngoài. Chỉ có ASEAN là đang tiến hành thực hiện
EAC với mục tiêu sẽ di chuyển lao động kỹ năng nội bộ khối vào năm 2015. Các
46
hiệp định song phương giữa các nước châu Á là nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho di
chuyển lao động kỹ năng, chẳng hạn như Hiệp định đối tác kinh tế được ký kết giữa
Nhật Bản và Philippines, Nhật Bản và Indonesia, trong đó có những điều khoản về
việc cho phép lao động kỹ năng cao của Philippines và Indonesia sang Nhật Bản làm
việc trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe; Ấn Độ cũng có những ưu tiên trong các hiệp
định thương mại tự do được ký kết với các nước châu Á khác, trong đó mở ra những
cơ hội cho lao động chuyên môn cao châu Á sang làm việc ở Ấn Độ. Một vài nước
châu Á đã ký kết các hiệp định công nhận lẫn nhau trong giáo dục bậc cao, điển hình
là Malaysia và Trung Quốc, nhằm tạo thuận lợi cho việc di chuyển lao động chuyên
môn cao nội bộ giữa hai nước. Chính vì vậy, lực lượng lao động chuyên môn cao
nước ngoài chiếm phần lớn trong nội khối châu Á, đặc biệt là ở các nước Đông Á,
Đông Nam Á và Nam Á.
Tuy nhiên, di cư lao động chuyên môn cao nước ngoài ở khu vực châu Á có
sự phân tầng rõ rệt. Ở những nước có thu nhập đầu người cao (như Nhật Bản, Hàn
Quốc, Singapore) và ở những nước có khả năng giao tiếp tốt bằng tiếng Anh, có xã
hội tương đối cởi mở (như Singapore, Philippines, Thái Lan), lao động chuyên môn
cao nước ngoài đến từ các nước châu Âu, châu Mỹ có tỷ lệ lớn hơn các nước khác
trong khu vực châu Á. Tuy nhiên, ở các nước này, tỷ lệ lao động nội khối vẫn chiếm
phần lớn trong lực lượng lao động chuyên môn cao nước ngoài. Ở những nước có
trình độ phát triển thấp hơn, thu nhập đầu người thấp hơn, lao động chuyên môn cao
nước ngoài chủ yếu đến từ các nước láng giềng. Xu hướng chung của lao động
chuyên môn cao nước ngoài ở các nước châu Á là tập trung ở những ngành chế tạo
và dịch vụ, tuy nhiên nhóm ngành ưu tiên lao động chuyên môn cao nước ngoài có
sự khác nhau giữa các nước. Tại Nhật Bản và Hàn Quốc và Singapore, lao động
chuyên môn cao nước ngoài chủ yếu tập trung trong ngành chăm sóc sức khỏe, y tế,
phần lớn tập trung trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Lao động chuyên môn cao
nước ngoài ở Hàn Quốc, Nhật Bản phải vượt qua các yêu cầu khắt khe về ngôn ngữ,
trình độ chuyên môn, tuổi, bằng cấp, mức lương và những điều kiện khắt khe về
những người phụ thuộc. Nhật Bản và Hàn Quốc cũng có những yêu cầu khác nhau
về nghề nghiệp của lao động chuyên môn cao nước ngoài, phụ thuộc vào quốc tịch
của người lao động. Chẳng hạn, trong Hiệp định đối tác kinh tế mà Nhật Bản ký với
Thái Lan, phía Nhật Bản chỉ tuyển dụng lao động chuyên môn cao người Thái Lan
47
trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe và thẩm mỹ viện, trong khi trong Hiệp định đối tác
kinh tế Nhật Bản – Việt Nam, phía Nhật chỉ tuyển dụng lao động chuyên môn cao
người Việt Nam trong lĩnh vực y tá và chăm sóc sức khỏe. Chỉ tiêu đối với lao động
chuyên môn cao nước ngoài ở Nhật Bản và Hàn Quốc là rất hạn hẹp.
Còn tại các nước châu Á khác, các lĩnh vực cần tuyển lao động chuyên môn cao
nước ngoài cũng rất khác nhau.Ấn Độ ưu tiên tuyển dụng lao động chuyên môn cao
nước ngoài trong lĩnh vực thông tin; Singapore chú trọng tuyển dụng lao động
chuyên môn cao nước ngoài trong nhiều ngành chế tạo, dịch vụ, những ngành có liên
quan đến nguồn vốn đầu tư nước ngoài; Philippines chủ yếu tuyển dụng lao động
chuyên môn cao nước ngoài trong ngành chế tạo. Các nước ASEAN đều có nhu cầu
trao đổi lao động có kỹ năng, chuyên môn với nhau trong các ngành kế toán, cơ khí,
kỹ sư thiết kế, điện tử và những ngành có liên quan. Theo Cơ quan xúc tiến thương
mại quốc tế của Nhật Bản (JETRO), hiện ASEAN thiếu khoảng 54,1% lao động kỹ
năng trong ngành cơ khí và 39,7% lao động kỹ năng trong ngành điện, điện tử. Các
thỏa thuận về trao đổi lao động có kỹ năng, chuyên môn hiện vẫn còn đang trong giai
đoạn đầu của sự hợp tác, do vậy rất cần có sự trợ giúp của các chính phủ.
Thứ tư, lao động chuyên môn cao nước ngoài có những đóng góp tích cực cho
phát triển kinh tế ở các nước châu Á. Trước hết, lao động chuyên môn cao nước
ngoài giúp các nước châu Á khắc phục được những thiếu hụt lao động ở thị trường
trong nước. Nhật Bản hiện nay đang phải đối mặt với tình trạng số lượng kỹ sư trẻ và
nhân viên trong các ngành liên quan tới công nghệ ngày một thu hẹp dần. Điều này
khiến các công ty buộc phải tuyển dụng những nhân viên nước ngoài, hoặc gửi yêu
cầu công việc ra nước ngoài, nơi có nhiều kỹ sư liên quan tới chuyên ngành công
nghệ như Việt Nam, Ấn Độ. Chỉ tính riêng ngành công nghiệp kỹ thuật số, Nhật
đang thiếu chừng nửa triệu kỹ sư. Nhật Bản đã dần dần tiếp nhận thêm nhiều kỹ sư
nước ngoài, nhưng không thể đáp ứng nổi nhu cầu sử dụng của ngành công
nghiệp. Theo thống kê của chính phủ, Nhật có 157.719 lao động nước ngoài làm việc
trong các ngành đòi hỏi chuyên môn cao trong năm 2006, tăng gấp đôi so với một
thập niên trước, nhưng vẫn kém xa so với Mỹ. Kết quả điều tra dư luận năm trước
của Bộ Kinh tế Nhật cho thấy, 79% công ty Nhật nói, họ không có kế hoạch thuê kỹ
sư nước ngoài để bù đắp những thiếu hụt nguồn cung trong nước. Lao động chuyên
môn cao nước ngoài có nhiều đóng góp trong việc xây dựng nền kinh tế tri thức ở
48
khu vực châu Á. Các chuyên gia nước ngoài đem lại nhiều đóng góp tổng thể cho
nền kinh tế Malaysia, Thái Lan, Indonesia, Philippine và Việt Nam, kể cả trong
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đào tạo lao động kỹ năng trong nước, đóng góp vào giá
trị gia tăng của các ngành kinh tế, góp phần nâng cao năng suất lao động trong các
ngành kinh tế.
Hơn nữa, lao động chuyên môn cao nước ngoài còn có nhưng đóng góp quan
trọng đối với nước châu Á có lao động di cư, góp phần xóa đói giảm nghèo và tăng
cường các cơ hội học tập, làm ăn kinh doanh ở trong nước. Theo đánh giá của Ngân
hàng thế giới 2013, trong số 10 nước tiếp nhận kiều hối lớn nhất năm 2013 trên thế
giới, có 6 nước thuộc về châu Á, đó là Ấn Độ (71 tỷ USD, đứng thứ nhất), Trung
Quốc (60 tỷ USD, đứng thứ 2), Philippines (22 tỷ USD, đứng thứ 3), Bangladesh và
Pakistan (15 tỷ USD mỗi nước, đứng thứ 7 và 8), Việt Nam (11 tỷ USD, đứng thứ
9). Ở một số nước ASEAN, kiều hối có những đóng góp rất cơ bản trong chi tiêu
dùng và trong GDP của mỗi nước.
Bảng 2.3. Kiều hối và tầm quan trọng đối với kinh tế của nước gửi lao động
ra nước ngoài
Nước
Tỷ lệ tăng của kiều hối (2001 – 2008) Tỷ lệ tăng của các khoản chi cho tiêu dùng (2001-2008) Phần đóng góp của kiều hối trong GDP (%, 2007)
Việt Nam Thái Lan Lào Malaysia Indonesia Philippines Campuchia Ước tính kiều hối của lao động di cư (triệu USD, 2008) 5500 1800 1 1810 6500 18669 353 13 13 10,4 14,6 18,1 14,7 11,8 7,90 0,70 0 1 1,50 11,6 4,20 15,5 5,3 2,6 12,5 29,8 17,2 14,9
Nguồn: Ngân hàng Thế giới, 2010
Tuy không có số liệu phân biệt rõ kiều hối của lao động chuyên môn cao và kiều
hối của lao động không có kỹ năng, nhưng thực tế cho thấy, ngoài việc bảo đảm các
chi phí cho việc học hành của con trẻ, cho tiêu dùng (cải thiện nhà ở, mua sắm trang
thiết bị sinh hoạt…), kiều hối còn mang đến những khoản đầu tư sinh lời về thiết bị
hay mua đất trong những dự án khai thác nhỏ. Kiều hối ở một số nước châu Á đã
tăng rất nhanh trong vòng 10 năm qua, đóng vai trò chủ chốt trong phát triển nông
49
nghiệp và trong các hoạt động phi nông nghiệp ở nông thôn (doanh nghiệp nhỏ).
Kiều hối rõ ràng có tác động tới tình trạng đói nghèo và phân biệt tầng lớp trong xã
hội và tạo động lực tốt cho phát triển kinh tế của nhiều nước châu Á.
2.2. CHÍNH SÁCH THU HÚT LAO ĐỘNG CHUYÊN MÔN CAO
NƯỚC NGOÀI CỦA SINGAPORE
2.2.1. Nguyên nhân dẫn tới việc thu hút lao động chuyên môn cao nước
ngoài của Singapore
2.2.1.1. Các nguyên nhân kinh tế:
Chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài của Singapore gắn
liền với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước này. Khi tách khỏi Malaysia trở
thành nước độc lập vào năm 1965, thủ tướng Singapore lúc bấy giờ là ông Lý Quang
Diệu và Đảng PAP đã quyết định đưa Singapore trở thành một nước tư bản phát triển
với chiến lược kinh tế hướng vào xuất khẩu. Trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế,
Singapore là nước hầu như không có tài nguyên thiên nhiên, nguyên liệu chủ yếu
phải nhập từ bên ngoài, nông nghiệp không phát triển. Chiến lược mở cửa kinh tế đã
khuyến khích các công ty xuyên quốc gia và dòng vốn đầu tư nước ngoài liên tục đổ
vào Singapore. Do không có lợi thế về nguồn tài nguyên thiên nhiên, Singapore đã
thực hiện nền kinh tế mở cửa bằng việc mua các hàng hoá chưa gia công và chế biến
chúng để xuất khẩu. Mô hình kinh tế giảm tối đa sự can thiệp của nhà nước và tận
dụng lợi thế cảng biển đã đưa Singapore trở thành nơi trung chuyển hàng hóa lớn
nhất trong khu vực Đông Nam Á. Vào năm 1995, Singapore trở thành quốc gia có tỷ
lệ đầu tư tư nhân cao nhất trên thế giới và thu hút 5000 công ty xuyên quốc gia hàng
đầu thế giới đến Singapore đầu tư và sản xuất [55].
Quá trình phát triển kinh tế của Singapore có thể được chia làm 3 giai đoạn:
- Giai đoạn 1960-1970: nền kinh tế phát triển theo hướng thâm dụng lao động.
Ở giai đoạn này, tỷ lệ thất nghiệp ở Singapore rất cao. Năm 1968, chính phủ đã từ bỏ
chính sách công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu, chuyển sang thực hiện chính sách
công nghiệp hóa hướng vào xuất khẩu bằng cách thu hút đầu tư nước ngoài cho các
ngành tập trung nhiều lao động. Những ưu tiên trong giai đoạn 1960-1970 là mở
rộng hệ thống giáo dục, đặc biệt là giáo dục tiểu học và phổ thông trung học. Năm
1964, Singapore thành lập Viện dạy nghề Singapore, tập trung đào tạo nghề và kỹ
năng cho người lao động nhằm đáp ứng các nhu cầu của các ngành công nghiệp mới
50
thành lập ở đất nước. Vào năm 1968, Singapore thành lập Phòng giáo dục kỹ thuật,
trực thuộc Bộ Giáo dục để phát triển các chương trình đào tạo giáo viên và kỹ năng
cho học sinh từ cấp phổ thông trung học trở lên. Phòng giáo dục kỹ thuật được nhân
rộng số lượng tại Singapore trong thập kỷ 1970.
- Giai đoạn 1980-1999: Năm 1979, chính phủ Singapore thực hiện phát triển
kinh tế hướng về các ngành công nghiệp tập trung nhiều vốn, công nghệ và giá trị
gia tăng cao hơn. Cùng với sự phát triển của các ngành công nghiệp mới, hệ thống
giáo dục đào tạo của Singapore được cải tiến theo hướng thành lập các ngành học
mới như công nghệ điện điện tử, công nghệ ô tô v.v...Vào năm 1990, hệ thống đào
tạo công nghiệp được củng cố mạnh mẽ bởi việc thành lập Hệ thống học nghề mới
theo mô hình học nghề của Đức. Vào năm 1991, chính phủ công bố Kế hoạch kinh tế
mới, chuyển nền kinh tế Singapore sang giai đoạn phát triển mới. Mục tiêu là trong
vòng 30-40 năm sẽ đưa Singapore trở thành một nước phát triển hàng đầu thế giới.
Để thực hiện tham vọng này, chính phủ tập trung xây dựng các ngành công nghiệp
chế tạo và dịch vụ tiên tiến, khuyến khích các doanh nghiệp đa dạng hóa sản
xuất,nâng cấp công nghệ và đầu tư vào các nền kinh tế khác trong khu vực. Hệ thống
giáo dục đại học được chú trọng đầu tư, tập trung vào đào tạo kỹ năng thuần thục và
chất lượng nguồn nhân lực cao trong các lĩnh vực công nghệ cao, tập trung nhiều tri
thức và ngành dịch vụ.
- Giai đoạn từ năm 2000 đến nay: Chính phủ Singapore tập trung phát triển
kinh tế theo hướng đa dạng, năng động và hội nhập toàn cầu hóa. Cùng với đó,
Singapore đã xây dựng hệ thống các trường đại học được đánh giá là tốt nhất trên thế
giới. Tạp chí Financial Times năm 2009 đã xếp hạng các trường học kinh doanh trên
thế giới, trong đó Trường đại học quốc gia Singapore đứng thứ 11 và Trường kinh
doanh Nanyang xếp thứ 24 trên thế giới [Financial Times website, 2 May 2010.]
Trong giai đoạn này, kinh tế Singapore phát triển mạnh mẽ. Singapore hiện nay là
một trong số nước đang đứng đầu thế giới trong một số lĩnh vực kinh tế như: trung
tâm tài chính đứng thứ 4 thế giới, thị trường casino lớn thứ 2 thế giới, là 1 trong 3
nước lớn nhất thế giới về hóa dầu, là nước sửa chữa tàu thuyền có uy tín trên thế
giới, là 1 trong 5 nước có hệ thống cảng sôi động nhất thế giới. Ngân hàng Thế giới
đã xếp hạng Singapore là cửa ngõ hậu cần hàng đầu thế giới và Singapore là 1 trong
4 trung tâm ngoại thương lớn nhất thế giới sau London, New York và Tokyo. Tốc độ
51
tăng GDP của nền kinh tế hàng đầu Đông Nam Á trong năm 2010 14,7%, cao thứ 2
thế giới (xếp sau Qatar, tăng trưởng 16%). Đây cũng là con số ấn tượng nhất của nền
kinh tế hàng đầu Đông Nam Á trong vòng 40 năm, sau con số ấn tượng 13,8% năm
1970. Sự bùng nổ tại khu vực công nghiệp chế tạo là động lực chính giúp kinh tế
Singapore tăng trưởng mạnh trong năm qua.
Báo cáo của Ủy ban chiến lược kinh tế Singapore (ESC) công bố đầu tháng
6/2011 cho biết với đà tăng trưởng kinh tế hiện nay, mục tiêu 10 năm tới của
Singapore sẽ tập trung vào 7 chiến lược lớn, đặt nền móng cho sự phát triển bền
vững của đất nước trong tương lai. ESC cho biết vấn đề lớn nhất hiện nay là vấn đề
thiếu nhân lực và năng suất lao động chưa cao. Nếu năng suất lao động tăng lên từ
2% tới 3%, kinh tế Singapore sẽ tăng trưởng thêm từ 3% tới 5% [22]. ESC cho biết
7 chiến lược lớn nói trên tập trung vào 3 trọng điểm sau: Một là nâng cao trình độ
khoa học kỹ thuật và quản lý của các ngành, xây dựng một cơ chế chung toàn quốc,
đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục và bồi dưỡng tay nghề cho công nhân viên các doanh
nghiệp, từ đó làm các doanh nghiệp có nhiều nhân tài quản lý và kinh doanh. Hai là
nâng cao năng lực phát triển của các doanh nghiệp, nắm chắc thời cơ, đưa các doanh
nghiệp loại vừa trong thời gian từ 5 -10 năm tới vươn lên hàng đầu thế giới, trở
thành đầu tàu trong các doanh nghiệp Châu Á. Ba là xây dựng Singapore thành “đô
thị toàn cầu”, thu hút nhân tài các nước, đồng thời tăng cường đầu tư bồi dưỡng nhân
tài trong nước. Các kế hoạch phát triển kinh tế trong thời gian vừa qua và trong
tương lai của Singapore hàm ý những vấn đề thiết thực về nhu cầu lao động chuyên
môn cao.
2.2.1.2. Các nguyên nhân xã hội:
Vào năm 1965, dân số Singapore là 1,887 triệu người và năm 2012 đất nước
này có 5,3 triệu người (theo Ủy ban thống kê Singapore), trong đó có 3,25 triệu
người bản địa và số còn lại là người nước ngoài có quốc tịch Singapore. Con số này
thể hiện sức ép về nguồn cung lao động trong nước kể từ khi Singapore giành được
độc lập bởi với tốc độ tăng dân số giai đoạn 1965-2010 là 2,2% so với tốc độ tăng
trưởng GDP là 7,4% trong cùng giai đoạn thì Singapore không đủ nguồn nhân lực để
đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế nhanh như vậy của đất nước.
Xét về mặt nhân khẩu học, Singapore bắt đầu suy giảm tỷ lệ sinh từ thập niên
1960. Tỷ lệ sinh của người dân Singapore giảm từ 6 con/1 phụ nữ trong thập niên
52
1950 xuống còn 4 con/1 phụ nữ trong thập niên 1960 và 2,1 con/1 phụ nữ vào đàu
thập niên 1970 khiến dân số Singapore tăng rất chậm. Vào năm 1977 tỷ lệ sinh ở
Singapore thấp hơn tỷ lệ cần thiết để thay thế dân số của đất nước này ((theo Ủy ban
thống kê Singapore). Mặc dù chính phủ Singapore cố gắng thực hiện các biện pháp
tăng tỷ lệ sinh, nhưng không có kết quả bởi tuổi kết hôn của người dân Singapore
ngày càng cao, quy mô gia đình ngày càng nhỏ và xu hướng sống độc thân đang
ngày càng mở rộng. Theo Phòng thống kê Singapore, phụ nữ nước này được tiếp cận
với hệ thống giáo dục cao, chính sách an sinh xã hội mang tính phổ quát, vì vậy họ
không muốn sinh co nhiều mặc dù được trợ cấp rất lớn từ chính phủ. Vào năm 2012,
tỷ lệ sinh của Singapore đạt 0,78 trẻ/1 phụ nữ, thuộc diện thấp nhất thế giới và thấp
hơn rất nhiều so với tỷ lệ cần thiết 2,1 để giữ vững số dân ((theo Ủy ban thống kê
Singapore)... Để khắc phục tình trạng này, chính phủ Singapore buộc phải khuyến
khích người nước ngoài nhập cư vào Singapore trong nhiều thập kỷ qua. Singapore
cũng là nước có tỷ lệ thất nghiệp thấp nhất trong nhóm nước phát triển, tỷ lệ thất
nghiệp không vượt quá 4%/năm trong thập niên 2000s, cao nhất là 3% vào năm
2009, sau đó giảm xuống còn 1,9% năm 2011 ((theo Ủy ban thống kê Singapore.
Hình 2.2. Tỷ lệ sinh ở Singapore giai đoạn 1957-2001
Nguồn: Mui Teng Yap (2005), Fertility and population policy: the Singapore
experience, Journal of population and social security, Singapore, trang 645.
Cùng với sự sụt giảm nghiêm trọng tỷ lệ sinh, thu nhập bình quân đầu người
của người dân Singapore liên tục tăng. Tuổi thọ bình quân tăng từ 64,1 tuổi năm
1970 lên 77,9 tuổi năm 2005 đối với nam, tăng từ 67,8 tuổi lên 81,6 tuổi đối với nữ
trong cùng giai đoạn. Hơn thế, hệ thống giáo dục bài bản và chất lượng cao của
53
Singapore cũng khiến một khối lượng lớn thanh niên và các chuyên gia bậc cao của
Singapore di cư sang các nước phát triển để tìm kiếm cơ hội mới. Một trong những
nhân tố khiến người Singapore di cư ra nước ngoài, đó là: Singapore là một xã hội
cạnh tranh rất cao, cả trong hệ thống trường học và thị trường lao động. Singapore có
một hệ thống giáo dục chất lượng cao thu hút được nhiều sinh viên quốc tế đến theo
học, đồng thời tạo sức ép đối với các gia đình người Singapore trong việc theo đuổi
các chương trình học tập và đạt được bằng cấp theo đúng tiêu chuẩn. Từ năm 1989,
hàng năm có khoảng 5000 người Singapore di cư ra nước ngoài. Thủ tướng Lý
Quang Diệu cho rằng Singapore mất đi khoảng 1.000 người mỗi năm do di cư,
chiếm từ 4%-5% trong tổng số 30% dân số có chuyên môn cao nhất của nước này
[56]. Singapore đã thành lập Ủy ban người Singapore ở nước ngoài (Overseas
Singaporean Unit – OSU) để hỗ trợ người Singapore của họ ở nước ngoài và hy
vọng sẽ là cầu nối để khuyến khích họ trở về tổ quốc.
Bảng 2.4. Dân số Singapore phân theo nhóm tuổi
Nhóm tuổi 2000 2020 2030
0-14 15-64 65 trở lên Tổng 672,6 3.027,8 575,1 4.275,5 700,8 2.324,9 237,5 3,263,2 721,6 3.086,5 873,2 4.681,3
0-14 15-64 65 trở lên Tổng 2010 Số lượng (nghìn người) 648,2 2.806,1 336,4 3,790,8 Tỷ lệ % 17,1 74,0 8,9 100,0 15,7 70,8 13,5 100,0 21,4 71,2 7,3 100,0 15,4 65,9 18,7 100,0 Nguồn: Yap and Shantankumar (2008), Singapore: demographic trends and
social security, Singapore for the future, World Scientific, trang 12.
Tỷ lệ sinh giảm và xu hướng di cư ra nước ngoài của người Singapore khiến
chính phủ Singapore chịu những áp lực rất lớn về tuổi tác. Vào năm 2000, những
người ở độ tuổi trên 65 chiếm 7,3% dân số Singapore và những người ở độ tuổi 15-
64 chiếm 71% dân số.Tuy nhiên, vào năm 2010, những người ở độ tuổi trên 64 đã
chiếm tới 8,9% dân số, dự báo sẽ còn chiếm 13,5% dân số vào năm 2020 và 18,7%
vào năm 2030. Những người ở độ tuổi 15-64 và 0-14 sẽ giảm dần [78]. Đó là những
nguyên nhân khiến Singapore buộc phải thực hiện các chính sách nhập cư lao động
54
nước ngoài để phục vụ cho tăng trưởng và phát triển kinh tế, đặc biệt là lao động
chuyên môn cao.
2.2.2. Một số chính sách cơ bản để thu hút lao động chuyên môn cao nước
ngoài của Singapore.
Chính sách thu hút lao động nước ngoài ở Singapore bắt đầu được thực hiện
từ năm 1965 và được chia làm 4 giai đoạn chủ yếu:
+ Giai đoạn 1965 đến cuối thập niên 1970: Singapore tách khỏi Malaysia và
trở thành một quốc gia độc lập vào năm 1965. Trong giai đoạn này, lao động nhập cư
vào Singapore chủ yếu là người Malaysia. Chính phủ Singapore đã có chính sách thu
hút lao động chuyên môn cao thông qua ban hành giấy phép lao động, thu hút lao
động vào các ngành xây dựng. Giấy phép lao động thời gian này giành cho người
Malaysia ít chặt chẽ hơn giấy phép lao động giành cho người nước ngoài thuộc quốc
tịch các nước khác.
+ Giai đoạn 1980-1986: Chính phủ Singapore đã có chính sách cụ thể hơn
thông qua việc ban hành Luật việc làm đối với công nhân nước ngoài (Employment
of foreign workers act), với mục đích cấp giấy phép lao động cho người lao động
nước ngoài, mở rộng giấy phép lao động đối với lao động đến từ các nước châu Á,
đề ra những quy định hình phạt nếu vi phạm luật này đối với cả người tuyển dụng và
người lao động (phạt tiền hoặc bỏ tù). Năm 1987, chính phủ thực hệ hệ thống chỉ
tiêu lao động toàn diện, trong đó người lao động nước ngoài chỉ được phép chiếm
50% lao động của một doanh nghiệp nhằm cân đối chi phí tuyển dụng lao động nước
ngoài và lao động trong nước.
+ Giai đoạn 1987-2008: Đây là thời kỳ Singpore đạt được tăng trưởng kinh tế
nhanh và có mức cầu lao động nước ngoài tăng lên nhanh chóng. Đáp ứng nhu cầu
thiếu hụt về lao động, Singapore đã hoàn thiện chính sách, thực hiện nới lỏng một số
quy định đối với lao động nước ngoài, mức chỉ tiêu lao động nước ngoài được phép
45% đối với ngành chế tạo, ở tỷ lệ 5:1 đối với ngành xây dựng (5 lao động nước
ngoài, 1 lao động trong nước), hệ thống chỉ tiêu hai bậc đã được thực hiện trong
ngành chế tạo, trong đó đưa ra nhiều hạn ngạch lao động nước ngoài khác nhau phụ
thuộc vào tỷ lệ lao động trong nước sẵn có.
Trong cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997-1998, Singapore năm
1998 đã điều chỉnh mức lương của người lao động nước ngoài đối với lao động
55
không kỹ năng (tăng từ 440 USD/tháng lên 470 USD/tháng) đối với công nhân xây
dựng, đồng thời mở rộng khoảng cách lương giữa lương của lao động nước ngoài
không kỹ năng và lương của lao động nước ngoài kỹ năng nhằm khuyến khích lao
động chuyên môn cao trên thị trường lao động Singapore.
+ Giai đoạn từ 2009 đến nay, Singapore đã thực hiện chính sách thắt chặt hơn
đối với lao động nước ngoài nhằm đối phó với cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
Vào tháng 8/2009, thủ tướng Lý Hiển Long đã thông báo chỉ duy trì lực lượng lao
động nước ngoài ở mức 30% so với tổng lực lượng lao động. Vào tết âm lịch của
Singapore (ngày 13/2/2010), thủ tướng Lý Hiển Long cho rằng Singpapore cần phải
đạt mục tiêu trong 10 năm tới sẽ tăng trưởng năng suất lao động lên 2-3%/năm so
với mức tăng trưởng năng suất lao động 1%/năm hiện nay nhằm đạt mức tăng trưởng
GDP bền vững 3-5%/năm trong thập niên thứ 2 của thế kỷ XXI. Để thực hiện được
điều đó, Singapore sẽ không tiếp tục nhập khẩu lao động tự do như thời gian trước
đó và bắt đầu có sự lựa chọn chặt chẽ hơn về chất lượng lao động nước ngoài.
Nhìn chung, chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài ở
Singapore có những đặc điểm cơ bản sau đây:
Về hệ thống luật pháp đối với lao động nước ngoài:
Chính phủ đã áp dụng các bộ luật khác nhau để quản lý và điều tiết lao động
nước ngoài vào Singapore, bao gồm Luật việc làm đối với công nhân nước ngoài,
Luật di trú, Luật cơ quan việc làm, Quy định việc làm của công nhân nước ngoài,
Giấy phép lao động. Liên quan đến việc quản lý lao động nước ngoài, có các bộ
ngành chức năng như Bộ nội vụ (Ministry of home affairs – MOHA) có chức năng
kiểm soát nhân sự qua biên giới thông qua Ủy ban di trú và chấm điểm (Immigration
and checkpoint Authority – ICA); Bộ nhân lực (Ministry of manpower - MOM) có
chức năng liên quan đến các vấn đề thẻ lao động, điều tiết các quy định, tìm kiếm lao
động nước ngoài. Vào tháng 1/2010, MOM thành lập Trung tâm dịch vụ thẻ lao
động (Employment pass services centre – EPSC) với chức năng đăng ký và phát
hành loại Thẻ lao động dài hạn (long term pass – LTP) mới.
Visa, giấy phép lao động và thẻ lao động:
Singapore cung cấp một khối lượng lớn các loại miễn phí visa cho những đối
tượng là người kinh doanh và khách du lịch, tuy nhiên có 3 loại visa vào làm việc tại
Singapore: 1) Visa cho những người làm việc không lâu dài ở Singapore với các thẻ
56
việc làm không lâu dài (tối đa là 5 năm), áp dụng cho các công dân nước ngoài và
không có hạn chế nào trên thị trường lao động và gia đình của họ; 2) Visa giành cho
các chuyên gia nước ngoài với các thẻ lao động chỉ được phát hành cho các công
việc đặc biệt (tối đa 1 đến 5 năm); 3) Visa áp dụng cho các công nhân lao động hợp
đồng ngắn hạn với các giấy phép lao động tối đa là 2 năm. Trước tháng 9/1998, lao
động nước ngoài ở Singapore được chia làm hai loại: lao động có thẻ, áp dụng cho
các chuyên gia, nhà quản lý có chuyên môn cao; và giấy phép lao động – áp dụng
cho lao động phổ thông, lao động kỹ năng thấp nước ngoài. Sau năm 1998,
Singapore thực hiện cơ chế quản lý lao động nước ngoài theo 3 cấp, trong đó áp
dụng thêm loại thẻ S đối với các chuyên gia ở trình độ trung bình như kỹ sư chuyên
môn cao, công nhân tay nghề giỏi.
Chính sách lao động nước ngoài ở Singapore đã áp dụng các công cụ định giá
(thuế) và số lượng lao động (thẻ lao động và hạn ngạch, cũng như kiểm soát chất
lượng lao động (tiêu chí về giáo dục, kỹ năng). Việc ban hành và điều chỉnh các loại
thẻ làm việc phụ thuộc vào mức cầu thị trường. Người tuyển dụng có có thể yêu cầu
giấy phép lao động hoặc thẻ lao động; người lao động nước ngoài được hưởng mức
thu nhập và lương phụ thuộc vào giấy phép lao động hoặc thẻ lao động. Hạn ngạch
lao động có thể được áp dụng đối với các công ty tuyển dụng lao động nước ngoài
(cả lao động không kỹ năng và lao động chuyên môn cao). Các yêu cầu về tay nghề
và giáo dục áp dụng cho lao động chuyên môn cao.
Các loại thẻ lao động đối với lao động chuyên môn cao nước ngoài:
Singapore là đất nước cởi mở đối với lao động chuyên môn cao nước ngoài,
thường được các quan chức chính phủ và các phương tiện truyền thông Singapore
gọi với cái tên là “chuyên gia nước ngoài”. Nếu như trước đây, lao động kỹ năng
nước ngoài ở Singapore chủ yếu đến từ Anh, Mỹ, Pháp, Australia, Nhật Bản, Hàn
Quốc, thì những năm gần đây lao động kỹ năng nước ngoài có quốc tịch Trung
Quốc, Ấn Độ, Malaysia đã ngày càng có mặt nhiều hơn ở Singapore. Cựu Thủ
tướng Lý Quang Diệu đã xác định rõ: nhân tài là yếu tố then chốt quyết định khả
năng cạnh tranh và phát triển của nền kinh tế. Chính vì thế, trong suốt những năm
qua, thu hút nhân tài, đặc biệt là nhân tài nước ngoài đã trở thành chiến lược ưu tiên
hàng đầu của Singapore. Năm 1998, sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á,
Singapore thành lập hẳn Ủy ban Tuyển dụng Tài năng Singapore. Tháng 10/2001, tại
57
một diễn đàn đại học, ông Lý Quang Diệu nói với các sinh viên rằng: "Muốn thành
công trong lĩnh vực nghệ thuật, y học, giáo dục..., cách duy nhất Singapore phải thực
hiện là mở rộng nhân tài trên khắp thế giới. Chúng ta sẽ thất bại nếu không phát triển
được đội ngũ này" [25]. Hơn thế, lãnh đạo nước này còn xác định rõ rằng nhân tài từ
lao động nước ngoài kông chỉ là "nguồn vốn đặc biệt" về kinh tế, mà họ còn là "động
lực mạnh mẽ cho Singapore phấn đấu liên tục vì những chuẩn cao hơn" Thêm nữa,
những người nhập cư cũng góp phần đem lại "sự phong phú, đa dạng, mang thêm
màu sắc, sự giàu có và hương vị cho đời sống văn hoá của Singapore"(Văn kiện
chính sách của Singapore năm 2000). .
Trong nhiều năm qua, Singapore đã thu hút được một bản danh sách ấn tượng
những nhà khoa học lỗi lạc của thế giới. Nói đến nhân tài nước ngoài ở Singapore,
có lẽ không thể không kể đến những nhà giải phẫu thần kinh học, các lập trình viên
phần mềm, các giám đốc ngân hàng, các các siêu chuyên gia tầm cỡ thế giới và các
giáo sư trong lĩnh vực nghiên cứu và phát triển. Không giống như lao động kỹ năng
thấp và lao động nước ngoài phổ thông, Singapore có hẳn một hệ thống quản lý lao
động kỹ năng cao thông qua hệ thống 3 cấp P, Q, S với những hạn chế nhập cư ít
hơn và lợi ích trong nước lớn hơn. P là giành cho những người nước ngoài có bằng
cấp chuyên gia, có kỹ năng và kinh nghiệm làm việc. Vào năm 2010, P1 áp dụng đối
với những người có mức lương tháng trên 7000 đô la Singapore (S$), và P2 áp dụng
đối với những người có mức lương từ 3500 S$-7000 S$. Q áp dụng cho những người
nước ngoài có bằng cấp có thể chấp nhập được, ở trình độ chuyên gia hoặc kỹ năng
đặc biệt, có mức lương tháng trên 2.500 S$ nhưng dưới 3500 S$. S được áp dụng kể
từ năm 2004 cho những người lao động nước ngoài có kỹ năng trung bình, lương
tháng ít nhất là 1800 S$ (tính đến tháng 6/2010), có các chứng chỉ khác về chất
lượng giáo dục, kỹ năng, loại hình việc làm và kinh nghiệm làm việc.
Nhằm linh hoạt hơn nữa trong việc tuyển dụng lao động nước ngoài kỹ năng
cao, Singapore năm 2007 đã áp dụng một loại thẻ visa mới với tên gọi Thẻ lao động
cá nhân (personalized employment pass – PEP), áp dụng cho tất cả những người
nước ngoài đã làm việc ở Singapore ít nhất từ 2 đến 5 năm, có mức lương tối thiểu là
34.000 S$ /năm (27.032 USD/năm). PEP có thể giúp người lao động nước ngoài
chuyển việc làm trong bất cứ ngành nghề nào trong nền kinh tế, có thể đem theo
58
những người thân trong gia đình tới sinh sống tại Singapore và cho phép những
người thân của họ ở Singapore tối đa 6 tháng để tìm kiếm việc làm.
Bảng 2.5. Các cơ chế thẻ lao động áp dụng cho lao động chuyên môn cao
nước ngoài ở Singapore (áp dụng đến tháng 6/2010)
Tiêu chí 1 Tiêu chí 2 Loại thẻ
Thẻ được phép mang theo người phụ thuộc Có Thẻ được định cư lâu dài Có P1
Lương tháng >7.000 S$ Chuyên gia, nhà quản lý, ủy viên ban quản trị hoặc chuyên viên đặc biệt Có Có P2
Lương tháng >3500 S$ Chuyên gia, nhà quản lý, ủy viên ban quản trị hoặc chuyên viên đặc biệt Có Không Q1
ít nhất tháng PEP
Có Có Có Có Có Không Lương tháng >2500 S$ Chuyên gia, nhà quản lý, ủy viên ban quản trị hoặc chuyên viên đặc biệt -Lương 30.000 S$ - Lương tháng ít nhất 30.000 S$ - Lương tháng ít nhất 30.000 S$
năm 2
Không S
Có trình độ học vấn, bằng cấp, chứng chỉ kỹ thuật Có, nếu lương trên 2500 S$ -Có thẻ P1 -Có thẻ P2 với 2 năm kinh nghiệm ở trình độ thẻ P -Có 5 năm kinh nghiệm ở trình độ thẻ Q1 -Sinh viên nước ngoài đang học ở các trường đại học Singapore, có ít nhất kinh nghiệm ở trình độ thẻ P hoặc Q1 Áp dụng đối với lao động nước ngoài có tay nghề bậc trung, lương tháng ít nhất 1800 S$
Nguồn: Chia Siow Yue (2011), Foreign labour in Singapore: trends, policies, impacts and challenges, Discussion Paper Series No 2011-24, Philippine institute for development studies, trang 13. S$: đô la Singapore Thuế đối với lao động nước ngoài:
Thuế đối với lao động nước ngoài được áp dụng từ năm 1980 với mục đích
đáp ứng những thay đổi các điều kiện của thị trường lao động. Mức thuế trần lần đầu
59
tiên được áp dụng đối với những lao động không phải người Malaysia ở mức 230 S$
trong ngành xây dựng (1980). Vào năm 1982, cơ chế thuế được mở rộng, áp dụng
cho tất cả lao động người nước ngoài (kể cả người Malaysia có quốc tịch nước
ngoài). Từ năm 1992, chính phủ áp dụng thuế theo 2 cấp độ: thuế áp dụng đối với
lao động kỹ năng (R1) thấp hơn thuế áp dụng đối với lao động không kỹ năng (R2).
Mức thuế hàng tháng đối với lao động nước ngoài giao động từ 100 S$ đến 470 S$
phụ thuộc vào các ngành nghề và kỹ ăng của người lao động nước ngoài. Nếu lao
động nước ngoài là lao động phổ thông hoặc lao động kỹ năng thấp và công ty tuyển
dụng có mức trần phụ thuộc vào lao động nươc ngoài cao, thì lao động nước ngoài sẽ
bị đánh thuế tối đa.
Mức trần phụ thuộc lao động được áp dụng ở Singapore từ năm 1987. Mức
trần này phản ánh tỷ lệ lao động nước ngoài trong một công ty so với tổng lực lượng
lao động trong công ty đó. Mục đích áp dụng mức trần này là: chính phủ mong muốn
các công ty hạn chế phụ thuộc vào lao động nước ngoài, đặc biệt là với lao động có
mức lương thấp và tay nghề thấp. Mức trần phụ thuộc được nới rộng từ 10% đến
80%. Thuế của người lao động sẽ được tính dựa vào mức trần phụ thuộc lao động
của công ty; nếu mức trần càng cao, thuế của người lao động nước ngoài càng lớn.
Mức trần phụ thuộc lao động cao nhất là ở ngành xây dựng và chế biến và thấp nhất
ở các ngành dịch vụ. Vào năm 1988, mức trần phụ thuộc lao động tối đa được giảm
từ 50% xuống 40%. Vào năm 2005, mức trần phụ thuộc lao động tối đa lại được
nâng lên 60% đối với ngành chế tạo và 40% đối với ngành dịch vụ.
Bắt đầu từ tháng 7 năm 2010, mức thuế áp dụng đối với lao động nước ngoài
tiếp tục được thay đổi, áp dụng cho cả lao động chuyên môn cao và lao động không
kỹ năng. Đối với những người thuộc diện cấp giấy phép lao động (lao động phổ
thông , kỹ năng thấp), mức thuế sẽ tăng thêm từ S$ đến 30 S$ đối với 1 lao động và
tiếp tục được điều chỉnh tăng thêm nữa trong năm 2011 và năm 2012. Mức thuế áp
dụng cho những lao động làm việc 3 năm trong khu vực chế tạo và dịch vụ tăng
thêm 100 S$/lao động. Ngành xây dựng là ngành có mức thuế tăng cao nhất. Những
người có thẻ S sẽ áp dụng 2 mức thuế 100 S$ và 200 S$ bắt đầu từ tháng 7/2010. Cụ
thể, sự thay đổi mức thuế đối với lao động nước ngoài tính từ tháng 7/2010 là như
sau:
60
Bảng 2.6. Những thay đổi về mức thuế áp dụng cho lao động nước ngoài
kể từ tháng 7 năm 2010
Mức thuế hiện hành trước tháng 7/2010.
Kỹ năng Không kỹ năng Theo mức trần phụ thuộc lao động 40% 150 S$ 240 S$ 35% 55% 150 S$ 280 S$ 55% 65% 450 S$ 65% Mức thuế mới kể từ 1/7/2010
Mức thuế mới kể từ 1/7/2011
Mức thuế mới kể từ 1/7/2012
Kỹ năng Không kỹ năng Kỹ năng Không kỹ năng Kỹ năng Không kỹ năng 160 S$ 260S$ 30% 180 S$ 280 S$ 25% 200 S$ 300 S$ 180 S$ 280 S$ 50% 240 S$ 340 S$ 50% 300 S$ 400 S$ 450 S$ 65% 450 S$ 65% 450 S$
Nguồn: Chia Siow Yue (2011), Foreign labour in Singapore: trends, policies, impacts and challenges, Discussion Paper Series No 2011-24, Philippine institute for development studies, trang 16.
Ghi chú: 65% là mức trần phụ thuộc tối đa của một công ty S$: đô la Singapore Sự thay đổi chính sách đối với lao động chuyên môn cao nước ngoài
kể từ tháng 5/2011
Tháng 5 năm 2011 Singapore tiến hành cuộc bầu cử dân chủ. PAP vẫn có đến
60,1% phiếu ủng hộ. Tuy nhiên, so với các kết quả bầu cử năm 2006, PAP năm 2011
mất 15% tổng số phiếu bầu kể từ năm 2001, trong khi phe đối lập chiếm tổng cộng
40%. Đảng cầm quyền Đảng Nhân dân Hành động (PAP) có một thời kỳ vận động
bầu cử hết sức khó khăn trước các đảng đối lập và chỉ thắng cử với kết quả khiêm
tốn nhất trong lịch sử bầu cử kể từ năm 1965 trở lại đây bất chấp các kết quả kinh tế
rất khả quan đạt được trong vòng 5 năm vừa qua. Tổng sản phẩm quốc nội tính trên
đầu người tăng 32% trong vòng 5 năm vừa qua lên mức trên 40 nghìn đô la Mỹ/đầu
người vào năm 2010. Đồng thời kinh tế Singapore tăng trưởng với tốc độ 14,5%
trong năm 2010, khiến Singapore trở thành quốc gia giầu thứ hai châu Á và nằm
trong danh sách 15 nước giầu nhất thế giới [74].
Nhưng bức tranh kinh tế không hoàn toàn là một màu hồng. Singapore cũng
giống như các nước châu Á khác đang phải đấu tranh quyết liệt với nạn lạm phát do
giá xăng dầu, thực thẩm, và nguyên vật liệu trên thế giới tăng cao. Yếu tố này có tác
61
động đặc biệt đối với Singapore do quốc gia này nhỏ, không có nguồn lực tự nhiên
để hỗ trợ các ngành sản xuất dịch vụ, cũng không có một thị trường tiêu thụ trong
nước đủ mạnh để làm động lực thúc đẩy kinh tế từ bên trong. Lạm phát tăng cao
khiến chi phí sinh hoạt của người dân cũng tăng cao, đặc biệt là giá nhà ở Singapore
tăng với tốc độ chóng mặt, trên 70% trong giai đoạn 2006-2010 (theo Ủy ban phát
triển nhà ở Singapore) . Bên cạnh chi phí sinh hoạt đắt đỏ làm giảm đi tác động tích
cực của việc tăng trưởng kinh tế và thu nhập, người dân Singapore còn bày tỏ sự
không hài lòng trước một số chính sách gần đây của Chính phủ. Một là, chính sách
khuyến khích người nước ngoài, bao gồm cả lao động cấp cao và cấp thấp, tới làm
việc, sinh sống, và thậm chí nhập cư ở Singapore đã khiến người Singapore cảm thấy
bị canh tranh gay gắt về công ăn việc làm ngay trên đất nước của mình. Hai là, trong
khi lao động nước ngoài ồ ạt đổ tới Singapore để làm việc và định cư, dường như
Chính phủ không có các biện pháp cần thiết để đối phó với hiện tượng này như nâng
cấp hệ thống giao thông công cộng và hệ thống nhà ở; khiến Singapore trở nên quá
tải trong thời gian gần đây. Hệ thống tầu điện ngầm MRT ở Singapore lúc nào cũng
đông nghịt người vào giờ tan tầm, nhiều người dân phải chờ vài chuyến tàu đi qua
mới tìm được một chỗ lên tầu để đi về nhà. Việc chính phủ Singapore thực hiện xây
dựng và triển khai hai sòng bạc (casino) tại Sentosa và Marina Bay để cứu vãn nền
kinh tế vào năm 2005 bất chấp nhiều tiếng nói phản đối cũng bị chỉ trích nặng nề vì
nguy cơ có thể làm nguy hại đến đạo đức xã hội và lối sống của nhiều người dân
Singapore.
Chính vì vậy, sau cuộc bầu cử năm 2011, chính phủ Singapore đã công bố sẽ
ban hành một loạt các chính sách mới để đáp ứng nguyện vọng của người dân, trong
đó có vấn đề lao động nước ngoài. Trong bài phát biểu trên truyền hình Singapore
ngày 14/8/2011, thủ tướng Lý Hiển Long nhấn mạnh: Singapore sẽ hạn hạn chế
tuyển lao động nước ngoài có trình độ tay nghề thấp, đồng thời ưu tiên tuyển dụng
lao động có trình độ tay nghề cao và tăng thu nhập cho người được cấp phép lao
động. Thủ tướng Lý Hiển Long cho rằng: biện pháp hạn chế lao động nước ngoài
không đồng nghĩa với việc người Singapore dễ dàng có việc làm hơn. Với thành
phần là các chuyên gia đầu ngành và những doanh nghiệp thì ông Lý khẳng định sẽ
vẫn rộng mở đón chào đến với Singapore với câu nói: "Chúng ta thắt chặt phần đáy
và mở cửa ở phần ngọn" [28].
62
Vào tháng 8/2011, MOM thông báo thay đổi hệ thống thẻ lao động, có hiệu
lực từ tháng 1/2012. Sự thay đổi này nhằm thắt chặt các quy định tuyển dụng lao
động nước ngoài, hạn chế tuyển dụng lao động kỹ năng thấp và hướng mạnh hơn đến
thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài. Hệ thống thẻ thắt chặt hơn này là
nhằm đảm bảo người dân Singapore không phải chịu những bất lợi so với lao động
chuyên môn cao nước ngoài. Theo hệ thống thẻ mới, sẽ không có những thay đổi về
mức lương đối với những người lao động đang có thẻ P1. Đối với những người đang
có thẻ P2, mức lương yêu cầu sẽ tăng từ 4000 S$ lên 4500 S$. Đối với những người
đang có thẻ Q1, mức lương theo yêu cầu buộc phải đạt được ít nhất là 3000 S$ và
xem xét lại kinh nghiệm thực tiễn và bằng cấp. Cụ thể là:
Bảng 2.7. Những thay đổi đối với các loại thẻ lao động bắt đầu từ tháng
8/2011
Loại áp dụng Chỉ tiêu hợp pháp
Lương tháng >= 8000 S$ Loại thẻ P1
P2
Lương tháng >=4500 S$, có giấy chứng nhận chất lượng tay nghề
Q1
Chuyên gia, nhà quản lý, ủy viên ban quản trị hoặc chuyên viên đặc biệt Chuyên gia, nhà quản lý, ủy viên ban quản trị hoặc chuyên viên đặc biệt Chuyên gia, nhà quản lý, ủy viên ban quản trị hoặc chuyên viên đặc biệt
Lương tháng >=3000 S$, có chứng nhận chất lượng tay nghề, có các giấy tờ đảm bảo kỹ năng, năm kinh nghiệm
Nguồn: Chia Siow Yue (2011), Foreign labour in Singapore: trends, policies, impacts and challenges, Discussion Paper Series No 2011-24, Philippine institute for development studies, trang 22. S$: đô la Singapore Ngày 9/7/2012, tại một phiên họp của Quốc hội Singapore, Chính phủ nước
này đã đề xuất sửa đổi, bổ sung Luật Di trú (IA) nhằm thắt chặt các quy định về di
trú và tăng cường kiểm soát an ninh. Luật Di trú vốn điều chỉnh các cơ sở di trú,
cũng như việc nhập cảnh, lưu trú và xuất cảnh mọi người nước ngoài. Bản dự thảo
Luật Di trú sửa đổi của Singapore sẽ tập trung vào bốn vấn đề chính, một trong số đó
là việc hình sự hóa những vụ hôn nhân giả để có được cơ sở di trú, bao gồm cả
những người cố gắng để có được thị thực nhập cảnh, thường trú hoặc cư trú dài hạn.
Luật Di trú cũng sẽ được mở rộng để điều chỉnh hành vi của các trung gian và các
63
đường dây tội phạm tạo điều kiện thực hiện các hoạt động bất hợp pháp. Dự luật sửa
đổi cũng quy định một hành vi được coi là phạm tội khi sản xuất, vận chuyển và sở
hữu các vật dụng được sử dụng để giả mạo giấy tờ di trú, đồng thời cũng cho phép
Cơ quan phụ trách Di trú và Trạm kiểm soát cửa khẩu (ICA) được quyền hủy bỏ giấy
phép tái nhập cảnh của người đang được hưởng qui chế thường trú tại Singapore,
nhưng vi phạm luật pháp.Bên cạnh đó, dự luật sửa đổi cũng cho phép ICA áp đặt,
thay đổi hoặc thiết lập các điều kiện bổ sung về tính hợp lệ của giấy phép tái nhập
cảnh. Trong bản dự luật sửa đổi, Chính phủ Singapore cho phép ICA thu thập thông
tin về hành khách và các phi hành đoàn, thủy thủ đoàn trước khi đến nước này.
Vào 1/9/2012, chính phủ Singapore tiếp tục công bố các biện pháp siết chặt
chính sách với lao động nhập cư. Theo đó để được phép đưa gia đình cùng đi theo,
người lao động phải có mức lương tối thiểu 4.000 đô la Singapore/tháng, tăng mạnh
so với mức 2800 trước đây. Ngoài ra quy định mới cũng cấm một số đối tượng người
lao động không được phép đưa cha mẹ hay họ hàng bên vợ/chồng sang thăm trong
thời gian dài. Đây được xem là những biện pháp thắt chặt chính sách lao động nhập
cư trong bối cảnh ngày càng nhiều người Singapore tỏ ra giận dữ vì chính sách nhập
cư quá rộng mở khiến giá nhà đất leo thang, gây lạm phát. Những thay đổi này là
một phần trong định hướng chung nhằm giảm sự gia tăng dân nhập cư tại Singapore
theo thông báo của Bộ nguồn nhân lực Singapore. Ngoài quy định trên, Quốc hội
Singapore đang chuẩn bị thay đổi luật nhập cư. Theo dự thảo luật nhập cư sửa đổi,
những người thường trú coi thường luật pháp của Singapore hoặc dính líu đến các
hoạt động “đe dọa phá vỡ sự bình yên hoặc gây ảnh hưởng tới trật tự công cộng” sẽ
mất quyền thường trú hoặc bị hủy giấy phép tái nhập cảnh. Đồng thời, Bộ nội vụ
Singapore cũng chuẩn bị hình sự hóa hành vi làm giả hồ sơ nhập cư và hiện tượng
kết hôn “giả” vì mục đích nhập cư. Những ai bị phát hiện kết hôn “giả” bị phạt tù lên
tới 10 năm kèm theo khoản tiền nộp phạt 10.000 đôla Singapore. Án phạt cao nhất
dành cho tội danh làm giả hồ sơ nhập cư là 8.000 đôla Singapore và 5 năm tù.
Ngày 29/1/2013, Chính phủ Singapore đã công bố Sách Trắng về dân số,
trong đó cho biết người nước ngoài có thể chiếm gần một nửa dân số quốc đảo Sư tử
vào năm 2030. Sách Trắng cho biết dân số Singapore dự kiến ở mức từ 6,5 đến 6,9
triệu người vào năm 2030 so với mức 5,31 triệu người hiện nay. Trong số đó, người
nước ngoài sẽ chiếm gần một nửa, khi tỷ lệ công dân Singapore dự kiến bị giảm từ
64
62% (tính đến tháng 6/2012) xuống 55% vào năm 2030.Tỷ lệ sinh của nước này chỉ
đạt 1,20 em bé/bà mẹ trong năm 2012, thấp hơn nhiều so với tỷ lệ cần để duy trì dân
số quốc gia là 2,1 em bé/bà mẹ. Sách Trắng cho biết để ngăn chặn tình trạng dân số
Singapore giảm, quốc đảo này sẽ phải cần tới từ 15.000 đến 25.000 công dân
mới/năm.Do tỷ lệ sinh thấp như vậy, Singapore cần tới người lao động nhập cư.
Người lao động nhập cư đã và đang trở thành một vấn đề nhạy cảm mang tính chính
trị đối với Chính phủ Singapore. Trong những năm gần đây, Singapore đã mở cửa
cho người nước ngoài để duy trì nền kinh tế của quốc đảo này. Tuy nhiên, số lượng
người nhập cư đã bị giảm bởi họ bị đổ lỗi là nguyên nhân gây ra các vấn đề ở
Singapore như tình trạng quá đông người, dịch vụ công cộng quá tải và làm giá nhà
tăng. Sách Trắng cho biết Chính phủ Singapore sẽ áp dụng các biện pháp như mở
rộng mạng lưới giao thông, xây thêm các tòa nhà công cộng để hỗ trợ tăng dân số.
Sách Trắng dân số của Singapore đang vấp phải sự biểu tình mạnh mẽ của
người dân nước này quanh những vấn đề bức xúc trước sự gia tăng mạnh về số
lượng người nước ngoài nhập cư vào Singapore. Họ phản đối kế hoạch của chính
phủ cho phép nâng số người nước ngoài nhập cư lên mức chiếm gần một nửa tổng
dân số nước này đến năm 2030. Mục tiêu của Sách Trắng dân số là đạt được một số
sự đồng thuận về cách thức phát triển của “quốc đảo sư tử”, nhất là về chính sách
nhập cư và người lao động nước ngoài, và làm cân bằng các yếu tố khác nhau để đạt
được sự thỏa hiệp giữa dân số nước này đang già đi và chi phí xã hội do số người
nước ngoài tại Singapore gia tăng. Chính sách dân số mới một mặt sẽ thắt chặt đối
với người nhập cư và lao động nước ngoài để cải thiện chất lượng cuộc sống của
người dân Singapore, ví dụ như giao thông ít bị tắc nghẽn, nhà ở ít bị cạnh tranh và
thị trường việc làm được bảo vệ hơn. Nhưng mặt khác, cái giá của nó sẽ là tốc độ
tăng trưởng thấp hơn và thị trường việc làm ít năng động hơn và tỉ lệ lạm phát về
giá-lương cao hơn.
Theo nghiên cứu của Ngân hàng Mỹ-Merrill Lynch, việc chuyển sang chính
sách lao động thắt chặt hơn cũng sẽ làm giảm tổng thu nhập thuế, tiếp đó làm giảm
chi tiêu xã hội, vốn rất cần thiết bởi tầng lớp dân số Singapore lão hóa tăng. Bất động
sản có thể sẽ bị tác động nếu việc thắt chặt chính sách này được thực hiện bất ngờ,
gây phương hại tới người dân Singapore. Nghiên cứu dự đoán rằng chính sách lao
động tự do sẽ thúc đẩy tăng trưởng việc làm (với 150.000 việc làm) trong khi chính
65
sách thắt chặt lao động sẽ chỉ tạo ra 115.000 việc làm trong năm 2012 và tác động
tiêu cực đối với tăng trưởng Tổng sản phẩm quốc nội (GDP), chỉ đạt khoảng 1,3%
điểm. Trong khi đó, nếu chính phủ áp dụng chính sách lao động tự do hơn, tăng
trưởng GDP sẽ đạt khoảng 3% trong năm nay. Tuy nhiên, trở lại chính sách tự do là
rất khó xảy ra bởi cuộc bầu cử mới đây nhất tại quốc đảo này đã cho thấy chính sách
lao động tự do không nhận được sự ủng hộ của nhiều người dân, những người tin
rằng người lao động nước ngoài “lấy cắp” việc làm của họ,làm giá bất động sản tăng.
2.2.3. Tác động của chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước
ngoài ở Singapore
2.2.3.1. Tác động đến việc thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài
Lao động nước ngoài vào Singapore tăng lên rất nhanh kể từ thập niên 1970
đến nay. Vào năm 1970, dân số Singapore là 2.074.500 người, trong đó người nước
ngoài là 60.900 người. Vào năm 1980, dân số Singapore đạt 2.413.900 người, trong
đó có 131.800 người nước ngoài (không tính lao động nước ngoài đã có quốc tịch
Singapore). Năm 1990, dân số Singapore là 3.047.100 người, trong đó người nước
ngoài là 311.300 người. Vào năm 2000, dân số Singapore là 4.027.900 người, trong
đó người nước ngoài là 754.500 người. Vào năm 2010, dân số Singapore là
5.076.700 người, trong đó người nước ngoài khoảng 1.305.000 người. Vào năm
2012, dân số Singapore là 5.312.400 người, trong đó người nước ngoài là 1.494.200
người (Theo Ủy ban thống kê Singapore).
Hình 2.3. Tăng trưởng dân số Singapore trong giai đoạn 1970-2010
(nghìn người)
Nguồn: Chan Chi Ling (2011), A New nation of immigrants? Challenges and opportunities posed by Singapore’s population growth, ESS essay competition 2010/2011, trang 4.
Ghi chú: (*): Người nước ngoài không không có quốc tịch Singapore (**): Người nước ngoài có quốc tịch Singapore
66
Nếu tính theo tốc độ tăng trưởng dân số hang năm của Singapore, có thể thấy
số lượng người nước ngoài vào Singapore có tốc độ tăng trưởng rất nhanh. Vào năm
1990, tốc độ tăng dân số Singapore bản địa là 1,7%/năm, thì tốc độ tăng trưởng dân
số có quốc tịch nước ngoài là 9%/năm. Vào năm 2007, tốc độ tăng dân số có quốc
tịch nước ngoài đạt cao nhất từ trước đến nay (19%/năm) trong khi tốc độ tăng dân
số bản địa chỉ là 1%/năm. Năm 2012, tốc độ tăng dân số bản địa là 0,9%/năm, có xu
hướng giảm dần so với các thập niên trước đó, trong khi tốc độ tăng dân số nước
ngoài vẫn đạt 7,2%/năm (Theo Ủy ban thống kê Singapore).
Xét theo cơ cấu dân số, vào năm 1970 lao động nhập cư chiếm 3,2% lực
lượng lao động, năm 1980 đã tăng lên chiếm 7,4%, năm 1990 tăng lên chiếm 16,1%,
năm 2000 chiếm 28,1%, năm 2010 chiếm 37,3% và năm 2012 chiếm 28,2% (Theo
Ủy ban thống kê Singapore). Như vậy, có thể thấy cứ 3 người đang sống ở Singapore
hiện nay sẽ có 1 người nước ngoài, đây là nước được đánh giá là có tỷ lệ người nước
ngoài cao nhất trong khu vực châu Á.
Hình 2.4. Cơ cấu dân số Singapore giai đoạn 1970-2010
(%, nghìn người)
Nguồn: Chan Chi Ling (2011), A New nation of immigrants? Challenges and opportunities posed by Singapore’s population growth, ESS essay competition 2010/2011, trang 4.
Xét về nguồn gốc quốc tịch của người nước ngoài đến Singapore sinh sống và
làm việc, có thể điểm lại những quốc tịch chủ yếu như Trung Quốc, Malaysia,
67
Indonesia, Filipino, Ấn Độ, Bangladesh, Myanmar, Thái Lan, Nhật Bản, Sri Lanka,
Anh, Mỹ, Australia, Hàn Quốc, Đức và Pháp. Số liệu của các năm khác nhau cho
thấy, người Trung Quốc và người Malaysia chiếm tỷ lệ lớn trong số những người
nước ngoài sinh sống và làm việc ở Singapore (khoảng 200.000 người/nước), tiếp đó
là người Indonesia và Philippin (khoảng 130.000-150.000 người/nước). Những
người nước ngoài có quốc tịch ngoài châu Á chỉ chiếm từ 5000-15.000 người/nước,
một tỷ lệ tương đối nhỏ.
Bảng 2.8. Người nước ngoài ở Singapore phân theo quốc tịch (các năm
khác nhau)
Năm - 2009 Số lượng người 200.000 200.000 Quốc tịch Trung Quốc Malaysia
- 2004 2006 2009 150.000 136.489 90.000-100.000 80.000-90.000 Indonesia Filipinno Ấn Độ Bangladesh
50.000-60.000
2008 - Myanmar Thái Lan 45.000
2007 26.370 Nhật Bản
- 2008 2008 20.000 20.000 15.000 Sri Lanka Anh Mỹ
2007 15.000 Australia
2009 2009 2007 13.509 6.500 5.000 Hàn Quốc Đức Pháp Nguồn: Brenda S.A.Yeoh (2012), Migration and divercities: challenges and
possibilities in global-city Singapore, National University of Singapore, trang 20.
Tính theo cơ cấu ngành nghề, lao động nước ngoài ở Singapore tập trung chủ
yếu ở các ngành chế tạo, xây dựng, thương mại, dịch vụ chăm sóc cá nhân và cộng
đồng. Vào năm 2008, tính theo ngành, ngành chế tạo chiếm tới 24,9% lao động nước
ngoài, ngành xây dựng chiếm 23,1% , ngành chăm sóc cá nhân và cộng đồng chiếm
18%, ngành thương mại chiếm 12%. Ngoài ra, những ngành nghề khác như nhà hàng
khách sạn, dịch vụ chuyên gia, dịch vụ hỗ trợ và hành chính .. cũng thu hút lao động
68
nước ngoài rất đông. Tính theo tổng lực lượng lao động, lao động nước ngoài làm
việc đông nhất trong ngành xây dựng (70,7% trong tổng lực lượng lao động của
ngành xây dựng), tiếp theo là ngành chế tạo (48,8% tổng lực lượng lao động của
ngành chế tạo). Các ngành nghề khác như thương mại, nhà hàng khách sạn, dịch vụ
chăm sóc cá nhân và cộng đồng tập trung đông đảo lực lượng lao động nước ngoài.
Lao động chuyên môn cao nước ngoài ở Singapore:
Lao động chuyên môn cao nước ngoài ở Singapore làm việc chủ yếu trong
các ngành chế tạo, thông tin,viễn thông, dịch vụ tài chính, chuyên gia, hành chính,
hỗ trợ cộng đồng… Khác với lao động phổ thông nước ngoài vào Singapore dưới
dạng cấp giấy phép lao động, lao động chuyên môn cao nước ngoài vào làm việc tại
Singapore được cấp các loại thẻ P1, P2, Q1, S (xem nội dung các loại thẻ P, Q, S ở
bảng 2.2). Theo số liệu của Bộ nhân lực Singapore, tính đến tháng 12 năm 2007,
Singapore có khoảng 900.800 lao động nước ngoài (tính cả lao động nước ngoài đã
có quốc tịch Singapore), trong đó lao động chuyên môn cao có thẻ P1, P2, Q1là
99.200 người, lao động chuyên môn cao có thẻ S là 44.500 người. Tính đến tháng
năm 2010, trong tổng số 1.113.200 lao động nước ngoài (tính cả lao động nước
ngoài có quốc tịch Singapore), có 143.300 người có thẻ P1, P2, Q1và có 98.700
người có thẻ S. Tính đến tháng 6/2012, trong tổng số 1.234.100 lao động nước ngoài
ở Singapore (tính cả lao động nước ngoài có quốc tịch Singapore), có 174.700 người
có thẻ P1, P2, Q1, 128.000 người có thẻ S.
Bảng 2.9. Lao động trong nước và lao động nước ngoài theo ngành ở
Ngành
Tổng (nghìn người)
LĐ trong nước (nghìn người)
LĐ nước ngoài (nghìn người)
Lao động nước ngoài (% tính theo ngành)
Chế taọ Xây dựng Thương mại Vận tải, kho bãi Nhà hàng, khách sạn Thông tin, viễn thông Dịch vụ tài chính
586,3 360,0 401,3 197,7 179,0 85,1 160,6
311,9 105,5 269,5 182,4 120,0 87,0 123,6
274,4 254,5 131,8 15,3 59,0 -1,9 37,0
24,9 23,1 12,0 1,4 5,4 -0,2 3,4
Lao động nước ngoài (% tính theo tổng lực lượng LĐ) 46,8 70,7 32,8 7,7 33,0 -2,2 23,0
Singapore năm 2008
69
2,3
37,1
25,1
68,4
43,0
Dịch vụ bất động sản và cho thuê Dịch vụ chuyên gia Dịch vụ hỗ trợ và hành chính Dịch vụ cá nhân và cộng đồng Khác Tổng
59,0 50,2 198,3 -2,6 1100,4
109,6 84,9 391,9 22,7 1852,0
5,4 4,6 18,0 -0,2 100,0
35,0 37,2 33,6 -12,9 37,3
168,6 135,1 590,2 20,1 2952,4 Nguồn: Singapore yearbook of manpower Statistics 2009.
Tính theo tỷ lệ phần trăm, lao động chuyên môn cao nước ngoài có thẻ P1,
P2, Q1 chiếm 11% , lao động có thẻ S chiếm 5% tổng lao động nước ngoài năm
2007, tổng cộng là 16%. Vào năm 2010, lao động có thẻ P1, P2, Q1 chiếm 12,9% và
lao động có thẻ S chiếm 8,9%, còn lại 78,2% là lao động phổ thông và kỹ năng thấp
nước ngoài. Vào năm 2012, tỷ lệ lao động chuyên môn cao nước ngoài có tăng lên
(chiếm 24,6%, trong đó lao động có thẻ P1, P2, Q1 chiếm 14,2% và thẻ S chiếm
10,4%), và lao động phổ thông giảm còn 75,4%. Những con số này cho thấy chính
sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài đang đi vào hiệu quả hơn.
Bảng 2.10. Lao động chuyên môn cao nước ngoài ở Singapore giai đoạn
2007-2012
Loại thẻ
2007
2008
2009
2010
2011
P1,P2,Q1
lao
lao động ngoài
lao động
99.200 11% 44.500 5% 757.100 84% 900.800 100% 717.600
113.400 10,7% 74.300 7% 870.000 82,3% 1.057.700 100% 866.300
114.300 10,8% 82.800 7,9% 856.300 81,3% 1.053.500 100% 857.400
143.300 12,9% 98.700 8,9% 871.200 78,2% 1.113.200 100% 911.800
175.400 14,6% 113.900 9,5% 908.600 75,9% 1.197.900 100% 991.600
6 tháng 2012 174.700 14,2% 128.100 10,4% 931.200 75,4% 1.234.100 100% 1.025.700
Thẻ (người) Tỷ lệ % Thẻ S (Người) Tỷ lệ % Giấy phép động (Người) Tỷ lệ % Tổng nước (Người) Tỷ lệ % Tổng nước ngoài*
Nguồn: Kai Hong Phua, Rachel Hui (2012), Health of migrants in Singapore,
National University of Singapore, trang 4.
Ghi chú: * không tính LĐ nước ngoài đã có quốc tịch Singapore
Trong số lao động chuyên môn cao nước ngoài, kể từ năm 1997 Singapore tập
trung tuyển dụng sinh viên nước ngoài tham gia thị trường lao động. Hầu hết những
sinh viên này đều mang quốc tịch châu Á như Malaysia, Indonesia, Trung Quốc, Ấn 70
Độ, Việt Nam. Với môi trường học tập bằng tiếng Anh, tiêu chuẩn giáo dục cao và
cơ hội việc làm tốt, các trường đại học của Singapore đã thu hút phần lớn sinh viên
nước ngoài tìm kiếm cơ hội việc làm sau khi ra trường tại Singapore. Sinh viên nước
ngoài có thể sang Singapore học dưới dạng vay tiền của Chính phủ Singapore. Đổi
lại, sau khi tốt nghiệp đại học các bạn trẻ này có nghĩa vụ làm việc cho một công ty
của đất nước Singapore (tại Singapore hoặc bất kỳ nước nào khác) trong thời gian tối
thiểu ba năm để trả nợ. Với cách làm này, Chính phủ Singapore luôn có nguồn lao
động chất lượng cao được bổ sung hằng năm để làm việc cho các công ty Singapore.
Các trường đại học của Singapore bù lại cũng có điều kiện và động lực để đầu tư
hiện đại hóa trường học theo tiêu chuẩn quốc tế và nhu cầu của thị trường lao động.
Năm 2011, sinh viên chiếm 6% lao động nước ngoài ở Singapore. Vào năm 2012,
chính phủ Singapore đạt mục tiêu thu hút 150.000 sinh viên nước ngoài tới
Singapore học tập, cao gấp đôi so với con số 66.000 sinh viên của năm 2005, tạo ra
22.000 việc làm và đóng góp tới 3-5% cho GDP/năm [39].
Để khuyến khích các công ty giảm sự phụ thuộc vào lao động phổ thông kỹ
năng thấp nước ngoài, mức lương của các nhân viên nước ngoài có thẻ làm việc đã
tăng lên từ tháng 7/2011. Lương của những người lao động nước ngoài có thẻ S tăng
từ 1800 S$/tháng lên 2000 S$/tháng, trong khi những người nước ngoài có thẻ Q1,
P2, P1 có mức lương là 2800 S$, 4000 S$ và 8000 S$ tương ứng [39]. Nếu như trước
đây, lao động chuyên môn cao nước ngoài ở Singapore chủ yếu có quốc tịch Mỹ,
Anh, Pháp, Australia, thì hiện nay có thêm các chuyên gia Nhật Bản và Hàn Quốc.
Ngoài ra, còn có 1 số ít chuyên gia đến từ Trung Quốc và Ấn Độ.
2.2.3.2. Tác động đối với sự phát triển kinh tế – xã hội Singapore
Thứ nhất, bổ sung sự thiếu hụt nguồn lao động chuyên môn cao trong nước.
Lao động nước ngoài có những đóng góp quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của
Singapore. Có thể thấy rằng, Singapore là đất nước phụ thuộc rất lớn vào lao động
nhập cư. Tỷ lệ lao động nước ngoài và lao động chuyên môn cao nước ngoài ngày
càng tăng lên trong tổng dân số và tổng lực lượng lao động của Singapore. Chẳng
hạn vào năm 2008, lao động nước ngoài chiếm tới 37,3% tổng lực lượng lao động
của Singapore (bảng 2.6), có nghĩa là lao động nước ngoài đóng góp tới 37,3%
nguồn cung lao động cho nền kinh tế Singapore. Ở một số ngành cần chuyên môn
cao, lao động nước ngoài cũng có những đóng góp quan trọng, chẳng hạn lao động
71
nước ngoài đóng góp tới 46,8% nguồn cung lao động cho ngành chế tạo, 35% nguồn
cung lao động cho ngành dịch vụ chuyên gia năm 2008. Trong các nhóm nghề
nghiệp, lao động chuyên môn cao chiếm hơn 20% tổng lao động nước ngoài, thậm
chí ở mức gần 25% vào năm 2012. Có thể nói, Singapore là đất nước phụ thuộc rất
nhiều vào các chuyên gia nước ngoài.
Lao động chuyên môn cao nước ngoài có tác dụng tạo điều kiện để Singapore
thay đổi cơ cấu kinh tế hướng đén nền kinh tế tri thức. Đội ngũ lao động kỹ năng
nước ngoài góp phần bổ sung sự thiếu hụt của lực lượng lao động trong nước ở cấp
độ kinh tế vĩ mô. Các nghiên cứu của Viện nghiên cứu phát triển Philippin cho thấy
1% thay đổi giấy phép lao động đối với người lao động nước ngoài sẽ hỗ trợ việc
làm cho 3,6% lao động kỹ năng ở Singapore và hỗ trợ cho 1,4% lao động không kỹ
năng ở Singapore, trong khi đó 1% thay đổi về thẻ làm việc sẽ hỗ trợ cho 1,9% lao
động kỹ năng và 0,2% lao động không kỹ năng [43]. Những hỗ trợ này bao gồm tạo
việc làm trực tiếp cho người Singapore, tạo hiệu ứng tràn về việc làm khi có sự tham
gia của lao động nước ngoài, cân bằng chi phí tiền lương v.v…
Thứ hai, đóng góp cho tăng trưởng kinh tế và năng suất lao động. Tăng
trưởng GDP của một quốc gia phụ thuộc vào các yếu tố đầu vào (là vốn, lao động,
đất đai) và năng suất tổng nhân tố. Tỷ lệ sinh giảm sẽ khiến tăng trưởng GDP có khả
năng giảm bởi mất đi yếu tố lao động tiềm năng trừ khi đất nước đó thu hút lao động
nước ngoài và cải thiện năng suất lao động. Lao động nước ngoài làm tăng GDP tiềm
năng của Singapore và Singapore vẫn tiếp tục tăng trưởng kinh tế cao trong điều kiện
tỷ lệ sinh trong nước giảm nghiêm trọng. Tăng trưởng năng suất lao động ở
Singapore đạt trên 3%/năm kể từ thập kỷ 1970, sau đó giảm dần và đạt tốc độ tăng
trưởng năng suất lao động 1%/năm trong thập niên 2000s và có khả năng đạt mức
tăng năng suất lao động 2-3%/năm trong thập niên tiếp theo để có thể đạt được mức
tăng trưởng GDP trung bình 3-5%/năm. Trong sự tăng trưởng GDP và năng suất lao
động này, lao động chuyên môn cao nước ngoài đóng góp rất lớn. Trong tăng trưởng
năng suất lao động bình quân (ALP), có những đóng góp của vốn, lao động và tăng
trưởng TFP, có thể thấy đóng góp của lao động nước ngoài có vai trò tương đối quan
trọng. Chẳng hạn trong giai đoạn 2000-2005, tăng trưởng ALP của Singapore đạt
3,54%, trong đó yếu tố vốn tăng trưởng 1,98% (đóng góp 55,92%), lao động tăng
trưởng 1,32% (trong đó lao động trong nước là 0,72% và lao động nước ngoài là
72
0,60%, đóng góp 37,21%), yếu tố TFP đóng góp 0,19% [43]. Như vậy, trong tăng
trưởng ALP giai đoạn 2000-2005, lao động nước ngoài đóng góp khoảng 17%.
Trong giai đoạn 2000-2010, tăng trưởng ALP của Singapore đạt 2,04%, trong đó
tăng trưởng lao động nước ngoài là 0,28%, đóng góp khoảng 13,7% cho tăng trưởng
lao động bình quân của Singapore [54].
Theo tính toán của các chuyên gia thuộc Viện Nghiên cứu phát triển Philippin
(2011), trong giai đoạn 1992-1997, tăng trưởng GDP của Singapore đạt trung bình
9,7%/năm, trong đó lao động nước ngoài đóng góp tới 29,2% cho tăng trưởng GDP.
Trong giai đoạn 1997-2002, tăng trưởng GDP của Singapore đạt trung bình
3,7%/năm do khủng hoảng tài chính châu Á và phần đóng góp của lao động nước
ngoài trong tăng trưởng GDP giảm 0,1% [43]. Nhiều chuyên gia cho rằng Singapore
có thể sẽ không đạt được mức tăng trưởng năng suất lao động tổng nhân tố cao hơn
(TFP) nếu không có sự đóng góp của lao động nước ngoài. Còn theo đánh giá của
Koji Nomura và Tomomichi Amano (2012), trong các yếu tố đóng góp vào tăng
trưởng GDP gồm vốn đầu vào, lao động đồng vào, số lượng lao động, giờ làm việc
và TFP, thì trong giai đoạn 2000-2005, tăng trưởng GDP của Singapore đạt 4,66%,
trong đó vốn đầu vào đóng góp 2,56%, lao động đầu vào đóng góp 1,81% (lao động
trong nước đóng góp 1,35% và lao động nước ngoài đóng góp 0,57%), số lượng lao
động đóng góp 1,27% (lao động trong nước 0,77% và lao động nước ngoài 0,60%),
giờ làm việc đóng góp 0,54% (lao động trong nước 1,02% và lao động nước ngoài -
0,03%), TFP đóng góp 0,29%. Nếu tính theo tỷ lệ % cho tăng trưởng GDP, thì lao
động nước ngoài đóng góp tới 12,8% trong tổng các yếu tố đóng góp cho tăng
trưởng GDP giai đoạn 2000-2005.
Thứ ba, đóng góp vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phát triển
nguồn nhân lực trong nước..
Lao động chuyên môn cao nước ngoài có vai trò quan trọng trong tái cơ cấu
và chuyển dịch cơ cấu ở Singapore thông qua các chính sách công nghiệp của đất
nước này (công nghiệp hóa, trở thành trung tâm tài chính, khu phức hợp hóa dầu,
khu phức hợp sinh hóa…) bằng cách hấp dẫn thu hút các công ty xuyên quốc gia,
các nhà đầu tư nước ngoài. Để đáp ứng nhu cầu kỹ năng cho các ngành công nghiệp
non trẻ trong nước, Singapore đã khuyến khích lao động nước ngoài. Lao động
chuyên môn cao phát huy được các sáng kiến, đưa ra các ý tưởng và công nghệ tiên
73
tiến, hỗ trợ các cơ sở nghiên cứu của Singapore tăng hiệu quả của nghiên cứu và
triển khai (R&D). Trong chính sách phát triển nguồn nhân lực của chính phủ, lao
động chuyên môn cao nước ngoài góp phần khuyến khích các trường đại học và các
viện nghiên cứu của Singapore nâng cao chất lượng đào tạo. Singapore hiện nay
được đánh giá là nước có chỉ số phát triển nguồn nhân lực xếp thứ hạng cao trên thế
giới. Chỉ số HDI của Singapore năm 2010 đạt 0,846, xếp hạng thứ 27 trên thế giới,
chỉ sau Nhật Bản, Hàn Quốc và HongKong Trung Quốc ở châu Á.
Ở Singapore, hệ thống giáo dục luôn là công cụ hỗ trợ cho sự phát triển kinh
tế. Giáo dục được xem là đầu tư cho tương lai hơn là chi tiêu cho những chính sách
công. Ngay cả trong giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 – 2009 thì đầu tư
cho giáo dục vẫn được duy trì ở mức cao. Đối với hệ thống trường học, ngân sách
giáo dục đã tăng từ 8 tỷ đôla Singapore năm 2008 (trước khủng hoảng tài chính) đến
8,7 tỉ đôla vào năm 2009 (trong thời gian khủng hoảng) [28]. Có quan điểm cho rằng
cuộc chiến toàn cầu về tài năng có thể làm suy yếu đầu tư của quốc gia trong giáo
dục công lập, cụ thể là động lực đầu tư vào giáo dục của đất nước có thể bị giảm sút
vì thu nhận những tài năng nước ngoài dễ dàng hơn và rẻ hơn. Tuy nhiên, rõ ràng là
ở Singapore đang xảy ra quá trình ngược. Được nhận đầu tư cao, hệ thống giáo dục
có thể được xem như một phần chiến lược trong cuộc chiến toàn cầu về tài năng.
Một sáng kiến minh họa cho việc làm thế nào hệ thống giáo dục Singapore có
thể thu hút được các tài năng nước ngoài chính là dự án “Nhà trường Toàn cầu”. Bản
thân dự án này là một viễn cảnh về một trung tâm giáo dục hàng đầu thế giới. Đặc
biệt là, chính phủ đã cố gắng thiết kế một “nền kinh tế thị trường” trong phân khúc
giáo dục đại học bằng cách khuyến khích người nước ngoài hay tư nhân trong nước
gia nhập nhiều hơn nữa vào thị trường giáo dục đại học của Singapore. Những đại
học hàng đầu của thế giới được nhắm đến và được mang vào đất nước để làm mũi
nhọn cho sự nghiên cứu và phát triển (R&D) ở tầm mức thế giới, chuyển giao tri
thức công nghệ và đưa Singapore lên vị trí hàng đầu thế giới về giáo dục. Nhiều
thách thức được đặt ra cho chính phủ vì một mặt nhà nước mong muốn nắm giữ để
tập trung kiểm soát, mặt khác lại khuyến khích sự đa dạng trong thị trường giáo dục
đại học. Ngay từ năm 2002, một số trường đại học hàng đầu của thế giới (WCU) đã
thiết lập cơ sở ở Singapore bao gồm INSEAD (Institut Européen d’Administration
des Affairs), University of Chicago-Graduate School of Business, University of
74
Pennsylvania-Wharton School, Massachusetts Institute of Technology, Technische
Universiteit Eindhoven, Technische University Munchen, Georgia Institute of
Technology và Johns Hopkins University (Ng và Tan, 2010). Các trường đại học
trong nước cũng bị thúc đẩy làm việc để nhắm tới tiêu chuẩn hàng đầu của thế giới
và chấp nhận mô hình liên kết.
Dưới dạng đầu tư quốc gia vào nghiên cứu và phát triển (R&D) chính phủ
cũng đã tăng tổng chi tiêu cho nghiên cứu lên đến 7,5 tỷ USD hàng năm vào năm
2010, hay là 3% của GDP trong đó 1/3 được dùng làm quỹ nghiên cứu một cách
công khai. Thông qua Cơ quan Nghiên cứu Quốc gia (National Research
Foundation-NRF), Cơ quan Khoa học, Kĩ thuật và Nghiên cứu (A*STAR) và các
viện nghiên cứu cao cấp khác, chính phủ nhắm đến việc phát triển khả năng trong
lĩnh vực nghiên cứu. Những lĩnh vực này đem lại nhiều gợi ý rất có giá trị cho
Singapore. Như là một phần trong kế hoạch chính yếu để nâng đẳng cấp của
Singapore về nghiên cứu và phát triển (R&D), những cấu trúc hạ tầng to lớn, chẳng
hạn như những thành phố sinh học tối tân, hiện đại được xây dựng nhằm mục đích là
một trung tâm nghiên cứu về Sinh-Y học dành cho vài ngàn nhà khoa học gia làm
việc. Tuy nhiên, với khía cạnh của cuộc chiến về tài năng, một việc cần phải làm của
dự án “Nhà trường Toàn cầu” là thu hút các nhà khoa học quốc tế hàng đầu bằng
cách nâng vị trí của Singapore lên hàng các quốc gia có những nghiên cứu có tác
động cao được thực hiện. Một mức độ đầu tư cao được kỳ vọng để lôi kéo nhân tài
nước ngoài đến Singapore. Những tên tuổi lớn gắn liền với Singapore bao gồm nhà
sinh học người Anh Sydney Brenner đoạt giải Nobel y học năm 2002; Alan Colman
cũng người Anh với nhóm nghiên cứu về cừu sinh sản vô tính Dolly; và một cặp
người Mỹ Neal Copeland, Nancy Jankins thực hiện những cuộc nghiên cứu về ung
thư. Cặp đôi này đã làm việc cho chính phủ Mỹ ở viện nghiên cứu ung thư tại
Maryland và đã chọn Singapore thay vì trung tâm Memorial Sloan-Ketting ở
Newyork chuyên nghiên cứu về ung thư hay đại học Standford ở California vì các
qũy nghiên cứu đang bị cắt xén ở Mỹ trong khi lại tăng lên ở Singapore.
Để phục vụ cho con em của những người nước ngoài đến làm việc, chính phủ
phải cố gắng lôi kéo các trường sở tại và các trường quốc tế lần lượt mở rộng và thiết
lập những hoạt động mới ở Singapore. Đặc biệt là Sở Tài nguyên Đất (SLA) đang
làm việc với Ban Phát triển Kinh tế (EDB) và các cơ quan khác của chính phủ để cấp
75
những địa điểm xây dựng được sử dụng cho mục đích giáo dục để phục vụ cho
những yêu cầu ngày càng tăng. Cho đến nay đã có 19 trường quốc tế đang sử dụng
đất công làm cơ sở giảng dạy bao gồm Canadian International School, United World
College of South East Asia, International Community School và Avondale Grammar
School (Ban Phát triển Kinh tế, 2008). Ngay cả hệ thống giáo dục của Singapore, dù
đã có tiếng về hiệu quả và song ngữ, cũng phải là trọng tâm thu hút sự chú ý khi các
nhân tài hay nhà đầu tư nước ngoài xem xét đến việc giáo dục con em của họ.
Thứ tư, hình thành đội ngũ doanh nhân vững mạnh ở Singapore. Chiến lược
thu hút nhân tài của Singapore đã khiến đất nước này trở thành nơi tập trung nhiều
doanh nhân nước ngoài nổi tiếng trên thế giới. Chính sách ưu đãi nhân tài người
nước ngoài ở Singapore khiến nhiều doanh nghiệp phương Tây chọn Singapore làm
văn phòng đại diện để từng bước xâm nhập thị trường châu Á đầy tiềm năng này.
Tiếp theo là người Nhật bản, người Hàn Quốc. Các doanh nhân người Mỹ cũng chọn
Singapore để phát triển kinh doanh ở châu Á. Những thuận lợi trong thủ tục thành
lập doanh nghiệp ở Singapore đã tạo điều kiện cho nhiều doanh nhân nước ngoài quy
tụ về quốc gia này. Có thể kể tên các tỷ phú nổi tiếng của thế giới đang có cơ sở làm
việc tại Singapore như: Gia đình Khoo của cố tỉ phú Khoo Teck Puat hiện đang nắm
giữ khối tài sản trị giá 6,7 tỉ USD. Khoo Teck Puat từng là cổ đông lẻ lớn nhất của
ngân hàng Anh Standard Chartered. Sau khi Khoo mất vào năm 2004, gia đình Khoo
đã bán cổ phần tại Standard Chartered vào năm 2006 để thu về 4 tỉ USD. Hiện tại,
gia đình Khoo vẫn kiểm soát tập đoàn Goodwood. Một ông trùm khác trong lĩnh vực
ngân hàng là Wee Cho Yaw, chủ tịch United Overseas Bank, ngân hàng có giá trị
cao nhất Singapore. United Overseas Bank được thành lập bởi cha của Wee Cho
Yaw. Năm 2007, Yaw đã nhường lại ghế cho con trai mình, Wee Ee Cheong. Ở tuổi
84, khối tài sản của Yaw ước tính đạt 4,7 tỉ USD. Ngoài ra, một cái tên đáng chú ý
trong danh sách này đó là Richard Chandler. Là người gốc NewZealand, lại còn
đang độc thân, Richard Chandler chưa kịp xây dựng nên một đế chế sâu rộng như
các đại gia đình gốc Hoa khác. Tuy nhiên, tỉ phú này đang sở hữu Richard Chandler
Corp, một quỹ đầu tư chuyên nhắm vào các nền kinh tế mới nổi. Hoặc như Eduardo
Saverin, người đồng sáng lập Facebook đang sinh sống ở Singapore cho đến khi
Saverin trút bỏ quốc tịch Mỹ và trở thành công dân của thành phố châu Á. Saverin bị
76
bêu rếu và chỉ trích với lời buộc tội từ bỏ quốc tịch Mỹ nhằm tránh phải trả hàng
chục triệu USD tiền thuế sau khi Facebook IPO.
Thứ năm, thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài tạo điều kiện cho
Singapore thành lập các thung lũng Silicon trong nước.
Singapore đang cố gắng thành lập các thung lũng Sillicon giống như Mỹ từ
nhiều thập kỷ qua bằng chính sách thu hút nhân tài nước ngoài. Hơn một thập kỷ
trước, chính phủ Singapore đã tuyên bố khoa học và công nghệ là trụ cột chính của
nền kinh tế của quốc đảo này. Không có tài nguyên thiên nhiên và phải đối mặt với
cuộc cạnh tranh gay gắt từ các nước láng giềng về đầu tư nước ngoài, Chính phủ
Singapore đã đưa ra kế hoạch tập trung vào tài sản giá trị nhất của đất nước: tri thức.
Cả hai khu nghiên cứu Fusionopolis và Biopolis dưới sự quản lý của Cơ quan khoa
học công nghệ và nghiên cứu của Singapore (A*STAR) là hiện thân của cam kết
này.
Singapore đưa ra cơ chế nhằm khuyến khích tài năng từ khắp nơi trên thế giới
tới làm việc và gửi những đại diện ưu tú đi học tập ở các nước. Những người
Singapore trở về bị cuốn hút bởi cơ sở vật chất hiện đại, có cơ hội nhận tài trợ và làm
việc với những nhà khoa học nổi tiếng. Singapore đã chi 12 tỷ đôla Singapore và
cam kết sẽ chi khoảng 13.55 tỷ đô la Singapore cho giai đoạn 2006-2010 [3] nhằm
biến quốc đảo này thành trung tâm nghiên cứu và phát triển có sự tham gia của cả
Nhà nước và tư nhân. Nếu tính tới sự phát triển kinh tế dài hạn thì điều này không
chắc chắn. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia đồng ý rằng, nếu cho rằng các chỉ số hiện tại
là thước đo cho thành công dài hạn thì Singapore đang đi đúng hướng.
Singapore đưa các phòng thí nghiệm quốc gia hiện có vào dự án mới gọi là
A*STAR vào năm 2003. Cơ quan mới này bao gồm 2 tổ chức nghiên cứu: Hội đồng
nghiên cứu y sinh (BMRC) và Hội đồng nghiên cứu khoa học, kỹ sư (SERC), mỗi tổ
chức bao gồm 7 viện. A*STAR do Bộ Thương mại và Công nghiệp tài trợ và đảm
nhiệm vai trò thúc đẩy kinh tế phát triển. Năm 2009, A*STAR đã khai trương khu
vực dành cho chương trình nghiên cứu hàng không có sự tham gia của các nhà khoa
học của các công ty như Boeing, EADS, Pratt & Whitney, Rolls-Royce. Những nhà
công nghiệp lớn này ký thỏa thuận hợp tác với các nhà khoa học của A*STAR các
nghiên cứu bao gồm kiểm tra, chế tạo, vật liệu tiên tiến, thiết kế máy như dự án hợp
tác phát triển những kỹ thuật thử nghiệm, kiểm tra không cần tới tháo rỡ các bộ phận
77
của máy bay. Những nhà khoa học khác của thế giới cũng bắt đầu vào Singapore làm
việc ở dự án A*STAR. Công nghệ y sinh đang là công nghệ mũi nhọn của
Singapore. Các chỉ số kinh kế cho thấy ngành công nghiệp y sinh đang phát triển rất
mạnh. Sản phẩm của ngành khoa học y sinh đã tăng 4 lần từ 6,3 tỷ đô la Singapore
vào năm 2000 lên 24 tỷ đô la Singapore vào năm 2007, với mức tăng trưởng hằng
năm là 21% vượt xa mức tăng tưởng của ngành công nghiệp toàn cầu. Chi tiêu tư
nhân cho nghiên cứu và phát triển trong lĩnh vực y sinh năm 2005 chiếm khoảng
35% tổng chi tiêu cho nghiên cứu phát triển. Chỉ riêng năm 2007, lĩnh vực y sinh đã
tuyển hơn 12500 người, chiếm 5% GDP của Singapore, theo thống kê của Ủy ban
Kinh tế phát triển Singapore (EDB). Đây là một cơ hội tốt cho lao động chuyên môn
cao nước ngoài muốn làm việc và sinh sống tại Singapore.
Thứ sáu, một số vấn đề xã hội phát sinh từ việc thu hút lao động chuyên môn
cao nước ngoài.
Trong những năm gần đây, làn sóng phản đối người ngoại quốc tại Singapore
ngày càng lan rộng. Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã làm cho việc tranh giành
những vị trí lương cao trở nên gay gắt hơn ở Singapore. Ở nhiều công ty có khuynh
hướng cắt giảm chi phí, đã có sự chia rẽ giữa người địa phương và người nước
ngoài. Năm 2008, một cuộc điều tra bỏ túi của một tờ báo địa phương cho thấy 9/10
người Singapore sợ mất việc vào tay người nước ngoài và phản đối chính sách của
chính phủ thu hút thêm chuyên gia nước ngoài. Gần 43% người được phỏng vấn
trong điều tra này cho rằng chính phủ quan tâm tới đời sống người nước ngoài hơn là
người dân nước mình.
Mâu thuẫn âm ỉ giữa người nước ngoài và người dân địa phương đã trở thành
cuộc tranh luận sôi nổi ở Singapore những năm gần đây và trở thành luận điểm chính
của phe chính trị đối lập với đảng PAP đương quyền. Phe “địa phương” lên án người
nước ngoài làm cho tỷ lệ thất nghiệp lên mức 2,2%, tiền lương bị giảm, giá thuê nhà
cao, và tăng áp lực lên các nguồn lực như chăm sóc y tế…Điều này đã gây nên
những áp lực căng thẳng cho đảng PAP trong cuộc bầu cử tháng 5/2011. Mâu thuẫn
giữa người nước ngoài và dân địa phương đã dẫn đến những chính sách thắt chặt lao
động nước ngoài ở Singapore kể từ năm 2011 trở lại đây.
78
2.3. CHÍNH SÁCH THU HÚT LAO ĐỘNG CHUYÊN MÔN CAO
NƯỚC NGOÀI CỦA TRUNG QUỐC
2.3.1. Nguyên nhân dẫn tới việc thu hút lao động chuyên môn cao nước
ngoài của Trung Quốc
2.3.1.1. Các nguyên nhân kinh tế:
Trung Quốc là một nền kinh tế mới nổi trong nhóm nước đang phát triển. Với
tốc độ tăng trưởng cao liên tục 9-10% trong nhiều năm qua, Trung Quốc được cả thế
giới chú ý đến bởi tốc độ tăng trưởng và những thành tựu đạt được trong phát triển
kinh tế kể từ khi thực hiện chiến lược cải cách kinh tế vào năm 1978. Nếu như vào
năm 1976, Trung Quốc chỉ chiếm 1% tổng sản lượng của nền kinh tế thế giới, thì
vào năm 2011 tỷ phần của Trung Quốc trong nền kinh tế thế giới là trên 7% và dự
kiến đến năm 2025 sẽ là 20% [52]. Trong hơn ba thập kỷ qua, Trung Quốc luôn duy
trì tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) ở mức cao, trung bình
9,8%/năm, gấp ba lần so với mức tăng trưởng trung bình của thế giới, và gần 240
triệu người ở nông thôn đã thoát khỏi cảnh nghèo đói [36]. Cuối năm 2001, Trung
Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), chính thức trở thành một
thành viên trong hệ thống thương mại đa phương toàn cầu. Tháng 8/2008, Trung
Quốc đã tổ chức thành công Đại hội Olimpics, được đánh giá là đại hội quy mô
hoành tráng và thành công nhất trong lịch sử các kỳ đại hội. Trung Quốc dần khẳng
định vị trí trong top 4 nền kinh tế lớn nhất thế giới. Vào năm 2010 Trung Quốc vượt
Nhật Bản trở thành nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới tính theo giá trị GDP. Theo
giới phân tích, nếu giữ được tốc độ tăng trưởng 9-10%/năm (10,3% trong năm
2010), Trung Quốc có thể thách thức vị trí số một của Mỹ trong vòng 10 năm tới.
Cùng với sự phát triển vượt bậc về kinh tế, Trung Quốc đang thực hiện chiến
lược toàn cầu, tăng cường đầu tư ra nước ngoài, đồng thời thu hút đầu tư nước ngoài
vào Trung Quốc trong các ngành cần công nghệ mới và tiên tiến. Trong lĩnh vực
thương mại, trong 5 năm (2007-2012), khối lượng nhập khẩu và xuất khẩu của Trung
Quốc tăng trung bình hàng năm là 12,2% và tăng từ vị trí thứ 3 lên đứng thứ hai trên
thế giới. Trung Quốc cũng trở thành nước xuất khẩu lớn trên thế giới, và thị phần
quốc tế tăng hơn 2% vào năm 2012 so với năm 2007. Trong lĩnh vực đầu tư, Trung
Quốc đã sử dụng 552,8 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài trong giai đoạn 2007-2012.
Các khoản đầu tư trực tiếp phi tài chính ra nước ngoài tăng từ 24,8 tỷ USD năm 2007
79
đến 77,2 tỷ USD trong năm 2012, tăng trưởng trung bình hàng năm là 25,5%. Điều
này khiến Trung Quốc trở thành quốc gia đầu tư lớn ở nước ngoài [6].
Những thành tựu phát triển kinh tế của Trung Quốc đáng ghi nhận. Trung
Quốc đã đạt được những tiến bộ quan trọng trong lĩnh vực khoa học công nghệ và
các sản phẩm “made in China” có mặt ở hầu khắp các nơi trên thế giới. Trung Quốc
trở thành “công xưởng của thế giới” nhờ nền công nghiệp sản xuất khổng lồ, đặc biệt
trong các lĩnh vực sản xuất hàng hóa rẻ, lắp ráp điện tử, điều hòa không khí, máy
tính cá nhân, đèn tiết kiệm nhiên liệu, sản xuất thịt lợn, sản lượng giày dép, điện
thoại di động, xi măng …Mô hình gia công trong nhiều thập kỷ qua ở Trung Quốc
đã khiến hàng hóa “made in China” được sản xuất hàng loạt với chi phí rẻ, chiếm
lĩnh một phần thị trường thế giới.
Tuy nhiên, Trung Quốc đang phải đối mặt với rất nhiều vấn đề của một nề
kinh tế đang phát triển, đặc biệt trong mô hình kinh tế gia công và thách thức về sáng
kiến công nghệ. Mặc dù là nền kinh tế lớn trên thế giới xét theo quy mô GDP, nhưng
Trung Quốc vẫn là một nước đang phát triển. Những công nghệ hàng đầu thế giới
hiện nay không thuộc về Trung Quốc. Chẳng hạn để tạo nên chiếc điện thoại Iphone
5, một nhóm các nhà nghiên cứu tại Thung lũng Silicon cùng nhau thực hiện một
nhiệm vụ quan trọng. Họ mở tung chiếc điện thoại này ra và bắt đầu phân tích từng
linh kiện bên trong nhằm xác định danh tính các nhà cung cấp của Apple. Kết quả
phân tích cho thấy lắp ráp vẫn là phần chi phí nhỏ nhất của Apple trong khi linh kiện
để sản xuất một chiếc iPhone 5 có thể đến từ khắp nơi: mạch vi xử lý từ Đức và Đài
Loan, bộ xử lý bắt tín hiệu Wifi và sóng điện thoại từ Mỹ, màn hình cảm ứng từ Đài
Loan và hơn 100 linh kiện khác, và lắp ráp tại Trung Quốc. Dù giá nhân công cho
khâu lắp ráp sau cùng chỉ chiếm khoảng 7% tổng chi phí của một chiếc iPhone
nhưng nó có ý nghĩa rất quan trọng. Hầu hết các công ty trong chuỗi cung ứng của
Apple, từ các nhà sản xuất vi mạch, bản mạch in đến pin, khuôn đúc bằng nhựa, đều
nhờ vào giá nhân công rẻ của các nhà máy Trung Quốc để giảm chi phí sản xuất, từ
đó giảm giá bán. Kết quả là, Trung Quốc luôn ở công đoạn cuối cùng của việc chế
tạo một sản phẩm công nghệ cao như Iphone, đó là lắp ráp sản phẩm. Trung Quốc
đang gặp những khó khăn trong việc chuyển từ mô hình công xưởng của thế giới
sang mô hình kinh tế tri thức và sáng tạo. Mô hình gia công này đang được xây dựng
trên chi phí lao động đông và rẻ, tạo nên những sức ép về di cư lao động từ nông
80
thôn lên thành thị, tạo nên nạn thất nghiệp khi nhà máy thu hẹp sản xuất, không
mang nhiều lợi nhuận cho đất nước và doanh nghiệp.
Các nhà khoa học của Trường Đại học Tổng hợp Moscow của Nga đã đưa ra
một phương pháp đánh giá tin cậy và khách quan trình độ phát triển khoa học ở bất
cứ nước nào, đồng thời xác định vị trí của nước ấy trong “thang” khoa học thế giới
[15]. Tất cả các chỉ tiêu được chia thành hai nhóm: “Đầu vào” là các chỉ số về nguồn
lực, gồm số cử nhân và kỹ sư trở lên trên 1000 dân, chi phí cho nghiên cứu và phát
triển theo đầu người và cho một đề tài, tỷ lệ đầu tư cho khoa học so với GDP (%);
“Đầu ra” là các chỉ số nói lên hiệu quả của khoa học, số các công trình được công bố
trên 1000 dân trên số cử nhân và kỹ sư trở lên, số đăng ký sáng chế trên 1000 dân, tỷ
lệ các sản phẩm công nghệ cao trong tổng giá trị xuất khẩu, số máy tính trên 1000
dân. Theo kết quả đánh giá, kết quả của từng nước được tổng kết bằng một chỉ số
chung (từ 0 đến 1). Từ đó, các nhà nghiên cứu chia các nước thành 3 nhóm:
- Nhóm 1, gồm các nước có trình độ phát triển khoa học cao (chỉ số từ 0,51
đến 1,0) sắp xếp như sau: Thuỵ Điển (1,0), Thuỵ Sĩ (0,923), Nhật Bản (0,9139), Mỹ
(0,8342), Đan Mạch (0,7594), Hà Lan (0,7314), Phần Lan (0,7230), Anh (0,7141),
Ixraen (0,7015), CHLB Đức (0,6919), Ôxtrâylia (0,6858), Pháp (0,6580), Hàn Quốc
(0,6541), Na Uy (0,6471), Singapore (0,6468), Canada (0,6395), Bỉ (0,6377), Áo
(0,6018), Niu Dilân (0,5452), Airơlen (0,5173). Mỹ, Nhật Bản, CHLB Đức, Anh,
Pháp dành kinh phí cho nghiên cứu-phát triển rất cao. Riêng 5 nước này chiếm 80%
tổng kinh phí nghiên cứu khoa học của thế giới. Một phần lớn số kinh phí này là do
khu vực tư nhân đóng góp. Song, nói về hiệu quả của nghiên cứu thì Thuỵ Điển và
Thuỵ Sĩ đứng đầu. Dành nhiều nhất cho khoa học cơ bản là CHLB Đức, Pháp và
Ixraen. Ở những nước này, khoa học thuần tuý chiếm tới 20% tổng kinh phí nghiên
cứu và phát triển. Cũng cần nói thêm rằng, Hàn Quốc là nước có vốn tư nhân bỏ vào
nghiên cứu khoa học có tỷ lệ cao nhất thế giới: 82%.
- Nhóm 2, gồm các nước có trình độ phát triển khoa học trung bình (có chỉ số
từ 0,11 đến 0,5) chiếm đa số. Nga cũng chỉ ở nhóm này, lại khá thấp (chỉ số 0,1819).
Các nước thuộc nhóm 2 kinh phí nghiên cứu và phát triển do Nhà nước cấp nhưng
không đủ. Vốn tư nhân hầu như không có, một phần vì hệ thống tổ chức, một phần vì
sản xuất trình độ không tiên tiến, ít sản phẩm thuộc loại công nghệ cao.
81
- Nhóm 3, là nhóm có trình độ phát triển khoa học thấp (chỉ số dưới 0,11)
gồm 12 quốc gia: Ấn Độ, Trung Quốc, Tadjikistan, Uzbekistan, Việt Nam, Urugoay,
Equado, Ai Cập, Bolivia, Nigiêria, Xri-lanca, Benin.
Với những thế mạnh và thách thức trên đây của nền kinh tế, chính phủ Trung
Quốc đã đặt mục tiêu chuyển mô hình kinh tế sang một mô hình mới có hàm lượng
tri thức và sáng tạo cao hơn. Để chuyển mô hình “made in China” sang mô hình
“Created in China”, Trung Quốc cần phải có sự tiến bộ vượt bậc trong nấc thang
công nghệ, hội nhập cao hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu, sản xuất ra các sản phẩm có
thương hiệu và chất lượng công nghệ cao hơn, chi tiêu nhiều hơn cho R&D và tâp
trung thu hút lao động kỹ năng, trong đó có chiến lược thu hút lao động chuyên môn
cao nước ngoài.
2.2.1.2. Các nguyên nhân xã hội:
Khác với Singaporo, Trung Quốc là nước đông dân nhất thế giới. Trong hơn
30 năm qua kể từ khi cải cách kinh tế, Trung Quốc đã tăng rất nhanh dân số của
mình và nguồn lao động giá rẻ là một lợi thế to lớn để Trung Quốc đạt được tốc độ
tăng trưởng kinh tế cao. Tuy nhiên, chất lượng cuộc sống được nâng cao và chính
sách 1 con của chính phủ Trung Quốc đã dẫn đến vấn đề độ tuổi của người dân ngày
càng tăng nhanh. Theo đánh giá của Ủy ban dân số Liên hiệp quốc, tỷ lệ sinh của
Trung Quốc trước kia là 6 con/1 phụ nữ, nhưng đến khi thực hiện chính sách một
con, tỷ lệ sinh của phụ nữ Trung Quốc đã giảm, năm 2010 chỉ còn 1,8 con/1 phụ nữ.
Hậu quả tiêu cực của chính sách “mỗi gia đình chỉ sinh một con” đã bắt đầu bộc lộ
rõ rệt. Dân số Trung Quốc đang bị già hóa trông thấy. Số liệu thống kê cho thấy số
người ở độ tuổi từ 15-59 đã giảm 3,45 triệu người trong năm 2012, giảm lần đầu tiên
kể từ năm 1963, khi 10 triệu người thiệt mạng do nạn đói do kế hoạch “Đại nhảy
vọt”. Nhà nghiên cứu Wang Guangzhou, thuộc Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc
(CASS), dự kiến số người ở độ tuổi từ 15-64 sẽ giảm khoảng 40 triệu người trong
giai đoạn từ năm 2014-2030. Chuyên gia Li Jun, cũng thuộc CASS, nhận định tình
trạng dân số già hóa sẽ diễn ra rất nhanh chóng tại Trung Quốc, với tỷ lệ người trên
65 tuổi dự kiến tăng gấp đôi từ 7% lên 14% chỉ trong vòng 26 năm [14]. Theo đánh
giá của Liên hiệp quốc, số người già từ 60 tuổi trở lên ở Trung Quốc có thể chiếm
16,7% dân số vào năm 2020 và chiếm 31,1% vào năm 2050, vượt xa con số trung
bình của thế giới là 20% vào năm 2050 [76].
82
Cùng với tuổi già đang gia tăng nhanh chóng, Trung Quốc đang gặp phải
những thách thức lớn về việc làm và thất nghiệp. Trung Quốc gặp rắc rối trong việc
chuyển mô hình kinh tế gia công lắp ráp (nhằm tận dụng lao động đông, giải quyết
thất nghiệp ) sang mô hình kinh tế dựa trên tri thức và sáng tạo (cần lao động chuyên
môn cao trong một đất nước đông dân và thất nghiệp lớn). Thất nghiệp của nhóm
thanh niên đã tốt nghiệp đại học ở Trung Quốc ngày càng tăng. Hàng năm Trung
Quốc có 6 triệu sinh viên tốt nghiệp đại học và khả năng tìm kiếm việc làm của họ là
rất khó khăn. Theo Viện hàn lâm khoa học xã hội Trung quốc, tỷ lệ thất nghiệp đại
học năm 2009 của nước này là 12%. Dự báo vào năm 2020, Trung Quốc sẽ là nơi có
lực lượng sinh viên tốt nghiệp đại học lớn nhất thế giới.
Tuy là nước đang có lực lượng lao động dồi dào và có nguồn nhân lực tiếp tục
được cải thiện về chất, nhưng trong nhiều năm trở lại đây Trung Quốc cũng đang
phải đối phó với sự thiếu hụt lao động chuyên môn cao, nhất là các nhà quản lý giỏi.
Theo ý kiến của các chuyên gia thì hệ thống giáo dục của Trung Quốc hiện nay quá
thiên về lý thuyết. Sinh viên Trung Quốc có rất ít kinh nghiệm thực tế trong việc lập
dự án và kỹ năng làm việc theo nhóm, khác với những chương trình đào tạo kỹ thuật
tại các nước châu Âu và bắc Mỹ luôn chú trọng vấn đề thực hành trong suốt quá
trình học tập. Hậu quả của sự khác biệt đó là lượng sinh viên Trung Quốc đáp ứng
được đòi hỏi của các công ty nước ngoài chỉ vào khoảng 160 nghìn người [33].
tương đương với một quốc gia có số dân ít hơn rất nhiều là nước Anh.Số lượng nhân
sự cấp cao có khả năng sử dụng nhiều thứ tiếng, nắm và hiểu nhiều nền văn hóa còn
rất hạn chế. Một nghiên cứu của công ty McKinsey cho biết tới năm 2020, các công
ty đa quốc gia của Trung Quốc cần khoảng 75.000 nhà quản lý toàn cầu. Làn sóng
sinh viên Trung Quốc đổ xô tham gia vào các khóa đào tạo MBA được cho là vẫn
chưa đủ để đáp ứng nhu cầu bởi hệ thống doanh nghiệp Trung Quốc vẫn thiếu những
doanh nhân có kinh nghiệm kinh doanh quốc tế. Tận dụng tình trạng suy thoái ở một
số quốc gia phát triển trong vài năm trở lại dây, Trung Quốc đã đẩy mạnh việc thu
hút nguồn nhân lực chất lượng cao từ New York, London về Bắc Kinh, Thượng Hải.
Theo China Daily, riêng trong năm 2010, các công ty của nước này đã thuê tới
800.000 lao động người nước ngoài [31].
Để dịch chuyển mô hình kinh tế từ nay đến năm 2020, Trung Quốc cần phải
dịch chuyển lực lượng lao động của mình từ lao động đông, kỹ năng thấp sang lao
83
động ít và chuyên môn cao hơn. Đây là một chiến lược dịch chuyển hoàn toàn khó
khăn trong điều kiện hiện tại. Nhu cầu lao động chuyên môn cao ở Trung Quốc hiện
nay đang tiếp tục gia tăng mạnh mẽ. Theo đánh giá, trong khoảng từ năm 2003 đến
2008, Trung Quốc sẽ đào tạo được 1, 2 triệu sinh viên có đủ tiêu chuẩn và kỹ năng
làm việc trong các tập đoàn dịch vụ tầm cỡ quốc tế. Thế nhưng lượng lao động này
chỉ đủ cung ứng cho 60% các công ty đa quốc gia và liên doanh, chưa kể đến nhu
cầu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Những con số trên có thể khiến người ta nghĩ
rằng người lao động Trung Quốc không thể rơi vào tình cảnh thất nghiệp được, vậy
mà số liệu thống kê lại cho kết quả ngược lại: năm 2000, tỉ lệ lao động không tìm
được việc làm sau khi tốt nghiệp đại học là 1%, nhưng đến năm 2009 đã tăng lên
6%. Trung Quốc cũng đang rất thiếu những nhà quản lý tài năng. Ước tính trong
vòng 10- 15 năm tới, Trung Quốc cần đến 75.000 nhà lãnh đạo giỏi có khả năng làm
việc trong môi trường quốc tế, nhưng con số thực tế hiện nay mới chỉ vào khoảng
3.000 – 5.000 người [33]. Để có những nhà quản lý tài năng, các công ty Trung
Quốc đã tìm kiếm từ rất nhiều nguồn khác nhau: từ các công ty nước ngoài, từ các
ngành có kỹ năng quản lý tương đồng, hoặc trong số những người từng được đào
tạo, làm việc ở các nước công nghiệp phát triển…, song các nguồn này ở Trung
Quốc không nhiều.
Vấn đề khan hiếm lao động trình độ cao thuộc các lĩnh vực mũi nhọn của nền
kinh tế như tài chính, kế toán, kỹ thuật đã trở thành vấn đề không phải chỉ của riêng
các công ty đa quốc gia đang hoạt động trên lãnh thổ Trung Quốc, của chính các
công ty bản địa, mà còn làm đau đầu cơ quan lập pháp nước này. Nền kinh tế Trung
Quốc cần lực lượng lao động lành nghề để tăng khả năng cạnh tranh với thế giới về
chất lượng sản phẩm, chứ không phải chỉ nhờ vào yếu tố giá thành như hiện nay. Với
khoảng 150 triệu lao động phổ thông chưa qua đào tạo và làm việc chủ yếu tại các
phân xưởng gia công, trong nhiều thập kỷ qua, Trung Quốc đã xa rời nền kinh tế
dịch vụ hướng đến người tiêu dùng. Nhưng như một quy luật, không quốc gia nào có
thể mãi mãi giữ được chi phí sản xuất thấp, nên chính sách của Trung Quốc cần phải
thay đổi, bởi vì nếu còn tiếp tục tình trạng này thì mức sống của người dân sẽ không
được cải thiện, thậm chí còn đi xuống. Chính vì vậy giải quyết vấn đề nhân lực là
một trọng tâm trong sách lược của chính phủ Trung Quốc.
84
2.3.2. Một số chính sách cơ bản để thu hút lao động chuyên môn cao nước
ngoài của Trung Quốc
2.3.2.1. Chính sách thu hút nhân tài trở về nước làm việc.
Vào ngày 23/6/1978, tại trường đại học Tsinghua, Đặng Tiểu Bình có bài phát
biểu nổi tiếng liên quan đến việc gửi sinh viên Trung Quốc đi học tập ở nước ngoài.
Vào năm 1983, Đặng Tiểu Bình lại có một bài phát biểu khác về việc thu hút lao
động chuyên môn cao nước ngoài vào Trung Quốc làm việc để Trung Quốc mở rộng
cửa hơn với thế giới bên ngoài. Từ năm 1992, chính sách gửi sinh viên Trung Quốc
ra nước ngoài học tập và sau đó khuyến khích họ trở về nước đã được chính phủ
nhân rộng. Chính sách đó được gọi với cái tên “xuất ngoại rồi quay trở về tổ quốc- to
come and go”. Để thu hút nhân tài từ nước ngoài về nước tham gia công việc nghiên
cứu, Trung Quốc đã đề ra rất nhiều kế hoạch như "Kế hoạch trăm người" năm 1994,
"Kế hoạch học giả sông Yangtze" năm 1998, “Kế hoạch 1000 người” năm 2008...
Trong giai đoạn 1998-2006, trong số 1.107 học giả thuộc Kế hoạch học giả sông
Yangtze, đã có 94% số họ được gửi ra nước ngoài nghiên cứu và học tập [79].
Vào năm 2002, chính phủ Trung Quốc thành lập Kế hoạch xây dựng nhân tài
quốc gia, giai đoạn đầu tiên được thực hiện là 2002-2005. Năm 2003, chính phủ
thành lập một hội nghị quốc gia về phát triển nguồn nhân lực, từ đó dẫn đến việc
thành lập Nhóm phối hợp hoạt động nhân tài trung ương (The central talent work
coordinating Group). Chính sách này dẫn đến việc Trung Quốc gửi hàn triệu sinh
viên, các nhà nghiên cứu ra nước ngoài học tập và làm việc. 77% giám đốc, hiệu
trưởng các trường đại học, 84% cán bộ nghiên cứu của Viện khoa học xã hội Trung
Quốc, 75% cán bộ nghiên cứu của Viện khoa học công nghệ Trunq Quốc được cử ra
nước ngoài học tập và làm việc trong giai đoạn này [79]. Chính phủ tài trợ cho các
dự án nghiên cứu của những trường đại học và viện nghiên cứu tuyển dụng họ. Đầu
năm 2007, Viện Khoa học Trung Quốc đã cử một đoàn nhân tài với quy mô lớn, đi
đến các nước châu Âu và Mỹ học tập và làm việc.
Tháng 12/2008,” Kế hoạch hàng nghìn nhân tài” được thực hiện với những nỗ
lực đào tạo nhân tài cho đất nước. Các ứng cử viên cho Kế hoạch này phải thuộc
thành viên của 4 loại tổ chức: 1) các dự án sáng kiến quốc gia; 2) các cơ quan nghiên
cứu khoa học cơ bản; 3) các doanh nghiệp nhà nước trung ương và các ngân hàng
nhà nước; 4) các công viên công nghệ cao. Tiếp theo đó, trong kế hoạch 5 năm lần
85
thứ 11 (2006-2010) chính phủ Trung Quốc giành hẳn một phần đặc biệt của kế
hoạch cho phát triển nhân tài. Mục tiêu của kế hoạc này là đưa 2.000 nhân tài về
nước trong vòng 5 - 10 năm tới. Chính quyền các tỉnh cũng đã khởi động các chiến
dịch hấp dẫn tài năng "nhí" từ người Trung Quốc hồi hương. Chính sách thu hút
nhân tài hồi hương cũng tập trung vào số lưu học sinh thông qua các buổi giao lưu,
giới thiệu tình hình đất nước và tổ chức tuyển dụng việc làm. Giờ đây, quan niệm
trong giới lưu học sinh Trung Quốc đã có nhiều thay đổi. Thay vì muốn tìm việc làm
ở trời Tây, họ cho rằng, trở về nước làm việc là con đường hấp dẫn nhất bởi họ vừa
được phát triển sự nghiệp, vừa được cống hiến cho Tổ quốc.
Trong kế hoạch phát triển nhân tài quốc gia trung và dài hạn (2010-2020),
Trung Quốc đã thông qua “Đề cương nhân tài”. "Đề cương nhân tài" (6/2010) là một
kế hoạch lớn tiếp theo hàng loạt biện pháp về vấn đề này.
Bảng 2.11. Một số chỉ tiêu trong Đề cương nhân tài của Trung Quốc
Đơn vị Triệu người Người/10.000 2008 2015 2020 113,85 156,25 180,25 33 24.8 43
% 24,4 27 28
% % 10,75 18,9 13 32 15 35 Chỉ tiêu Số lượng LĐ chuyên môn cao Chi tiêu R&D cho LĐ chuyên môn cao trong lực lượng LĐ Tỷ lệ lao động chuyên môn cao trong lực lượng LĐ Tỷ lệ đầu tư vốn nhân lực trong GDP Tỷ lệ đóng góp của LĐ chuyên môn cao trong GDP Nguồn: Wang Huiyao (2011), China’s National Talent plan: key mearsures
and objectives, Brookings, trang 6.
Đề cương nêu ra mục tiêu tổng thể phát triển nhân tài đến năm 2020 là, tổng
lượng nguồn nhân tài phải từ 114 triệu người hiện nay tăng lên đến 180 triệu người;
tỷ lệ số người có trình độ đại học ở độ tuổi lao động từ gần 10% hiện nay tăng lên
đến 20%, đồng thời xây dựng một số điểm cao nhân tài trong các lĩnh vực trọng
điểm phát triển kinh tế và xã hội như chế tạo trang thiết bị, thông tin, công nghệ sinh
học, hàng không vũ trụ, v.v. Một số mục tiêu cụ thể: Đến năm 2020, sẽ đào tạo được
3,8 triệu nhân viên nghiên cứu phát minh và 40 nghìn nhân viên kỹ thuật trình độ
cao, hơn năm triệu nhân viên chuyên môn cần thiết cho các lĩnh vực kinh tế trọng
điểm. Ngoài ra, Trung Quốc sẽ đào tạo hơn tám triệu người hoạt động trong lĩnh vực
phát triển xã hội trọng điểm như giáo dục, chính trị, tuyên giáo, y tế...
86
Để thực hiện Đề cương nhân tài, có nghĩa là Trung Quốc sẽ phải đào tạo
khoảng 66 triệu nhân tài mới trong vòng 10 năm trong khi các trường đại học trong
nước chỉ có thể đáp ứng 6 triệu sinh viên ra trường trong 1 năm, Trung Quốc đã tăng
cường gửi sinh viên và lao động chuyên môn cao ra nước ngoài học tập, sau đó nỗ
lực thu hút chất xám là những nhân tài khoa học - kỹ thuật người Trung Quốc từ Mỹ,
châu Âu trở về nước làm việc. Thống kê cho thấy, 90% các nhà khoa học ở Trường
đại học Jiaotong là những Hoa kiều hồi hương và họ đã dẫn đầu trong lĩnh vực sáng
kiến nghiên cứu. Các tập đoàn công nghiệp như Haier, China Netcom và Brilliance
China Automotive Holdings chiêu mộ nhân tài của McKinsey, A.T.Kearney và
nhóm Tư vấn Boston. Không chỉ có các công ty tư nhân, các công ty quốc doanh ở
Trung Quốc nay cũng bắt đầu bỏ ra nhiều tiền để thu hút nhân tài. Chẳng hạn, Công
ty Bảo hiểm Bình An, nhà bảo hiểm nhân thọ lớn thứ hai của Trung Quốc, đã chịu
trả lương cao hơn 50% cho các giám đốc của Canadian Imperial Bank of Commerce
và American International Group (AIG) để mời họ về làm việc cho mình. Mới đây,
Bình An còn bỏ ra 65 nghìn USD/năm để tuyển dụng một giám đốc từng làm việc
cho một ngân hàng quốc tế. Mức lương này cao hơn mức lương cũ của vị giám đốc
đó đến 40%. Các công ty Trung Quốc nay đang thu hút nhân tài người Trung Quốc
đang làm việc ở nước ngoài. Một số giám đốc phải chấp nhận mức lương thấp hơn
khi họ về làm cho các công ty trong nước. Nhưng đổi lại, họ được bù đắp bằng
quyền mua cổ phiếu ưu đãi, được cấp nhà ở, được nhận nhiều trách nhiệm hơn và
được làm việc với một công ty có nhiều triển vọng tăng trưởng.
2.3.2.2. Chính sách khuyến khích lao động chuyên môn cao nước ngoài
vào Trung Quốc làm việc.
* Chính sách đối với sinh viên quốc tế:
Song song với chiến lược gửi sinh viên và cán bộ ra nước ngoài học tập,
Trung Quốc đã không ngừng cải tiến chất lượng các trường đại học trong nước để
thu hút sinh viên nước ngoài, đồng thời thiết lập chính sách thu hút lao động chuyên
môn cao nước ngoài vào làm việc.
Các chương trình ngoại giao sinh viên của Trung Quốc ngày càng mở rộng.
Theo thống kê của Bộ Giáo dục Trung Quốc, ngày càng có nhiều sinh viên nước
ngoài đến đây học tập. Năm 2011, tại Trung Quốc có tới gần 300.000 du học sinh
nước ngoài. Việc tăng số lượng sinh viên nước ngoài bằng cách cung cấp nhiều học
87
bổng, phát triển cơ sở vật chất, là một chiến lược có chủ đích của chính phủ, nhằm
thúc đẩy sự hiểu biết về văn hóa, ngôn ngữ của Trung Quốc trên toàn cầu, và mở
rộng "sức mạnh mềm" của Trung Quốc. Trong khi đó, chính phủ Mỹ và các nước ở
châu Á, châu Âu, cũng đang đầu tư vào các chương trình nghiên cứu, thường là hợp
tác với chính phủ Trung Quốc, để tạo ra một thế hệ sinh viên mới hiểu biết về đất
nước này. Kế hoạch 5 năm của Trung Quốc (2011-2015) trong lĩnh vực giáo dục với
mục đích nâng cao chất lượng tại các viện nghiên cứu, các đại học trong cả nước, để
thu hút được khoảng 500.000 sinh viên quốc tế vào năm 2020. Trung Quốc đang
nhanh chóng mở rộng việc dạy và học tiếng Trung Quốc và tiếng Anh. Chính phủ
Trung Quốc đang lên kế hoạch tài trợ 50.000 học bổng cho sinh viên nước ngoài vào
năm 2015. Chính phủ Mỹ và các nước châu Âu cũng đang đầu tư vào những chương
trình khuyến khích sinh viên nước mình tới học tại Trung Quốc. Năm 2010, Mỹ đã
phát động chương trình "100.000 Strong Initiative" (100.000 sự khởi đầu mạnh mẽ)
nhằm tăng số lượng sinh viên Mỹ học tập tại Trung Quốc lên 100.000 người vào
năm 2014. Giữa EU và Trung Quốc đã có một diễn đàn về giáo dục đại học đầu tiên
được tổ chức tháng 4/2010– được coi là “cột trụ thứ ba trong mối quan hệ EU –
Trung Quốc”, theo đó sẽ có 30.000 học bổng dành cho sinh viên trong 5 năm 2011-
2015.
Chính sách đối với lao động chuyên môn cao nước ngoài:
Từ năm 1986, Trung Quốc thực hiện Luật kiểm soát ra vào của người nước
ngoài (Law of the People’s Republic of China on control of the entry and exit of
foreigners”, trong đó quy định “người nước ngoài nếu đáp ứng đủ các yêu cầu sẽ
được định cư lâu dài tại Trung Quốc nếu họ muốn”. Đây là mốc khởi đầu cho chính
sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài vào Trung Quốc. Kể từ đó, Trung
Quốc bắt đầu nghiên cứu các lĩnh vực thu hút lao động nước ngoài và các quy định
điều tiết sự di chuyển của người nước ngoài ra vào thị trường lao động Trung Quốc.
Họ tập hợp tất cả các tài liệu, văn bản luật pháp của các nước phát triển như
Anh,Nhật Bản, Canada về hệ thống nhập cư, từ đó đưa ra những bản thảo cho chính
sách nhập cư lao động nước ngoài của Trung Quốc.
- Quy định về visa và thẻ làm việc:
Chính phủ Trung Quốc có những quy định riêng về cấp visa cho lao động
chuyên môn cao nước ngoài. Visa ở Trung Quốc được phân thành nhiều loại: visa
88
Ngoại giao, Tiếp đãi, Công vụ, Phổ thông. Cơ quan cấp visa Trung Quốc khi cấp
visa sẽ tham chiếu đến hộ chiếu của các đối tượng để cấp visa tương ứng ví dụ Hộ
chiếu ngoại giao sẽ cấp visa Ngoại giao, Hộ chiếu Học sinh, sinh viên sẽ cấp visa
học sinh, sinh viên… nhưng có khi sẽ xét đến những trường hợp đặc biệt như thân
phận của người đến Trung Quốc có nguyên do cụ thể sẽ cấp visa tương ứng. Dựa vào
“Quy tắc pháp thực quản lý xuất nhập cảnh người nước ngoài của Nước Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa”, visa Phổ thông được chia làm tám loại, được phân biệt bởi
tám chữ cái cụ thể sau:
- Visa D: được cấp cho những người đến định cư tại Trung Quốc;
- Visa Z: được cấp cho những người đến Trung Quốc nhận chức, làm việc
hoặc đi theo người nhà;
- Visa X: được cấp cho học sinh, sinh viên đến Trung Quốc du học, cấp cho
giáo viên đến học nâng cao, và những người đến thực tập từ 6 tháng trở lên;
- Visa F: được cấp cho những người đến Trung Quốc phỏng vấn, khảo sát,
giao lưu văn hóa kỹ thuật, nâng cao ngắn hạn và nhũng người đến thực tập trong
khoảng thời gian ngắn không quá 6 tháng;
- Visa L: được cấp cho những người đến Trung Quốc du lịch hoặc những
người nhập cảnh đến Trung Quốc giải quyết việc riêng. Nếu tổng cộng có 9 người
trở lên cùng một tập thể nhập cảnh với mục đích du lịch thì sẽ cấp visa tập thể;
- Visa G: được cấp cho nhũng người quá cảnh;
- Visa C: được cấp cho nhũng người đến Trung Quốc trong những chuyến bay
quốc tế, trong các chuyến tàu liên vận, vận chuyển hàng không, hằng hải…
- Visa J-1: được cấp cho các nhà báo, phóng viên quốc tế thường trú tại Trung
Quốc;
- Visa J-2: được cấp cho các nhà báo quốc tế đến đột xuất với mục đích phỏng
vấn;
Như vậy đối với lao động chuyên môn cao nước ngoài sẽ được nhận visa Z .
Để có thể vào làm việc ở Trung Quốc, lao động chuyên môn cao nước ngoài phải
trình Visa Z, giấy chứng nhận là chuyên gia nước ngoài, giấy phép làm việc của
chuyên gia. Về mặt nguyên tắc, những người nước ngoài muốn xin được cấp visa cư
trú phải có visa công tác, và ngược lại. Có hai lựa chọn về cư trú. Thứ nhất, giấy
phép cư trú tạm thời, do Bộ Công an cấp, đối với những người lưu lại Trung Quốc
89
hơn sáu tháng nhưng dưới một năm. Những người cư trú trong hơn một năm tại
Trung Quốc thường có thể lựa chọn phương thức thứ hai: một giấy phép cư trú dành
cho người nước ngoài (FRP). Giấy phép mỗi lần cấp thường có hiệu lực một năm,
nhưng nó có thể được gia hạn – sau khi những người xin việc “vượt qua được”
những thủ tục hành chính quan liêu.
Tuy nhiên, sau khi Trung Quốc gia nhập WTO vào năm 2001, vấn đề thiết lập
hệ thống chính sách đối với lao động nước ngoài mới được bàn bạc 1 cách cụ thể.
Vào ngày 15/8/2005, Trung Quốc chính thức khởi động hệ thống Thẻ Xanh, tức
Giấy phép thường trú dành cho người nước ngoài. Theo Bộ Công an Trung Quốc,
đây là một bước đi quan trọng của chính phủ nhằm thích ứng với toàn cầu hóa kinh
tế, thúc đẩy cải cách, mở cửa và hiện đại hóa CNXH hơn nữa. Theo qui định mới,
những người được cấp Thẻ Xanh là cán bộ cao cấp trong các lĩnh vực kinh doanh
đang hỗ trợ sự phát triển kinh tế, khoa học - kỹ thuật và tiến bộ xã hội của Trung
Quốc, nhà đầu tư lớn vào Trung Quốc, người có đóng góp nổi bật, đặc biệt quan
trọng đối với Trung Quốc, và người nước ngoài đến Trung Quốc để đoàn tựu gia
đình. Với Thẻ Xanh, người nước ngoài sẽ được miễn visa khi vào ra Trung Quốc.
Trẻ vị thành niên được cấp thẻ có giá trị năm năm, còn người trưởng thành được cấp
thẻ có giá trị 10 năm. Hệ thống thẻ Xanh là những bước đột phá được tập trung tiến
hành tại Bắc Kinh và Thượng Hải. Năm 2012, Bắc Kinh dành cho các nhà đầu tư cơ
hội được phép cư trú trong 5 năm nếu họ đầu tư 3 triệu USD. Hơn 40 thẻ xanh đã
được cấp cho các nhà quản lý và đầu tư nước ngoài tại Bắc Kinh. Nhưng những thẻ
xanh này dường như là một hàng hóa khan hiếm. Visa công tác của người nước
ngoài vẫn phải xin gia hạn mỗi năm và hệ thống thẻ xanh tùy thuộc vào bạn đầu tư
bao nhiêu thay vì cam kết của bạn đầu tư vào thành phố Thượng Hải hay Bắc Kinh.
Vào năm 2012, chính phủ Trung Quốc đã có một số thay đổi để tạo điều kiện
dễ dàng hơn cho chuyên gia nước ngoài sống và làm việc ở Trung Quốc. Bắt đầu từ
tháng 12/2012, chính phủ sẽ gia hạn visa cho lao động nước ngoài muốn tiếp tục ở
lại làm việc ở Trung Quốc, thời hạn là 5 năm; Cấp visa làm việc hoặc giấy phép cư
trú đối với các chuyên gia nước ngoài đã làm việc ở Trung Quốc từ 2 đến 5 năm,
muốn tiếp tục ở lại lâu dài; Cấp chứng nhận chuyên gia hoặc chứng nhận chuyên gia
nước ngoài cho lao động chuyên môn cao nước ngoài; Các quy định trên sẽ được áp
dụng cho các lao động chuyên môn cao nước ngoài, vợ/chồng và con dưới 18 tổi của
90
họ, cũng như con 18 tuổi muốn làm việc tại Trung Quốc dưới dạng chuyên gia.
Những chuyên gia nước ngoài được cấp Giấy phép định cư lâu dài ở Trung Quốc sẽ
được hưởng quyền lợi và nghĩa vụ như các công dân Trung Quốc, trừ quyền lợi
chính trị và một số quyền lợi đặc biệt khác do luật pháp quy định.
+ Quy định về thuế:
Người lao động nước ngoài sẽ phải chịu mức thuế thu nhập theo đúng những
quy định luật pháp về thuế và các hiệp ước đối xử thuế. Tuy nhiên, không có những
mức thuế riêng cho lao động phổ thông nước ngoài và lao động chuyên môn cao
nước ngoài mà chỉ tính dựa vào tổng thu nhập chịu thuế.
Bảng 2.12. Mức thuế thu nhập của người nước ngoài ở Thượng Hải,
Trung Quốc
Mức thu nhập phải chịu thuế (NDT) Dưới 1.500 1.501-4.500 4.501-9.000 9.001-35.000 35.001-55.000 55.001-80.000 Trên 80.000 Tỷ lệ thuế (%) 3 10 20 25 30 35 45 Giảm trừ (NDT) 0 105 555 1.005 2.755 5.505 13.505 Nguồn: Income tax for foreigners in China, Shanghai Halfpat, 19/6/2012,
trang 1.
Cách tính thuế như sau: chẳng hạn người nước ngoài có tổng thu nhập là
30.000 NDT. Mức thu nhập không phải đóng thuế đối với người nước ngoài là 4.800
NDT (đối với người trong nước là 3.500 NDT). Mức thu nhập phải chịu thuế sẽ là:
30.000 NDT – 4.800 NDT = 25.200 NDT. Tỷ lệ thuế sẽ là 25%, mức giảm trừ là
1.005 NDT. Mức thuế phải nộp sẽ là: 25200 * 0,25 – 1005 = 5295 NDT.
Ngoài ra, các chuyên gia nước ngoài sẽ là một trong 4 nhóm đối tượng được
chính phủ Trung Quốc quan tâm trong các kế hoạch nhân tài của quốc gia và của các
chính quyền địa phương, đặc biệt là Kế hoạch hàng nghìn nhân tài và Đề cương nhân
tài của Trung Quốc.
Như vậy, để có thể thu hút ngày càng nhiều nhân tài và đầu tư nước ngoài,
Trung Quốc đang mở cửa rộng hơn và cho phép những nhà đầu tư và nhân tài nước
ngoài cư trú lâu dài tại Trung Quốc, thông qua việc cấp các thẻ xanh. Không còn
bằng lòng với việc nhập nguyên liệu thô của thế giới để giúp sản xuất trong nước
91
chinh phục nền kinh tế thế giới, Trung Quốc đang triển khai kế hoạch mới: thu hút
nhân tài của các đối thủ cạnh tranh. Mọi người có thể nghĩ rằng, lực lượng lao động
tại Trung Quốc lên tới 774 triệu người đồng nghĩa với việc “không còn chỗ trống”
trên thị trường lao động dành cho người nước ngoài. Nhưng, thực tế lại ngược lại,
Trung Quốc đang xem xét lại các chính sách nhập cư phức tạp của mình. Vấn đề
mấu chốt trong chiến lược thu hút nhân tài của Trung Quốc là một hệ thống “thẻ
xanh” - hoặc giấy phép cư trú lâu dài - sẽ được sử dụng để thu hút nhân tài và
khuyến khích họ ở lại Trung Quốc. Tuy nhiên, đến nay, Trung Quốc đang phải nỗ
lực khắc phục hệ thống chính sách nhập cư phức tạp, đã và đang gây phiền hà khiến
các nhà đầu tư và các chuyên gia nước ngoài nản lòng.
2.3.3. Tác động của chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước
ngoài ở Trung Quốc
2.3.3.1. Tác động đối với việc thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài
Hoa kiều trở về nước làm việc:
Chính sách cử người Trung quốc đi học tập và làm việc ở nước ngoài trong
nhiều thập niên qua đã đem lại một nguồn lợi to lớn cho Trung Quốc trong việc thu
hút lao động chuyên môn cao nước ngoài. Theo thống kê của Bộ giáo dục Trung
Quốc, vào cuối năm 2011 tổng số sinh viên Trung Quốc đang học tập và nghiên cứu
ở nước ngoài là 2.244.100 người, số lượng người Trung Quốc quay trở về nước làm
việc là 818.000 người, chiếm 36% [48]. Hầu hết số sinh viên trở về này đều học tập
ở Mỹ và các nước châu Â. Theo đánh giá của OECD, trong giai đoạn 1990-1999, có
tới 47% những người có học vị tiến sĩ ở Mỹ đều có quốc tịch nước ngoài và họ ở lại
Mỹ để sinh sống và làm việc. Trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, tỷ lệ sinh viên
Trung Quốc được giữ lại làm học tiến sĩ ở Mỹ chiếm 87%, trong khi người Đài Loan
chỉ là 57%, người Hàn Quốc là 39%, Ấn Độ 82% [63]. Những đánh giá nghiên cứu
của Viện nghiên cứu khoa học và giáo dục Oak Ridge (Mỹ) cho rằng tỷ lệ người
Trung Quốc sau 5 năm học tiến sĩ ở Mỹ và đạt được bằng cấp tiến sĩ ở Mỹ thuộc
diện cao nhất thế giới: 92%, trong khi Ấn Độ chỉ đạt 81%, Hàn Quốc đạt 41%, Nhật
Bản đạt 33% và Thái Lan 7% (Wall Street Journal, 26/1/2010.) Tại Mỹ, số lượng
sinh viên nước ngoài chủ yếu đến từ Trung Quốc và Ấn Độ.
Theo thống kê của Hội đồng khoa học quốc gia Mỹ năm 2006, có khoảng 2,2
triệu sinh viên nước ngoài đang làm nghiên cứu sinh tại Mỹ. Trong số họ, 16%
92
(khoảng 350.000 người) là người Ấn Độ và 11% (khoảng 242.000 người) là người
Trung Quốc. Vào năm 2008, có khoảng 80.000 người Trung Quốc được nhận thẻ
xanh tại Mỹ và 40.000 người Trung Quốc được công nhận là công dân Mỹ.
Trung Quốc trở thành nước xuất khẩu chất xám lớn nhất trên thế giới sang
Mỹ, tiếp theo là Mehico. Xét theo các giải thưởng quốc tế, năm 2009 Trung Quốc
đạt 8 giải thưởng Nobel quốc tế trong lĩnh vực khoa học tự nhiên, trong đó 5 người
sinh ra ở Trung Quốc nhưng đã được công nhận là công dân Mỹ, và 3 người Trung
Quốc khác cũng đang sinh sống ở nước ngoài. Chính sách cử sinh viên và các nhà
khoa học sang học tập và làm việc ở nước ngoài đã khiến nhân lực người Trung
Quốc được trang bị nhiều kiến thức hiện đại và được thế giới công nhận.
Bảng 2.13. So sánh số sinh viên Trung Quốc ra nước ngoài học tập và trở
về nước làm việc, giai đoạn 1996-2010
Năm
Số sinh viên ra nước ngoài học tập (người) 270.000 296.000 302.000 320.000 340.000 460.000 585.000 700.000 814.000 933.000 1.067.000 1.210.200 1.390.000 1.620.000 1.915.000 2.244.100 Số sinh viên trở về nước làm việc (người) 89.000 96.000 99.000 112.000 130.000 135.000 153.000 178.000 198.000 233.000 275.000 320.000 390.000 497.000 630.000 818.000 Tỷ lệ quay trở về nước (%) 32,9 32,4 32,7 35,0 38,2 29,3 36,2 25,4 24,3 24,9 25,8 26,4 28,0 30,7 33,2 36,0 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011
Nguồn: Huiyao Wang (2012), China’s competition for global talents:
strategy, policy and recommnetdations, Research reports, 24/5/2012, trang 6. Xét về lĩnh vực nghiên cứu và học tập ở nước ngoài, trong giai đoạn 1978-
1999 có tới 75% số sinh viên Trung Quốc được gửi ra nước ngoài học tập và nghiên
cứu trong lĩnh vực khoa học và công nghệ (chủ yếu là khoa học cơ khí, khoa học tự
nhiên, khoa học dược, khoa học nông nghiệp, khoa học lâm nghiệp), chỉ có 25% học
tập ở lĩnh vực văn hóa nghệ thuật và khoa học xã hội. Các điểm đến chủ yếu của sinh
93
viên Trung Quốc trong giai đoạn này là Mỹ, Nhật Bản, Canada, Đức, Anh, Pháp,
Australia (chiếm 75% số sinh viên Trung Quốc du học ở nước ngoài), 25% còn lại là
đến các nước khác trên thế giới. Tỷ lệ sinh viên quay trở về nước làm việc sau khi tốt
nghiệp đại học thấp nhất là những người Trung Quốc sống ở Mỹ (14,1%), cao nhất
là ở Anh (46,8%), Đức (37,4%), Pháp (47,6%), Nhật Bản (37,4%),
Canada(37,4%)…
Bảng 2.14. Số sinh viên Trung Quốc ở nước ngoài phân theo lĩnh vực học
tập nghiên cứu và điểm đến, 1978-1999
Tỷ lệ
Số sinh viên đi học ở nước ngoài 400.000 300.000 100.000 213.200 66.800 26.800 26.800 21.200 14.800 13.200 17.200 75 21 53,3 16,7 6,7 6,7 5,3 3,7 3,3 4,3 Số sinh viên về nước 100.000 30.021 25.016 10.036 10.036 9.924 7.050 5.932 1.984 Tỷ lệ về nước 14,1 37,4 37,4 37,4 46,8 47,6 44,9 11,5 Tổng Theo ngành nghề Khoa học kỹ thuật Văn hóa nghệ thuật Theo điểm đến Mỹ Nhật Bản Canada Đức Anh Pháp Australia Khác Nguồn: OECD (2001), International mobility of the highly skilled, Paris,
trang 116.
Trong những năm gần đây, ngành nghề học của sinh viên Trung Quốc ở nước
ngoài có sự đa dạng hơn. Top các ngành nghề đại học Mỹ được sinh viên Trung
Quốc ưa chuộng hiện nay là đại học tổng hợp, tài chính, y tế, thiết kế máy tính, ngân
hàng, dược, bảo hiểm, viễn thông không dây, bác sĩ, tư vấn kỹ thuật, giáo dục, bảo
hiểm…
94
Hình 2.5. Số lượng sinh viên Trung Quốc ra nước ngoài và trở về nước
làm việc, giai đoạn 1996-2011
Nguồn: National Statistical Yearbook of China.
Vấn đề đặt ra là: Trung Quốc đang bị chảy máu chất xám hay đang thu hồi lại
lợi ích từ chất xám xuất khẩu ra nước ngoài? Bảng 2.13 cho thấy, tỷ lệ người Trung
Quốc sau khi học tập và làm việc ở nước ngoài trở về nước chiếm trên dưới 30% và
tỷ lệ người Trung Quốc đạt học vị tiến sĩ ở Mỹ quay trở về tổ quốc làm việc chiếm
8%. Trong nhiều năm qua, Trung Quốc đã dựa vào tiềm lực tài chính trong nước
mạnh (năm 2011 dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc đạt trên 3000 tỷ USD, xếp thứ nhất
trên thế giới) để đầu tư phát triển nguồn nhân lực của mình ở trong nước và nước
ngoài, tuy nhiên tỷ lệ người Trung Quốc có học vị tiến sĩ trở về nước không nhiều.
So với lượng người gửi ra nước ngoài để tiếp thu tri thức hiện đại, lượng người quay
trở lại nước còn thấp, và điều này phụ thuộc phần lớn vào chính sách thu hút nhân tài
trở về nước của Trung Quốc còn nhiều phần kém hấp dẫn.
Lao động chuyên môn cao người nước ngoài:
Từ khi thực hiện chính sách cải cách và mở cửa, chính phủ Trung Quốc đã
khuyến khích tuyển dụng các chuyên gia nước ngoài trình độ cao vào làm việc ở
Trung Quốc. Nhờ những nỗ lực của chính phủ, số lượng chuyên gia nước ngoài vào
Trung Quốc ngày càng đông. Trong giai đoạn 1978-1999, tổng số chuyên gia nước
ngoài vào Trung Quốc là 824.000 người, dưới hình thức làm việc dài hạn và ngắn
hạn. Trong giai đoạn 1992-1999, số chuyên gia nước ngoài vào Trung Quốc là
613.820 người, tăng gấp đôi so với con số 210.180 người của giai đoạn 1978-1999.
95
Điều này cho thấy tốc độ tăng lực lượng lao động chuyên môn cao nước ngoài ở
Trung Quốc ngày càng cao.
Bảng 2.15. Số lượng chuyên gia nước ngoài vào Trung Quốc giai đoạn
1992-1999
Năm Tổng
Chuyên gia đi theo các nhà đầu tư nước ngoài Chuyên gia quản lý và đến Trung Quốc theo hợp đồng lao động
Chuyên gia trong lĩnh vực giáo dục, khoa học, văn hóa, sức khỏe cộng đồng 18,0 17,3 16,4 17,1 1978-91 210.180 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 31.200 30.800 37.018 36.540 14.400 14.200 13.612 14.364 62.500 71.820 74.500 76.000 80.000 82.000 83.000 84.000 43,0 45,1 39,0 39,4 39,0 37,6 44,6 43,5 34.400 37.000 32.370 33.096 Nguồn: OECD (2001), International mobility of the highly skilled, Paris,
trang 176.
Vào năm 2009, số lượng chuyên gia nước ngoài làm việc tại Trung Quốc là
480.000 lượt người. Gọi là lượt người thay cho số lượng người bởi vì có một lượng
lớn các chuyên gia nước ngoài đã quay trở lại Trung Quốc làm việc sau khi hết hợp
đồng lao động và trở về nước, sau đó mới quay trở lại. Năm 2009, Trung Quốc có
233.000 người nước ngoài làm việc dưới dạng giấy phép lao động. Bên cạnh đó,
Trung Quốc còn ban tặng Giải thưởng bạn bè (friendship awards) cho 1.099 chuyên
gia nước ngoài, Giải thưởng hợp tác khoa học và công nghệ quốc tế (international
scientific and technological awards) cho 43 chuyên gia nước ngoài [48].
Trước khi Trung Quốc ban hành Thẻ xanh, chính phủ đã có nhiều cố gắng
trong việc thu hút các sinh viên có trình độ học vấn cao từ nước ngoài vào Trung
Quốc làm việc, nhưng do có nhiều hạn chế về mặt chính sách, sinh viên nước ngoài
không thể vào Trung Quốc học tập và làm việc. Hơn nữa, trước năm 2004, chính phủ
Trung Quốc tập trung vào việc tuyển dụng các chuyên gia nước ngoài vào các vị trí
ngắn hạn, chưa tập trung vào việc thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài vào
Trung Quốc theo hợp đồng dài hạn hoặc khuyến khích gia hạn hợp đồng lao động.
Chính vì vậy, lao động chuyên môn cao nước ngoài vào Trung Quốc trước năm 2004
bị hạn chế rất nhiều. Từ tháng 8/2005 đến tháng 8/2008, chính sách Thẻ xanh đã có 96
tác dụng rất lớn, chính phủ Trung Quốc đã phê chuẩn định cư dài hạn cho 686 người
nước ngoài, và chỉ trong năm 2006 đã có 70.000 chuyên gia nước ngoài đã đăng ký
sống và làm việc tại Bắc Kinh [48]. Theo số liệu của Bộ nguồn nhân lực và an sinh
xã hội, năm 2010 có 231.700 người nước ngoài làm việc tại Trung Quốc, tăng so với
con số 223.000 của năm 2009. Hầu hết họ là những lao động có chuyên môn cao,
đến từ nhiều quốc gia trên thế giới.
Cùng với lao động chuyên môn cao nước ngoài, Trung Quốc những năm gần
đây cũng chú ý đến việc thu hút sinh viên quốc tế đến học tập và làm việc tại Trung
Quốc. Số sinh viên quốc tế đến Trung Quốc đạt 190.000 người năm 2007, trên
200.000 người năm 2008. Từ năm 1978 đến năm 2009, số lượng sinh viên quốc tế
đến Trung Quốc nghiên cứu và học tập lên tới 1,69 triệu lượt người, đến từ 190 quốc
gia trên thế giới. Trung Quốc chấp nhận sinh viên quốc tế đến nước mình học tập và
làm việc không phải vì mục đích kiếm lợi nhuận từ việc học tập của họ, mà vì muốn
thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài vào Trung Quốc. Vào năm 2011, có
khoảng 290.000 sinh viên quốc tế học tập ở Trung Quốc, so với 60.000 sinh viên
quốc tế năm 2001, trong đó sinh viên Hàn Quốc chiếm tỷ lệ lớn nhất trong số sinh
viên quốc tế học tập tại Trung quốc năm 2011 (62.442 người), tiếp theo là Mỹ
(23.292 người), Nhật Bản (17.961 người), Nga (13.340 người), Indonesia (10.957
người), Ấn Độ (9370 người), Pháp (7.592 người), Đức (5.451 người) [43]. Trong
một báo cáo điều tra về nguyện vọng viêc làm của sinh viên quốc tế do ttường Đại
học ngoại ngữ và văn hóa Bắc Kinh (BLCU) khảo sát năm 2009, trong số 155 sinh
viên quốc tế được hỏi, có 54 người trở lời muốn ở lại Trung Quốc làm việc, trong đó
72% số người muốn ở lại làm việc tại Trung quốc muốn làm việc trong lĩnh vực
ngôn ngữ và văn hóa, 45% muốn làm trong lĩnh vực thương mại, và 24% muốn làm
việc trong lĩnh vực trao đổi văn hóa [43].
2.3.3.2. Tác động đối với sự phát triển kinh tế – xã hội Trung Quốc
Là một nước đông dân, không quá cởi mở với lao động nhập cư từ nước
ngoài, tác động của lao động chuyên môn cao nước ngoài đối với Trung Quốc không
mang tính rõ ràng như ở Singapore. Tuy nhiên, có thể phân tích tác động của lao
động chuyên môn cao nước ngoài đối với Trung Quốc qua một số khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, Trung Quốc là một quốc gia đang phát triển, trình độ khoa học
công nghệ và kinh tế còn đứng sau các nước phát triển. Do vậy, lao động chuyên
97
môn cao nước ngoài vào Trung Quốc có thể giúp cho đất nước này học tập và sử
dụng được công nghệ hiện đại, khả năng quản lý tiên tiến của các nước công nghiệp
phát triển, từ đó đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế và khả năng cạnh tranh quốc tế.
Một ví dụ điển hình cho thấy, công nghệ thông tin ở Trung Quốc hiện nay phát triển
rất nhanh, trong đó có sự đóng góp rất lớn của lao động chuyên môn cao nước ngoài.
Có thể nhắc đến tên tuổi của 2 người sáng lập ra AsiaInfo. Họ đều là những người
mang quốc tịch Mỹ, năm 1995 đến Trung Quốc với vai trò giúp Trung Quốc xây
dựng cơ sở hạ tầng thông tin và kết nối mạng thông tin giữa các tỉnh thành của Trung
Quốc. AsiaInfo hiện nay đang là nhà cung cấp các giải pháp công nghệ viễn thông
phần mềm chất lượng cao của Trung Quốc, cung cấp các dịch vụ an ninh thông tin
cho các doanh nghiệp lớn nhất ở Trung Quốc.
Zhang Zhaoyang là người sáng lập ra tập đoàn Sohu của Trung Quốc. Ông là
người mang quốc tịch Mỹ, được sự hỗ trợ của vốn đầu tư mạo hiểm Mỹ đẻ thành lập
công ty Internet liên doanh ở Trung Quốc kể từ năm 1997. Hiện nay ở Trung Quốc
có công thông tin mạng lớn với địa chỉ Sohu.com. Một số trang mạng khác ở Trung
Quốc như Taobao.com, Alibaba.com cũng do những Hoa Kiều Trung Quốc học tập
thạc sĩ ở Nhật Bản sáng lập năm 1999, có nhiều người Trung Quốc sử dụng hơn
trang google của Mỹ. Jack Ma hiện được coi là ông trùm lớn nhất trong ngành kinh
doanh công nghệ thông tin ở Trung Quốc. Những gì mà Jack Ma đạt được với
Alibaba.com đã được người Trung Quốc ghi nhận chẳng kém gì tỉ phú giầu nhất thế
giới Bill Gates, ông chủ của Microsoft. Jack Ma hiện cũng đã trở thành một trong
những tỉ phú Đôla của thế giới sau phi vụ bán lại 35% cổ phần của công ty cho tập
đoàn Yahoo. Đây là một phi vụ nổi tiếng đã thu hút sự quan tâm bất thường của giới
truyền thông trong năm 2005. Cả Alibaba.com và Yahoo đều rất hài lòng với hợp
đồng đã được ký kết của mình. Theo đó, có thể biết rằng đây là một hợp đồng đầu tư
có giá trị lớn nhất của một tập đoàn nước ngoài vào thị trường Trung Quốc. Các
phương tiện truyền thông đều đưa tin Jack Ma và Công ty Alibaba.com đã thu về 1,7
tỉ USD trong đó có 1 tỉ USD tiền mặt để đổi lấy việc Yahoo nắm giữ 35% cổ phần
của Alibaba.com cùng với 1 trong 4 ghế thành viên quản trị của công ty.
Trong số những doanh nghiệp hàng đầu của Trung Quốc hiện nay, có rất
nhiều doanh nghiệp có nguồn gốc từ lao động chuyên môn cao nước ngoài, chủ yếu
là từ người Hoa Kiều trở về xây dựng đất nước. Có thể kể tên những doanh nghiệp
98
đó như Baidu, AsiaInfo, Venus, Ctrip, Vimicro v.v…Chương trình chiêu mộ nhân tài
ở nước ngoài (có tên gọi là "Changjiang") được Chính phủ Trung Quốc chính thức
phát động vào cuối năm 2002. Theo đó mức lương tối thiểu mà một trí thức Hoa
kiều hồi cư được nhận hàng năm là 12.000 USD - đó là mức thu nhập trung bình ở
phương Tây, nhưng quả là đáng kể ở Trung Quốc. Yuan Changzheng, một nhà vật lý
trẻ hồi cư vào năm 2004 sau 6 năm làm việc và sinh sống tại Pháp, cho biết: “Khi
làm việc cho Ủy ban Khoa học quốc gia Pháp, tôi nhận được mức lương 1.800
euro/tháng, nhưng phải chi hết 1/3 để trả tiền thuê nhà. Về lại Trung Quốc, thu nhập
có giảm, nhưng theo chính sách, tôi chỉ phải thanh toán có 20 euro để trả tiền thuê
một căn hộ cao cấp rộng đến 90m2. Vì vậy ở Trung Quốc, mức sống của tôi lại cao
hơn ở Pháp”. Zeng Changqing – một nhà khoa học nữ làm việc trong ngành công
nghệ sinh học – Hoa kiều định cư ở Mỹ năm 1986, nguyên giáo sư giảng dạy ở Viện
đại học Texax đã hồi cư vào tháng 4/2004 với khoản hỗ trợ 200.000 USD để lập một
phòng nghiên cứu hiện đại tại Viện nghiên cứu về gen di truyền bắc Kinh, 1 khoản
trợ cấp 20.000 USD về nhà ở cùng một khoản tài trợ 2 triệu USD để nghiên cứu về
AND trong hai năm. Sau hơn 1 năm về nước, bà được bổ nhiệm làm phó giám đốc
Viện nghiên cứu về gien di truyền Bắc Kinh. Không những hỗ trợ về mặt vật chất,
Chính phủ Trung Quốc còn tạo điều kiện để các nhà khoa học là Hoa kiều phát huy
hết khả năng chuyên môn của mình như hỗ trợ thành lập các phòng nghiên cứu, các
công ty mũi nhọn. Cho đến nay, tại Công viên Khoa học Zhongguancun đã hình
thành đến 300 phòng nghiên cứu, công ty mũi nhọn, trong đó có đến 60% do Hoa
kiều làm giám đốc [10]. Chính tại đây đã ra đời nhiều phát minh khoa học tạo động
lực giúp nền kinh tế Trung Quốc phát triển mà không bị lệ thuộc vào công nghệ của
nước ngoài. Chính sách chiêu mộ nhân tài là Hoa kiều của chính phủ Trung Quốc
còn là động lực đánh thức lòng yêu nước trong thâm tâm của những người xa xứ.
Nie Zaiqing, một nhà khoa học từng làm việc cho Tập đoàn Điện tử NEC ở Mỹ đã từ
chối được bổ nhiệm vào vị trí tốt hơn với mức thu nhập cao hơn để quyết định quay
về lại quê hương.
Thứ hai, lao động chuyên môn cao nước ngoài trong lĩnh vực quản lý kỹ thuật
và công nghệ có khả năng giúp Trung Quốc thực hiện các hợp đồng công nghệ với
nước ngoài. Lực lượng lao động này thúc đẩy Trung Quốc hấp thụ công nghệ, làm
chủ các thiết bị tiên tiến và phát triển các nhân tài công nghệ trong nước. Họ các khả
99
năng khuyến khích cải tiến máy móc thiết bị trong doanh nghiệp, đẩy mạnh quá trình
phát huy sáng kiến. Nghiên cứu của Mu Rongping (2007) về lao động chuyên môn
cao Hoa Kiều đã chỉ ra những tác động tích cực của người Hoa khi trở về đất nước
làm việc. Nghiên cứu này chỉ rõ, các tiến sĩ người Hoa khi trở về tổ quốc đem lại
47,7% lợi ích từ việc nhập khẩu công nghệ nước ngoài, trong khi những tiến sĩ trong
nước chỉ đem lại 21,3% lợi ích từ việc nhập khẩu công nghệ nước ngoài. Trong khía
cạnh nhập khẩu vốn nước ngoài, người Hoa mang tới 23,1% lợi ích, trong khi người
trong nước chỉ đem lại 6,3% lợi ích. Trong khía cạnh hỗ trợ thành lập các dự án quốc
tế, người Hoa Kiều đem lại 30,8% lợi ích, trong khi người Trung Quốc trong nước
chỉ đem lại 10% lợi ích. Trong khía cạnh giúp ích cho các dự án đầu tư nước ngoài
mới, người Hoa mang tới 36,9% lợi ích, còn người trong nước chỉ đem đến 16,3%
lợi ích [76]. Trong những năm gần đây, Trung Quốc đã trở thành địa điểm hấp dẫn
cho các nhà doanh nghiệp gốc Hoa ở các nước Đông Nam Á, bởi lẽ họ có lợi thế về
ngôn ngữ, nền văn hoá, cũng như tạo lập mối quan hệ với chính quyền địa phương.
Tại đây, các doanh nhân gốc Hoa được Chính phủ Trung Quốc tạo nhiều ưu đãi như
giá thuê đất thấp, giảm tiền điện, thuế kinh doanh…Hơn 90% trong số những người
hồi hương có trình độ từ thạc sĩ trở lên, và được đào tạo tại những nước tiên tiến
nhất. Đây là một tài sản lớn rất cần cho sự phát triển của nền kinh tế Trung Quốc
hiện nay. Bởi chỉ có khoảng dưới 10% dân số Trung Quốc là có trình độ đại học, nền
kinh tế còn theo “số đông”, dựa vào nguồn lao động dồi dào và mức lương thấp. Tuy
nhiên, trong điều kiện nền kinh tế tri thức ngày càng có vai trò quan trọng trong việc
phát triển nền kinh tế, Trung Quốc đang chuyển dần cơ cấu nền kinh tế của mình.
Giáo sư Henry Wang, một quan chức cấp cao của Hiệp hội Western Returned
Scholars Association cho biết: “Trung Quốc rất cần tri thức và thách thức lớn nhất
của nước này là vấn đề nguồn nhân lực”. Những người Hoa hồi hương trở về làm
việc trong các viện nghiên cứu, các cơ quan Chính phủ, nhưng đông nhất là tham gia
vào lĩnh vực kinh doanh. Riêng tại thủ đô Bắc Kinh, có tới 3.300 doanh nghiệp do
các Hoa kiều hồi hương thành lập, trong đó có những công ty tư nhân thuộc loại lớn
nhất nhì tại Trung Quốc như UTStarcom (kinh doanh về lĩnh vực viễn thông), Sohu (
lĩnh vực Internet)…
Thứ ba, chuyên gia nước ngoài đã góp phần rất lớn trong việc giúp Trung
Quốc thực hiện các dự án lớn của đất nước, chẳng hạn như Dự án đập Tam Hiệp, các
100
chuyên gia nước ngoài đã góp phần tư vấn công nghệ, quản lý hợp đồng, tạo điều
kiện thuận lợi về tài chính để dự án được hoàn thành hiệu quả. Quá trình xây dựng
nhà máy thủy điện lớn nhất thế giới – đập Tam Hiệp đã được khởi công từ năm 1994
và tổ máy vận hành sản xuất điện đầu tiên đã hòa vào lưới điện quốc gia từ tháng
7/2013. Giới quan chức Trung Quốc thông báo, trước đây, đập Tam Hiệp đã vận
hành với tổng công suất là 567,8 triệu kilowatt, tiết kiệm gần 200 triệu tấn than mỗi
năm. Tuy nhiên, công trình khổng lồ nằm trên sông Dương Tử này đã tiêu tốn của
chính phủ Trung Quốc gần 41 tỷ USD – gấp 4 lần so với ước tính chi phí ban đầu, và
gần 19 tỷ USD để hoàn thành mọi hạng mục sau này. Công trình đập Tam Hiệp đã
tạo thành một hồ chứa nước khổng lồ với chiều cao là 185 m, trải dài 600 km trên
sông Dương Tử đã buộc chính quyền nước này phải di dời ít nhất 1,3 triệu dân.
Ngoài dự án Đập Tam Hiệp, các chuyên gia nước ngoài còn hỗ trợ Trung Quốc thực
hiện các dự án khác trong lĩnh vực công nghiệp, xây dựng và nông nghiệp.
Thứ tư, lao động chuyên môn cao nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục góp
phần giúp Trung Quốc cải tạo và nâng cấp hệ thống giáo dục, đổi mới trang thiết bị
giảng dạy và phương pháp học tập, đưa hệ thống giáo dục Trung Quốc phát triển
mạnh mẽ hơn. Việc tiếp nhận sinh viên quốc tế và chuyên gia nước ngoài trong lĩnh
vực giáo dục khiến Trung Quốc chủ trọng đầu tư cơ sở vật chất trường lớp nhằm
quảng bấ nền văn hóa và ngôn ngữ Trung Quốc ra toàn cầu, tăng sức mạnh mềm của
Trung Quốc ra toàn thế giới. Kế hoạch 5 năm hiện tại của Trung Quốc cho lĩnh vực
giáo dục nhằm nâng cao năng lực của các cơ sở GD đại học nước này tiếp nhận được
khoảng 500.000 sinh viên quốc tế vào năm 2020, theo Tân Hoa Xã. Trung Quốc
đang tăng tốc mở rộng các chương trình dạy tiếng Trung và các chương trình đào tạo
dạy bằng tiếng Anh. 34 trường đại học Trung Quốc hiện có các chương trình dạy
bằng tiếng Anh.
Lĩnh vực giáo dục cũng là lĩnh vực chịu ảnh hưởng mạnh mẽ nhất của làn
sóng trí thức người Hoa Kiều quay trở về nước. Hiện nay, đa số các giáo sư tại các
trường đại học hàng đầu Trung Quốc đã từng theo học hoặc là giáo sư thỉnh giảng tại
các trường đại học, viện nghiên cứu ở nước ngoài. Nhờ vậy, họ được nắm giữ những
vị trí quan trọng nhất của nền giáo dục tri thức cao của Tung Quốc, điển hình như
Trần Chí Lợi – cựu bộ trưởng Bộ giáo dục, Chu Kỳ, cựu bộ trưởng bộ Giáo dục đều
là những người đã theo học ở Mỹ những năm 1980. Hơn 50% cán bộ làm việc trong
101
các trường, các viện nghiên cứu đều đã từng đi tu nghiệp ở nước ngoài. Cùng với sự
hiện diện khắp mọi nơi của tri thức Hoa Kiều trong ngành giáo dục, nhiều người có
học vấn phương Tây còn nắm giữ các vị trí then chốt trong các lĩnh vực khác, điển
hình là Thứ trưởng Bộ thương mại Cao Phúc Thành (tiến sĩ trường Paris 7), Chủ tịch
Ngân hàng Trung Quốc Lưu Minh Khang (thạc sĩ Đại học London 1987)….[16].
2.4. SO SÁNH VÀ ĐÁNH GIÁ CHÍNH SÁCH THU HÚT LAO ĐỘNG
CHUYÊN MÔN CAO NƯỚC NGOÀI CỦA SINGAPORE VÀ TRUNG QUỐC
2.4.1. So sánh chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài
của Singapore và Trung Quốc
2.4.1.1. Những điểm tương đồng
Trong chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài, Singapore và
Trung Quốc có một số điểm tương đồng sau đây:
Thứ nhất, xuất phát điểm của hai nước khi thực hiện chính sách thu hút lao
động chuyên môn cao nước ngoài là tương đối giống nhau. Cả Singapore và Trung
Quốc đều trong tình trạng thực hiện công nghiệp hóa và mở cửa kinh tế, thiếu hụt lao
động chuyên môn cao, đồng thời đang phải đối mặt với vấn đề già hóa dân số. Mặc
dù quy mô dân số và sức ép về nguồn cung lao động kỹ năng cao của hai nước có sự
khác biệt rất lớn, nhưng sự phát triển kinh tế của hai nước trong thời gian gần đây
khiến Singapore và Trung Quốc đều cần thu hút lao động kỹ năng nước ngoài. Đối
với Singapore, với dân số vỏn vẹn 5,3 triệu người (năm 2012), sức ép về nguồn cung
lao động kỹ năng cao nước ngoài là rất lớn để đáp ứng tốc độ tăng trưởng kinh tế và
trình độ phát triển kinh tế của nước này. Đối với Trung Quốc, với hơn 1 tỷ dân
nhưng chính sách 1 con của Trung Quốc đang gây sức ép về việc làm, an sinh xã hội
cho người già. Hình dưới đây cho thấy, Trung Quốc và Singapore đều có xu hướng
vấp phải sự suy giảm dân số trong độ tuổi lao động kể từ năm 2015 trở đi. Hơn nữa,
là một nước đông dân nhưng Trung Quốc sau gần 45 năm cải cách và mở cửa (từ
năm 1978) vẫn đang luẩn quẩn trong việc tìm lối thoát khỏi mô hình kinh tế gia công
lắp ráp để chuyển sang mô hình kinh tế tri thức có hàm lượng giá trị gia tăng trong
sản phẩm cao hơn. Vì thế, thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài là cách tốt
nhất để Trung Quốc tiến lên nấc thang mới của chuỗi giá trị toàn cầu.
102
Hình 2.6. Sự suy giảm dân số trong độ tuổi lao động ở châu Á
Nguồn: Nana Oishi (2012), Highly skilled migration and competitiveness:
sciences & engingeering sectors in Japan, Sophia University, trang 33.
Thứ hai, Singapore và Trung Quốc đều ban hành các khung khổ chính sách
cụ thể để thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài. Mặc dù thời điểm ban hành
chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài ở hai nước có sự khác nhau
tùy thuộc vào nhu cầu lao động chuyên môn cao và cơ cấu kinh tế của hai nước,
nhưng các hệ thống chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài được
ban hành ở Singapore và Trung Quốc đã khiến hai nước này trở thành điểm đến hấp
dẫn của lao động chuyên môn cao. Cả hai nước đều có những chính sách thu hút sinh
viên quốc tế đến học tập và làm việc, tận dụng nguồn nhân tài trẻ và năng động từ
khắp nơi trên thế giới, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của hai quốc gia. Theo
đánh giá của các chuyên gia, Singapore và Trung Quốc đều là hai nước hấp dẫn lao
động chuyên môn cao nước ngoài. Chỉ số hấp dẫn lao động chuyên môn cao nước
ngoài ở Singapore năm 2009 là 8,22, đứng thứ hai thế giới sau Thụy Điển, và của
Trung Quốc là 6,05, đứng thứ 13 trên thế giới, sau các nước như Thụy Điển,
Singapore, Mỹ, Australia, Canada…., nhưng đứng trước các nước Malaysia, Thái
Lan, Ấn Độ, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản…
103
Hình 2.7. Chỉ số hấp dẫn lao động chuyên môn cao nước ngoài
Nguồn: Nana Oishi (2012), Highly skilled migration and competitiveness:
sciences & engingeering sectors in Japan, Sophia University, trang 21.
Tuy môi trường chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài ở
hai nước có sự khác nhau, nhưng một điểm chung nhất là cả hai nước đều cởi mở với
lao động chuyên môn cao nước ngoài, tạo điều kiện tốt nhất để họ sinh sống, làm
việc và nâng cao thu nhập. Một điểm chung nữa là: cả Trung Quốc và Singapore đều
là những nền kinh tế năng động ở khu vực Đông Á với những lợi thế và tiềm lực
kinh tế rất lớn, môi trường chính trị ổn định, kinh tế luôn đạt tốc độ tăng trưởng cao,
thu nhập đầu người liên tục tăng, thiếu lao động chuyên môn cao trong một số lĩnh
vực... Những nhân tố đó khiến các nhân tố đẩy (phía cung) và nhân tố kéo (phía cầu)
về lao động chuyên môn cao nước ngoài ở Trung Quốc và Singapore trở nên thuận
lợi hơn so với các nước khác trong khu vực Đông Á.
Thứ ba, trong cơ cấu lao động chuyên môn cao nước ngoài vào Trung quốc và
Singapore, người châu Á chiếm một tỷ lệ lớn. Tại Singapore, lao động nước ngoài
chủ yếu đến từ Đông Nam Á (chiếm 59,1%), Đông Á (25,4%), Nam Á (10,2%). Tại
Hong Kong (Trung Quốc), lao động nước ngoài chủ yếu dến từ Đông Á (83,7%) –
mà chủ yếu đến từ Macau, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản…(số liệu năm 2010)
[70]. Singapore dựa chủ yếu vào nguồn cung lao động từ các nước Đông Nam Á và
Trung Quốc vẫn dựa chủ yếu vào nguồn cung lao động từ Đông Á do những lợi thế
của hai nước này trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á. Hơn nữa, cả hai nước này
đều thu hút được rất ít có lực lượng lao động chuyên môn cao nước ngoài từ các
104
nước châu Âu và Mỹ. Trong cơ cấu lao động nước ngoài của Singapore năm 2010,
khu vực Bắc Mỹ chiếm 0,6% và các khu vực khác chiếm 4,6%. Tương tự ở Trung
Quốc, khu vực Bắc Mỹ và châu Âu hầu như bằng 0% và các khu vực khác là 16,3%
[70].
Bảng 2.16. Lao động nước ngoài phân theo khu vực ở một số nước châu
Á năm 2010 (%)
Nước đến
Nam Á Bắc Mỹ Khác
Đông Á Đông Nam Á Nguồn lao động phân theo khu vực Châu Âu
Brunei Cambodia Hongkong Ấn Độ Nhật Bản Hàn Quốc Malaysia Philippin Singapore Thái Lan Indonesia 2,9 2,6 83,7 0,5 55,8 55,0 6,2 12,3 25,4 35,1 62,6 81,4 95,5 0,0 1,3 15,3 21,9 79,9 2,1 59,1 38,7 0,0 10,0 0,3 0,0 92,4 2,4 3,1 10,4 2,1 10,2 6,3 0,0 3,2 0,6 0,0 0,2 2,4 1,1 0,7 12,3 0,0 3,1 5,8 Australia và New Zealand 0,5 0,2 0,0 0,0 0,7 0,7 0,4 0,7 0,0 0,9 0,0 0,2 0,3 0,0 0,1 2,9 8,0 0,0 10,8 0,6 1,2 0,0 1,8 0,6 16,3 3,6 20,6 10,2 2,5 59,6 4,6 14,6 31,7 Nguồn: Shandre Mugan Thangavelu (2012), Economic Growth, Welfare and
foreign workers: case of Singapore, National University of Singapore, trang 14.
Thứ tư, lao động chuyên môn cao nước ngoài có những đóng góp không nhỏ
đối với sự phát triển kinh tế của Singapore và Trung Quốc. Tuy những tác động này
khác nhau về mức độ và chất lượng, nhưng lực lượng lao động chuyên môn cao
nước ngoài đã bổ sung sự thiếu hụt lao động kỹ năng trong một số ngành kinh tế chủ
chốt của Trung Quốc và Singapore. Hơn nữa, lực lượng lao động chuyên môn cao
nước ngoài đã giúp hai nước hình thành một số ngành công nghệ mới, đặc biệt trong
lĩnh vực công nghệ thông tin viễn thông, liên kết với các doanh nghiệp trong nước để
hình thành nên đội ngũ doanh nhân tài năng, giúp Trung Quốc và Singapore tiếp
nhận chuyển giao công nghệ và kỹ năng quản lý kinh tế hiện đại một cách hiệu quả
hơn, đồng thời góp phần nâng cấp hệ thống giáo dục đại học, đưa Trung Quốc và
Singapore trở thành điểm đến hấp dẫn của sinh viên quốc tế trong thời gian gần đây.
2.4.1.2. Những điểm khác biệt
105
Sự khác biệt trong chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài
của Trung Quốc và Singapore thể hiện cụ thể sau đây:
Thứ nhất, mô hình thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài của Trung
Quốc và Singapore có sự khác nhau cơ bản. Theo phân loại quốc tế, Trung Quốc
thuộc về nước chủ yếu nghiêng về xuất khẩu lao động, trong khi Singapore chủ yếu
là nước nhập khẩu lao động. Với 5,3 triệu dân, nguồn cung lao động trong nước rất ít
và nguồn cầu lao động nước ngoài ở Singagore rất lớn. Với gần 1,3 tỷ người, Trung
Quốc là nước đông dân, đang dư thừa lao động, vì vậy nguồn cung đang rất lớn và
Trung Quốc đang phải đối mặt với tình trạng thất nghiệp, dư thừa lao động; trong khi
đó nguồn cầu lao động phổ thông nước ngoài hầu như không xuất hiện tại Trung
Quốc, nguồn cầu lao động chuyên môn cao nước ngoài chỉ mang tính tương đối và
có chọn lọc. Đối chiếu với thực trạng thu hút lao động nước ngoài ở Trung Quốc và
Singapore, có thể chứng minh rõ mô hình di chuyển lao động của hai nước. Vào năm
2010, dòng lao động ra khỏi Trung Quốc là 8.344.726 người, và dòng lao động vào
Trung quốc là khoảng 685.775 người, tỷ lệ lao động vào/ lao động ra là khoảng
8,2%. Cũng trong năm 2010, dòng lao động ra khỏi Singapore là 297,234 người và
dòng lao động vào Singapore là khoảng 1.966.865 người, tỷ lệ lao động vào/ lao
động ra là 661,7%. Những con số đó cho thấy Singapore là nước phụ thuộc vào lao
động nhập khẩu rất lớn, còn Trung Quốc là nước ít dựa vào lao động nước ngoài.
Bảng 2.17. Di chuyển lao động ở một số nước châu Á năm 2010
Lao động ra nước ngoài 24.343 350.485 8.344.726 718.990 11.360.823 2.504.297 771.246 2.077.730 1.481.202 4.275.612 297.234 811.123 2.226.401 Lao động vào trong nước 148.123 335.829 685.775 2.741.800 5.436.012 122.908 2.176.219 534.817 2.357.602 435.423 1.966.865 1.157.263 69.307 Nước Brunei Cambodia Trung Quốc Hongkong Ấn Độ Indonesia Nhật Bản Hàn Quốc Malaysia Philippin Singapore Thái Lan Việt Nam Nguồn: Shandre Mugan Thangavelu (2012), Economic Growth, Welfare and
foreign workers: case of Singapore, National University of Singapore, trang 14.
106
Thứ hai, chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài của
Singapore và Trung Quốc có sự khác biệt. Trước hết, đó là sự khác biệt về thời điểm
ban hành chính sách. Singapore là nước thiếu lao động nước ngoài ngay từ khi tách
khỏi Malaysia, do vậy chính sách nhập khẩu lao động nước ngoài được ban hành từ
rất sớm, chú trọng lao động chuyên môn cao nước ngoài cũng rất sớm. Hơn nữa, hệ
thống chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài của Singapore rất bài
bản, từ luật liên quan đến lao động nhập cư, đến chính sách cấp visa,giấy phép, thẻ
lao động và chính sách thuế đối với lao động nước ngoài. Tại Singapore, Visa, thẻ,
thuế đều nhằm khuyến khích lao động chuyên môn cao nước ngoài, hạn chế lao động
phổ thông kỹ năng thấp nước ngoài. Visa đối với lao động chuyên môn cao nước
ngoài được ưu tiên, thẻ được phân loại thành 3 loại P1, P2, Q1 và S, đồng thời mức
thuế đối với lao động chuyên môn cao nước ngoài luôn thấp hơn lao động phổ thông
nước ngoài. Singapore còn ban hành những chính sách cho phép người nước ngoài
có kỹ năng và chuyên môn được định cư lâu dài nếu đáp ứng đủ yêu cầu về thu nhập,
ngoại ngữ, trình độ, kinh nghiệm làm việc… và được phép đưa người nhà theo nếu
đáp ứng các điều kiện do chính phủ đặt ra. Hệ thống chính sách thu hút lao động
chuyên môn cao nước ngoài của Singapore được đánh giá là bài bản và khoa học.
Còn đối với Trung Quốc, hệ thống thẻ Xanh mới được ban hành từ năm 2004
với nhiều quy định còn chung chung và hệ thống chính sách khác liên quan đến nhập
cư lao động, tạo điều kiện thuận lợi cho lao động nước ngoài còn rất hạn chế, rườm
rà và không rõ ràng. Thuế đối với lao động chuyên môn cao nước ngoài được đánh
theo thuế lũy tiến, người có thu nhập cao thì thuế sẽ cao và ngược lại. Do vậy khó
tạo sức hấp dẫn cho lao động chuyên môn cao nước ngoài. Hơn nữa, là một nước
đang phát triển, Trung Quốc chưa có những quy định rõ ràng về thu nhập, ngoại ngữ,
trình độ, kinh nghiệm làm việc của người nước ngoài, lĩnh vực cần thu hút lao động
chuyên môn cao nước ngoài, đồng thời chưa có những quy định chi tiết về việc cho
phép lao động chuyên môn cao nước ngoài định cư lâu dài ở Trung Quốc.
Thứ ba, cơ cấu lao động chuyên môn cao nước ngoài ở Trung Quốc và
Singapore có sự khác nhau. Chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài
của Singapore không phân biệt nguồn gốc , quốc tịch của người lao động, khuyến
khích lao động ở các nước phát triển vào làm việc và sinh sống tại Singapore. Tại
Trung Quốc, chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài tập trung vào
107
việc thu hút nhân tài Hoa Kiều đang sinh sống và làm việc ở nước ngoài quay trở về
tổ quốc để làm việc và sinh sống. Chính vì vậy, nhân tài nước ngoài ở Trung quốc
chủ yếu là người Hoa kiều, còn nhân tài nước ngoài ở Singapore có thể là người
Trung Quốc, người Malaysia, người châu Âu, châu Mỹ… Sự khác biệt về cơ cấu lao
động chuyên môn cao nước ngoài ở hai nước vừa phản ánh trình độ phát triển kinh tế
và môi trường chính sách lao động, vừa phản ánh trở lại nấc thang phát triển của hai
nước khi muốn tận dụng lao động chuyên môn cao nước ngoài phục vụ cho công
cuộc phát triển kinh tế.
Thứ tư, tác động của lao động chuyên môn cao nước ngoài đối với hai nước
có sự khác biệt lớn. Do phụ thuộc vào lao động chuyên môn cao nước ngoài ở mức
trên dưới 30% lực lượng lao động, lao động chuyên môn cao nước ngoài có những
đóng góp rõ ràng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của Singapore. Trong tăng
trưởng GDP, trong giá trị gia tăng của sản phẩm, trong cơ cấu kinh tế, trong giá trị
doanh nhân và giá trị văn hóa, đều có dấu ấn đậm nét của lao động chuyên môn cao
nước ngoài ở Singapore. Bên cạnh đó, lao động chuyên môn cao nước ngoài cũng
khiến xã hội Singapore bị xáo trộn, bị ảnh hưởng, nhất là khi kinh tế trong nước gặp
khó khăn do cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, khiến lao động trong nước mất việc
làm, không có động lực phấn đấu để đạt được học vấn cao hơn và tay nghề tốt hơn.
Chính vì vậy, những tác động của lao động chuyên môn cao nước ngoài đối với
Singapore đã mang tính chiều sâu, len lỏi vào mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội, chính trị
của đất nước, mang cả tính tích cực và tiêu cực.
Trái lại, lao động chuyên môn cao nước ngoài ở Trung Quốc chưa có những
đóng góp mang dấu ấn cho nền kinh tế nước này. Hầu hết họ là cộng đồng người
Hoa ở nước ngoài, về nước làm trong lĩnh vực khoa học công nghệ, doanh nghiệp,
xã hội nhân văn. Tác động chưa mang tính chiều rộng cũng như chiều sâu, và những
tác động từ họ đối với nền kinh tế để tạo hiệu ứng lan tỏa chưa nhiều. Hơn nữa, lao
động chuyên môn cao nước ngoài ở Trung quốc còn gặp nhiều hạn chế trong việc
phấn đấu và cống hiến bởi môi trường chính sách chưa thông thoáng, do vậy những
tác động của lao động chuyên môn cao nước ngoài đối với Trung quốc còn hết sức
mờ nhạt.
2.4.2. Đánh giá chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài
của Singapore và Trung Quốc
108
2.4.2.1. Ưu điểm của chính sách
* Singapore:
Thứ nhất, chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài của
Singapore được thực hiện rất bài bản và chuyên nghiệp. Ngay từ khi mới giành được
độc lập, cựu thủ tướng Lý Quang Diệu đã xác định rõ nhân tài là yếu tố then chốt
quyết định khả năng cạnh tranh và phát triển của nền kinh tế. Cựu thủ tướng Goh
Chok Tong đánh giá việc thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài là một vấn đề
sống còn, quyết định khả năng cạnh tranh của nền kinh tế Singapore. Chính vì thế,
trong suốt mấy thập niên qua, thu hút lao động chuyên môn cao nức ngoài trở thành
chiến lược ưu tiên hàng đầu của Singapore. Từ Luật pháp liên quan đến nhập cư, đến
việc thực hiện các biện pháp thu hút lao động chuyên môn cao được thực hiện rất rõ
ràng. Quy định về các loại thẻ làm việc giành cho lao động chuyên môn cao rất rõ,
kể cả về mức lương, yêu cầu về bằng cấp và tay nghề… đều rất rõ ràng và được điều
chỉnh tùy thuộc vào nhu cầu lao động của đất nước. Sự bài bản này khiến người lao
động chuyên môn cao nước ngoài dễ dàng theo dõi và phấn đấu để được làm việc ở
Singapore.
Đặc điểm chính của chính sách lao động của Singapore là hạn chế tuyển dụng
lao động nước ngoài có kỹ năng thấp, trong khi tạo mọi điều kiện thuận lợi và ưu đãi
để thu hút lao động có kỹ năng cao. Theo quy định, mức lương giành cho lao động
tay nghề thấp thường là 2500 S$ và thường được hướng vào một số nước, một số
ngành cụ thể, chịu thuế cao hơn và chịu một số hạn chế. Còn nếu là lao động tay
nghề cao, ngoài việc được hưởng lương theo mức của các nhân tài, họ còn được
phép đưa người thân sang sống cùng, được cấp giấy định cư và nhập tịch Singapore
với thời gian ngắn ngủi chỉ vài ngày. Đây là nước có tốc độ nhập quốc tịch nhanh
chóng nhất thế giới mà bất cứ người nhập cư nào cũng mong muốn.
Thứ hai, chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài của
Singapore không hạn chế quốc tịch, chủng tộc của người nhập cư. Cựu thủ tướng Lý
Quang Diệu có câu nói nổi tiếng “Tôi ưa chuộng hiệu quả. Một công chức trẻ ở vị trí
cao, tôi không quan tâm anh ta đã làm việc bao nhiêu năm. Nếu anh ta là người tốt
nhất cho vị trí đó, hãy xếp anh ta ở vị trí đó” [11]. Triết lý dung người của ông Lý
Quang Diệu đã được chính phủ Singapore áp dụng cho đến ngày nay, tạo nên sự
khích lệ rất lớn đối với những người trẻ tuổi làm việc cho chính phủ. Chính sách và
109
đường lối thu hút nhân tài không phân biệt quốc tịch, sắc tộc đã dẫn đén những thay
đổi mang tính đột phá trong thống kê nhân khẩu học của Singapore, trong đó có tới
trên dưới 30% lực lượng lao động là người nước ngoài. Nhân tài nước ngoài còn
được chào đón vào bộ máy nhà nước. Nội các đầu tiên của Singapore cũng chỉ có
duy nhất 2 người bản địa. Thậm chí ông Lý Quang Diệu còn khẳng định, nếu một
ngày nào đó bộ máy chính quyền Singapore toàn là người có xuất xứ nước ngoài
cũng không có gì đáng ngạc nhiên. Những người đứng đầu đất nước Singapore từ
trước cho đến nay đều là những người rất giỏi. ông Lý Quang Diệu - Thủ tướng đầu
tiên của quốc đảo tốt nghiệp ngành luật tại trường đại học danh tiếng Cambridge.
Cựu Thủ tướng Goh Chok Tong cũng tốt nghiệp trường Williams College, Mỹ, về
chuyên ngành Phát triển kinh tế. Thủ tướng Lý Hiển Long cũng tốt nghiệp trường
Đại họcCambridge của Anh về ngành toán và vi tính. Sau đó ông Lý Hiển Long còn
tham gia học về ngành Hành chính công tại Đại học Harvard - Mỹ. Các Bộ
trưởng Singapore cũng đều tốt nghiệp các trường đại học nổi tiếng tầm cỡ thế giới.
Ông Lý Quang Diệu có quan điểm rất rõ ràng: Lãnh đạo giỏi là đầu tầu định hướng
cho đất nước phát triển, nên không thể thăng quan tiến chức nhờ quan hệ cửa trước
cửa sau hay sẵn sàng ngã giá để mua danh bán tước. Ông nói: "Lãnh đạo dốt sẽ
ngáng chân những người giỏi, không cho họ ngồi vào những vị trí quan trọng” [25].
Thứ ba, thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài bằng những ưu đãi và
những ràng buộc thông qua kênh giáo dục đại học của Singapore. Một trong những
quy định đối với sinh viên nước ngoài đến học tập tại Singapore là được vay tiền đẻ
chi trả cho những chi phí cần thiết của việc học tập và sinh hoạt. Sau khi tốt nghiệp,
những sinh viên nước ngoài này phải cam kết làm việc cho một công ty nào đó của
Singapore ít nhất là 3 năm để trả nợ. Dự án “nhà trường toàn cầu” là một sáng kiến
để thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài của Singapore, trong đó khuyến
khích người nước ngoài tham gia tích cực vào thị trường giáo dục đại học của
Singapore. Những đại học hàng đầu của thế giới được nhắm đến và được mang vào
đất nước để làm mũi nhọn cho sự nghiên cứu và phát triển (R&D) ở tầm mức thế
giới, chuyển giao tri thức công nghệ và đưa Singapore lên vị trí hàng đầu thế giới về
giáo dục. Chính phủ Singapore đã tăng cường các hình thức liên kết giáo dục với các
trường đại học hàng đầu của thế giới, xây dựng các tiêu chuẩn giáo dục tiên tiến của
thế giới, tập trung đầu tư R&D cho một số ngành công nghệ mũi nhọn như sinh học,
110
y sinh học, xây dựng cơ sở hạ tầng hiện đại cho trường học, thu hút các giáo sư đầu
ngành của nước ngoài vào làm việc tại Singapore.. để thu hút sinh viên quốc tế.
Chính sách này đã đem lại nhiều thành công cho Singapore trong việc thu hút lao
động chuyên môn cao nước ngoài, hỗ trợ Singapore xây dựng được những lợi thế
nhất định trong chiến lược cạnh tranh toàn cầu về tài năng.
Trung Quốc:
Thứ nhất, cũng giống như Singapore, Trung Quốc không có sự phân biệt đối
xử đối về quốc tịch, tôn giáo, sắc tộc của lao động chuyên môn cao nước ngoài. Với
việc ban hành thẻ Xanh và đang cố gắng cải cách hệ thống nhập cư phức tạp của
mình, Trung Quốc đang ngày càng mở rộng cửa và cho phép những nhà đầu tư và
các lao động chuyên môn cao nước ngoài cư trú lâu dài tại Trung Quốc. Phần lớn lực
lượng lao động chuyên môn cao nước ngoài ở Trung Quốc đến từ các nước Đông Á,
Mỹ.
Thứ hai, chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài của Trung
Quốc tương đối thành công nhờ tập trung thu hút Hoa kiều tài năng trở về tổ quốc
làm việc. Với cộng đồng người Hoa khoảng 30 triệu người trên thế giới, Trung Quốc
coi họ là nguồn chất xám vô cùng cần thiết để hình thành nền kinh tế tri thức của
Trung Quốc. Các chính sách thu hút nhân tài Hoa kiều trở về nước tỏ ra rất rõ ràng,
thông qua các kế hoạch cụ thể như Kế hoạch trăm người, Kế hoạch nghìn người, Kế
hoạch thu hút nhân tài kiệt xuất từ nước ngoài…Theo thống kê của chính phủ, kể từ
năm 1979, khi Trung Quốc mở cửa cho phép sinh viên ra nước ngoài du học, hơn 1
triệu người đã rời đất nước, và 30% trong số họ đã trở về quê hương. Nhưng số
lượng này còn quá ít ỏi. Thị trường vẫn cần một nhu cầu lớn những chuyên gia
Trung Quốc được đào tạo ở nước ngoài có tầm nhìn quốc tế và chuyên môn quản lý.
Sự thiếu hụt những tài năng như thế là một thách thức lớn đối với những công ty
Trung Quốc đang có kế hoạch mở rộng việc kinh doanh của họ ở nước ngoài, cũng
như các công ty đa quốc gia đang hoạt động ở Trung Quốc. Rất nhiều những công ty
đa quốc gia hiểu rằng, họ có thể đào tạo những người bản địa để đáp ứng nhu cầu
ngày càng tăng về lao động. Nhưng để làm được điều này cần phải có thời gian và
tiền bạc. Nền kinh tế Trung Quốc với sự toàn cầu hóa đang gia tăng, nhiều công ty
lớn của nước này đang tìm mọi cách thu hút những chuyên gia Trung Quốc ở nước
ngoài với nhiều đề nghị hấp dẫn. Có khoảng 110 lĩnh vực đầu tư đặc biệt với những
111
khuyến khích các tài năng Trung Quốc đã được thiết lập ở nhiều vùng khác nhau và
đang rất cần nhân tài. Trung Quốc đã nỗ lực thu hút các nhà nghiên cứu ở nước
ngoài trở về, rất nhiều trong số họ hiện đang lãnh đạo nhiều dự án nghiên cứu khoa
học lớn tầm cỡ quốc gia. Vào năm 2007, Trung Quốc thiết lập một chương trình đầy
tham vọng thể hiện quyết tâm thu hút nguồn chất xám Hoa kiều trong công cuộc xây
dựng và phát triển đất nước. Theo kế hoạch 11 năm của Bộ Nội vụ, đất nước có tốc
độ phát triển nhanh nhất thế giới này sẽ đưa ra một số biện pháp quan trọng nhằm
thu hút 3 đối tượng hiền tài. Đây sẽ là những cá nhân dẫn đầu trong lĩnh vực nghiên
cứu, quản lý cấp cao cũng như những nhân tài đặc biệt cần thiết khác nhằm đưa
Trung Quốc trở thành một quốc gia thịnh vượng, tự chủ và đổi mới.
Đối với đối tượng đầu tiên, những người có năng lực làm việc trong lĩnh
vực nghiên cứu và giảng dạy, Trung Quốc sẽ khuyến khích các phòng thí nghiệm
quan trọng của quốc gia, các trường đại học và học viện nghiên cứu công khai tuyển
mộ lãnh đạo hoặc những người tham gia nghiên cứu chính ở cả trong nước lẫn hải
ngoại, từ đó xây dựng một đội ngũ các nhà lãnh đạo công nghệ, các nhà khoa học
chiến lược hạng nhất của thế giới. Trong khi đó, kết hợp với các chương trình, dự án
quốc gia quan trọng, Trung Quốc cũng sẽ tạo điều kiện để các hiền tài Hoa kiều
được có cơ hội đóng góp vốn hiểu biết, tri thức của mình trong các lĩnh vực như
năng lượng, nước, khoáng sản, môi trường, nông nghiệp, công nghệ sinh học, công
nghiệp chế tạo tiên tiến và vật liệu mới. Nhóm đối tượng thứ hai được chú trọng là
đội ngũ nhân sự quản lý cao cấp, những người có nhiều kinh nghiệm và khả năng
làm việc trong môi trường quốc tế. Để chớp được những cơ hội tiềm năng trong thời
đại toàn cầu hóa, Trung Quốc sẽ chủ động xây dựng một nhóm nhân sự quản lý cao
cấp trong các lĩnh vực như tài chính, luật pháp và thương mại. Nhóm đối tượng thứ
ba là những cá nhân có tài năng đặc biệt. Đây là những nhân vật có kiến thức và sự
tinh thông đặc biệt để phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế xã hội.
Để thu hút 3 nhóm đối tượng Hoa kiều trên về nước làm việc, chính phủ nước
này đã đưa ra hàng loạt các biện pháp ưu đãi như hỗ trợ việc chuyển giao bản quyền,
bí quyết sản xuất đặc biệt cũng như các thành tựu khoa học công nghệ bằng cách cho
phép những cá nhân hải ngoại trở về nắm giữ cổ phiếu hoặc thành lập những doanh
nghiệp mới được tạo điều kiện về thuế, vốn, nhân sự…. Ngoài ra, Bộ Nội vụ tổ
chức các chương trình, diễn đàn trao đổi, các hội nghị liên lạc hàng năm, cam kết
112
hoàn tất cơ chế làm việc cho những Hoa kiều trở về, tạo điều kiện về việc làm, sự
nghiệp và điều kiện sống cho họ. Những người có trình độ cao sẽ được tạo điều kiện
hơn trong việc tham gia các chương trình; đánh giá các danh hiệu nghề nghiệp, nhận
tặng thưởng. Vấn đề giáo dục con cái và tìm việc làm cho vợ hoặc chồng của Hoa
kiều trở về cũng rất được lưu tâm chú ý... Chẳng hạn, tại Trung tâm Nghiên cứu
Kinh tế Trung Quốc (CCER) của Đại học Bắc Kinh, mức lương trả cho những nhà
kinh tế trở về từ 30.000-50.000 USD một năm, không bao gồm cả thuê nhà và những
bổng lộc khác. Một bằng tiến sĩ ở nước ngoài là yêu cầu chuyên môn tối thiểu để
nhận được một việc làm ở CCER. Cùng với nhiều thành phố khác đang dẫn đầu về
số lượng những chuyên gia trở về, Thượng Hải được xem là đi tiên phong trong việc
thu hút những chuyên gia Trung Quốc ở hải ngoại. Vào 8/2003, Thượng Hải đã phát
động một chiến dịch 3 năm đầy tham vọng để thu hút hơn 10.000 người Trung Quốc
ở nước ngoài đến làm việc trong thành phố bằng việc đưa ra những chính sách ưu đãi
bao gồm một thẻ cư trú ở Thượng Hải với những quyền lợi như những người địa
phương và trợ cấp chính phủ cho những người bắt đầu các hoạt động kinh doanh của
họ tại đây. Đến cuối tháng 11 năm 2007, thành phố này đã đạt được mục tiêu phía
trước của kế hoạch và đã thu hút 10.203 công dân Trung Quốc từ 110 nước và vùng
lãnh thổ đến làm việc [30]. Với chính sách cởi mở và hậu đãi, người Hoa Kiều ở
khắp nơi trên thế giới đã về Trung Quốc làm việc ngày càng nhiều.
Thứ ba, cũng giống như Singapore, Trung Quốc đang cố gắng thu hút lao
động chuyên môn cao nước ngoài thông qua hệ thống giáo dục đại học và chính sách
này đang đem lại những kết quả tích cực ban đầu. Khác với chính sách cho vay học
tập của Singapore, Trung Quốc với nguồn dự trữ ngoại tệ dồi dào đã thực hiện các
chương trình cấp học bổng cho sinh viên nước ngoài, theo đó miễn tiền học và tiền ở
cho sinh viên nước ngoài cộng với một khoảng tiền trợ cấp hàng tháng từ 800-1.400
NDT. Chính sách này thực sự đã hấp dẫn sinh viên quốc tế, chủ yếu đến từ châu Á
như Hàn Quốc, Nhật Bản,Việt Nam và Thái Lan và một số nước khác như Mỹ. Môi
trường xã hội tốt, phát triển kinh tế nhanh và vị thế tăng trên trường quốc tế, nên
trong những năm gần đây, Trung Quốc ngày càng trở nên hấp dẫn với sinh viên nước
ngoài. Hơn nữa, chất lượng giáo dục bậc đại học được cải thiện của Trung Quốc đã
được công nhận rộng rãi trên thế giới. Đến nay, Trung Quốc đã ký hiệp định công
nhận bằng cấp của nhau với 32 nước trong đó có Đức, vương quốc Anh, Pháp, Úc,
113
New Zealand, Áo và Nga. Sinh viên quốc tế được làm việc part-time ở Trung Quốc,
giúp đất nước này một phần bù đắp những thiếu hụt lao động chuyên môn cao trong
các doanh nghiệp trong nước và các công ty đa quốc gia.
2.4.2.2. Hạn chế của chính sách
* Singapore:
Mặc dù là một đất nước được đánh giá là có chính sách thu hút lao động
chuyên môn cao nước ngoài bài bản và chuyên nghiệp, nhưng Singapore vẫn gặp
phải một số hạn chế về mặt chính sách.
Thứ nhất, chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài làm tăng
sự chia rẽ giữa người nước ngoài và người bản địa bởi chính phủ Singapore có cách
tiếp cận công bằng về giáo dục, cơ hội việc làm, lợi ích kinh tế giữa người bản địa và
người có nguồn gốc nước ngoài. Mục đích chủ yếu là để xây dựng một xã hội cởi
mở, xây dựng nên một đất nước của các công dân toàn cầu. Xã hội cởi mở ở
Singapore cũng đồng nghĩa với một xã hội đa dạng hóa sắc tộc và ở giai đoạn đầu
phát triển, chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài đã đem lại nhiều
thành công cho Singapore bởi đất nước này công khai chào đón các tài năng và công
nhận mọi quan điểm khác biệt, mặt khác chính quyền Singapore hy vọng sẽ tạo ra
một xã hội trong đó mọi người đều gắn kết và có cùng cảm xúc về mục tiêu chung.
Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, chính sách thu hút lao động chuyên môn cao
nước ngoài ngày càng khiến các nhân tài nước ngoài nỗ lực hết sức mình để được
sinh sống và làm việc ở Singapore, đồng thời vô tình gạt người dân bản địa
Singapore ra khỏi những vị trí làm việc cao nhất, những vị trí giáo dục tốt nhất. Công
dân toàn cầu là tên gọi của những nhân tài ngoại quốc giỏi giang đến sinh sống tại
Singapore, trong khi đó một tên gọi khác cũng thường trực tại đất nước này, đó là
công dân bản địa – với những vị trí làm việc thấp kém trên đường phố. Xã hội
Singapore bắt đầu nói 2 ngôn ngữ khác nhau: ngôn ngữ quốc tế và ngôn ngữ bản địa.
Điều đó báo hiệu một sự rạn nứt xã hội ở Singapore do chính sách nhập cư lao động
nước ngoài quá cởi mở. Chính phủ Singapore phải tìm mọi cách để trấn an dân
chúng. Năm 2008, thủ tướng Goh Chok Tong đã phát biểu: “các chính sách công
cộng phải nhằm mục đích cho người Singapore thấy rằng lợi ích là giành cho người
Singapore. Người dân bản địa sẽ tiếp tục được hưởng các khoản trợ cấp lớn về nhà ở,
giáo dục, chăm sóc sức khỏe và người nước ngoài không được hưởng những điều đó.
114
Khi đất nước thặng dư ngân sách, quyền lợi đó cũng chỉ thuộc về người Singapore”
(Goh 2008). Trong cuộc bầu cử mới đây ở Singapore, vấn đề người nước ngoài lại
được đưa ra tranh luận gay gắt. Mặc dù Đảng PAP vẫn chiếm đa số phiếu trong cuộc
bầu cử này, nhưng những vấn đề giảm khoảng cách giữa người nước ngoài và người
bản địa trong đời sống kinh tế - xã hội vẫn làm đau đầu chính phủ mới của
Singapore.
Thứ hai, chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài của
Singapore đang gặp phải những thách thức do toàn cầu hóa. Lao động chuyên môn
cao nước ngoài vào Singapore và trở thành những công dân toàn cầu, làm tăng sự kết
nối của người dân Singapore vào xã hội toàn cầu. Với những khoảng cách ngày càng
lớn giữa người bản địa và người nước ngoài, nhiều người dân bản địa Singapore
đang có xu hướng định cư ra nước ngoài sinh sống và làm việc, khiến lao động địa
phương đã thiếu hụt ngày càng thiếu hụt hơn. Đây là một sức ép đối với chính sách
thị trường lao động của Singapore thời gian gần đây và trong tương lai. Cuộc chiến
về tài năng đang tạo ra những sức ép chính trị và tạo nên những sức ép trong nước.
Tuy nhiên, chính phủ Singapore vẫn tiếp tục chào đón những nhân tài ngoại quốc để
bù đắp những thiếu hụt tạm thời trong nước.
Trung Quốc:
Chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài của Trung Quốc
trong thời gian qua còn gặp nhiều khó khăn. Cụ thể là:
- Môi trường làm việc của lao động chuyên môn cao nước ngoài tại Trung
Quốc chưa thực sự ưu đãi, do vậy khó khuyến khích lao động chuyên môn cao từ các
nước phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ, châu Âu đến Trung Quốc để làm việc.
Những nghiên cứu trên đây cho thấy, hầu hết lao động chuyên môn cao nước ngoài ở
Trung quốc là lực lượng Hoa Kiều trở về nước do chính sách ưu đãi của chính phủ
và do có cùng một dòng máu, ngôn ngữ và nền văn hóa. Những khác biệt về văn hóa,
thị trường lao động, hệ thống việc làm giữa Trung Quốc và các nước khác đã gây ra
những khó khăn cho việc người nước ngoài muốn sinh sống và làm việc tại Trung
Quốc. Khác với Singapore khi người nước ngoài được chào đón với tư cách là những
công dân toàn cầu, Trung Quốc có hệ thống kinh tế nhà nước tương đối lớn, với hàng
loạt doanh nghiệp nhà nước và hệ thống tuyển chọn nhân tài theo thâm niên công
tác, mức lương của người dân Trung Quốc còn tương đối thấp. Đây là những rào cản
115
đối với lao động chuyên môn cao nước ngoài. Ngay tại các công ty xuyên quốc gia
có trụ sở tại Trung Quốc, việc đưa các chuyên gia nước ngoài vào làm việc tại các
công ty này cũng gặp nhiều ất lợi bởi có sự khác biệt rất lớn trong quản lý nguồn
nhân lực giữa Trung Quốc và các nước.
- Sự khác biệt về văn hóa khiến chính sách thu hút lao động chuyên môn cao
nước ngoài của Trung Quốc gặp nhiều khó khăn. Mặc dù chính phủ Trung Quốc
không phân biệt tôn giáo, quốc tịch trong thu hút lao động chuyên môn cao nước
ngoài, và ở Trung Quốc tồn tại cả 3 loại tôn giáo là đạo Khổng, đạo Phật và đạo Lão,
nhưng sự khác biệt về văn hóa giữa người bản địa và người nước ngoài sẽ dẫn đến
những thái độ khác nhau trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Một đặc trưng nổi bật
của người Trung Quốc là tính tương trợ lẫn nhau rất mạnh (gọi là guanxi), gây khó
khăn cho các lao động chuyên môn cao nước ngoài. Trong thời gian gần đây, guanxi
càng trở nên quan trọng trong xã hội Trung Quốc, khiến một cá nhân không dễ làm
việc và kinh doanh nếu thiếu đi tính tương trợ từ cộng đồng. Đối với người nước
ngoài, để hiểu tầm quan trọng của guanxi và xây dựng mối quan hệ mạnh mẽ với
cộng đồng Trung Quốc là điều rất khó khăn. Mặc dù cơ hội để tìm kiếm việc làm
chuyên môn cao ở Trung Quốc là rất dễ bởi Trung Quốc đang thực sự khan hiếm lao
động kỹ năng cao, nhưng những thiếu thốn lao động kỹ năng cao của Trung Quốc rất
khó giải quyết. Theo nghiên cứu của McKinsey Company (2005), tại Thượng Hải
chỉ có dưới 10% sinh viên ra trường tìm kiếm được việc làm phù hợp trong các công
ty nước ngoài ở 9 ngành cơ khí, tài chính, kế toán, phân tích định lượng, tổng hợp,
khoa học đời sống, bác sĩ, y tá và trợ lý doanh nghiệp [59]. Tại Trung Quốc, hệ
thống giáo dục thiên về lý thuyết, có sự khác biệt rất lớn với hệ thống giáo dục của
Anh và Mỹ. Đồng thời, tiếng Anh không thông dụng ở Trung Quốc. Trung Quốc
thực sự thiếu lao động kỹ năn nhưng lại gặp rất nhiều khó khăn khi thu hút lao động
chuyên môn cao nước ngoài. Chính vì thế, chính sách thu hút lao động chuyên môn
cao nước ngoài của Trung Quốc đã hướng mạnh vào cộng đồng người Hoa ở nước
ngoài và không tạo nên tính hấp dẫn đối với lao động chuyên môn cao ở các nước
khác trên thế giới.
- Chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài ở Trung Quốc vẫn
chưa được xây dựng một cách hệ thống, chưa có những mục tiêu và định hướng cụ
thể, chưa quy định cụ thể những tiêu chí về trình độ học vấn, ngoại ngữ, kinh nghiệm
116
chuyên môn, mức lương cần thiết khi được tuyển dụng tại những ngành nghề cụ thể
ở Trung Quốc, những ưu đãi cụ thể về thuế, đi lại, đem theo người than hay định cư
lâu dài. Sự không rõ ràng này là một rào cản khiến lao động chuyên môn cao nước
ngoài tập trung sự quan tâm của mình sang các nước châu Á lân cận khác.
117
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Sau khi nghiên cứu chính sách và thực trạng thu hút lao động chuyên môn cao
nước ngoài của Trung Quốc và Singapore, có thể đưa ra một số kết luận cơ bản sau
đây:
Thứ nhất, cả Singapore và Trung Quốc đều rất cần thu hút lao động chuyên
môn cao nước ngoài để bù đắp những thiếu hụt trên thị trường lao động trong nước,
góp phần phát triển kinh tế một cách hiệu quả hơn. Mặc dù hai nước có sự khác nhau
về quy mô dân số, trình độ phát triển kinh tế, chính sách thu hút lao động chuyên
môn cao nước ngoài…, nhưng những cơ sở kinh tế - xã hội của hai nước đã cho thấy
lao động chuyên môn cao nước ngoài là lực lượng rất cần thiết trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thứ hai, chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài của
Singapore được đánh giá là rất bài bản, rõ ràng, có sức hấp dẫn rất lớn đối với lao
động chuyên môn cao nước ngoài. Mọi chỉ tiêu đều được đưa ra rất cụ thể, khuyến
khích lao động kỹ năng phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của
Singapore. Chính sách này đã thực sự đem lại hiệu quả, lao động nước ngoài đã có
những đóng góp rất lớn đối với phát triển kinh tế - xã hội của Singapore, đưa
Singapore trở thành trung tâm thu hút nhân lực chất lượng cao của khu vực châu Á.
Lao động chuyên môn cao nước ngoài đã góp một phần không nhỏ vào những thành
tựu phát triển kinh tế, xã hội, giáo dục thần kỳ của Singapore trong thời gian qua.
Thứ ba, chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài của Trung
Quốc thể hiện những nhu cầu hạn chế hơn về lao động nước ngoài. Là một nước
đông dân nhất thế giới, phải giải quyết rất nhiều vấn đề về việc làm và thất nghiệp,
chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài của Trung Quốc hướng
mạnh hơn vào cộng đồng Hoa kiều đang sinh sống và làm việc ở nước ngoài. Các
quy định về lao động chuyên môn cao Hoa kiều nước ngoài cũng rất rõ ràng, trong 3
lĩnh vực: nghiên cứu và giảng dạy, quản lý nhân sự, cá nhân có tài năng đặc biệt, với
những ưu đãi về lương, nhà ở, xe cộ…. cho thấy Trung Quốc đang khuyến khích
nhân tài trở về nước. Tuy nhiên, chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước
ngoài ở Trung Quốc còn nhiều hạn chế, nhất là với những lao động nước ngoài
không phải người Hoa Kiều. Do vậy, những tác động của lao động chuyên môn cao
118
nước ngoài đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Trung Quốc không rõ
ràng.
Thứ tư, nghiên cứu chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài
của Singapore và Trung Quốc cho thấy, tác động của lao động chuyên môn cao nước
ngoài đối với các nước là khác nhau. Đối với Singapore, thu hút nhiều lao động nước
ngoài đang làm xáo trộn các giá trị văn hóa, xã hội, gây ra bất bình đẳng xã hội, ảnh
hưởng đến tâm lý người dân bản địa và hệ thống chính trị của Singapore trong thời
gian gần đây. Đối với Trung Quốc, tinh thần guanxi và những giá trị văn hóa – xã
hội khác biệt đang khiến nước này trở thành một xã hội ít cởi mở với lao động
chuyên môn cao nước ngoài. Đây là một khó khăn không nhỏ đối với Trung Quốc
khi muốn chuyển đổi mô hình gia công lắp ráp sang mô hình kinh tế có giá trị gia
tăng cao, để từ đó có thể vươn lên trở thành nước công nghiệp phát triển trong tương
lai.
119
Chương 3
CHÍNH SÁCH THU HÚT LAO ĐỘNG CHUYÊN MÔN CAO Ở VIỆT
NAM, BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH QUA
NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP SINGAPORE VÀ TRUNG QUỐC
3.1. CHÍNH SÁCH THU HÚT LAO ĐỘNG CHUYÊN MÔN CAO NƯỚC
NGOÀI CỦA VIỆT NAM THỜI GIAN QUA
3.1.1. Chính sách
Hệ thống chính sách, luật pháp liên quan đến người nước ngoài ở Việt Nam
có thể kể đến gồm: Quy chế Công tác người nước ngoài tại Việt Nam (Ban hành
theo Quyết định số 33/1999/QĐ-BGD&ĐT ngày 25 tháng 8 năm 1999 của Bộ
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo; Pháp lệnh số 24/1999/PL-UBTVQH10 của Ủy ban
thường vụ quốc hội khóa X về nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài
tại Việt Nam; Nghị định số 21/2001/NĐ-CP ngày 28/5/2001 của Chính phủ Quy
định chi tiết thi hành Pháp lệnh nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước
ngoài tại Việt Nam…
So với các nước trong khu vực, Việt Nam là nước đi sau trong việc thực
hiện các chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài. Chỉ kể từ năm
2008, Nghị định 34/2008 của chính phủ quy định về tuyển dụng và quản lý người
nước ngoài làm việc tại Việt Nam mới chính thức được ban hành. Nghị định này
được đánh giá là một bước đột phá trong thu hút lao động chuyên môn cao nước
ngoài tại Việt Nam kể từ khi Luật đầu tư nước ngoài ban hành năm 1987 và các
luật đầu tư nước ngoài sửa đổi và làm mới những năm sau đó (1990, 1992, 1996,
2005). Nghị định 34/2008/NĐ-CP quy định rõ: Lao động chuyên môn cao nước
ngoài thuộc 2 đối tượng: 1) Nhà quản lý, giám đốc điều hành; và 2) Chuyên gia.
Cùng với việc cấp giấy phép lao động, Nghị định 34/2008/NĐ-CP còn đưa ra những
quy định về gia hạn giấy phép lao động với thời gian gia hạn tối đa là 3 năm.
Vào năm 2009, thủ tướng chính phủ ban hành Quyết định 119/2009/QĐ-TTg
về việc ban hành quy chế chuyên gia nước ngoài thực hiện các chương trình, dự án
ODA. Quyết định 119/2009/QĐ-TTg ghi rõ: “Chuyên gia nước ngoài là người không
có quốc tịch Việt Nam vào Việt Nam để cung cấp dịch vụ tư vấn về chuyên môn và
kỹ thuật hoặc thực hiện các nhiệm vụ khác phục vụ cho công tác nghiên cứu, xây
120
dựng, thẩm định, theo dõi đánh giá, quản lý và thực hiện chương trình, dự án ODA
theo quy định hay thỏa thuận trong các Điều ước quốc tế về ODA đã ký kết giữa cơ
quan có thẩm quyền của bên Việt Nam và Bên nước ngoài” (Chương 1, Quyết định
119/2009/QĐ-TTg).
Theo Quyết định này, các chuyên gia nước ngoài được hưởng rất nhiều ưu đãi
về thị thực, ngoại hối, đăng ký lưu trú, đi lại và nhiều ưu đãi khác. Cụ thể là như sau:
+ Ưu đãi về thị thực: Chuyên gia và thành viên gia đình của họ được cấp thị
thực Việt Nam có giá trị nhập xuất cảnh nhiều lần theo đề nghị của cơ quan chủ quản
chương trình, dự án ODA; Những chuyên gia và thành viên gia đình của họ có thời
gian công tác và lưu trú ở Việt Nam từ 06 tháng trở lên và được xét cấp thị thực
nhiều lần cho cả thời hạn làm việc tối đa là 03 năm.
+ Ưu đãi về ngoại hối: huyên gia và thành viên gia đình của họ được mang
ngoại tệ vào Việt Nam theo quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam; được
chuyển đổi ra ngoại tệ và mang ra khỏi Việt Nam các khoản thu nhập từ tiền lương,
tiền công thực hiện chương trình, dự án ODA hoặc các khoản thu hợp pháp khác.
+ Ưu đãi đăng ký lưu trú, đi lại: Chuyên gia và thành viên gia đình của họ
được tự do đi lại và đăng ký lưu trú trên lãnh thổ Việt Nam, trừ khu vực cấm.
+ Ưu đãi khác trong Cấp, đổi bằng lái xe, đăng ký biển số xe; Miễn thuế nhập
khẩu, thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt (nếu có) và phí trước bạ; Được miễn
thuế thu nhập cá nhân đối với các khoản thu nhập từ tiền lương, tiền công thực hiện
chương trình, dự án ODA; Miễn đóng góp cá nhân vì lợi ích công cộng, an ninh,
quốc phòng của Nhà nước Việt Nam; Miễn đăng ký chuyên môn, giấy phép hành
nghề và được miễn việc cấp giấy phép lao động.
Chính phủ Việt Nam gần đây đã quyết định cấp Thẻ tạm trú cho người nước
ngoài tại Việt Nam. Sử dụng thẻ tạm trú người nước ngoài có các quyền lợi như visa:
được tạm trú theo thời hạn ghi trên thẻ, sử dụng thẻ cùng với hộ chiếu để xuất nhập
cảnh Việt Nam, bảo trợ bảo lãnh cho gia đình thân nhân đến Việt Nam du lịch, sinh
sống cùng. Có giá trị là một loại visa dài hạn hay thẻ tạm trú còn gọi là thị thực đặc
biệt, thời hạn ngắn nhất của thẻ tạm trú là 1 năm, thời hạn trung bình là 2 năm, thời
hạn dài nhất là 5 năm.
Ngoài ra, Bộ tài chính cũng ban hành các thông tư về miễn thuế thu nhập cá
nhân cho các chuyên gia nước ngoài. Thông tư số 55/BTC-TT năm 2007 quy định
121
các đối tượng được miễn thuế thu nhập cá nhân bao gồm: chuyên gia nước ngoài
thực hiện chương trình, dự án viện trợ phi chính phủ nước ngoài tại Việt Nam. Công
văn số 1271/TCT-TNCN của Bộ tài chính ngày 18/4/2013 có quy định rõ hơn về
miễn thuế thu nhập cá nhân cho chuyên gia nước ngoài và nhân viên nước ngoài
ngoài thực hiện chương trình, dự án viện trợ phi chính phủ nước ngoài tại Việt Nam .
Trong chính sách thu hút Việt kiều trí thức về nước làm việc, Quyết định số
567/TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 18-11-1993 về cơ chế sử dụng chuyên gia,
trí thức là người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia tư vấn cho các cơ quan
của Chính phủ trong một số lĩnh vực công tác. Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 29-11-
1993 của Bộ Chính trị về khuyến khích và tạo điều kiện dễ dàng cho người Việt
Nam ở nước ngoài chuyển giao tri thức, công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến,
mời giáo sư và chuyên gia người Việt Nam ở nước ngoài về giảng dạy trong nước,
ưu tiên mời chuyên gia là người Việt Nam trong các chương trình, dự án hợp tác với
nước ngoài. Chỉ thị 55-CT/TW ngày 23-3-1995 của Trung ương Đảng yêu cầu các
cơ quan, ban, ngành xây dựng chính sách khuyến khích và tạo điều kiện dễ dàng cho
người Việt Nam ở nước ngoài chuyển giao tri thức, công nghệ và kinh nghiệm quản
lý cũng như đầu tư, phát triển kinh doanh và dịch vụ trong nước. Năm 2004, Bộ
chính trị ra Nghị quyết số 36/NQ-TW ngày 26-3-2004 về công tác đối với người
Việt Nam ở nước ngoài nhấn mạnh việc vận động, phát huy khả năng đóng góp của
trí thức kiều bào. Ngoài ra, Luật Cư trú, Luật Nhà ở, Luật Đất đai, Luật Quốc tịch
sửa đổi (28-11-2008) cũng đã đưa ra những điều khoản ưu đãi nhằm thu hút trí thức,
nhà khoa học người Việt Nam ở nước ngoài. Theo đó, Nhà nước công nhận người
Việt Nam định cư ở nước ngoài mà chưa mất quốc tịch Việt Nam trước ngày Luật
này có hiệu lực thì vẫn còn quốc tịch Việt Nam. Đồng thời, đối với người gốc Việt
Nam định cư ở nước ngoài, Nhà nước có chính sách khuyến khích và tạo điều kiện
thuận lợi để họ giữ quan hệ gắn bó với gia đình và quê hương, góp phần xây dựng
quê hương, đất nước. Nhà nước có chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho người đã
mất quốc tịch Việt Nam được trở lại quốc tịch Việt Nam.
3.1.2. Một số kết quả ban đầu
Tại Việt Nam, theo tài liệu phục vụ phiên chất vấn Bộ trưởng Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội Phạm Thị Hải Chuyền tại phiên họp thứ 10 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội, lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam ở thời điểm tháng
122
7/2012 là 77.087 người, trong đó đã được cấp giấy phép là 49.983 người. Lao động
là nam chiếm 89,9%, tuổi từ 30 trở lên là 86%.
Về trình độ và cơ cấu nghề nghiệp, người nước ngoài có trình độ đại học và
trên đại học chiếm 48,3% tổng số người nước ngoài làm việc tại Việt Nam, có chứng
chỉ chuyên môn tay nghề chiếm 34,6%, làm nghệ nhân và ngành nghề truyền thống
chiếm 17,1%.
Về giới tính và độ tuổi, nam chiếm 89,9% tổng số người nước ngoài làm việc
tại Việt Nam, nữ chiếm 10,1%. Người nước ngoài có độ tuổi từ 30 trở lên chiếm
86%. Theo Cục việc làm của Bộ lao động thương binh và xã hội, phần lớn người
nước ngoài làm việc theo các hợp đồng.
So với năm 2008 – là thời điểm Việt Nam ban hành Nghị định 34/2008 của
chính phủ quy định về tuyển dụng và quản lý người nước ngoài làm việc tại Việt
Nam, lao động nước ngoài đến Việt Nam ngày càng đông. Vào năm 2008, số
lượng người nước ngoài là 52.929 người, năm 2009 là 55.428 người, năm 2010
là 56.929 người, năm 2011 là 74.000 người và tính đến tháng 7/2012 là 77.087
người (Bộ lao động, thương binh và xã hội).
Còn theo thống kê của các địa phương, số người nước ngoài đăng ký tạm trú
(từ 3 tháng trở lên), thường trú tại các tỉnh, thành phố trên cả nước tính đến tháng 3
năm 2010 có khoảng hơn 320.000 người (tính cả Việt Kiều), chủ yếu là người mang
quốc tịch Trung Quốc, Đài Loan - Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan, Mỹ, Australia,
người mang quốc tịch gốc Phi...Qua số liệu thống kê cho thấy, số lượng người Trung
Quốc và Hàn Quốc chiếm số lượng lớn trong tổng số người nước ngoài đăng ký tạm
trú, thường trú tại Việt Nam và có mặt tại hầu hết các tỉnh, thành phố trong phạm vi
toàn quốc. Hầu hết trong số họ làm việc tại các công ty, nhà máy liên doanh Việt -
Trung, Việt - Hàn hoặc các khu công nghiệp, một số là sinh viên các trường đại học
tại Việt Nam. Số người mang quốc tịch Mỹ (chủ yếu là Việt kiều) và Australia
thường tập trung tại các thành phố lớn như: Hà Nội, Hải Phòng, Tp.HCM, Đà
Nẵng… Hầu hết những người này làm việc tại các dự án nước ngoài, các khách sạn
lớn, các công ty nước ngoài tại Việt Nam, nhiều người theo vợ hoặc chồng sang Việt
Nam làm nghề nội trợ.
Cũng theo số liệu của Bộ lao động thương binh và xã hội, người nước ngoài
đến làm việc tại Việt Nam chủ yếu tập trung ở các tỉnh TP Hồ Chí Minh, Hà Nội,
123
Hải Phòng, Bình Dương, Đồng Nai…Tính đến hết năm 2009, TP Hồ Chí Minh có
khoảng 50.000 lao động nước ngoài, trong đó có 14.655 người được cấp giấy phép;
Hà Nội có 15.357 người nước ngoài trong đó có 6.018 người được cấp giấy phép (số
liệu của Bộ lao động thương binh và xã hội). Theo thống kê, tính đến cuối năm 2009
trên địa bàn tỉnh Bình Dương có hơn 1.800 dự án đầu tư nước ngoài với trên 15.000
chuyên gia trong và ngoài nước đến làm việc; trong số này có khoảng 4.500 hộ gia
đình chuyên gia nước ngoài làm việc ở Bình Dương nhưng sinh sống ở Phú Mỹ
Hưng (TP.HCM), 200 chuyên gia ở quận 2 và nhiều chuyên gia khác sống rải rác ở
các quận 1 và quận 3 [29]…
Bảng 3.1. Số lượng và tỷ lệ cấp phép của lao động nước ngoài tại một số
tỉnh, thành phố năm 2009
Tỉnh/thành phố
Số lao động (người)
Số lao động được cấp giấy phép (người) 14.655 6.018 486 2.019 625 168 Số lao động được cấp giấy phép so với tổng lao động của tỉnh/thành phố (%) 29,31 39,19 10,33 57,68 72,18 37,90 TP Hồ Chí Minh Hà Nội Quảng Ninh Hải Phòng Tây Ninh Lâm Đồng 50.000 15.357 4.701 3.500 866 900 Nguồn: Bộ lao động thương binh và xã hội.
Do quản lý lao động nước ngoài thiếu đồng bộ nên lao động nước ngoài làm
việc không phép ở Việt Nam gia tăng liên tục. Số liệu bảng trên cho thấy, vào năm
2009 TP Hồ Chí Minh mới cấp phép được 29,31% lực lượng lao động nước ngoài,
Hà Nội cấp phép cho 39,19% lực lượng lao động nước ngoài. Tỉnh cấp phép thấp
nhất cho lao động nước ngoài là Quảng Ninh (10,33%). Tính đến tháng 7/2012, cả
nước mới cấp phép cho 64,8% lao động nước ngoài, số còn lại (35,2%) là lao động
không phép. Theo quy định của Việt Nam, các doanh nghiệp không được phép thuê
người người nước ngoài làm lao động phổ thông. Chính vù vậy, số lao động nước
ngoài được cấp phép đều thuộc các thành phần lao động chuyên gia, nhà quản lý, lao
động có tay nghề và chứng chỉ nghiệp vụ, trong khi số lao động không phép chủ yếu
là lao động phổ thông, đến từ các quốc gia lân cận (chủ yếu là Trung Quốc) và một
số quốc gia châu Phi.
124
Về lực lượng chuyên môn cao nước ngoài thuộc dạng Việt Kiều, tính đến
tháng 6 năm 2011 TP Hồ Chí Minh có hơn 2.500 doanh nghiệp Việt kiều. Số doanh
nghiệp này đăng ký kinh doanh với tổng vốn điều lệ gần 37.000 tỷ đồng, trong đó có
117 dự án được cấp giấy chứng nhận đầu tư. Hàng năm có trên 500.000 lượt người
Việt Nam ở nước ngoài về thăm gia đình, thân nhân, tìm kiếm cơ hội làm ăn, đầu tư,
hợp tác giáo dục đào tạo, chuyển giao công nghệ, trong đó hơn 80% có thời gian lưu
lại TP HCM [32]. Theo Ủy ban nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài, đây là
nguồn lực tiềm năng có thể đóng góp cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế của Việt Nam. Tuy nhiên, số lượng trí thức Việt Kiều về nước
còn quá ít ỏi so với 400.000 trí thức người Việt đang sinh sống ở nước ngoài [34].
Theo báo cáo mới nhất từ Khảo sát về chuyên gia nước ngoài (Expat
explorer) của Ngân hàng HSBC (2012), Việt Nam hiện nay là 1 trong 10 điểm đến lý
tưởng hàng đầu của các chuyên gia nước ngoài. Cuộc khảo sát này được tiến hành
với hơn 5.000 chuyên gia nước ngoài đến từ gần 100 quốc gia trên toàn thế giới về
sự hài lòng của lao động ngoại quốc đối với cuộc sống tại nơi họ tới làm việc, và tiến
hành xếp hạng các quốc gia dựa trên các yếu tố như mức độ thu nhập, thu nhập sau
thuế và khả năng tích lũy tài sản cao cấp. Kết quả cuộc khảo sát cho thấy, khu vực
Đông Á và Đông Nam Á chiếm nhiều thứ bậc cao trong danh sách, đứng đầu là
Singapore, đứng thứ 3 là Thái Lan, tiếp đến là Hồng Kông đứng thứ 4, Trung Quốc
đứng thứ 7 và Việt Nam đứng thứ 10. Về thu nhập: 47% chuyên gia nước ngoài thừa
nhận họ có mức thu nhập cao hơn khi chuyển đến sống tạiViệt Nam, 63% cũng cho
biết tình trạng tài chính của gia đình đã cải thiện và chỉ 30% cho rằng Việt Nam gắn
liền với cơ hội cao hơn về lương so với các quốc gia châu Á khác. Về chất lượng
cuộc sống: 33% nhận thấy họ có nhiều cơ hội hưởng thụ một cuộc sống tốt hơn tại
Việt Nam so với những quốc gia họ từng sống trước đây. Tỷ lệ này khá thấp so với
kết quả trung bình 60% của thế giới. Tuy nhiên, 57% chuyên gia nước ngoài được
khảo sát đều đồng ý Việt Nam đang dần trở thành môi trường tốt hơn đối với các
chuyên gia nước ngoài. Về trải nghiệm tại Việt Nam: Những chuyên gia nước ngoài
tham gia khảo sát thường rất ngạc nhiên với những gì họ có được khi sinh sống và
làm việc tại Việt Nam. 30% chuyên gia nước ngoài hy vọng cuộc sống sẽ cải thiện
hơn sau khi di chuyển tới đây, nhưng chỉ 40% thực sự nhận thấy đây là một nơi đáng
để sinh sống và làm việc sau khi chuyển tới Việt Nam. Dù chất lượng cuộc sống tại
125
Việt Nam có thể không bằng các quốc gia khác nhưng các chuyên gia nước ngoài
thường muốn đến đây để thử thách bản thân. 73% nhận thấy họ đã phát triển và
trưởng thành hơn, 70% hy vọng có một cuộc sống thú vị hơn và 63% nhìn nhận Việt
Nam là một mảnh đất giàu văn hóa.50% chuyên gia nước ngoài cho biết cuộc sống ở
Việt Nam tốt hơn những nơi trước đây họ từng sinh sống. Điều này một phần có lẽ
do những chuyên gia nước ngoài có mức sinh hoạt cao hơn. 53% chuyên gia nước
ngoài tin rằng điều kiện sống tại Việt Nam tốt hơn ở quê nhà với 27% người cho biết
nhà họ tại Việt Nam có hồ bơi - thứ họ chưa từng có trước đây. 2 trong số 5 người
nước ngoài (40%) cũng có sự trợ giúp của người bản địa ở Việt Nam, hơn là họ có
tại quê hương [21].
3.1.3. Những tồn tại và nguyên nhân
Tuy đạt được một số kết quả nhất định trong thu hút lao động chuyên môn
cao nước ngoài, nhưng chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài của
Việt Nam trong thời gian qua còn gặp phải nhiều hạn chế cần phải giải quyết kịp
thời. Tình trạng lao động nước ngoài không phép tiếp tục gia tăng nhưng không có
giải pháp tháo gỡ. Những yếu kém trong quản lý lao động nước ngoài tại Việt Nam
được thể hiện rõ trong việc quản lý thiếu đồng bộ của các cơ quan chức năng, tạo ra
kẽ hở cho tình trạng gia tăng lao động nước ngoài làm việc không phép tại Việt
Nam. Điều 14 Nghị định 34/2008 và Nghị định 46/2011 quy định về tuyển dụng và
quản lý người nước ngoài làm việc tại Việt Nam trao quyền cho Bộ lao động thương
binh và xã hội, Bộ Y tế, Bộ Công thương, Hội đồng nhân dân, TP trực thuộc Trung
ương… và các bộ liên quan phối hợp thực hiện công tác quản lý. Hiện nay, dù nghị
định đã đi vào cuộc sống nhưng Bộ Y tế vẫn chưa có hướng dẫn mẫu và cơ quan có
thẩm quyền cấp giấy chứng nhận sức khỏe cho người nước ngoài; Bộ Công thương
chưa hướng dẫn trình tự, thủ tục để xác định đối tượng là người nước ngoài di
chuyển nội bộ doanh nghiệp thuộc phạm vi các ngành trong biểu cam kết dịch vụ của
Việt Nam với Tổ chức Thương mại thế giới. Việc phát hiện và kiểm tra nơi làm việc
của các doanh nghiệp có thuê lao động nước ngoài không dễ dàng do các văn bản
còn mang tính tạm thời nên các đơn vị chức năng rất khó vào các công trình, công ty
để xử lý lao động nước ngoài đang làm việc trái phép.
Theo quy định của Nghị định 46/2011, trước khi tuyển người nước ngoài ít
nhất 30 ngày, người sử dụng lao động phải thông báo nhu cầu tuyển người lao động
126
Việt Nam vào các vị trí công việc dự kiến tuyển người nước ngoài trên ít nhất một số
báo trung ương và ít nhất một số báo địa phương về số lượng người cần tuyển, vị trí
công việc, trình độ chuyên môn, mức lương và các khoản thu nhập khác… Chỉ sau
khi không tìm được lao động trong nước đáp ứng được đúng như nhu cầu sử dụng thì
mới được tuyển lao động nước ngoài. Lấy cớ tình hình tuyển dụng lao động khó
khăn như hiện nay ở Việt Nam, nhiều doanh nghiệp nước ngoài đã tìm cách tuyển và
đưa lao động nước ngoài vào làm việc tại công ty của họ.
Những yếu kém lỏng lẻo trong chính sách thu hút lao động chuyên môn cao
nước ngoài của Việt Nam đã gây ra một số hậu quả khôn lường. Lao động không
phép và lao động phổ thông nước ngoài tiếp tục đổ về Việt Nam với số lượng lớn. Sự
xuất hiện số lượng lao động nước ngoài lớn ở Việt Nam là do các công trình xây
dựng, khu công nghiệp của các nhà thầu nước ngoài trúng thầu tại Việt Nam như
Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc, Malaysia đưa công nhân từ bên các nước này
sang để lao động. Trong thời gian vừa qua, các nhà thầu Trung Quốc trúng rất nhiều
gói thầu tại Việt Nam. Họ lấy cớ là trình độ chuyên môn của lao động Việt Nam
không thể làm được những công việc họ quy định để đưa lao động của họ vào Việt
Nam. Với tình trạng các lao động nước ngoài đổ xô sang Việt Nam tăng lên chóng
mặt như mấy năm qua, lao động nước ta sẽ bị cướp đi cơ hội việc làm. Trên thực tế
cho thấy, hàng nghìn học sinh sinh viên của các trường đại học, cao đẳng, trường
nghề có tay nghề nhưng vẫn không tìm được việc làm. Tỷ lệ thất nghiệp của lao
động chuyên môn cao Việt Nam luôn không ngừng gia tăng hoặc họ phải làm trái
ngành nghề. Mặc dù phần lớn lao động nước ngoài vào Việt Nam có tay nghề khá
hơn lao động trong nước. Họ được đào tạo chuyên ngành tốt và sâu và trong luật lao
động của Việt Nam không nhập khẩu những lao động nước ngoài mà có trình độ
trung bình hoặc thấp, lao động phổ thông. Tuy nhiên, do không quản lý chặt chẽ chất
lượng lao động nước ngoài tại Việt Nam, tình hình thất nghiệp của Việt Nam tiếp tục
khó giải quyết.
Lao động nước ngoài chuyên môn thấp còn gây ra những bất ổn định chính trị
và xã hội nghiêm trọng. Năm 2009 đã xảy ra một vụ làm người dân trong nước phải
kinh hãi. Gần 200 lao động Trung Quốc đã ngang nhiên cầm gậy gộc, ống nước
xông vào đánh đập nhà cửa, xe cộ, và tất cả ai họ gặp ở Nghi Sơn, Thanh Hóa. Đặc
biệt là từ khi Trung Quốc trúng thầu dự án khai thác bô-xit ở Tây Nguyên, thì số
127
lượng lớn người Trung Quốc lại có cơ hội tuồn vào Việt Nam một cách công khai và
gia tăng thêm nhiều bất ổn. Các chuyên gia Trung Quốc dễ dàng trúng thầu các dự
án quốc gia như khai thác Bô-xít, các xây dựng đập thủy điện, xây dựng đường cao
tốc, các tuyến đường huyết mạch, các dự án xây dựng cơ bản khác và còn được khai
thác rừng tới 50 năm…Sự có mặt của người Trung Quốc ở các vùng kinh tế trọng
điểm, các khu vực mang tính chiến lược là một nguy cơ tiềm tàng ảnh hưởng đến an
ninh quốc gia của Việt Nam trong tương lai.
3.2. BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH
CHO VIỆT NAM QUA NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP SINGAPORE VÀ
TRUNG QUỐC
3.2.1. Những điểm tương đồng và khác biệt trong chính sách thu hút lao
động chuyên môn cao ở Việt Nam so với Trung Quốc và Singapore
3.2.1.1. Những điểm tương đồng
Thứ nhất, cũng giống như Trung Quốc và Singapore, Việt Nam hiện nay cũng
đang rất thiếu thốn lao động chuyên môn cao phục vụ quá trình công nghiệp hóa đất
nước. Việt nam luôn nằm ở vị trí cao hơn về mức độ thiếu thốn lao động kỹ năng.
Nếu như Trung Quốc đạt mức độ thiếu thốn cao nhất về lao động kỹ năng trong 2/6
lĩnh vực là lao động quản lý và kỹ thuật viên, thì Việt Nam thiếu thốn lao động kỹ
năng cao nhất trong 4/6 lĩnh vực, gồm quản lý, kỹ sư, lao động kỹ năng đơn giản và
lao động phổ thông. Bên cạnh đó còn thiếu hụt lao động ở mức độ nhẹ tại nghề dịch
vụ khách hàng và thiếu hụt mức độ trung bình ở nhóm kỹ thuật viên. Ngoài ra, các
doanh nghiệp ở các ngành (khai khoáng và xây dựng, chế tạo, vận tải và thiết bị, bán
buôn và bán lẻ, dịch vụ, tài chính, bảo hiểm và bất động sản) cũng gặp khó khăn
trong tuyển dụng lao động. 500 doanh nghiệp do tập đoàn Manpower Group khảo sát
năm 2011 được khảo sát cho rằng có khoảng 23% lao động Việt Nam không đủ khả
năng mà doanh nghiệp cần; 35% không có khả năng đáp ứng yêu cầu của doanh
nghiệp. Đáng chú ý cuộc điều tra đã tìm ra nhiều “điểm mù” - những nhóm kỹ năng
bị bỏ qua chỉ vì không được coi là nhu cầu cấp bách gồm: ngoại ngữ, hiểu biết cơ
bản về quản lý tài chính, khả năng sáng tạo, kỹ năng vi tính và khả năng tạo động lực
cho bản thân.
Xét trên khía cạnh nhân khẩu học, Việt Nam vẫn là nước đang ở trong thời kỳ
dân số vàng, với những lợi thế về lao động trẻ so với các nước Singapore và Trung.
128
quốc. Theo dự báo của chính phủ, lực lượng lao động vẫn tiếp tục đạt tốc độ tăng
trưởng khoảng 0,6% trong giai đoạn 2011-2020, tuy giảm 1/3 tốc độ tăng trưởng so
với trước đó nhưng lực lượng lao động vẫn tiếp tục đóng góp tích cực cho tăng
trưởng GDP.
Bảng 3.2. Bước chuyển dân số ở một số quốc gia châu Á
Giai đoạn Giai đoạn tỷ lệ sinh dưới 2,1
Giai đoạn tổng dân số bắt đầu giảm Nhật Bản Hàn Quốc Nhật Bản Singapore Hồng Kong Hàn Quốc Trung Quốc Thái Lan Việt Nam Indonesia 1950-1955 1955-1960 1960-1965 1965-1970 1970-1975 1975-1980 1980-1985 1985-1990 1990-1995 1995-2000 2000-2005 2005-2010 2010-2015 2015-2020
Giai đoạn tỷ lệ người già vượt quá 14% Nhật Bản Hồng Kong Hàn Quốc, Singapore 2020-2025 Malaysia
Giai đoạn lực lượng lao động bắt đầu giảm Nhật Bản Trung Quốc, Hong Kong Hàn Quốc, Singapore Trung Quốc 2025-2030
Singapore Ấn Độ Philippine 2030-2035 2035-2040 Trung Quốc, Thái Lan Việt Nam
Thái Lan, Việt Nam 2040-2045
Malaysia, Indonesia Thái Lan, Việt Nam 2045-2050 Nguồn: Takao Komine (2012) A Long-term forecast of demographic
transition in Japan and Asia, Hosei University, trang 4.
So với tỷ lệ cần thiết 2,1 để giữ vững số dân theo lý thuyết xã hội học, thì Việt
Nam bắt đầu gặp phải sự giảm sút dân số từ năm 2005-2010, trong khi Trung Quốc
đã trải qua giai đoạn này từ năm 1990-1995 và Singapore trải qua giai đoạn này từ
năm 1975-1980. So với Trung Quốc và Singapore, giai đoạn tỷ lệ người già vượt quá
14% dân số và giai đoạn lực lượng lao động bắt đầu giảm ở Việt Nam cũng muộn
hơn rất nhiều, vào khoảng năm 2035-2040.
129
Thứ hai, cũng giống như Trung Quốc và Singapore, Việt Nam đang chú trọng
thực hiện chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài phục vụ quá trình
công nghiệp hóa đất nước. Do bước chuyển dân số sang độ tuổi già hóa ở Việt Nam
chậm hơn Trung Quốc 10 năm và chậm hơn Singapore 20 năm, nên thời điểm ban
hành chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài ở Việt Nam muộn hơn
rất nhiều so với Trung Quốc và Singapore, nhưng việc ban hành chính sách ở Việt
Nam hiện nay cho thấy nhu cầu thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài ở Việt
Nam hiện nay là rất cần thiết. Ngay từ ban đầu mới hình thành khung khổ chính sách
thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài, Việt Nam cũng giống như Trung Quốc
và Singapore có sự cởi mở của chính sách, đặc biệt trong chính sách thu hút Việt
kiều trí thức quay trở về nước làm việc bởi Trung Quốc và Việt Nam đều có số
lượng lớn người dân di cư ra nước ngoài. Chuyên gia nước ngoài vào Việt Nam
được hưởng các quy chế ưu đãi trong nhiều lĩnh vực như thị thực, ngoại hối, đăng ký
lưu trú, đi lại, thuế thu nhập cá nhân v.v….
Bảng 3.3. Phân loại mô hình di chuyển lao động của một số nước châu Á
Nước chủ yếu xuất Philippin Bangladesh Cambodia Lào
khẩu lao động Trung Quốc Sri Lanka Indonesia Việt Nam
Ấn Độ Pakistan Myanmar Nepan
Nước chủ yếu nhập Hàn Quốc Đài Loan Singapore
khẩu lao động Nhật Bản Hồng Kong Brunei
Nước cân bằng nhập Malaysia
khẩu và xuất khẩu Thái Lan
lao động
Nguồn: World Bank Development Report, 2005, trang 8.
Thứ ba, trong cơ cấu lao động chuyên môn cao nước ngoài vào Việt Nam,
Trung Quốc và Singapore, lao động châu Á chiếm tỷ lệ lớn. Lao động nước ngoài
đến làm việc tại Việt Nam từ hơn 60 quốc gia, trong đó quốc tịch châu Á (Trung
Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc...) chiếm khoảng 58%, châu Âu (Anh, Pháp...) chiếm
khoảng 28,5% và các nước khác chiếm 13,5%. Giống như Trung Quốc và Singapore,
lao động châu Á đến Việt Nam chủ yếu từ các nước Đông Á và Đông Nam Á như
Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia v.v.v. Ngoài ra,
Tương tự như Trung Quốc, số lượng Việt kiều trở về nước ở Việt nam ngày càng
130
lớn. Hiện nay, Việt Nam có khoảng 400.000 chuyên gia, trí thức Việt Nam ở nước
ngoài, chiếm hơn 10% cộng đồng người Việt (4,5 triệu người) ỏ nước ngoài. Các
chuyên gia, trí thức Việt Kiều này đều có trình độ đại học trở lên, có kỹ thuật, tay
nghề cao, tập trung sinh sống ở các nước công nghiệp phát triển. Hầu hết các ngành
và lĩnh vực mũi nhọn, các dự án công nghệ cao, từ điện tử, sinh học, vật liệu mới,
năng lượng mới, tin học, hàng không, vũ trụ, hải dương… của các nước tiên tiến đều
có chuyên gia người Việt làm việc. Điển hình như thung lũng Silicon của Mỹ hiện có
khoảng 10.000 người Việt Nam làm việc, trong đó có nhiều doanh nghiệp nhỏ do
người Việt làm chủ trong lĩnh vực công nghệ cao. Hàng năm, có khoảng 300 lượt trí
thức Việt kiều về nước đóng góp chuyên môn và tham gia các chương trình hợp tác
nghiên cứu và triển khai khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo, phần lớn theo hình
thức công tác ngắn ngày. Số lượng chuyên gia, trí thức Việt Kiều về làm việc với các
cơ quan nhà nước chiếm 55%, còn lại là tham gia giảng dạy, hợp tác nghiên cứu với
các viện nghiên cứu và trường đại học.
3.2.1.2. Những điểm khác biệt
Thứ nhất, mô hình thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài của Việt
Nam và Singapore có sự khác biệt rất lớn. Singapore là nước ít dân, chủ yếu nghiêng
về nhập khẩu lao động, trong khi Việt Nam (giống như Trung Quốc) là một nước
đông dân, chủ yếu nghiêng về xuất khẩu lao động. Chính vì vậy, lao động chuyên
môn cao nước ngoài hiện nay ở Việt Nam chiếm tỷ lệ tương đối nhỏ trong tổng lực
lượng lao động chuyên môn cao và các chính sách thu hút lao động chuyên môn cao
ở Việt Nam không có nhiều ưu đãi như Singapore. Theo số liệu di chuyển lao động ở
một số nước châu Á năm 2010, dòng lao động ra nước ngoài của Việt nam là 2,226
triệu người, trong khi dòng lao động nước ngoài vào Việt Nam chỉ là 69.307 người
(năm 2007), tỷ lệ lao động vào/lao động ra chỉ là 3,11%, thấp hơn nhiều so với tỷ lệ
661,7% của Singapore và 8,2% của Trung Quốc [71].
Thứ hai, thời điểm ban hành chính sách thu hút lao động chuyên môn cao
nước ngoài của Việt Nam chậm hơn rất nhiều so với Singapore và Trung Quốc. Điều
này hoàn toàn phù hợp với bước chuyển dân số của Việt Nam bởi theo dự báo Việt
Nam bắt đầu giai đoạn lực lượng lao động giảm từ năm 2035-2040, muộn hơn Trung
Quốc 10 năm và Singapore 20 năm. Hơn thế, Việt Nam thực hiện chiến lược cải
cách kinh tế từ năm 1986, muộn hơn nhiều so với thời điểm Singapore công nghiệp
131
hóa hướng về xuất khẩu vào năm 1968 và muộn hơn so với chiến lược cải cách kinh
tế của Trung Quốc vào năm 1979. Sự khác biệt về thời điểm chính sách khiến chính
sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài của Việt Nam hiện nay còn sơ sài
và thiếu hệ thống hơn rất nhiều so với Singapore và Trung Quốc. Trong khi
Singapore đã thực hiện chế độ cấp thẻ theo phân loại chuyên môn đối với lao động
nước ngoài, có hệ thống luật bài bản liên quan đến lao động nước ngoài thì Việt Nam
còn lâu hơn nữa mới tiến tới chế độ cấp phép lao động kiểu này. Trong khi Trung
Quốc có hệ thống thẻ Xanh và có những kế hoạch thu hút nhân tài (như kế hoạch
1000 người, kế hoạch hàng nghìn nhân tài) và có những chính sách rõ ràng bài bản
trong thu hút sinh viên quốc tế, thì Việt Nam hiện nay vẫn chưa có định hướng rõ
ràng trong thu hút Việt kiều và sinh viên quốc tế đến Việt nam học tập và làm việc.
Pháp luật Việt Nam liên quan đến thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài hiện
nay chỉ mới dừng lại ở việc ban hành Nghị định và Quyết định (năm 2008, 2009) với
những quy định chung chung và chưa quy định rõ những yêu cầu tuyển dụng lao
động chuyên môn cao nước ngoài.
Thứ ba, hiệu quả chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài ở
Việt Nam thấp hơn rất nhiều so với Singapore và Trung Quốc. Lỗ hổng trong chính
sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài của Việt Nam do những quy định
không rõ ràng và quản lý không hiệu quả đã dẫn đến việc Việt Nam đang vấp phải
một lực lượng lao động nước ngoài không có chuyên môn di chuyển vào Việt nam
ngày càng nhiều, làm mất cân đối thị trường lao động và gây hậu quả an ninh, xã hội
nghiêm trọng. Trong khi Singapore và Trung Quốc có những quy định rõ ràng về
quốc tịch, trình độ tay nghề của lao động nước ngoài, thì ở Việt Nam chính sách này
còn tương đối lỏng lẻo. Xem xét lại Nghị định 34/2008/NĐ-CP của chính phủ, người
nước ngoài được phép làm việc tại Việt Nam dưới 6 hình thức: hợp đồng lao động,
di chuyển trong nội bộ doanh nghiệp có hiện diện thương mại tại Việt Nam; thực
hiện các loại hợp đồng kinh tế, thương mại, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, khoa học
kỹ thuật, văn hóa, thể thao, giáo dục, y tế; nhà cung cấp dịch vụ theo hợp đồng; chào
bán dịch vụ; đại diện cho các tổ chức phi chính phủ nước ngoài tại Việt Nam. 6 hình
thức này đang tạo kẽ hở cho lao động không phép và lao động phổ thông nước ngoài
đến làm việc tại Việt Nam, đặc biệt là hình thức cung cấp dịch vụ theo hợp đồng;
chào bán dịch vụ; Theo quy định của pháp luật, nếu các nhà thầu nước ngoài không
132
tìm được lao động chuyên môn Việt Nam đáp ứng được công việc thì mới được phép
đưa lao động nước ngoài vào. Lao động ngoại quốc sẽ bị quy định thời hạn làm việc.
Sau thời gian quy định đó, công nhân nước ngoài phải về nước làm lại thủ tục. Tuy
nhiên, các nhà thầu vẫn cố tình làm trái, tiếp tục cho công nhân làm việc trong khi
hạn lao động đã hết. Sự quản lý không chặt chẽ và sự phối hợp lỏng lẻ giữa Bộ Lao
động Thương binh và Xã hội với Bộ Công thương và Bộ Xây dựng khiến các nhà
thầu Trung quốc thường dễ trúng thầu hơn vì chi phí rẻ. Thống kê của Tổng cục 3,
Bộ Công an năm 2009 thì đã có ít nhất 35.000 lao động Trung Quốc tại Việt Nam,
còn số người Hoa ở Việt Nam hiện nay khoảng 800.000 người. Số liệu người lao
động trên chỉ lấy từ thông tin do các doanh nghiệp cung cấp, chủ yếu là các doanh
nghiệp ở Sài Gòn, Bình Dương. Hiện nay chưa có thống kê chính thức nào về số
lượng lao động Trung Quốc tại Việt Nam. Nhưng chắc chắn con số sẽ rất cao. Năm
2010, số lượng khách du lịch vào Việt Nam cao kỷ lục khoảng 4,2 triệu người, trong
đó Trung Quốc cao nhất với bình quân mỗi tháng từ 60.000-90.000 người. Đó là
chưa kể một số nhập cư trái phép qua đường bộ. Thủ đoạn của họ là giả vờ đi du
lịch, thăm thân nhân rồi tìm cách gia hạn ở lại Việt Nam để làm việc (theo số liệu
của Quốc hội). Điều này đang dẫn đến những bất ổn về chính trị, an ninh, xã hội
nghiêm trọng ở Việt Nam.
Thứ tư, xu hướng di chuyển lao động chuyên môn cao nước ngoài vào Việt
Nam có sự khác biệt so với Singapore và Trung Quốc. Xét trên phương diện cơ cấu
kinh tế và thu nhập bình quân đầu người, Việt Nam có sự thụt lùi đáng kể so với
Singapore và Trung Quốc. Theo Báo cáo phát triển Việt Nam 2009 của Ngân hàng
Thế giới, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam tụt hậu tới 51 năm so với
Indonesia, 95 năm so với Thái Lan và 158 năm so với Singapore và chỉ bằng 27% %
so với Trung Quốc. Tụt hậu về trình độ phát triển của Việt Nam so với Singapore và
Trung Quốc thể hiện rất rõ. Trong báo cáo cạnh tranh toàn cầu của Diễn đàn kinh tế
thế giới năm 2013-2014, Việt Nam đứng hạng 70 trong số 148 nước được xếp hạng,
lên được 5 hạng so với 2012–2013 (75/144), xuống 5 hạng so với 2011–2012
(65/142); trong khi đó Singapore đứng vị trí thứ 2/148 nước và Trung Quốc đứng thứ
29/148 nước năm 2013-2014. Như vậy, trong xu hướng di chuyển lao động chuyên
môn cao nước ngoài trên thế giới và trong khu vực châu Á, Việt Nam khó có thể thu
hút lao động chuyên môn nước ngoài thuộc các ngành công nghệ và khoa học bậc
133
cao và gặp phải rất nhiều vấn đề cạnh tranh trong khu vực đối với việc thu hút lực
lượng lao đông chuyên môn cao nước ngoài. Trong làn sóng di chuyển lao động
chuyên môn cao nước ngoài vào khu vực châu Á, Việt Nam có khả năng phải đón
nhận lực lượng lao động chuyên môn thấp hơn Trung Quốc và Singapore do những
hạn chế về thu nhập bình quân đầu người và môi trường chính sách luật pháp ưu đãi
đối với lao động chuyên môn cao nước ngoài.
3.2.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Luận án đi đến những bài học kinh nghiệm sau đây:
Các bài học thành công nên học hỏi:
Bài học thứ nhất: chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài
không chỉ đòi hỏi phải kiểm soát hiệu quả dòng lao động nhập cư, mà còn đòi hỏi
phải thực hiện một môi trường kinh tế vĩ mô hiệu quả và các thể chế thị trường lao
động vận hành tốt.
Singapore và Trung Quốc đã xây dựng được hệ thống chính sách quản lý lao
động nhập cư hiệu quả, tuy mức độ hiệu quả của từng nước có sự khác nhau, nhưng
đều có thể kiểm soát được số lượng và chất lượng lao động nước ngoài. Hai nước
này đã chứng minh được hiệu quả năng lực thể chế trong thực hiện chính sách nhập
cư và đề ra các quy định điều tiết và kiểm soát dòng lao động nước ngoài làm việc
tại hai nước đó. Điển hình là Singapore, đất nước này đã có thái độ nồng nhiệt đối
với lao động chuyên môn cao nước ngoài, đưa ra hệ thống luật pháp, chính sách và
biện pháp hiệu quả để đáp ứng quyền lợi và trao trách nhiệm cho từng cá nhân lao
động chuyên môn cao nước ngoài. Hệ thống giấy phép với sự đa dạng về thang bậc
lương và những yêu cầu nghiêm ngặt về bằng cấp, trình độ, kinh nghiệm của
Singapore được các lao động chuyên môn cao nước ngoài dánh giá cao. Đi kèm với
hệ thống giấy phép đó là sự giám sát chặt chẽ của các bộ ngành liên quan. Trung
Quốc, tuy không đạt trình độ quản lý lao động chuyên môn cao nước ngoài như
Singapore, nhưng cũng đã thành công nhất định trong việc đưa ra những kế hoạch
tuyển dụng nhân tài nước ngoài cụ thể, đi kèm với đó là các biện pháp thu hút nhân
tài nước ngoài. Cả Trung quốc và Singapore đều xây dựng được một môi trường
kinh tế vĩ mô hiệu quả, có sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài và lao
động chuyên môn cao nước ngoài. Hệ thống kinh tế vĩ mô hiệu quả, kết hợp với kế
hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế và kế hoạch đào tạo thu hút nhân tài sao cho phù
134
hợp với kế hoạch kinh tế đề ra đã giúp Singapore (và Trung Quốc) xác định rõ mục
tiêu cần thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài vào lĩnh vực nào, ở trình độ
nào, ngành nghề nào và số lượng bao nhiêu. Cơ cấu kinh tế đa dạng hóa cũng giúp
hai nước này rất dễ tìm kiếm các lao động chuyên môn cao nước ngoài ở nhiều
ngành nghề khác nhau, bù đắp cho những thiếu hụt trong nước. Bài học rút ra là, nếu
có một môi trường chính sách toàn diện liên quan đến lao động chuyên môn cao
nước ngoài, thì việc kiểm soát và quản lý lao động nước ngoài sẽ đạt hiệu quả cao.
Những thay đổi chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài cần phải
gắn chặt với cơ sở lý thuyết, tình hình thế giới và thực tiễn phát triển của từng nước.
Singapore là đất nước có chính sách thị trường lao động vận hành tốt, chủ yếu
được dựa trên nguồn lực trong nước để cân đối cung cầu lao động trên thị trường.
Khi thị trường trong nước thiếu hụt lao động trong nhiều lĩnh vực (cần chuyên môn
cao và lao động phổ thông), chính sách thu hút lao động nước ngoài của Singapore tỏ
ra cởi mở với các điều kiện quy định ít ngặt nghèo. Khi thị trường lao động trong
nước chưa đủ sức tạo đầy đủ công ăn việc làm cho người lao động bản địa, chính
sách nhập cư sẽ được thắt chặt với những quy định nghiêm ngặt đối với lao động
nước ngoài. Theo các chuyên gia kinh tế, nền kinh tế Singapore hiện nay đang trải
qua thời kỳ tái cơ cấu. Sự chuyển đổi giữa kinh tế và việc làm là điều rất khó khăn
nhưng lại cần thiết để giúp nền kinh tế của quốc gia này phát triển biển vững. Để đạt
được các mục tiêu tăng trưởng dài hạn, chính phủ Singapore sẽ tiếp tục giảm bớt
nguồn lao động nước ngoài và siết chặt chính sách nhập cư, sửa đổi Luật nhập cư.
Đối với Trung Quốc, cân đối cung cầu trên thị trường lao động là một bài
toán khó. Với tỷ lệ thiếu việc làm trong nước luôn ở mức cao, tỷ lệ thất nghiệp lớn,
chính phủ Trung Quốc đã lựa chọn giải pháp thu hút các chuyên gia Hoa kiều trở về
nước làm việc. Là một nước đông dân, chính phủ Trung Quốc đã xác định các mục
tiêu rất cụ thể: thị trường lao động Trung Quốc phải phát triển một cách thống nhất,
theo hướng mở cửa, cạnh tranh và quy phạm hoá để cân đối cung cầu lao động. Xác
định chính sách thu hút nhân tài một cách hợp lý, Trung Quốc có chính sách ưu tiên
hộ khẩu cho các nhân tài để thu hút lao động có trình độ cao. Các nhân tài ở Trung
Quốc còn được ưu đãi đặc biệt về trả công lao động; lương của người lao động có
trình độ cao hơn nhiều so với lương của lao động trung bình. Lao động có trình độ
cao ở Trung Quốc còn được hưởng các ưu đãi đặc biệt về điều kiện làm việc và sinh
135
hoạt (thí dụ: ưu đãi về nhà ở, ưu tiên mua cổ phiếu, được cử đi học tập và tu nghiệp ở
nước ngoài). Trung Quốc coi đây là một biện pháp giữ chân và thu các nhân tài ở
trong và ngoài nước.
Bài học thứ hai: chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài
muốn thực hiện hiệu quả thì phải được giám sát chặt chẽ, gắn với việc trao trách
nhiệm cụ thể cho chủ doanh nghiệp sử dụng lao động để hạn chế tình trạng tiếp nhận
lao động bất hợp pháp hoặc lao động kỹ năng thấp.
Về mặt lý thuyết, chính sách thị trường lao động thường đi theo hướng tăng
cung ứng lao động dựa trên giảm thất nghiệp, kéo dài độ tuổi về hưu, tăng giờ làm
việc, tăng năng suất lao động thông qua tăng vốn nhân lực. Các chương trình nhập
khẩu lao động cho phép người chủ doanh nghiệp sử dụng lao động nước ngoài và
hầu hết các chương trình trên thế giới hiện nay đều đi theo nguyên tắc hành chính, đó
là chủ doanh nghiệp buộc phải cố gắng tìm kiếm lao động trong nước, nếu không tìm
được mới cho phép sử dụng lao động nhập cư. Các chương trình này thường dẫn đến
việc người sử dụng lao động cố lách luật bằng cách chứng minh không có khả năng
tìm được lao động trong nước phù hợp và cần phải tuyển dụng lao động nước ngoài.
Kinh nghiệm của Singapore cho thấy, để hạn chế tình trạng lách luật này,
chính phủ đã trao trách nhiệm cụ thể cho người sử dụng lao động. Singapore đã thực
hiện đánh thuế cả người sử dụng lao động và lao động nước ngoài. Người sử dụng
lao động sẽ phải chịu mức thuế cao hơn nếu thuê lao động nước ngoài, đặc biệt là lao
động phổ thông. Người lao động nước ngòai bị đánh thuế khác nhau, trong đó lao
động chuyên môn cao có mức thuế thấp hơn lao động phổ thông và áp dụng khác
nhau cho từng đối tượng, ngành nghề. Việc đánh thuế này đã khuyến khích lao động
chuyên môn cao nước ngoài và hạn chế lao động phổ thông tay nghề thấp. Singapore
cũng có những hình thức xử lý rất nghiêm ngặt lao động nhập cư bất hợp pháp, đặc
biệt là lao động phổ thông làm việc trong lĩnh vực xây dựng. Theo Luật nhập cư hiện
hành, các hình phạt cho việc ở lại quá hạn hoặc nhập cư bất hợp pháp ở Singapore là
6 tháng tù và 2000 đô la Singapore. Do tình trạng nhập cư bất hợp pháp có chiều
hướng gia tăng bởi chính phủ Singapore thắt chặt hơn nữa Luật nhập cư, Bộ nội vụ
Singapore đang chuẩn bị hình sự hóa hành vi làm giả hồ sơ nhập cư và hiện tượng
kết hôn giả vì mục đích nhập cư. Những ai bị phát hiện kết hôn giả có thể bị phạt tù
136
lên tới 10 năm kèm theo khoản tiền nộp phạt 10.000 đôla Singapore. Án phạt cao
nhất dành cho tội danh làm giả hồ sơ nhập cư là 8.000 đôla Singapore và 5 năm tù.
Bài học thứ ba: chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài cần
kết hợp hài hòa với chính sách gia đình và những chính sách phúc lợi xã hội khác.
Xu hướng nổi bật hiện nay là các chuyên gia nước ngoài có xu hướng di
chuyển từ các nước phát triển hơn sang các nước đang phát triển hơn để tìm kiếm cơ
hội tốt hơn và tránh bị đánh thuế thu nhập cao ở nước chủ nhà. Đây là một lợi thế
không thể bỏ qua đối với các nước đang phát triển. Tuy nhiên, đi kèm với thực trạng
muốn di cư sang các nước đang phát triển làm việc, các chuyên gia nước ngoài
thường xem xét các chính sách gia đình và chính sách an sinh xã hội liên quan đến
bản thân họ. Chính sách gia đình trở nên rất quan trọng trong di cư quốc tế, đặc biệt
là các vấn đề chấp nhận người thân của chuyên gia đi theo họ ra nước ngoài, người
thân của họ sẽ tiếp cận các chính sách an sinh xã hội và chăm sóc sức khỏe ở nước
tiếp nhận chuyên gia. Lao động chuyên môn cao nước ngoài thường rất nhạy cảm
với chính sách gia đình, họ thường xem xét các vấn đề được hưởng lợi của người
thân trước khi quyết định làm việc lâu dài tại một nước đang phát triển.
Singapore đã làm tốt được chính sách gia đình và an sinh xã hội đối với lao
động chuyên môn cao nước ngoài và người thân của họ. Các mức độ trợ cấp và ưu
đãi đối với người thân của chuyên gia được quy định khác nhau, dựa theo mức thu
nhập và ngành nghề của chuyên gia nước ngoài. Hệ thống cho phép định cư lâu dài
của Singapore cũng cởi hơn hơn rất nhiều so với nước khác. Với hình thức cấp thẻ
như nhiều nước châu Âu đã làm, Singapore tương đối thành công trong việc thu hút
lao động chuyên môn cao nước ngoài nhờ quan tâm đến chính sách gia đình và an
sinh xã hội.
Bài học thứ tư: bài học thu hút kiều bào trí thức nước ngoài về làm việc tại
quê hương.
Trung Quốc với chiến lược sức mạnh mềm đã có những chính sách thu hút
lực lượng trí thức Hoa kiều về nước làm việc trên nhiều lĩnh vực. Đề án hàng nghìn
nhân tài đã khởi động với những quy định rất rõ về lực lượng nhân tài. Những
chuyên gia nước ngoài đến làm việc tại Trung Quốc trong khuôn khổ đề án trên được
hỗ trợ ban đầu khoảng 1 triệu Nhân dân tệ (NDT), tương đương với 157.700 USD.
Ngoài ra, các nhà nghiên cứu nước ngoài cũng có thể được nhận khoản tài trợ dành
137
cho nghiên cứu khoa học vào khoảng từ 3-5 triệu NDT. Với nhiều hỗ trợ về tài chính,
mục tiêu sẽ thu hút khoảng 1000 học giả từ 100 trường đại học hàng đầu trở về với mục
tiêu xây dựng 100 nhóm nghiên cứu sáng tạo đẳng cấp quốc tế tại các đại học Trung
Quốc. Theo kế hoạch, các chuyên gia này sẽ làm việc với các chuyên gia trong nước
qua đó nâng cao chất lượng nghiên cứu nói riêng cũng như khả năng cạnh tranh khoa
học nói chung của Trung Quốc trên bình diện quốc tế. Cho đến nay Đề án này đã lựa
chọn được 662 học giả và hiện đang có 310 người đang làm việc tại các đại học nghiên
cứu ở Trung Quốc. Những chuyên gia nước ngoài này chủ yếu là Hoa Kiều đã góp phần
không nhỏ trong sự nghiệp phát triển kinh tế của Trung Quốc.
* Bài học thất bại nên tránh:
Bài học thứ nhất, nếu không quan tâm đến các chính sách an sinh xã hội và
chính sách gia đình đối với người lao động chuyên môn cao nước ngoài, thì sự cống
hiến của họ cho đất nước tiếp nhận lao động sẽ gặp nhiều hạn chế. Bài học này có thể
rút ra từ kinh nghiệm của Trung Quốc . Trung Quốc chưa thực sự quan tâm đến chính
sách gia đình và an sinh xã hội cho người thân của các chuyên gia nước ngoài. Chính
vì vậy, lượng lao động chuyên gia nước ngoài vào Trung Quốc chủ yếu là người Hoa
sinh sống ở các nước châu Á, một ít là từ Mỹ. Hoa Kiều vào Trung Quốc có những
lợi thế nhất định về cộng đồng, ngôn ngữ, họ hàng, mối quan hệ quen biết, vì vậy
chính phủ Trung Quốc đã biết sử dụng lợi thế này để kêu gọi trí thức chuyên gia Hoa
Kiều về Trung Quốc làm việc. Tuy nhiên, đối với lao động chuyên môn cao nước
ngoài không phải là Hoa Kiều, còn có rất nhiều rào cản chưa được khơi thông.
Chẳng hạn, tình trạng ô nhiễm không khí tại thủ đô Bắc Kinh của Trung Quốc trở
nên trầm trọng, ngày càng nhiều chuyên gia nước ngoài đã quyết định rời bỏ thành
phố này. Hiện tượng này đẩy nhiều tập đoàn đa quốc gia vào thế khó khi muốn thu
hút nhân sự điều hành cao cấp, giàu kinh nghiệm giữa lúc thị trường Trung Quốc
ngày càng giữ vai trò quan trọng trong thành công toàn cầu của họ. Các chuyên gia
đã không mấy hài lòng với tình trạng internet bị giám sát chặt khiến tốc độ truy cập
chậm chạp, không thể vào Facebook, Twitter, Google cùng những mối lo ngại khác
về mất an toàn thực phẩm, chất lượng nước và an ninh xã hội. Cùng với đó, những
hạn chế trong chính sách y tế, giáo dục, việc làm cho người thân của chuyên gia
nước ngoài ở Trung Quốc cũng khiến nhiều chuyên gia nước ngoài quyết định đưa
138
cả các thành viên gia đình ra khỏi Trung Quốc sau một thời gian ngắn làm việc ở
nước này.
Bài học thứ hai, nếu chế độ đãi ngộ về lương và môi trường làm việc còn
thấp, đối xử lao động không công bằng sẽ không thể thu hút lao động chuyên môn
cao nước ngoài một cách hiệu quả. Kinh nghiệm của Trung Quốc đem lại những bài
học quý báu cho Việt Nam. Chính sách trọng dụng nhân tài ngoại quốc, kiều bào của
Trung Quốc chưa thực sự thu hút một lực lượng chất xám của Hoa kiều ở nước ngoài
bởi mức lương và môi trường làm việc không phù hợp. Nhiều trường đại học Trung
Quốc không hiểu hết bản chất của thị trường lao động chất xám quốc tế, vì vậy đã
không tuyển chọn đúng người, đúng việc. Những Hoa kiều là nhà khoa học hàng đầu ở
các nước công nghiệp phát triển, còn khả năng cống hiến và sức khỏe thực sự đã không
muốn quay về định cư lâu dài ở Trung quốc vì những bất cập chính sách trong nước.
Hơn nữa, vấn đề lương bổng và môi trường làm việc thực sự không làm Hoa kiều trí
thức thấy thoải mái. Những người trở về có lương cao hơn thường tạo sự đố kị cho các
đồng nghiệp trong nước. Thành công của Đề án này có thể bị đe dọa bởi thực tế sự bất
cân xứng về lương bổng và điều kiện làm việc giữa những người trở về với những giáo
sư bản địa. Khi những giáo sư bản địa cảm thấy những người mới trở về không đóng
góp nhiều hơn họ, họ sẽ bất hợp tác, điều đó gián tiếp làm hủy hoại môi trường làm
việc. Trong khi nhiều học giả trở về vẫn có thể nói tiếng Trung nhưng vấn đề là họ vẫn
chưa hòa nhập được văn hóa học thuật mới ở Trung Quốc. Thiếu hợp tác với các đồng
nghiệp bản địa và vấn đề của tái hòa nhập cũng chính là những vấn đề nổi cộm của
chương trình này.
Đối với các nước đang phát triển và có thu nhập trung bình, sử dụng chất xám trở
về từ các nước phương Tây là một mục tiêu đúng đắn. Tuy vậy, trong bối cảnh toàn cầu
hóa, thu hút những nhà khoa học xuất sắc nhất trở về không phải là nhiệm vụ đơn giản,
thực tế cho thấy là phần lớn các nỗ lực đều thất bại. Và chừng nào vẫn còn khoảng cách
về điều kiện làm việc, lương bổng, môi trường, tự do học thuật thì những người giỏi
nhất và xuất sắc nhất sẽ còn không muốn trở về. Những người đang ở độ chín của sự
nghiệp, đang có năng suất khoa học cao sẽ chỉ muốn ở lại nước ngoài. Đây là bài học rất
đáng tham khảo đối với Việt nam để có thể thu hút hiệu quả đội ngũ trí thức, chuyên gia
Việt kiều trở về tổ quốc làm việc và cống hiến.
139
Bài học thứ ba, chính phủ cần phải có những quan điểm đúng đắn trong thu hút
lao động chuyên môn cao nước ngoài, tránh những tác động tiêu cực đối với sự phát
triển kinh tế – xã hội ở nước tiếp nhận lao động. Quan điểm thu hút lao động chuyên
môn cao nước ngoài của chính phủ cần phải gắn với các chiến lược phát triển kinh tế –
xã hội tầm nhìn xa khoảng 5-10 năm, trong đó hoạch định rõ những ngành nghề ưu tiên
phát triển trong giai đoạn đó, dự báo tương đối chính xác cung – cầu lao động trong
nước ở các ngành nghề ưu tiên cũng như xác định các danh mục ngành nghề cần lao
động nước ngoài và số lượng lao động chuyên môn cao nước ngoài cần thiết phải tuyển
dụng. Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy, đất nước này chưa xây dựng được một
chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài một cách hệ thống, chưa có
mục tiêu và định hướng cụ thể, chưa đưa ra được các tiêu chí, hạn ngạch, cơ chế xét
tuyển lao động nước ngoài rõ ràng…, vì vậy rất khó đáp ứng các yêu cầu và mong
muốn của lực lượng lao động chuyên môn cao nước ngoài không phải là người Hoa
kiều muốn vào Trung Quốc làm việc. Các quy định không rõ ràng, không có tiêu chí cụ
thể rất dễ trở thành rào cản khiến lao động chuyên môn cao nước ngoài dịch chuyển
sang các nước láng giềng có điều kiện hấp dẫn hơn.
Trường hợp Singapore lại là một bài học kinh nghiệm khác. Với chính sách thu
hút lao động chuyên môn cao nước ngoài bài bản, rất cởi mở, không phân biệt quốc tịch
của lao động nhập cư, Singapore đã vấp phải sự phản đối của người dân bản địa khi
người nước ngoài chiếm hầu hết việc làm trong các lĩnh vực kinh tế lẽ ra giành cho
người bản địa. Mâu thuẫn giữa người bản địa và cộng đồng lao động chuyên môn cao
nhập cư đã nhiều lần gây rắc rối cho chính phủ Singapore và khiến bản sắc dân tộc
Singapore bị phai mờ đáng kể. Bài học rút ra là: chính phủ cần phải có quan điểm đúng
đắn trong việc lựa chọn quốc tịch của lao động chuyên môn cao nước ngoài, đặc biệt là
lao động có trình độ chuyên môn tương đương hoặc chỉ khá hơn tương đối so với lao
động trong nước, hoặc lao động chuyên môn cao đến từ các những nước đông dân láng
giềng (như lao động Trung Quốc tại Việt Nam) nhằm tránh những tác động tiêu cực và
những bất ổn kinh tế, an ninh, xã hội do lao động chuyên môn cao nước ngoài mang lại
cho nước tiếp nhận.
3.2.3. Khuyến nghị chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước
ngoài tại Việt Nam
3.2.3.1. Những khuyến nghị chính sách mang tính chiến lược lâu dài
140
Qua nghiên cứu chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài ở
một số nước trên thế giới, đặc biệt là ở Singapore và Trung Quốc, luận án đi đến
những khuyến nghị chính sách mang tính chất chiến lược và lâu dài như sau:
Thứ nhất, cần phải có lộ trình cụ thể trong chính sách thu hút lao động
chuyên môn cao nước ngoài. Kinh nghiệm của một số nước cho thấy hầu hết các
nước đều có nhu cầu thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài, kể cả những
nước dư thừa lao động và những nước thiếu lao động. Tuy nhiên, để thu hút hiệu quả
lao động chuyên môn cao nước ngoài, cần phải có sự đánh giá lại tổng thể cơ cấu
dân số, bước chuyển dân số của Việt Nam từ giai đoạn dân số vàng sang giai đoạn
già hóa dân số, từ đó có những lộ trình cụ thể cho phát triển dân số và thu hút lao
động chuyên môn cao nước ngoài. Theo đánh giá của các chuyên gia quốc tế,
khoảng 20 năm nữa Việt Nam bắt đầu bước vào thời kỳ lực lượng lao động giảm.
Điều đó có nghĩa là, chúng ta cần phải có sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế sao cho phù
hợp với bước chuyển dân số này, đồng thời phải định hướng việc thu hút lao động
chuyên môn cao nước ngoài cho phù hợp với cơ cấu kinh tế 20 năm tiếp theo. Nếu
điều kiện và nguồn lực hội tụ đủ, Việt Nam sẽ trở thành nước công nghiệp hóa vào
năm 2030-2035. Lúc đó, cơ cấu kinh tế của Việt Nam sẽ nghiêng về các ngành công
nghiệp có giá trị gia tăng cao và các ngành dịch vụ hiện đại. Vì là nước đông dân,
Việt Nam cần nỗ lực hấp thụ hết lực lượng lao động hiện có và chỉ bổ sung lao động
chuyên môn cao nước ngoài trong những ngành nghề cần thiết nhất. Theo kinh
nghiệm Singapore và Trung Quốc, lộ trình phát triển nguồn lực lao động chất lượng
cao (trong đó có cả lao động chuyên môn cao nước ngoài) cần phải thiết kế bài bản
từ bây giờ, trong đó chú trọng thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài ở lĩnh
vực nào, trình độ nào, vùng và nước nào…., kèm theo đó là một hệ thống chính sách
pháp luật đầy đủ liên quan đến thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài.
Thứ hai, cần phải có quan điểm và chính sách rõ ràng trong thu hút Việt kiều
trí thức trở về nước làm việc. Việt Nam có một lợi thế hơn hẳn so với các nước láng
giềng là có khoảng gần 4 triệu người đang sinh sống khắp năm châu mà trong đó
khoảng 300,000 người đã tốt nghiệp đại học và sau đại học. Trong số những trí thức
Việt Nam này, có nhiều người là những nhà khoa học tên tuổi, chuyên gia đầu ngành
hiện đang làm việc tại các đại học, viện nghiên cứu và công ty nổi tiếng ở Mỹ, Úc,
Canada, Anh, Hà Lan, Nhật như các đại học Harvard, Standford, Yale, Tokyo,
141
Sydney… các công ty Microsoft, Monsanto, Mitsubishi...Cho đến nay, việc huy
động chất xám của tri thức kiều bào ở Việt nam còn tự phát và manh mún, mới dừng
ở việc mời các nhà khoa học về nước làm tư vấn cho một số dự án, tham gia giảng
dạy tại các cơ sở giáo dục. Việc động viên khuyến khích các nhà khoa học kiều bào
tầm cỡ tham gia vào các lĩnh vực ưu tiên của đất nước vẫn chưa làm được nhiều.
Nhiều tri thức, người Việt ở nước ngoài mong muốn đóng góp trí tuệ và tâm huyết
của mình cho đất nước, nhưng họ không biết trong nước cần gì và làm thế nào để có
thể đóng góp, trong khi họ bị những ràng buộc về pháp lý, về thời gian... Trong khi
đó các cơ quan chức năng trong nước chưa đưa ra những kế hoạch dài hơi, yêu cầu
cụ thể cũng như những biện pháp, chính sách thỏa đáng để tranh thủ sự đóng góp
chất xám của tri thức kiều bào. Quan trọng hơn là còn thiếu một cơ chế thông thoáng
để tri thức kiều bào có nhiều cơ hội làm việc và phát triển, đóng góp trí tuệ của mình
cho đất nước.
Tuy nhiên, để thu hút họ trở về nước làm việc, cần phải nhanh chóng thực
hiện các chiến lược thu hút nhân tài Việt Kiều (có thể học tập Trung Quốc), đồng
thời nới lỏng các quy định chính sách trong nước để họ thấy được Động cơ và Sự
thuận tiện khi trở về nước làm việc (theo mô hình của hình 1.1). Cụ thể là, Việt Nam
cần tạo bước đột phá trong xây dựng chính sách với việc nghiên cứu đề xuất Pháp
lệnh về công tác đối với Việt Kiều nhằm đảm bảo thực thi nghiêm túc và hiệu quả
các chủ trương, chính sách và pháp luật của nhà nước đối với kiều bào; Cần sớm thể
chế hóa chính sách và pháp luật liên quan đến Việt kiều, loại bỏ các thủ tục hành
chính không cần thiết đối với Việt kiều, đơn giản hóa thủ tục xuất nhập cảnh, đăng
ký công dân, đăng ký thường trú cho Việt kiều trí thức hồi hương; Nhanh chóng
hoàn thiện các quy định về việc Việt kiều được mua nhà, sở hữu nhà trong nước,
đăng ký quốc tịch Việt Nam, cấp giấy xác nhận gốc Việt Nam. Hơn nữa, cần phải
tạo một môi trường tốt trong công tác nghiên cứu, giảng dạy, ứng dụng khoa học
trong các trường đại học, các viện nghiên cứu và có những chính sách đãi ngộ tốt để
thu hút Việt kiều trí thức về nước làm việc.
Thứ ba, cần nghiên cứu các quy chuẩn của hệ thống cấp thẻ làm việc đối với
lao động chuyên môn cao nước ngoài để có thể áp dụng tại Việt Nam trong tương
lai. Là một nước đi sau trong chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước
ngoài, Việt Nam cần học hỏi kinh nghiệm quốc tế trong lĩnh vực cấp thẻ làm việc đối
142
với lao động chuyên môn cao nước ngoài. Hiện nay Việt Nam mới đang dừng ở việc
cấp giấy phép lao động cho lao động chuyên môn cao nước ngoài. Hệ thống cấp thẻ
làm việc rất ưu việt, có thể giúp các nước tiếp nhận lao động (trong đó có Việt Nam)
xác định rõ những đối tượng lao động ưu tiên (theo quốc tịch, tay nghề, trình độ,
mức lương) và khiến quy trình khảo sát và sát hạch lao động chuyên môn cao nước
ngoài được chặt chẽ, tránh những lỗ hổng trong chính sách thu hút và quản lý lao
động chuyên môn cao nước ngoài. Lộ trình cấp phép thẻ có thể áp dụng theo từng
giai đoạn, tùy thuộc vào nhu cầu tuyển dụng lao động nước ngoài và trình độ phát
triển của nền kinh tế.
3.2.3.2. Những khuyến nghị chính sách mang tính chất cấp bách hiện nay
Qua nghiên cứu chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài ở
một số nước trên thế giới, đặc biệt là ở Singapore và Trung Quốc, đồng thời nghiên
cứu những vấn đề tồn tại trong thu hút và quản lý lao động chuyên môn cao nước
ngoài ở Việt Nam hiện nay, luận án đi đến những khuyến nghị chính sách như sau:
Thứ nhất, cần phải hoàn thiện thể chế chính sách cho lao động chuyên môn
cao nước ngoài ở Việt Nam.
Trước hết, cần phải hoàn thiện sớm dự thảo Luật việc làm, trong đó có nội
dung quy định về lao động nước ngoài tại Việt nam. Ngoài ra, trong việc thực hiện
Bộ luật lao động mới (5/2013), cũng rất cần phải có Nghị định hướng dẫn thi hành
Bộ luật lao động về lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Trong Bộ luật lao
động mới, cơ chế xử phạt, biện pháp cưỡng chế và xử lý lao động làm việc nước
ngoài bất hợp pháp ở Việt Nam cũng chưa tỏ rõ sự kiên quyết và triệt để, khiến các
doanh nghiệp sử dụng lao động và người lao động nước ngoài vẫn có thể lách luật.
Chính vì vậy, trong nghị định hướng dẫn thi hành Luật lao động mới, cũng cần phải
quy định nghiêm ngặt hơn về cơ chế xử phạt, cưỡng chế lao động nước ngoài vào
làm việc không tuân thủ đúng các quy định của Việt Nam.
Cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 34/2008/NĐ-CP về
tuyển dụng và quản lý người nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Vào ngày
17/6/2011, Nghị định số 46/2011/NĐ-CP đã được ban hành để sửa đổi bổ sung Nghị
định 34/2008/NĐ-CP. Tuy nhiên, Nghị định 46/2011/NĐ-CP vẫn còn những vướng
mắc khi thực hiện. Cụ thể là: pháp luật hiện hành về đấu thầu mới quy định về mời
thầu, dự thầu, chấm thầu, chưa có quy định về tổ chức thực hiện và giám sát quá
143
trình thực hiện các gói thầu hoặc dự án đã trúng thầu; cơ chế xử lý đối với nhà thầu
không thực hiện đúng quy định pháp luật Việt Nam về lao động nước ngoài khi tham
gia đấu thầu, chấm thầu. Nhiều nhà thầu nước ngoài chưa thực hiện việc kê khai
trong hồ sơ dự thầu phương án sử dụng lao động Việt Nam và lao động nước ngoài
cho dự án.Có rất nhiều trường hợp lao động nước ngoài vào Việt Nam không chuẩn
bị đầy đủ các giấy tờ để xin cấp phép lao động. Khi cơ quan chức năng phát hiện và
yêu cầu thì đưa ra nhiều lý do để trì hoãn …Hiện, nhiều lao động nước ngoài vào
Việt Nam lao động thông qua một số doanh nghiệp của Việt Nam để xin thị thực
nhập cảnh với mục đích thương mại mà không hề nêu rõ xin vào lao động. Trường
hợp này được cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài xét cấp thị
thực từ 3 đến 6 tháng. Hết thời hạn lưu trú nói trên, cơ quan quản lý xuất nhập cảnh
ở các địa phương không gia hạn vì chưa xin được giấy phép lao động thì họ đối phó
bằng cách xuất cảnh, rồi lại tiếp tục xin lại thị thực nhập cảnh vào Việt Nam. Trong
khi đó, nhiều bộ ngành liên quan vẫn chưa có văn bản hướng dẫn thực hiện vấn đề
này; một số địa phương chưa nắm chắc và đầy đủ số liệu về lao động nước ngoài
đang làm việc. Các số liệu báo cáo của địa phương chủ yếu nắm được là thông qua
công tác kiểm tra.
Hơn thế, Điều 1.3 của Nghị định 46 quy định: 30 ngày trước khi tuyển người
nước ngoài, người sử dụng lao động phải thông báo nhu cầu tuyển dụng lao động
người Việt Nam vào các vị trí công việc dự kiến tuyển người nước ngoài trên các tờ
báo Trung ương và địa phương. Khi xin cấp phép cho lao động nước ngoài, các công
ty cũng phải trình văn bản chứng minh việc đăng tin này. Điều này đồng nghĩa với
việc kéo dài qui trình tuyển dụng của công ty và làm tăng đáng kể các chi phí liên
quan đến việc tuyển dụng. Hơn nữa các quy định của Nghị định 46/2011/NĐ-CP có
thể không phù hợp với thông lệ Quốc tế trong việc các công ty nước ngoài lựa chọn
nhân viên quản lý hàng đầu tại công ty con, hoặc chi nhánh của họ tại Việt Nam.
Ngoài ra, để gia hạn giấy phép cho lao động nước ngoài, Điều 1.13 Nghị định 46 yêu
cầu công ty sử dụng lao động phải nộp bản sao hợp đồng học nghề ký kết giữa doanh
nghiệp với người lao động Việt Nam để thay thế cho vị trí công việc mà người nước
ngoài đang đảm nhiệm. Quy định này cũng mâu thuẫn với quy định của Luật Lao
động, và bất hợp lý cho các doanh nghiệp nước ngoài khi bắt buộc họ phải ký hợp
đồng học nghề với người lao động Việt Nam cho những vị trí cực kỳ quan trọng và
144
mang tính quyết định đối với doanh nghiệp. Các doanh nghiệp nước ngoài cho rằng,
việc gia hạn giấy phép lao động là điều kiện tiên quyết để lao động nước ngoài được
tiếp tục làm việc tại Việt Nam. Vì vậy, quy định này có thể được xem như một hình
thức tạo thêm trở ngại cho việc gia hạn hợp đồng làm việc các nhân viên nước ngoài
tại các công ty không ký hợp đồng học nghề với lao động Việt Nam.
Với những bất cập trên, trong thời gian tới rất cần phải tiếp tục sửa đổi, bổ
sung Nghị định 46 cho sát với tình hình thực tế, không mâu thuẫn với Luật lao động
và thông lệ quốc tế, đồng thời kiểm soát hiệu quả hơn việc tuyển dụng và quản lý lao
động chuyên môn cao nước ngoài tại Việt Nam. Hơn nữa, rất cần sự phối hợp chặt
chẽ và đồng bộ hơn nữa giữa Bộ lao động thương binh và xã hội, Bộ công thương,
Bộ công an, Bộ quốc phòng, Bộ y tế, chính quyền cấp tỉnh/thành phố, Tổng cục hải
quan… trong tuyển và quản lý lao động chuyên môn cao nước ngoài.
Thứ hai, cần tạo môi trường hấp dẫn hơn đối với lao động chuyên môn cao
nước ngoài.
Mặc dù Việt Nam đứng thứ 10 trong bảng xếp hạng của HSBC về môi trường
làm việc của các chuyên gia nước ngoài tại gần 100 quốc gia trên thế giới, nhưng
thực trạng thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài tại Việt Nam trong thời gian
qua cho thấy môi trường ở Việt Nam chưa thực sự hấp dẫn những chuyên gia nước
ngoài có tay nghề và tri thức cao. Trong cơ cấu lao động chuyên môn cao nước ngoài
ở Việt nam hiện nay, những người mang quốc tịch châu Á chiếm đa số (chủ yếu là
Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc), những người mang quốc tịch Mỹ, châu Âu
còn chiếm số ít. Môi trường chính sách hội tụ lao động kỹ năng cao là điều cần thiết
nhất để Việt nam có thể thu hút lao động thực sự giỏi trên thế giới đến Việt nam làm
việc. Trong điều kiện hiện nay, Việt Nam rất khó áp dụng hệ thống tính điểm nhập
cư như ở Australia hay New Zealand, nhưng cũng cần học tập kinh nghiệm cấp Thẻ
Xanh của Trung Quốc hay Thẻ nghề P1, P2, Q1, S của Singapore để sàng lọc lao
động chuyên môn cao nước ngoài. Hiện nay, Việt Nam mới phát thẻ tạm trú cho
chuyên gia nước ngoài và những ưu đãi đối với từng bậc chuyên gia chưa có sự khác
biệt. Nghiên cứu thực tiễn thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài của Trung
Quốc và Singapore cho thấy việc cấp thẻ nghề cho lao động chuyên môn cao nước
ngoài là một biện pháp hiệu quả, khuyến khích họ an tâm làm việc và sinh sống tại
nước sở tại.
145
Thứ ba, cần đề ra những quy định tài chính rõ ràng hơn để thu hút lao động
chuyên môn cao nước ngoài.
Cho đến nay, Việt nam chủ yếu vẫn duy trì chính sách miễn thuế cho lao động
chuyên môn cao nước ngoài. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm của một số nước (cụ thể
là Singapore), thuế là một công cụ hữu hiệu để quản lý và thu hút lao động chuyên
môn cao nước ngoài. Trong tương lai, Việt nam cần thực hiện một cơ chế thuế rõ
ràng đối với mỗi cá nhân lao động chuyên môn cao nước ngoài. Mức thuế này nên
phụ thuộc vào từng trình độ chuyên môn, kinh nghiệm làm việc, lĩnh vực làm việc để
điều tiết cho hiệu quả, hướng lao động chuyên môn cao nước ngoài vào mục tiêu
phát triển kinh tế chọn lọc của đất nước.
Thứ tư, cần hạn chế tối đa nhập khẩu lao động phổ thông trái phép để đảm
bảo sự ổn định kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước.
Trong thời gian tới, cần xác định rằng thu hút lao động chuyên môn cao nước
ngoài ở Việt nam là một xu hướng tất yếu, phù hợp với xu hướng di chuyển lao động
quốc tế hiện nay. Tuy nhiên, thực trạng xảy ra ở Việt Nam cũng như một số nước
trong khu vực cho thấy, cần phải có những chế tài xử phạt nghiêm khắc đối với lao
động phổ thông nhập khẩu trái phép vào Việt Nam. Cơ chế này phải bao gồm cả
hình phạt hình sự và hình phạt tài chính, áp dụng cho cả lao động nước ngoài bất hợp
pháp và người sử dụng lao động nước ngoài bất hợp pháp tại Việt Nam. Trong chính
sách và luật pháp quy định về lao động chuyên môn cao nước ngoài, cần phải có
những quy định rõ ràng và những chế tài xử lý nghiêm khắc đối với những đối tượng
lao động phổ thông đến từ một số quốc gia như Trung Quốc, châu Phi.
3.2.4. Các điều kiện cần thiết để áp dụng thành công bài học kinh nghiệm
và thực hiện khuyến nghị chính sách tại Việt Nam
Để áp dụng thành công các bài học kinh nghiệm của Singapore và Trung
Quốc trong thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài, đồng thời để các khuyến
nghị chính sách trên trở nên thiết thực, rất cần các điều kiện sau đây:
- Cần duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô và chuyển đổi cơ cấu kinh tế hợp lý.
- Cần đảm bảo sự ổn định xã hội và cải cách hệ thống thang lương hợp lý, đặc
biệt đối với lao động chuyên môn cao nước ngoài.
- Cần xây dựng một môi trường kinh tế cạnh tranh, có cơ chế đảm bảo rủi ro
nghề nghiệp cho đầu tư mạo hiểm và đầu tư công nghệ mới.
146
- Cần phải có chiến lược thu hút nhân tài một cách bài bản, trong đó xác định
rõ cần bao nhiêu lao động chuyên môn cao nước ngoài trong tổng lực lượng lao
động, vào những ngành nghề nào, ưu tiên lao động chuyên môn cao đến từ các
nước/khu vực nào trên thế giới.
- Cần nhanh chóng xây dựng và hoàn thiện các chính sách quản lý lao động
nhập cư, trong đó xác định rõ các kênh làm việc lâu dài hoặc tạm thời trong các
ngành nghề cụ thể đối với lao động nước ngoài.
147
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Chương 3 đi đến các kết luận cơ bản sau:
Thứ nhất, cùng với các nước trong khu vực như Singapore và Trung Quốc,
Việt Nam đã ban hành chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài và
có sự sửa đổi hoàn thiện chính sách cho phù hợp với điều kiện thực tiễn của đất nước
và xu hướng di chuyển lao động quốc tế. Tuy hệ thống chính sách thu hút lao động
chuyên môn cao nước ngoài của Việt Nam được thực hiện muộn hơn các nước như
Singapore và Trung Quốc, nhưng điều này thể hiện Việt Nam công nhận tầm quan
trọng của lao động chuyên môn cao nước ngoài trong quá trình xây dựng và phát
triển kinh tế.
Thứ hai, thực trạng lao động chuyên môn cao nước ngoài ở Việt nam đã thu
hút được những thành quả ban đầu. Tuy nhiên, những hạn chế của chính sách thể
hiện rất rõ bởi lượng lao động nhập cư bất hợp pháp vào Việt nam từ năm 2008 đến
nay ngày càng tăng với số lượng lớn. Trong luật pháp Việt Nam, lao động phổ thông
tay nghề thấp nước ngoài không được phép vào Việt Nam hoạt động bởi Việt nam là
nước đông dân, đang phải giải quyết vấn đề việc làm và thất nghiệp cho người dân
bản địa. Tuy nhiên, thực trạng lao động không phép vẫn tiếp diễn cho thấy lỗ hổng
của chính sách rất lớn và tạo ra những tác động tiêu cực đối với sự phát triển kinh tế,
xã hội, an ninh chính trị đối với Việt nam trong thời gian qua.
Thứ ba, nghiên cứu chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài
của Singapore và Trung Quốc giúp chúng ta rút ra nhiều bài học kinh nghiệm quý
báu. Bốn bài học rút ra đi kèm với cả thành công và thất bại của các nước đi trước,
được đối chiếu với tình hình thực tiễn của Việt nam để từ đó có những gợi ý ra 7
kiến nghị chính sách (trong đó có 3 kiến nghị chính sách mang tính chất lâu dài và 4
kiến nghị chính sách mang tính chất cấp bách) nhằm mục đích thu hút và quản lý lao
động chuyên môn cao nước ngoài ở Việt nam hiệu quả và đạt chất lượng cao hơn
trong tương lai.
148
KẾT LUẬN
Luận án rút ra những kết luận sau đây:
1. Chương 1 của luận án trình bày những vấn đề cơ bản nhất về lao động
chuyên môn cao nước ngoài. Mục đích của Chương 1 muốn rút ra vấn đề: di chuyển
lao động chuyên môn cao nước ngoài là một xu hướng tất yếu của di chuyển lao
động quốc tế hiện đại. Các nước tiếp nhận đều có những hệ thống chính sách hấp dẫn
để đón nhận dòng di chuyển lao động chuyên môn cao nước ngoài. Hệ thống chính
sách của các nước có sự khác nhau, nhưng đều hướng vào mục đích sàng lọc những
lao động có trình độ chuyên môn cao hơn và đem lại những tác động tích cực hơn
cho sự phát triển kinh tế xã hội trong nước do thiếu hụt nguồn cung trên thị trường
lao động. Tuy nhiên, những tác động tiêu cực của dòng lao động chuyên môn cao
nước ngoài cũng là điều không thể tránh khỏi. Châu Á đang là hiện tượng mới nổi
của dòng lao động chuyên môn cao toàn cầu, có sự phân tầng rõ rệt giữa các nước
chủ yếu xuất khẩu lao động và các nước chủ yếu tiếp nhận lao động. Việc nghiên
cứu thực trạng lao động chuyên môn cao châu Á giúp luận án có cơ sở thực tiễn tốt
hơn để giải quyết các vấn đề về chính sách thu hút lao động chuyên môn cao của
Singapore và Trung Quốc trong Chương 2.
2. Chương 2 được chia làm 4 phần và những nội dung giải quyết của Chương
2 được theo theo cách: 1) Phân tích chiều ngang: các nhân tố ảnh hưởng đến chính
sách thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài, thực trạng chính sách, thực trạng
thu hút lao động chuyên môn cao nước ngoài, tác động của lao động chuyên môn cao
nước ngoài đối với Singapore, Trung Quốc; 2) Phân tích chiều dọc: so sánh và đánh
giá. Với cách thức trình bày như trên và với những nỗ lực cố gắng phân tích đánh
giá, kết quả của Chương 2 cho thấy cả Trung Quốc và Singapore đều rất cần thu hút
lao động chuyên môn cao nước ngoài để bù đắp những thiếu hụt nguồn cung lao
động trong nước. Do hai mô hình khác nhau, trong đó Singapore là nước ít dân, chủ
yếu nhập khẩu lao động, có trình độ phát triển kinh tế và thu nhập đầu người khác
hẳn Trung Quốc, có quy mô kinh tế nhỏ bé hơn nhiều so với Trung Quốc; trong đó
Trung Quốc là nước đông dân nhất thế giới, chủ yếu là xuất khẩu lao động, Chương
2 của luận án cho thấy hệ thống chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước
ngoài của hai nước có sự khác nhau rõ ràng. Hiệu quả của chính sách thu hút lao
động chuyên môn cao của hai nước cũng khác nhau, tùy thuộc vào chính sách thực
149
thi và điều kiện dân số - kinh tế của đất nước. Chương 2 cũng phân tích các nguyên
nhân dẫn đến thành công và hạn chế trong chính sách thu hút lao động chuyên môn
cao nước ngoài của Singapore và Trung Quốc, để từ đó có những hàm ý cho những
đánh giá của Chương 3.
3. Chương 3 của luận án được chia thành 2 phần: Chính sách thu hút lao động
chuyên môn cao nước ngoài của Việt Nam; những bài học kinh nghiệm và kiến nghị
chính sách rút ra từ việc nghiên cứu chính sách thu hút lao động chuyên môn cao của
Singapore và Trung quốc. So với Trung Quốc và Singapore, chính sách thu hút lao
động chuyên môn cao nước ngoài của Việt Nam còn có nhiều hạn chế, chưa được
hoàn thiện, do vậy những kết quả mang lại còn khiếm tốn và bất cập. Kinh nghiệm
thực tiễn của Singapore và Trung Quốc và thực tiễn thu hút lao động chuyên môn
cao nước ngoài ở Việt nam cho thấy: Việt nam rất cần tham khảo những bài học
thành công và thất bại của các nước đi trước, từ đó hoàn thiện cơ chế, chính sách và
biện pháp thu hút lao động chuyên môn cao ở Việt nam trong tương lai.
4. Trong thập niên thứ hai của thế kỷ XXI, di chuyển lao động quốc tế sẽ tiếp
tục diễn ra sôi động và đa dạng về hình thức do xu thế toàn cầu hóa lan rộng. Đây là
một cơ hội và cũng là thách thức đối với các nước đang phát triển tiếp nhận dòng lao
động nước ngoài chất lượng cao. Lao động chuyên môn cao nước ngoài có những tác
động tích cực, đi kèm những tác động tiêu cực đối với nước tiếp nhận và thực tiễn
nghiên cứu kinh nghiệm của Trung Quốc và Singapore cho ta thấy rõ điều đó. Đối
với Viêt Nam, tuy là nước đông dân, chủ yếu hướng về xuất khẩu lao động, nhưng
việc tiếp nhận lao động chuyên môn cao nước ngoài ra rất cần thiết và tất yếu để bổ
sung thiếu hụt trên thị trường lao động trong nước, tiếp thu tri thức và chất xám từ
bên ngoài, từ đó nâng cấp năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Tuy nhiên, trong quá
trình hoạch định và vận dụng chính sách thu hút lao động chuyên môn cao nước
ngoài, chúng ta cần phải xem xét chính sách này trong một khung tổng thể các chính
sách vĩ mô và thị trường lao động, để từ đó có những biện pháp đồng bộ, khơi thông
được hiệu quả của dòng lao động chuyên môn cao nước ngoài, đồng thời hạn chế tối
đa những tác động tiêu cực đối với quá trình phát triển kinh tế, chính trị, an ninh và
xã hội của Việt Nam.
150
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Quốc Anh (2008), Những điều cần biết và người lao động di trú, NXB
Hồng Đức, Hà Nội.
2. Lại Lâm Anh, Nguyễn Minh Phương (2010), Chính sách thu hút lao động
chuyên môn cao nước ngoài của Trung Quốc, Tạp chí Những vấn đề Kinh tế
và Chính trị Thế giơi, Số7(171), Tháng 7-2010.
3. Lan Anh (2010), Singapore: đánh cược vào khoa học công nghệ, Tạp chí tia
sáng, 16/6/2010.
4. Bùi Quảng Bạ (1996), Đổi mới và hoàn thiện pháp luật trong quản lý nhà
nước đối với người nước ngoài ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ luật học.
5. Nguyễn Thị Hồng Bích (chủ biên, 2007), Xuất khẩu lao động của một số
nước Đông Nam Á: kinh nghiệm và bài học, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
6. Ôn Gia Bảo (2012), Khai mạc phiên họp Đại hội Đại biểu Nhân dân toàn
quốc Trung Quốc, Theo http://gafin.vn/20130306114525180p32c66/nhung-
thanh-tuu-cua-kinh-te-trung-quoc-5-nam-qua.htm
7. Chính phủ (2003), Nghị định của chính phủ số 105/2003/NĐ-CP ngày
17/9/2003 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật lao
động về tuyển dụng và quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam, Hà
Nội.
8. Chính phủ (2005), Nghị định số 93/2005/NĐ-CP ngày 13/7/2005 của chính
phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 105/2003/NĐ-CP của
chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật lao
động về tuyển dụng và quản lý lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam, Hà
Nội.
9. Chính phủ (2008), Nghị định số 34/2008/NĐ-CP của chính phủ ngày
25/3/2008 quy định về tuyển dụng và quản lý người nước ngoài làm việc tại
Việt Nam, Hà Nội.
10. Văn Đan (2009) Chính sách chiêu mộ nhân tài là Hoa Kiều của Trung Quốc,
Báo công an nhân dân ngày 28/9,
http://antg.cand.com.vn/News/PrintView.aspx?ID=53160
151
11. Lê Thị Hồng Điệp (2009), Kinh nghiệm trọng dụng nhân tài để hình thành
nền kinh tế tri thức của một số quốc gia châu Á và những gợi ý cho Việt Nam,
Tạp chí khoa học ĐHQGHN, kinh tế và kinh doanh 25, p54-61.
12. Nguyễn Đại Đồng (2010), Thực trạng cung cầu lao động và giải pháp, Tạp
chí lao động và xã hội, số 381, tr 15-16.
13. Trần Hữu Dũng (2005), Vài nhận xét mới về chảy máu chất xám, Tạp chí Tia
sáng, 5/12/2005.
14. Văn Đình (2013), Dân số lão hóa, quả bom nổ chậm ở Trung Quốc, Báo kiến
thức, 7/2, http://kienthuc.net.vn/nong-sau/201302/dan-so-lao-hoa-qua-bom-
no-cham-o-Trung-Quoc-895257/
15. Phạm Quang Diệu (Biên dịch) (2004), Trung Quốc với chiến lược cường quốc
nhân tài.
16. Trần Kim Dung, Phó thị Kim Chi (2009), Dự báo cung cầu thị trường lao
động Việt Nam, Tạp chí kinh tế và dự báo, số 6, tr9-12.
17. Khimija i Zhizn (2002), Đánh giá trình độ khoa học công nghệ của các nước,
http://www.vysajp.org/news/tin-ngoai/khoa-hoc-giao-duc/danh-gia-trinh-
d%E1%BB%99-phat-tri%E1%BB%83n-khoa-h%E1%BB%8Dc-
c%E1%BB%A7a-cac-n%C6%B0%E1%BB%9Bc/
18. Nguyễn Bình Giang (2011), Di chuyển lao động quốc tế, NXB Khoa học xã
hội, Hà Nội.
19. Lê Thanh Hà (2008), Quan hệ lao động trong hội nhập kinh tế quốc tế, NXB
lao động xã hội, Hà Nội.
20. Lê Hồng Huyên (2009) ,Tác động của di chuyển lao động quốc tế đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế, Viện
Nghiên cứu Phát triển thành phố Hồ Chí Minh.
21. HSBC (2012), Các chuyên gia nước ngoài giàu có đổ về khu vực Đông Nam
Á, News Release, 11/10/2012.
22. Hoàng Kim (2012), Singapore – con hổ châu Á duy trì tốc độ tăng trưởng,
http://e-info.vn/vn/index.php/tieu-diem/78371-singapore-con-
h%E1%BB%95-ch%C3%A2u-%C3%A1-duy-tr%C3%AC-t%E1%BB%91c-
%C4%91%E1%BB%99-t%C4%83ng-tr%C6%B0%E1%BB%9Fng.html
152
23. Phạm Ngọc Linh và Nguyễn Thị KimDung (2008), Kinh tế phát triển, NXB
Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội.
24. Mai Lan (2011), Chuyên viên kỹ thuật ngày càng thiếu, Tuần Việt Nam,
11/9/2011.
25. Hà Minh (2008), Chính sách thu hút nhân tài của Singapore: bài bản và
chuyên nghiệp, theo dân trí 24/1/2008.
26. Minh Trung (2005), Chính sách thu hút nhân lực có trình độ cao ở Bình
Định: Còn nhiều vướng mắc, Báo Bình Định
http://www.baobinhdinh.com.vn/chinhtri-xahoi/2005/12/19891/
27. Nhật Minh (2010), Kinh tế Trung Quốc chính thức trở thành số 2 thế giới,
Vnexpress.net, 14/2/2011.
28. Bình Nguyên (2011), Singapore và cuộc chiến toàn cầu về tài năng, Bản tin
số 149, VTVTC.
29. Vũ Nguyên (2010), Chuyên gia ở Bình Dương phải thuê nhà ở TP Hồ Chí
Minh, Sài gòn tiếp thị, 2/7/2010.
30. Đức Phường (2007) , Các công ty ở Trung Quốc săn lùng nhân tài, theo Asia
Times. (http://www.tiasang.com.vn)
31. Tại sao Trung Quốc thiếu những thương hiệu toàn cầu?
http://www.vmi.edu.vn/news/pid/81/search/page/2/id/288
32. Hà Thanh (2010), TP Hồ Chí Minh có hơn 2.500 doanh nghiệp Việt kiều,
http://www.tin247.com/tp_hcm_co_hon_2500_doanh_nghiep_viet_kieu-3-
21778027.html
33. Thiếu nhân tài – nỗi ám ảnh của thị trường lao động Trung Quốc,
http://www.hockynang.com/home/tutorials-detail/870/thieu-nhan-tai-noi-am-
anh-cua-thi-truong-lao-dong-trung-quoc.html
34. Hoàng Anh Tuấn (2013), Để nguồn trí thức Việt kiều không mãi là tiềm năng,
Thông tấn xã Việt Nam, 19/6/2013.
35. Tổng cục thống kê (2012), Báo cáo điều tra lao động và việc làm Việt Nam
2011, Hà Nội.
36. Nguyễn Viết (2008), Trung Quốc – 30 năm với những thành tựu cải cách,
Dân trí.com
153
37. WEF (2006-2012), Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu, các năm 2006 đến
2012
B. Tiếng Anh:
38. Andres Solimano, Molly Pollack (2004), International mobility of the highly
skilled: the case between Eurrope and Latin America, Working Papers, No 1,
Santiago, Chile.
39. Brenda S.A.Yeoh (2012), Migration and divercities: challenges and
possibilities in global-city Singapore, National University of Singapore.
40. Brenda S.A.Yeoh và Weiqiang Lin (2012), Rapid growth in Singapore’s
immigrant population brings policy challenges, Theo Migration Information
Source, April.
41. CIA (2011), Distribution of family income - Gini Index", Retrieved 15 August
2012.
42. Chan Chi Ling (2011), A New nation of immigrants? Challenges and
opportunities posed by Singapore’s population growth, ESS essay
competition 2010/2011.
43. Chia Siow Yue (2011), Foreign labour in Singapore: trends, policies, impacts
and challenges, Discussion paper series No 2011-2014, Philippine
44. Economist Intelligence Unit (2012), Skilled labour shortfalls in Indonesia, the
Philippines, Thailand and Vietnam, British council, June.
45. Friedberd, Rachel and Hunt, Jennifer (1999), Immigration and the receiving
economy, The handbook of international migration, Hirschman, Charles, al.
editors, Russell Sage foundation, New York.
46. Graeme Hugo (2005), Migration in the Asia-Pacific Region, Global
Commission on international migration (GCIM), September.
47. Housing Development Board, Resale Price Index, accessible at
http://www.hdb.gov.sg/fi10/fi10321p.nsf/w/BuyResaleFlatResaleIndex?Open
Document
48. Huiyao Wang (2012), China’s competition for global talents: strategy, policy
and recommendations, Asia Pacific Foundation of Canada, May 24.
154
49. ISCED (1997), International Standard Classication of Education, UNESCO,
Paris.
50. Jonathan Chaloff and George Lamaitre (2009), Managing highly skilled
labour migration: a comparative analysis migration policies and challenges in
OECD countries, OECD social, employment and migration working paper No
79.
51. Jonathan Chaloff and George Lamaitre (2009), Managing highly skilled
labour migration: a comparative analysis migration policies and challenges
in OECD countries, OECD social, employment and migration working paper
No 79.
52. Karine Lisbonne de Vergeron (2012), China’s strengths and weaknesses,
European Issues, No 234, 3rd April.
53. Katz và Stark (1986), Labour migration and risk aversion in less developed
countries, Journal of labor economics 4:131-149
54. Koji Nomura and Tomomichi Amano (2012), Labour productivity and quality
change in Singapore: achievement in 1974-2011 and prospects for the nex
two decade, KEO discussion papers No 129, Japan.
55. Kris Terauds (2008), Singapore’s structural dependence on foreign talent:
causes and consequences, Graduate institute of international and development
studies, Geneva, Switzarland.
56. Lee Kuan Yew, Straits Times 14/2/2008, page 7.
57. Lewis w.Arthur (1954), Economic developement with unlimited supplies of
labour, The Manchester School of economic and social studies, 22:139-191.
58. Mark c.Regrets (2001), Research and policy in high skilled international
migration: a perspective with data from United States, National Science
Foundation, USA.
59. McKinsey & Company (2005), Addressing China’s looming talent shortage,
McKinsey Global Institute, October.
60. Mui Teng Yap (2005), Fertility and population policy: the Singapore
experience, Journal of population and social security, Singapore
61. Nana Oishi (2012), Highly skilled migration and competitiveness: sciences &
engingeering sectors in Japan, Sophia University.
155
62. OECD (2001), International mobility of highly skilled, OECD Publication,
France.
63. OECD (2002), The international flow of high tech personnel, OECD policy
overview 2002, Paris
64. OECD (2012), International migration outlook 2012
65. OECD (2012), International migration database, 2012.
66. OECD (2008), World migration report 2008, chapter 2,
67. Piore (1979), Birds of passage: migrant labour in industrial societies,
Cambridge University press.
68. Ranis, Gustav and Fei (1961), A theory of economic development, American
Economic Review 51:533-565.
69. Todaro (1976), Internal migration in developing countries, Geneva, ILO.
70. Shandre Mugan Thangavelu (2012), Economic growth, welfare and foreign
workers: case of Singapore, National University of Singapore.
71. Sjaasted (1962), The costs and returms of human migration, Journal of
political economy, 70:80-93.
72. Stark và Levhari (1982), On migraton and risks in LCDs, Economic
Development and Cultural change 31: 191-196.
73. Takao Komine (2012), A Long-term forecast of demographic transition in
Japan and Asia, Hosei University
74. The Straits Times, From Value to Values, 17 May 2011
75. Wang Huiyao (2011), China’s National Talent plan: key mearsures and
objectives, Brookings.
76. Washington Post (2009), Looming population crisis forces China to revisit
one child policy, 12/12/2009.
77. Wolff E (1996), Technology and the demand for Skill, STI Review No 18,
OECD, Paris.
78. Yap and Shantankumar (2008), Singapore: demographic trends and social
security, Singapore for the future, World Scientific.
79. Zhao Litao and Zhu Jinjing (2010), China’s talent schemes:initiation from
central to local government, National University of Singapore.
156
80. Zlotnik (1999), Trends of international migration since 1965 what exiting
data reneval, International Migration, 37:21-69.
81. Zy William R.Kerr (2008), Economic Impacts of Immigration: a Survey,
Havard business school, Working Paper 09-013.