intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Chủ nghĩa cộng sản

Chia sẻ: Nguyen AAA | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:39

118
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài này nói về chủ nghĩa cộng sản như một hình thái xã hội và như một phong trào chính trị.. Chủ nghĩa cộng sản (gốc tiếng Latin: commūnis - chung), là một cấu trúc kinh tế xã hội và hệ tư tưởng chính trị ủng hộ việc thiết lập một xã hội phi nhà nước, không giai cấp, bình đẳng, dựa trên sự sở hữu chung và điều khiển chung đối với các phương tiện sản xuất và tài sản nói chung.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Chủ nghĩa cộng sản

  1. Chủ nghĩa cộng sản Bài này nói về chủ nghĩa cộng sản như một hình thái xã hội và như một phong trào chính trị.. Chủ nghĩa cộng sản (gốc tiếng Latin: commūnis - chung), là một cấu trúc kinh tế xã hội và hệ tư tưởng chính trị ủng hộ việc thiết lập một xã hội phi nhà nước, không giai cấp, bình đẳng, dựa trên sự sở hữu chung và điều khiển chung đối với các phương tiện sản xuất và tài sản nói chung.[1][2][3] Karl Marx cho rằng chủ nghĩa cộng sản sẽ là giai đoạn cuối cùng của xã hội loài người, đạt được qua một cuộc cách mạng vô sản. "Chủ nghĩa cộng sản thuần túy" theo thuyết của Marx nói đến một xã hội không có giai cấp, không có nhà nước và không có áp bức, mà trong đó các quyết định về việc sản xuất cái gì và theo đuổi những chính sách gì được lựa chọn một cách dân chủ, cho phép mọi thành viên của xã hội tham gia vào quá trình quyết định ở cả hai mặt chính trị và kinh tế. Việc sản xuất và phân phối của cải được tiến hành công bằng giữa các công dân. Trong vai trò một hệ tư tưởng chính trị, chủ nghĩa cộng sản thường được xem là một nhánh chính của chủ nghĩa xã hội; một nhóm lớn học truyết triết học về chính trị và kinh tế được rút ra từ nhiều phong trào chính trị và tri thức với nguồn gốc từ các tác phẩm của các nhà lý thuyết của Cách mạng Công nghiệp và Cách mạng Pháp.[4] Nhánh kia là là các đảng Dân chủ xã hội hiện có nhiều ảnh hưởng tại Tây Âu và Bắc Âu. Do cùng chia sẻ học thuyết Marx, các đảng cộng sản và Dân chủ xã hội thường có quan hệ đồng minh với nhau thành một lực lượng chung được gọi là cánh tả.
  2. Chủ nghĩa cộng sản cố gắng đưa ra một giải pháp khác cho các vấn đề của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và di sản của chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa dân tộc. Marx khẳng định rằng cách duy nhất để giải quyết các vấn đề này là tầng lớp lao động (vô sản), những người mà theo Marx là lực lượng chính tạo ra của cải vật chất trong xã hội và là những người bị tầng lớp tư bản (tư sản) bóc lột, đứng lên làm tầng lớp cầm quyền thay cho giới tư bản để thiết lập một xã hội tự do, không phân biệt giai cấp hay chủng tộc.[2] Những hình thức nổi bật của chủ nghĩa cộng sản, chẳng hạn như Chủ nghĩa Lenin, Chủ nghĩa Stalin, Chủ nghĩa Mao và Chủ nghĩa Trosky, đều có nền tảng là Chủ nghĩa Marx. Tuy nhiên, chủ nghĩa cộng sản cũng có những phiên bản khác không liên quan đến chủ nghĩa Marx, chẳng hạn Chủ nghĩa cộng sản Thiên chúa giáo và Chủ nghĩa cộng sản vô chính phủ (anarcho-communism). Karl Marx chưa bao giờ miêu tả chi tiết về việc chủ nghĩa cộng sản sẽ vận hành như thế nào trong vai trò một hệ thống kinh tế, nhưng người ta hiểu rằng một nền kinh tế cộng sản chủ nghĩa sẽ bao gồm sự sở hữu toàn dân đối với các tư liệu sản xuất, đưa đến sự phủ nhận khái niệm về quyền tư hữu tư bản đối với các tài nguyên và nhân lực, cái được coi là tư liệu sản xuất trong thuật ngữ của chủ nghĩa Marx. Khác với chủ nghĩa xã hội - một chủ thuyết tương thích với kinh tế thị trường, một nền kinh tế cộng sản chủ nghĩa được lập kế hoạch một cách dân chủ ở mức địa phương hoặc cộng đồng.[cần dẫn nguồn] Chủ nghĩa Marx- Lenin là một hình thái của chủ nghĩa cộng sản, bên cạnh đó nhiều người phân tích các hình thái của chủ nghĩa cộng sản bao gồm chủ nghĩa Marx, chủ nghĩa Lenin, chủ nghĩa Stalin, chủ nghĩa Mao, chủ nghĩa Trotsky, chủ nghĩa Tito, chủ nghĩa Castro, học thuyết Đặng Tiểu Bình, học thuyết chủ thể (Kim Nhật
  3. Thành), chủ nghĩa cộng sản Thiên chúa giáo, chủ nghĩa cộng sản vô chính phủ... Các khái niệm như Chủ nghĩa Bolshevik cũng được nhắc đến. Lịch sử Chủ nghĩa cộng sản là một khái niệm rộng cần phải được hiểu như một tổng hợp các lý luận (chính trị, kinh tế, xã hội), tư tưởng, tâm lý và thực tế thể hiện, các hình thức tồn tại... của một phong trào xã hội rộng lớn - bắt đầu từ thế kỷ 19, nở rộ và bắt đầu suy tàn trong thế kỷ 20 - nhằm xóa bỏ hình thái kinh tế-xã hội của chủ nghĩa tư bản để xây dựng một xã hội không giai cấp, không có quyền tư hữu đối với tư liệu sản xuất. Trong đó mọi người là bình đẳng, không có hiện tượng "người bóc lột người" và tiến tới xóa bỏ nhà nước trong một tương lai "thế giới đại đồng" khi người với người là bạn, thương yêu lẫn nhau và tại đó năng suất lao động tăng lên rất cao, của cải làm ra đồi dào tới mức phân phối của cải theo nguyên tắc: "Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu". Theo như lý luận của các nhà kinh điển của chủ nghĩa này thì chủ nghĩa xã hội là giai đoạn đầu tiên của chủ nghĩa cộng sản. Thuật ngữ này được nêu ra lần đầu tiên bởi Lê-nin, là giai đoạn chuyển tiếp đi lên chủ nghĩa cộng sản mà ở đó vẫn còn nhà nước để lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Tại đó vẫn tồn tại đan xen các nhân tố, hình thức sở hữu của chủ nghĩa tư bản với chủ nghĩa cộng sản, nguyên tắc phân phối của cải trong chủ nghĩa xã hội là "Làm theo năng lực, hưởng theo lao động".[cần dẫn nguồn] Ý tưởng ban đầu của chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa xã hội là chủ nghĩa nhân đạo, là phương tiện để giải phóng con người và xã hội. Vì lý tưởng nhân đạo của nó, chủ nghĩa này đã thu hút được sự chú ý của các tầng lớp quần chúng của thế giới trong thế kỷ 20, tạo nên một phong trào xã hội to lớn mà cuộc đấu tranh của
  4. nó là một nhân tố chủ đạo trong lịch sử loài người trong thế kỷ 20.[cần dẫn nguồn]. Tuy vậy, xã hội cộng sản chủ nghĩa không còn nhà nước, quân đội, tư hữu, giai cấp, tôn giáo, xóa bỏ các mâu thuẫn sắc tộc đến nay vẫn chỉ là lý tưởng đẹp, chưa trở thành hiện thực.[cần dẫn nguồn] Cuộc đấu tranh giữa hai hình thái "tư bản" và "chủ nghĩa xã hội" là cuộc đấu tranh khốc liệt của nhân loại trong thế kỷ 20. Ban đầu vì sự mới mẻ của ý tưởng và vì những yếu tố chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học kỹ thuật đặc trưng của thời kỳ đó mà chủ nghĩa xã hội đã thắng thế trên phạm vi lớn trên toàn cầu. Cuộc đấu tranh của hai phe là nguyên nhân chính của các sự kiện trên thế giới. Trong quá trình phát triển của mình, chủ nghĩa tư bản đã thích nghi được với những thách thức của thời đại và đã vượt lên được đối thủ và hiện đang giành được ưu thế trên thế giới.[cần dẫn nguồn]. Tuy nhiên ở một khía cạnh khác, sự xuất hiện của các phong trào Cộng sản đã tạo áp lực buộc các quốc gia Tư bản phải có các biện pháp tự điều chỉnh để giảm bớt đối kháng xã hội như tăng lương, giảm giờ làm, mở rộng an sinh xã hội, công hữu hóa một số lĩnh vực kinh tế... Do vậy có thể nói chính chủ nghĩa xã hội đã tác động lại, thay đổi tự bản thân chủ nghĩa tư bản, dung hòa một phần các yếu tố tiến bộ của chủ nghĩa xã hội vào trong lòng nó. Một trong những minh chứng cho thấy sự dung hòa của 2 lực lượng này là quá trình tư hữu hóa tư liệu sản xuất, phát triển các mô hình kinh tế tư bản chủ nghĩa đa dạng ở một loạt các quốc gia trên thế giới, trong đó có cả các quốc gia theo chủ nghĩa xã hội. Ngược lại, ở các quốc gia tư bản cũng xuất hiện một số hình thức công hữu, như các công ty nhà nước hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ công cộng. Đặc biệt là sự phát triển của hình thức công ty cổ phần tại các nước tư bản, mà theo Mác nhận xét: “Trong công ty cổ phần, chức năng đã tách khỏi quyền sở hữu tư bản, lao động cũng đã hoàn toàn tách khỏi quyền sở hữu tư liệu sản xuất và quyền
  5. sở hữu lao động thặng dư. Kết quả sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển đến cực độ là điểm quá độ phải trải qua, đề tư bản lại chuyển hoá thành sở hữu của người sản xuất, song lúc đó nó không còn là tài sản tư hữu của từng người sản xuất riêng lẻ, mà là tài sản chung của những người cùng sản xuất, là tài sản xã hội trực tiếp”. [5] . Nói ngắn gọn, Công ty cổ phần ra đời khiến sự phát triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa đã xuất hiện nhân tố xã hội chủ nghĩa. Đặc điểm khác biệt của chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa cộng sản là chủ nghĩa xã hội chỉ đạt mục đích tư liệu sản xuất thuộc về toàn dân thông qua Nhà nước quản lý, (hay hình thức sở hữu tập thể hoặc sở hữu xã hội hóa), không hướng đến sự xóa bỏ Nhà nước, trong khi đó mục tiêu của chủ nghĩa cộng sản là xóa bỏ Nhà nước. Chủ nghĩa Marx- Lenin là một trường phái của chủ nghĩa cộng sản với mục tiêu hướng đến chủ nghĩa cộng sản, thường được xem là do Stalin đặt ra (những người Đệ tứ lại cho Stalin không theo chủ nghĩa Marx-Lenin). Những người cộng sản Thiên Chúa giáo không chịu ảnh hưởng của Marx vì họ không dựa trên nền tảng của chủ nghĩa duy vật, vô thần.[cần dẫn nguồn] Các đảng cộng sản ở phương Tây ngày nay vẫn có lập trường tiến đến chủ nghĩa cộng sản, nhưng tham gia nền dân chủ đại nghị, giành quyền qua các cuộc tổng tuyển cử, không sử dụng các biện pháp cách mạng và xây dựng nhà nước nhất nguyên chính trị. Các đảng Dân chủ xã hội Tây Âu (là các đảng tách ra phong trào cộng sản - khi đó được gọi là phong trào xã hội chủ nghĩa - từ Quốc tế II, từ công nhận phần lớn lý thuyết của chủ nghĩa cộng sản nhưng không ủng hộ biện pháp cách mạng, đến chỗ chịu ảnh hưởng rất ít hoặc không) mà nhiều đảng trong số đó đã và đang nắm quyền tại nhiều nước Tây Âu (tiêu biểu như Thụy Điển, Phần Lan, Đan Mạch...) Phong trào theo Marx bị chia tách hai lần lớn là sự tan vỡ của Quốc tế I, sau đó là Quốc tế II, dẫn đến thành lập Quốc tế III (theo chủ nghĩa cộng sản), sau đó chia rẽ
  6. bởi xuất hiện Quốc tế IV. Bản thân phong trào Quốc tế III sau cũng bị chia rẽ, một số theo Mao, một số lựa chọn khác như Nam Tư,... Các lý thuyết xã hội chủ nghĩa kiểu Mỹ latinh hay châu Phi, Lybia... không chịu ảnh hưởng của Marx. Theo phương pháp luận của Marx (duy vật lịch sử) thì khi xóa bỏ giai cấp và tư hữu, thì Nhà nước tự diệt vong, vì cơ sở tồn tại của nó là tư hữu và giai cấp không còn nữa. Lúc đó chế độ cộng sản được xây dựng dựa trên nền tảng sở hữu cộng sản và làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu. Nhiều nhà khoa học khác thì cho rằng xã hội cộng sản chỉ tồn tại trong giai đoạn nguyên thủy, và cho phương pháp luận của Marx là "sai lầm", rằng văn minh loài người không thể tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Họ là những người theo chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa kinh nghiệm, chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa thực chứng, thực nghiệm, chủ nghĩa duy lý..., những người áp dụng đa nguyên luận giải thích các hiện tượng xã hội. Những người bảo thủ cho rằng lý tưởng xã hội cộng sản là trên tinh thần "duy lý", không có sơ sở. Nhiều người cho lý tưởng cộng sản là sản phẩm của chủ nghĩa lãng mạn... Những người dân chủ xã hội ủng hộ cho "dân chủ" (hay "dân chủ tư sản") và "cải cách" để đạt các mục tiêu "xã hội chủ nghĩa" thay vì cách mạng và hướng đến tự do tuyệt đối trong lý thuyết cộng sản. Những người vô chính phủ không tin tưởng vào bất kỳ một dạng chính phủ nào, nhưng để đạt được "tự do tuyệt đối" (cho dù là cộng hữu hay tư hữu) thì phải thông qua con đường khác. Những người công đoàn không tin tưởng nhà nước mà muốn đặt sự quản lý xã hội vào tay công đoàn. Những người dân tộc chủ nghĩa không tin vào thế giới đại đồng. Một số lý thuyết gia bác bỏ tư hữu tư sản, nhưng chủ trương chia nhỏ tư hữu, thay vì công hữu... Ý nghĩa lịch sử của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản  Chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa xã hội đã có một vai trò rất to lớn trong tiến trình phát triển của tri thức nhân loại: vai trò của một cuộc thí nghiệm
  7. xã hội lớn lao. Sau cuộc thí nghiệm này nhân loại đã thu được các kinh nghiệm và tri thức cực kỳ to lớn; đã từ bỏ được sự "lãng mạn cách mạng" và các kinh nghiệm xử lý với các thách thức lớn của xã hội. Các giai tầng xã hội đã không còn dễ bị kích động bởi các ý tưởng có tính cực đoan, xã hội hướng đến cách giải quyết các mâu thuẫn bằng con đường phi bạo lực. Tuy phe xã hội chủ nghĩa thất bại, tan rã nhưng những bài học xương máu của sự thất bại này đem lại cho nhân loại một cái nhìn sâu rộng hơn về chủ nghĩa cộng sản.[cần dẫn nguồn]  Lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản là đối trọng để chủ nghĩa tư bản tự điều chỉnh, học hỏi để xây dựng một xã hội công bằng hơn, dân chủ hơn, ổn định hơn và trở nên tốt đẹp hơn để được xã hội loài người chấp nhận. Từ chủ nghĩa tư bản với sự tự do bóc lột - "Người với người là chó sói" (Lenin) - và đầy rẫy bất công tạo ra mầm mống của bạo động và cách mạng, thế giới cũ đã tìm các cách thích nghi và triển khai một xã hội dân sự mà trong đó mọi thành phần xã hội đều có thể phát triển hoặc có cơ hội phát triển ngang nhau, các mâu thuẫn xã hội không thể đã hết nhưng đã có những cơ chế thỏa hiệp để giải quyết trên cơ sở hợp lý cho các giai tầng xã hội. Đây là một đóng góp gián tiếp rất lớn của chủ nghĩa xã hội. Sự hình thành chủ nghĩa xã hội cũng đã làm chủ nghĩa thực dân cổ điển sụp đổ, khiến chủ nghĩa tư bản phải thay đổi để không còn bóc lột một cách trực diện như trước đây nữa (xem tại chủ nghĩa thực dân mới).[cần dẫn nguồn]  Trong lịch sử mấy chục năm tồn tại của mình các nhà nước tiêu biểu của chủ nghĩa xã hội đã triển khai một số các biện pháp kinh tế chính trị xã hội mà ngày nay đã được áp dụng một cách hợp lý sau khi loại bỏ đi những hạt nhân phi hợp lý.[cần dẫn nguồn] Các ví dụ như vậy rất nhiều như: kế hoạch hóa kinh tế
  8. ở tầm vĩ mô, dồn nguồn lực quốc gia cho những dự án lớn có tính quan trọng sống còn hoặc cung cấp các dịch vụ công mà tư nhân không đảm đương nổi hoặc không muốn tham gia do khó thu lợi nhuận, thiết lập hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, an sinh xã hội, phổ cập giáo dục và đào tạo ở mức độ quốc gia, các kinh nghiệm về quốc hữu hóa, vai trò của kinh tế quốc doanh trong nền kinh tế... đó là những đóng góp của chủ nghĩa xã hội mà các nước tư bản đã học hỏi rút kinh nghiệm và điều chỉnh để hoàn thiện hệ thống quản lý nhà nước.  Một số đảng cộng sản đã lãnh đạo dân tộc giành lại độc lập khỏi chủ nghĩa thực dân theo luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lenin bằng đấu tranh vũ trang cách mạng (lý thuyết của Lenin bị một số nước phương Tây coi là ý đồ của Liên Xô hòng làm cách mạng vô sản thế giới). Thực tế là lý thuyết của Lenin đã thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, dù còn nhiều tranh cãi chủ nghĩa dân tộc là con đường để thực hiện chủ nghĩa cộng sản (chủ nghĩa đại đồng) hay chủ nghĩa cộng sản là con đường để thực hiện chủ nghĩa dân tộc...  Chủ nghĩa cộng sản có nỗ lực góp phần quan trọng đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, đưa đến sự sụp đổ của các nhà nước phát xít trước đây (sự ra đời của chủ nghĩa phát xít hiện gây nhiều tranh cãi, là sản phẩm lỗi của chủ nghĩa tư bản, hay sự tất yếu của chủ nghĩa đế quốc; và cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít của những người cộng sản có còn nhằm mục đích mở rộng chủ nghĩa cộng sản). Nhiểu ý kiến ở phương Tây cho rằng chủ nghĩa phát xít xuất hiện là phản ứng đối phó trước sự phát triển của chủ nghĩa cộng sản, chuyên chính tư sản chống lại chuyên chính vô sản, hay là chủ nghĩa dân tộc cực đoan chống lại chủ nghĩa đại đồng xóa bỏ ranh giới quốc gia,
  9. nhưng cũng có ý kiến cho rằng nó không phải là chuyên chính tư sản vì bản thân trong các lý thuyết của chủ nghĩa phát-xít không hướng đến bảo vệ lợi ích tư sản và nó có khả năng lấy lòng kể cả những tầng lớp thấp nhất trong xã hội (như lý thuyết của đảng Quốc xã Đức xây dựng "chủ nghĩa xã hội" kiểu Đức). Sự phát triển của chủ nghĩa cộng sản và các tư tưởng đối nghịch Thông tin trong bài này không thể kiểm chứng được do không được chú giải từ bất kỳ nguồn tham khảo nào. Xin bạn hãy cải thiện bài viết này bằng cách bổ sung chú thích tới các nguồn uy tín. Nếu bài được dịch từ Wikipedia ngôn ngữ khác thì hãy chuyển nguồn tham khảo từ phiên bản đó cho bài này. Ra đời trong lòng chủ nghĩa tư bản và cách mạng kỹ nghệ thế kỷ XIX, chủ nghĩa cộng sản có một sức hấp dẫn đối với các tầng lớp dưới trong xã hội và cả những người nhân đạo. Phong trào công nhân có sự phát triển mạnh mẽ buộc chủ nghĩa tư bản phải cải cách để tồn tại. Sự phân hóa trong hàng ngũ những người theo chủ nghĩa Marx dẫn đến sự tan vỡ của Đệ nhất và sau đó là Đệ nhị quốc tế. Xuất phát từ hoàn cảnh của xã hội Nga, Lenin bổ sung lý luận của Marx, tuyên truyền rộng rãi chủ nghĩa cộng sản vào phương Đông. Nhiều đảng cộng sản tham gia các phong trào giải phóng dân tộc gắn với lý tưởng cộng sản, chống phong kiến, địa chủ, tư sản, đưa ra các chính sách cải cách ruộng đất, quốc hữu hóa tài nguyên thiên nhiên, nhà máy công xưởng. Sau đại chiến thế giới lần thứ hai hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa (các nước phương Tây gọi là các nước cộng sản) hình thành. Phong trào cộng sản lan rộng ra
  10. cả Mỹ Latin, châu Phi... Nhiều đảng chịu ảnh hưởng của Stalin hay Mao Trạch Đông (không kể các đảng của nhóm Đệ Tứ). Trong khi đó nhiều đảng (phần lớn ở phương Tây) bị xem là theo chủ nghĩa xét lại. Tuy nhiên sự phân hóa lớn nhất giữa những người cộng sản (Đệ Tam) là những người theo Liên Xô và những người theo Trung Quốc. Tình trạng này tồn tại cho đến khi Liên Xô sụp đổ. Sau khi Liên Xô sụp đổ, nhiều đảng cộng sản trên thế giới giải tán, phần lớn những người cộng sản cũ thành lập các đảng dân chủ xã hội, một số đảng viên cũ gia nhập các đảng tự do, bảo thủ hay dân chủ Thiên chúa giáo hoặc các nhóm hệ tư tưởng khác. Một số kiên định theo chủ nghĩa cộng sản nhưng đường lối hoạt động không khác mấy với các đảng dân chủ xã hội, đấu tranh nghị trường. Do ảnh hưởng của định kiến với các chế độ của Liên Xô và Đông Âu trước đây, đa phần các đảng cộng sản ở các nước này chỉ thu được một lượng nhỏ cử tri ủng hộ trong các cuộc bầu cử. Tuy nhiên một số đảng cộng sản do khai thác bất mãn của dân chúng đối với các chính sách kinh tế tự do gây bất bình đẳng xã hội, trở lại cầm quyền dù chỉ áp dụng rất ít các lý thuyết cộng sản ban đầu. Nhiều đảng gắn với các tổ chức công đoàn, đấu tranh bảo vệ quyền lợi công nhân, đấu tranh chống phân biệt chủng tộc, bình đẳng giới.v.v. Nhiều phong trào du kích cộng sản cũng tan vỡ, hoặc hòa giải chính quyền và có địa vị hợp pháp. Một số quốc gia có Đảng Cộng sản cầm quyền điều chỉnh các chính sách kinh tế xã hội, tiếp tục nắm độc quyền lãnh đạo. Nhiều Đảng Cộng sản và phong trào cánh tả khác thì lại đang manh nha phát triển tại những khu vực mới như Nam Mỹ. Về cơ bản hầu hết các nhà lý luận đều đánh giá chủ nghĩa Marx có mục đích mang tính nhân đạo, hướng đến phục vụ lợi ích của giai cấp công nhân. Nhiều nhà lý luận đánh giá cao Lenin có đóng góp cho phong trào đấu tranh giải phong dân tộc, chống phong kiến... Tuy nhiên không ít người có quan điểm khác với chủ nghĩa cộng sản. Họ cho rằng chủ nghĩa duy vật biện chứng không thể giải thích được hay
  11. giải thích đúng, chủ nghĩa duy vật lịch sử không giải thích đúng mọi hiện tượng lịch sử. Họ không đánh đồng giai cấp công nhân là "vô sản", hay họ đánh giá cao vai trò của tư sản trong tạo lập giá trị thặng dư, họ phản đối cách thức cải tạo chủ nghĩa xã hội (từ kinh tế tư bản hay phong kiến) của những người cộng sản. Họ phản đối công hữu, hay cách thức quản lý tài sản công, phân phối theo lý thuyết cộng sản, đánh giá cao kinh tế tư bản. Một số bác bỏ nhà nước một đảng cộng sản, cơ chế "tập trung dân chủ". Một số bác bỏ cách mạng dù là lật đổ phong kiến hay tư bản, hay cách thức đấu tranh giành độc lập. Một số bác bỏ phân biệt và xóa bỏ giai cấp, hay phủ nhận một đảng đại diện giai cấp, phủ nhận giai cấp nắm quyền. Một số bác bỏ xây dựng văn hóa mới có tính cách mạng (thường được gọi là văn hóa xã hội chủ nghĩa) hay xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, đạo đức xã hội chủ nghĩa của những người cộng sản. Các lý thuyết này có khi được những người cộng sản xem là phản động, hay xét lại, phản bội lợi ích giai cấp công nhân, đầu hàng giai cấp tư sản, hay cực đoan, manh động, vô chính phủ, phản khoa học, hay ủng hộ chủ nghĩa đế quốc, thực dân, phong kiến, chủ nghĩa đế quốc kinh tế, ủng hộ chủ nghĩa tư bản bóc lột, "phát xít", "thần quyền", "dân túy"... Sự suy yếu của chủ nghĩa cộng sản cuối thế kỷ XX do những nguyên nhân chính:  Hạn chế không thể điều chỉnh hiệu quả trong hệ thống chính trị và kinh tế theo mô hình truyền thống  Sự chia rẽ trong phong trào cộng sản thành nhiều xu hướng khác nhau, thậm trí rất xung khắc nhau  Sự chia rẽ trong phong trào công nhân, do có rất nhiều hệ tư tưởng cánh tả nối tiếp nhau ra đời tranh thủ lực lượng, bên cạnh đó sự biến đổi của chủ nghĩa tư bản khiến mâu thuẫn giai cấp suy yếu ở nhiều nơi thậm trí có khi
  12. một số bộ phận giai cấp vô sản quay sang ủng hộ cánh hữu hay vấn đề giai cấp không phải là vấn đề trọng tâm chính trị, do đó các cuộc cách mạng vô sản đã không thể diễn ra  Sự phản ứng quyết liệt của các lực lượng chống đối như ủng hộ cho quân chủ, hay tư sản, hay dân chủ đại nghị, hoặc các nhóm tôn giáo,...Do đặt ra các mục tiêu quá lớn và quyết liệt, giải quyết trong một thời gian ngắn vượt quá khả năng của họ  Mục tiêu đoàn kết quốc tế vô sản đã không thể thực hiện một cách hiệu quả, do ảnh hưởng của chủ nghĩa dân tộc hay tôn giáo... Giai cấp vô sản nhiều nơi gắn bó với lợi ích dân tộc hơn là đoàn kết với giai cấp vô sản bên ngoài  Chủ nghĩa cá nhân và lợi ích cá nhân ảnh hưởng chung đến đoàn kết giai cấp, thậm trí ảnh hưởng đến xây dựng một xã hội kiểu mới mà những người cộng sản đặt ra mục tiêu Sự khác biệt chủ nghĩa cộng sản với một số hệ tư tưởng khác  Các tôn giáo: đa số các tôn giáo (trừ một số ngoại lệ như Phật giáo) khẳng định hữu thần và các lực lượng siêu nhiên, trong khi những người cộng sản khẳng định vô thần (chịu ảnh hưởng học thuyết Darwin), họ xem các lực lượng siêu nhiên chỉ là những hiện tượng tự nhiên mà khoa học chưa lý giải được. Các lý thuyết gia chủ nghĩa cộng sản truyền thống thường phê phán tôn giáo, là công cụ của các giai cấp phong kiến quý tộc hay tư sản nhằm làm nhụt ý chí đấu tranh của tầng lớp vô sản với các bất công của xã hội, ngược lại nhũng người bảo vệ cho tôn giáo cho những người cộng sản là vô thần, không có niềm tin vào một thế giới bên kia hay các khía cạnh đạo đức tôn giáo nên thường sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, thiếu khoan dung, nên
  13. những lý tưởng nhân văn trong lý thuyết của chủ nghĩa cộng sản không thể thực hiện được. Nhưng những người cộng sản và những người tôn giáo, đặc biệt những người tôn giáo cánh tả thường phê phán chủ nghĩa tư bản vì về lý thuyết đều thường không khuyến khích cho chủ nghĩa cá nhân.  Chủ nghĩa tư bản: khẳng định tư hữu, trong khi những người cộng sản hướng tới công hữu tư liệu sản xuất (hiểu theo nghĩa cộng sản đúng nghĩa). Những người ủng hộ chủ nghĩa tư bản luôn cho rằng không vì những phân hóa xã hội mà vi phạm đến các quyền sở hữu cá nhân, đối lập hoàn toàn với chủ nghĩa cộng sản. Những người ủng hộ cho chủ nghĩa tư bản cho rằng chủ nghĩa này tạo ra động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế dựa trên nền tảng ham muốn cá nhân làm giàu vô tận, và tạo cơ hội cho sự tự do kinh doanh và tự do lựa chọn lao động, thường cho sự phân hóa xã hội là một sự đào thải của cơ chế thị trường mà những người tụt lùi phía sau là những người kém cỏi chứ không phải là do bóc lột, ngược lại những người phê phán chủ nghĩa tư bản bao gồm những người cộng sản luôn luôn cho là chủ nghĩa tư bản có yếu tố bóc lột, và không bao giờ tạo công bằng thực sự, tạo ra lối sống ham muốn vật chất và hay dẫn đến suy đồi đạo đức. Những người cộng sản thường đổ lỗi cho chủ nghĩa đế quốc là hệ quả của chủ nghĩa tư bản vì các tập đoàn tư bản muốn vươn vòi bóc lột nhân dân các dân tộc thuộc địa, biến các nơi này thành nơi tiêu thụ hàng hóa tư bản và cung cấp tài nguyên và lao động rẻ mạt, trong khi những người ủng hộ chủ nghĩa tư bản lại hay cho chủ nghĩa đế quốc là hệ quả của chủ nghĩa dân tộc hay chủ nghĩa quân phiệt (đặc biệt là giai đoạn chủ nghĩa đế quốc thứ hai từ cuối thế kỷ XIX, mà họ cho là nhằm bảo đảm lợi ích của cả dân tộc chứ không chỉ tư bản, trong khi thường nhìn nhân giai đoạn chủ nghĩa đế quốc thứ nhất thường bảo đảm cho quyền lợi của cả quý tộc phong kiến và tư sản). Chủ nghĩa cộng sản cũng cho là
  14. chủ nghĩa tư bản thực hiện "chủ nghĩa đế quốc mới" trong khi chủ nghĩa tư bản cũng cho chủ nghĩa cộng sản thực hiện "chủ nghĩa đế quốc mới"  Chủ nghĩa tự do: đề cao tự do cá nhân, nếu giới hạn gần với bảo thủ, nếu cấp tiến hơn có khi bị xem là cực đoan, hay gần với chủ nghĩa vô chính phủ; trong khi những người cộng sản cũng hướng đến tự do tuyệt đối như những người vô chính phủ, nhưng qua con đường vòng là nhà nước chuyên chính vô sản, coi trọng lối sống tập thể (cộng đồng) và điều hành của nhà nước. Lập trường kinh tế cũng có sự khác biệt, do ủng hộ tự do cá nhân nên những người tự do ủng hộ tư hữu đồng nghĩa sẽ có chủ nghĩa tư bản, chấp thuận phân hóa xã hội như là "sự tất yếu của cơ chế thị trường", coi trọng bình đẳng cơ hội, trừ những người tự do xã hội chấp thuận có điều chỉnh của nhà nước phân phối lại thu nhập thường thông qua đánh thuế cá nhân. Những người cộng sản phản đối cơ chế như vậy. Những người theo chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa cộng sản thường có một lập trường chống lại chế độ phong kiến và độc tôn tôn giáo (chủ nghĩa tự do ủng hộ tự do tôn giáo nhưng tách tôn giáo khỏi nhà nước). Do có lập trường trên nền tảng chủ nghĩa cá nhân nên chủ nghĩa tự do đề cao quyền cá nhân, mà không phụ thuộc vào sự ép buộc bên ngoài bao gồm nhà nước.  Chủ nghĩa bảo thủ: đề cao một sự chuyển hóa từ từ, trong khi những người cộng sản muốn chuyển hóa nhanh chóng một cách cách mạng. Một số người bảo thủ ủng hộ cho quay lại một trật tự cũ, đã bị thay thế, vì thế có còn được xem là phản động, theo cách hiểu của những người cộng sản, thậm trí của những người tự do hay xã hội. Chủ nghĩa bảo thủ đề cao tính dân tộc, trong khi chủ nghĩa cộng sản đề cao tính giai cấp. Chủ nghĩa bảo thủ coi trọng tầng lớp trên mà họ cho là xứng đáng với "phẩm chất" và "đóng góp" của
  15. họ, trong khi những người cộng sản luôn bảo vệ quyền lợi tầng lớp dưới. Chủ nghĩa bảo thủ hiện đại ủng hộ cho chủ nghĩa tư bản, coi nó là động lực thúc đẩy kinh tế, và "công bằng trong cơ hội" ít coi trọng phân phối lại tài sản và bàn tay nhà nước (Nhà nước tốt nhất theo họ là nhà nước ít can thiệp nhất). Trong vấn đề đạo đức, chủ nghĩa bảo thủ coi trọng truyền thống (khác với phe tự do đề cao đạo đức cá nhân, nhận thức của bản thân) - khác với những người cộng sản ủng hộ nền tảng đạo đức xã hội chung được xây dựng trên lý thuyết cộng sản. Với vấn đề tôn giáo, chủ nghĩa bảo thủ coi trọng tính dân tộc nên đề cao tôn giáo dân tộc (mà họ cho là cần thiết cho đoàn kết và đạo đức), và thường là người theo tôn giáo dân tộc, nhưng không loại trừ sự tồn tại tôn giáo khác. Một số do ảnh hưởng mạnh của tư tưởng dân tộc nên thường có xu hướng chống người nhập cư. Phần lớn những người bảo thủ ngày nay thường có lập trường gần giống những người tự do nguyên thủy, họ hay coi trọng vấn đề nhân quyền.  Chủ nghĩa phát xít: đề cao tầng lớp trên và nhà nước, trong khi những người cộng sản đề cao tầng lớp dưới và hướng đến một xã hội không còn nhà nước. Chủ nghĩa phát xít đề cao tính dân tộc (tới độ cực đoan), một số sẵn sàng dùng vũ lực để đất nước của mình thống trị dân tộc khác, một số khác không. Trong khi đó những người cộng sản coi trọng tính giai cấp và đoàn kết giai cấp quốc tế không phân biệt dân tộc, ngôn ngữ (chủ nghĩa quốc tế vô sản). Một số lý thuyết gia cho rằng cả chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa cộng sản đều là hệ quả của phép biện chứng của Hegel, về bản chất khác hẳn nhau, đối nghịch nhau, nhưng về mô hình tổ chức có nhiều điểm rất giống nhau. Về cơ bản chũ nghĩa phát xít đối lập nhiều hơn với chủ nghĩa vô chính phủ hơn là với chủ nghĩa cộng sản.
  16.  Chủ nghĩa vô chính phủ: chủ nghĩa vô chính phủ và chủ nghĩa cộng sản có chung mục đích là xóa nhà nước, nhưng những người cộng sản qua con đường vòng là nhà nước chuyên chính vô sản, còn chủ nghĩa vô chính phủ thì không. Biện pháp của những người vô chính phủ phần lớn là cách mạng giống với những người cộng sản, nhưng có phái (đa số ở phương Tây) không sử dụng biện pháp này. Đường lối kinh tế của chủ nghĩa vô chính phủ có thể trùng với chủ nghĩa cộng sản hay chế độ tư hữu tùy trường phái.  Chủ nghĩa dân tộc: đề cao tính dân tộc (có khi cực đoan), trong khi những người cộng sản coi trọng tính giai cấp hơn (và được những người dân tộc xem là "không đoàn kết dân tộc"), nhưng trong quá trình phát triển, có những người cộng sản chịu ảnh hưởng của tư tưởng dân tộc.  Chủ nghĩa xã hội: cả chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản cùng có mục tiêu xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, nhưng chủ nghĩa xã hội vẫn còn tồn tại nhà nước. Do chủ nghĩa xã hội được hiểu nhiều cách khác nhau và nhiều trường phái khác nhau chủ trương khác nhau, nên chủ nghĩa cộng sản được xem là một trường phái chủ nghĩa xã hội. Khác nhau chủ nghĩa cộng sản với chủ nghĩa xã hội dân chủ là cách thức cải tạo chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa xã hội. Một số trường phái chủ nghĩa xã hội hướng tư liệu trong tay tập thể, một số khác hướng nhà nước làm đại diện quản lý tư liệu. Lập trường của một số trường phái xã hội chủ nghĩa khác nhau cả thái độ với tôn giáo, hay cách thức để đạt mục đích của mình. Một số khá nhiều người xã hội là những người theo tôn giáo, nhưng hướng văn hóa thế tục và nhà nước thế tục (không kể theo phái xã hội chủ nghĩa gắn với tôn giáo).  Dân chủ xã hội: hướng đến xóa bỏ tư bản hay xóa một phần hoặc chỉ cải tạo chủ nghĩa tư bản theo hướng phân phối công bằng hơn, nhưng không sử
  17. dụng biện pháp cách mạng và nhà nước chuyên chính vô sản mà họ lo ngại "chuyên chế đi từ dưới đi lên".  Chủ nghĩa công đoàn: đề cao công đoàn, chứ không phải nhà nước. Đây là điểm khác với chủ nghĩa cộng sản  Chủ nghĩa dân túy: cũng giống chủ nghĩa cộng sản là đề cao bình đẳng thu nhập, nhưng khác ở cách thức, và xác định vai trò giai cấp,... Chủ nghĩa dân túy hay gắn với tính dân tộc hơn.  Dân chủ Thiên Chúa giáo: đề cao vai trò tôn giáo - trong một nhà nước thế tục, đặc biệt trong lĩnh vực văn hóa và đạo đức, tùy theo trường phái, có lập trường ủng hộ tư bản hay chống tư bản, ủng hộ thay đổi tiệm tiến, khác bảo thủ cực đoan là chấp thuận một nền chế độ đại nghị. Trong khi những người cộng sản loại trừ tôn giáo ra khỏi vai trò chính trị và hướng tới nền văn hóa vô thần.  Một số học thuyết chính trị tôn giáo khác: phát triển đa dạng, có thể không có đường hướng kinh tế rõ ràng, có trường phái ủng hộ một chế độ cộng sản (kinh tế) mà họ cho là công bằng (như một số được xem là cộng sản Thiên chúa giáo, Hồi giáo Marxism, hay Đạt Lai Lạt ma) không như chế độ tư bản - tư hữu, nhưng ủng hộ hữu thần, còn chủ nghĩa cộng sản là vô thần và có lập trường kinh tế rõ ràng. Một số ủng hộ thần quyền (ngày nay ít) và được xem là cực đoan, một số chấp thuận chế độ đại nghị,... Do sự phát triển của chủ nghĩa cộng sản, có tính chất đa dạng nên các đảng cộng sản ở mỗi thời kỳ không giống nhau và ở mỗi nước cũng khác nhau.
  18. Không phải tất cả những người theo hệ tư tưởng khác biệt với chủ nghĩa cộng sản đều là những người chống cộng sản. Trong lịch sử, những người cộng sản cùng những người dân chủ xã hội, chủ nghĩa xã hội (nhưng không thuộc nhánh Lenin), vô chính phủ, tôn giáo cánh tả, công đoàn đã có thời kỳ khác nhau trên mặt trận chung chống chủ nghĩa tư bản. Những người cộng sản cũng có lúc phối hợp với những người tự do, bảo thủ hay dân chủ Thiên Chúa giáo hay những người tôn giáo, dân tộc chủ nghĩa chống lại chủ nghĩa phát xít độc tài và quân phiệt. Những người cộng sản đã có những lúc phối hợp với các phong trào dân tộc chủ nghĩa khác (đa phần có xu hướng tự do hoặc xã hội, và ít hơn là xu hướng bảo thủ) trong đấu tranh giải phóng dân tộc ... Các đảng cộng sản (theo đường lối Đệ Tam quốc tế) tiêu biểu  Đảng Cộng sản Liên bang Nga  Đảng Cộng sản Liên Xô (Shenin)  Đảng Cộng sản Belarus  Đảng của những người Cộng sản Belarus  Đảng Cộng sản Moldova  Đảng Cộng sản Việt Nam  Đảng Cộng sản Cuba  Đảng Cộng sản Trung Quốc  Đảng Cộng sản Ấn Độ
  19.  Đảng Cộng sản Ấn Độ Marxist  Đảng Lao động Triều Tiên  Đảng Cộng sản Pháp  Liên minh 7 Đảng Cộng sản Nepal  Đảng Nhân dân Cách mạng Lào  Đảng Cộng sản Hoa Kỳ  Đảng Cộng sản Nhật Bản  Đảng Cộng sản Đài Loan (2008)  Đảng Cộng sản Tây Ban Nha  Đảng Cộng sản Thụy Điển  Đảng Cộng sản Sri Lanka  Đảng Cộng sản Đức  Đảng Cộng sản Hy lạp  Đảng Cộng sản Nauy  Đảng Tiến bộ của nhân dân lao động Síp  Đảng Cộng sản Ukraina  Đảng Cộng sản Chile
  20.  Đảng Cộng sản Brasil  Đảng Cộng sản Peru-Tổ quốc đỏ  Đảng Cộng sản Liban  Đảng Cộng sản Venezuela Karl Marx và mô hình chủ nghĩa cộng sản Trong thế kỷ 19, trong khi nhận thức về các giá trị giải phóng con người, các quyền của con người, nhận thức về nhu cầu mở ra tối đa khả năng phát triển nhân tính và các khả năng của con người đã có những bước tiến bộ lớn thì hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa đương thời với quan hệ sản xuất của chủ nghĩa tư bản lại đang kìm hãm những khả năng nhân bản đó. Đại bộ phận quần chúng lao động bị tách ly khỏi phương tiện sản xuất phải làm thuê cho giai cấp tư sản- chủ sở hữu các phương tiện sản xuất. Giai cấp công nhân bị đối xử bất bình đẳng trong phân chia của cải xã hội, và thực tế cuộc sống của họ hầu như không thể tiếp cận được với những cơ hội để phát triển con người. Sự bất bình đẳng trong hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa ở thế kỷ 19 là sâu sắc và nhu cầu giải phóng xã hội là cấp thiết. Karl Marx là nhà tư tưởng có uy tín đương thời với các kiến thức rất uyên thâm trên nhiều lĩnh vực rộng lớn. Các tác phẩm của Marx có rất nhiều nhưng ông viết có hệ thống nhất là các lĩnh vực:  Kinh tế chính trị học: tác phẩm quan trọng nhất là Tư bản luận (Das Kapital) nghiên cứu hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa trong đó ông rút ra bản chất bóc lột của hệ thống kinh tế này là thụ hưởng giá trị thặng dư trong thành quả sản xuất do giai cấp làm thuê (công nhân) làm ra.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2