Chủ trương của Đảng về xây dựng và phát triển nền văn hóa mới Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
lượt xem 4
download
Bài viết "Chủ trương của Đảng về xây dựng và phát triển nền văn hóa mới Việt Nam trong giai đoạn hiện nay" trình bày về việc xây dụng và phát triển nền văn hóa mới Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là hết sức quan trọng, để văn hóa thực sự trở thành động lực phát triển bền vững đất nước, đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Chủ trương của Đảng về xây dựng và phát triển nền văn hóa mới Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
- CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VỀ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN NỀN VĂN HÓA MỚI VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY Phạm Thị Hồng Nhung1, Mai Văn Hoàng1 1. Khoa Đào tạo kiến thức chung. Email: nhungpth@tdmu.edu.vn TÓM TẮT Trong bối cảnh toàn cầu hóa sâu rộng như hiện nay, ngoài việc phát huy sức mạnh tổng thể chính trị, kinh tế, an ninh quốc phòng thì xây dựng và phát huy các giá trị văn hóa được Đảng và Nhà nước hết sức chú trọng. Trong giai đoạn hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội. Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, dân chủ, khoa học và nhân văn. Vì vậy, việc xây dụng và phát triển nền văn hóa mới Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là hết sức quan trọng, để văn hóa thực sự trở thành động lực phát triển bền vững đất nước, đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Từ khóa: Phát triển, văn hóa, xây dựng 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Ngày nay, bên cạnh sự phát triển nhanh chóng về kinh tế xã hội cũng như khoa học kĩ thuật, văn hóa ngày càng khẳng định vai trò và vị trí của mình, nó trở thành trọng tâm phản ánh sự ưu việt của chế độ chính trị xã hội, phản ánh chất lượng và mục đích cuối cùng của sự tăng trưởng kinh tế trong chế độ xã hội chủ nghĩa. Những vấn đề này gắn bó, thống nhất hữu cơ với nhau đảm bảo cho sự phát triển bền vững của đất nước. Trong thời kỳ hiện nay, sự phát triển bền vững của đất nước được thể hiện ở việc giải quyết thành công các mối quan hệ cơ bản: Giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, xã hội và bảo vệ môi trường; Giữa lợi ích của cá nhân và lợi ích của cộng đồng; Giữa lợi ích của hiện tại và lợi ích của tương lai; Giữa phát triển nhanh gắn với bền vững… Mục tiêu phấn đấu của Đảng và nhân dân ta hiện nay là vì sự nghiệp “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” chính là đã chú trọng giải quyết các mối quan hệ cơ bản này trên cơ sở quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong phạm vi bài viết, tác giả không nhắc lại toàn bộ Nghị quyết của Đảng về vấn đề văn hoá mà chỉ đề cập đến một số vấn đề hiện nay. 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Với nguồn tài liệu chính từ các Văn kiện, Nghị quyết qua các kì Đại hội, Hội nghị của Đảng, tác giả dùng phương pháp lịch sử, logic, phân tích để hệ thống lại quan điềm của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa của Đảng trong giai đoạn hiện nay; thành tựu và hạn chế sau 166
- 35 năm đổi mới và phát triển văn hoá. Từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của phát triển văn hóa trong thời gian tới. 3. NỘI DUNG 3.1. Quan điểm cơ bản của Đảng về việc xây dựng, phát triển văn hoá trong giai đoạn hiện nay Trong thời kỳ đổi mới đất nước, Đảng ta đã khẳng định nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nghị quyết Hội nghị Trung ương năm khóa VIII (1998) chủ trương Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, là nội dung có ý nghĩa chiến lược, chỉ đạo quá trình xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hóa ở nước ta, cần được kế thừa, bổ sung và phát huy trong thời kỳ mới. Nghị quyết Hội nghị khẳng định năm quan điểm chỉ đạo cơ bản trong quá trình xây dựng và phát triển sự nghiệp phát triển văn hoá nước ta là: Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội; Nền văn hoá mà chúng ta đang xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam; Xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng; Văn hoá là một mặt trận; xây dựng và phát triển văn hoá là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì thận trọng. Năm quan điểm này đều mang tầm chiến lược lâu dài cần quán triệt nhất quán và xuyên suốt quá trình xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hoá ở nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Quan điểm chỉ đạo xây dựng và phát triển văn hóa của Đảng thể hiện sự phát triển tư duy lý luận về văn hóa ở bình diện khái quát cao, bao quát được toàn bộ những vấn đề cốt lõi của việc xây dựng và phát triển văn hóa trong thời kỳ mới. Sự sáng tạo của Đảng không chỉ dừng lại ở việc nhận thức sâu sắc và toàn diện hơn vai trò của văn hóa trong sự nghiệp đổi mới mà còn thể hiện ở việc xác định rõ phương hướng, đặc trưng, tính chất, động lực và đặc thù của hoạt động xây dựng và phát triển văn hóa. Đây cũng là sự đúc kết lý luận, tổng kết thực tiễn, vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào xác định quan điểm chỉ đạo xây dựng và phát triển văn hóa trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế. Văn kiện Đại hội IX chỉ rõ mục tiêu phát triển văn hóa trong thời gian tới: “Phát triển giáo dục đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người – yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”. “phát triển khoa học và công nghệ cùng với phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” Trên cơ sở khẳng định những thành tựu và chỉ ra những yếu kém, khuyết điểm trong quá trình thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII và các Nghị quyết của Đảng về văn hóa, Kết luận của Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ mười khóa IX năm 2015 đã nhấn mạnh mục tiêu sau: Bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt với không ngừng nâng cao văn hóa- nền tảng tinh thần xã hội; tạo nên sự 167
- phát triển đồng bộ của ba lĩnh vực trên chính là điều kiện quyết định bảo đảm cho sự phát triển toàn diện và bền vững của đất nước. Trong quá trình mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế và giao lưu văn hóa, cùng với việc tập trung xây dựng những giá trị mới của văn hóa Việt Nam đương đại, cần tiếp tục đẩy mạnh công tác bảo tồn, kế thừa, phát huy các giá trị tốt đẹp của truyền thống văn hóa dân tộc và tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, bắt kịp sự phát triển của thời đại. Vừa phát huy mạnh mẽ tính đa dạng, bản sắc độc đáo của văn hóa các dân tộc anh em, làm phong phú nền văn hóa chung của cả nước, vừa kiên trì củng cố và nâng cao tính thống nhất trong đa dạng của văn hóa Việt Nam, đấu tranh chống các khuynh hướng lợi dụng văn hóa để chia rẽ, phá hoại khối đoàn kết dân tộc. Nghiên cứu, nắm bắt kịp thời những thành tựu của văn hóa- thông tin hiện đại, huy động mọi tiềm lực xã hội cho sự nghiệp phát triển văn hóa, chăm lo các tài năng, chủ động có kế hoạch, chính sách, cơ chế phù hợp để tạo điều kiện cho văn hóa nước nhà phát triển vững chắc và đúng hướng trong thời kỳ mới. Văn kiện Đại hội X (2006) đã nhấn mạnh: “Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1998). Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển 2011) được Đại hội XI của Đảng thông qua đã xác định: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển” (Văn kiện Đại hội XI). Thông qua các văn kiện, nghị quyết của Đảng qua các kì Đại hội, Hội nghị, có thể thấy Đảng ta đã xác định: “Phương hướng chung của sự nghiệp văn hoá nước ta là phát huy chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự chủ, tự cường, xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, làm cho văn hoá thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư, tạo ra trên đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển, phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh. xã hội công bằng, văn minh, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, 2006). Về phương hướng xây dựng và phát triển văn hóa hiện nay, Đảng nhấn mạnh hai điểm sau: Thứ nhất, trong thời kỳ đổi mới hiện nay, chúng ta phải phát huy chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự chủ tự cường để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Thứ hai, về hành động, chúng ta phải chủ động, tích cực, sáng tạo hơn nữa trong việc nâng cao chất lượng xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tạo điều kiện và cơ hội nhiều hơn nữa để nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực và khoa học công nghệ, xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Theo đó, cần phát huy tính tích cực chính trị của công dân, chú trọng tới các phong 168
- trào quần chúng trong tổ chức và xây dựng sự nghiệp phát triển văn hoá, làm cho văn hóa gắn kết chặt và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế, xây dựng Đảng, củng cố hệ thống chính trị để văn hóa thực sự thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội. Kế thừa chủ trương từ các nghị quyết, văn kiện của các kì Đại hội trước, Đại hội XIII, quan điểm của Đảng về xây dựng và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam được trình bày trong mối quan hệ thống nhất, biện chứng khi khẳng định: “giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế”. Trên cơ sở mối quan hệ giữa văn hóa và con người, Đại hội XIII khẳng định: “khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”, đồng thời chú trọng việc phát huy ý thức tự cường dân tộc, khát vọng sáng tạo, phấn đấu vì một đất nước thịnh vượng, nhân ái, xã hội hòa bình, tạo sức mạnh nội sinh thúc đẩy đất nước ngày càng phát triển bền vững. Trên cơ sở kế thừa các quan điểm của Đảng ta về phát triển văn hóa trong thời kỳ đổi mới vừa qua, Đại hội XIII của Đảng đã đề ra nhiệm vụ, giải pháp phát triển văn hóa, xây dựng con người mới: Thứ nhất, về xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Việt Nam, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định: “Tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người... Việt Nam trong thời kỳ mới”. Đây là vấn đề cốt lõi mang tính định hướng việc xây dựng, phát huy giá trị văn hóa và sức mạnh con người Việt Nam những năm tới. Mặt khác, quá trình phát triển văn hóa, con người phụ thuộc rất lớn vào việc xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Việt Nam. Trong điều kiện đất nước đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng, việc xác định xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa, chuẩn mực con người Việt Nam được trình bày thống nhất ở tầm Văn kiện Đại hội có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình củng cố, bổ sung các giá trị văn hóa, phát triển nhân cách con người Việt Nam. Thứ hai, về nhiệm vụ giáo dục con người Việt Nam trong thời kì mới, Đại hội XIII khẳng định: “Tăng cường giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, truyền thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội của các tầng lớp nhân dân, nhất là thanh niên... nâng cao nhận thức, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật, bảo vệ môi trường, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của người Việt Nam”; bên cạnh đó, việc giáo dục nhân cách, đạo đứckĩ năng sống, kĩ năng làm việc cũng như tư duy lý luận và nghiên cứu, tư duy thẩm mỹ, giáo dục thể chất cũng được chú trọng nhằm ngày càng nâng cao hơn nữa tầm vóc con người Việt Nam với thế giới. Thứ ba, nhằm xây dựng môi trường xã hội tốt đẹp, lành mạnh, Đại hội XIII xác định phải quan tâm đúng mức đến việc xây dựng môi trường văn háo lành mạnh, phù hợp với bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, Đại hội đã chỉ ra: “Văn hóa chưa được quan tâm tương xứng với kinh tế và chính trị, chưa thật sự trở thành nguồn lực, động lực nội sinh của sự phát triển bền vững đất nước. Vai trò của văn hóa trong xây dựng con người chưa được xác định đúng tầm, còn có chiều hướng coi trọng chức năng giải trí đơn thuần. Thiếu những tác phẩm văn hóa, văn học, nghệ thuật lớn phản ánh sinh động tầm vóc công cuộc đổi mới, có tác dụng tích cực đối với con người. Môi trường văn hóa, xã hội tiếp tục bị ô nhiễm bởi các tệ nạn xã hội, tham nhũng, tiêu cực”. Trên cơ sở xác định những hạn chế, khuyết điềm đó, Đảng đã nhấn mạnh “Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, 169
- niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước”. Cùng với đó, phải chú trọng phát triển toàn diện và đồng bộ trên các lĩnh vực văn hóa, đời sống xã hội phải được chú trọng phát triển đồng bộ nhằm tạo điều kiện cho các giá trị văn hóa được phát huy và góp phần nội lực cho sự phát triển kinh tế xã hội cũng như hội nhập kinh tế quốc tế. Thứ tư, về phát huy giá trị của văn háo trong các lĩnh vực đời sống xã hội, Đại hội XIII cũng nhấn mạnh: “Xây dựng và thực hiện các chuẩn mực văn hóa trong lãnh đạo, quản lý. Chú trọng xây dựng môi trường văn hóa công sở lành mạnh, dân chủ, đoàn kết, nhân văn; đẩy lùi bệnh quan liêu, bè phái, mất đoàn kết, chủ nghĩa cơ hội và thực dụng. Xây dựng văn hóa doanh nghiệp, doanh nhân và kinh doanh”. Đảng khẳng định cần coi trọng và lan tỏa các giá trị văn hóa trên cả lĩnh vực chính trị và kinh tế ngay trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, các doanh nghiệp hay các cộng đồng dân cư đẻ văn hóa thực sự trở thành động lực cho việc phát triển kinh tế, xã hội. Theo đó, trong các cơ quan Đảng, Nhà nước cần nêu cao tính tiên phong, gương mẫu của Đảng viên, cán bộ công chức ngay trong ứng xử, giao tiếp hay giải quyết các mối quan hệ trên tinh thần lợi ích chung của xã hội, được thể hiện ngay trongw lời nói, hành động và việc làm thường ngày, thể hiện được ý thức trách nhiệm, tinh thần hợp tác cùng phát triển nhằm thúc đẩy việc xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh. Xây dựng hệ giá trị văn hóa phải hướng đến bổ sung, hoàn thiện chuẩn mực đạo đức con người phù hợp thời kỳ mới, trong đó đức, trí, thể, mỹ là nội dung trọng tâm, cốt lõi để góp phần hoàn thiện hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị quốc gia. Về động lực để xây dựng và phát huy sức mạnh con người Việt Nam, Đại hội XIII của Đảng xác định “Xây dựng các cơ chế, chính sách phát huy tinh thần cống hiến vì đất nước của mọi người dân Việt Nam. Phát huy tối đa nhân tố con người”. Khuyến khích, tạo điều kiện để mọi người dân Việt Nam được phát huy các năng lực tự do sáng tạo trong đời sống kinh tế, xã hội. Thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội, an ninh con người, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Quan tâm, chăm lo, bồi dưỡng con người toàn diện, đồng bộ, cân bằng giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần, hài hòa giữa nhu cầu kinh tế và văn hóa, đạo đức, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống và hạnh phúc của con người. Nhìn lại các quan điểm của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta thấy Đảng ta luôn luôn xuất phát từ thực tế khách quan, nắm vững những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đề xuất một cách chủ động sáng tạo các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, xây dựng những nhiệm vụ, nội dung và giải pháp cụ thể cho từng giai đoạn cách mạng, vừa đảm bảo tính kế thừa, vừa đảm bảo sự phát triển để từng bước nâng cao chất lượng và hiệu quả của việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Chính nhờ sự sáng tạo và năng động đó, đường lối văn hóa của Đảng đã đáp ứng đúng nhu cầu và đòi hỏi của nhân dân, được nhân dân hưởng ứng và nhiệt tình thực hiện, tạo thành một sức mạnh mới để làm động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, góp phần giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, củng cố hệ thống chính trị, giữ vững an ninh quốc phòng, góp phần to lớn vào sự phát triển bền vững của đất nước. 3.2. Thành tựu và hạn chế trong quá trình thực hiện đường lối, quan điểm về phát triển văn hóa qua 35 năm đổi mới 3.2.1. Thành tựu: Thực tiễn 35 năm đổi mới đã khẳng định đường lối, quan điểm của Đảng về phát triển văn hóa là hoàn toàn đúng đắn, đáp ứng nhu cầu đòi hỏi cấp thiết của xã hội. Về cơ 170
- bản sau 35 năm đổi mới, văn hoá Việt Nam đã định hình được các khuôn mẫu mới, có khả năng hội nhập với văn hóa nhân loại, không thua kém các nước hùng mạnh khác. Văn hoá Việt Nam cũng được các nước đánh giá cao về khả năng hội nhập cũng như khát vọng phát triển. Với mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, Đảng và Nhà nước đã đầu tư nhiều hơn cho giáo dục- đào tạo, thực hiện nhiều chủ trương, chính sách mới để tạo động lực cho giáo dục - đào tạo phát triển xứng đáng với vai trò là “quốc sách hàng đầu”. Cơ sở vật chất cho giáo dục được tăng cường. Quy mô đào tạo được mở rộng, nhất là ở bậc trung học chuyên nghiệp và dạy nghề. Trình độ dân trí nói chung và đội ngũ lao động đã qua đào tạo tay nghề được nâng lên. Chất lượng về thể lực, sức khỏe, học vấn, tay nghề, kỹ năng lao động và phẩm chất đạo đức nghề nghiệp có bước phát triển rõ rệt. Qua 35 năm đổi mới, văn hoá không còn được coi như sản phẩm thụ động của kinh tế mà trở thành nhân tố bên trong, góp phần quy định diện mạo sự phát triển của kinh tế - xã hội, ở hành vi và hoạt động hàng ngày của con người. Văn hoá đã thực sự trở thành nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu và động lực của sự phát triển. Quan điểm đổi mới về văn hoá của Đảng góp phần đem lại cho con người khả năng can thiệp cũng như giải quyết các vấn đề xã hội xuất phát từ văn hoá, điều mà trước đây chưa được quan tâm thực sự. Với sức mạnh mềm của mình, văn hoá đã và đang góp phần làm sâu sắc hơn ý thức dân tộc, khẳng định độc lập chủ quyền là giá trị thiêng liêng của dân tộc. Văn hoá truyền thống từ đó cũng có điều kiện được khôi phục về căn bản, sự hồi sinh của các giá trị văn hoá bị bỏ quên của các tộc người Kinh cũng như dân tộc thiểu số đã góp phần thay đổi diện mạo mới cho văn hoá Việt Nam, làm cho quá khứ, hiện tại và tương lai được nối tiếp nhau. Các giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể được xác định theo chuẩn mực quốc tế và được cộng đồng quốc tế thông qua Unesco công nhận. Ở nhiều loại hình văn hoá, Việt Nam đã không còn lạc lõng và hoà nhập dần với thế giới; việc mở rộng giao lưu và tiếp biến văn hoá đã làm cho các hoạt động văn hoá được đa dạng và hiện đại hơn. Nhiều hoạt động như tổ chức sự kiện, văn hoá hội thảo, du lịch, ẩm thực, thời trang…Việt Nam đã không còn thu kém so với các nước tiến bộ khác. Thậm chí ở một số hoạt động văn háo cụ thể, Việt Nam đã tỏ ra có đẳng cấp, tương đương với các nền kinh tế phát triển như: Hội nghị cấp cao APEC Đà Nẵng 2017, Hội nghị thượng đỉnh Mỹ - Triều 2019… Về văn hoá chính trường, công quyền và đối ngoại, học đường, quân sự, hệ giá trị của Việt Nam cũng có nhiều điểm nổi bậc với nhiều chuẩn mực gần với thế giới. Khoa học và giáo dục tuy vẫn còn nhiều hạn chế, song đã có nhiều bước tiến quan trọng theo hướng hội nhập. Người Việt Nam mà tiêu biểu là du học sinh Việt Nam ở nước ngoài vẫn được đánh giá là thông minh, tự tin, năng động và có nhiều thành tích nổi bậc tại các cuộ thi thuộc lĩnh vực khoa học cơ bản. Như vậy có thể nói văn hoá Việt Nam qua 35 năm đổi mới và phát triển với sự rũ bỏ những quan niệm công thức, cứng nhắc, đánh thức các giá trị văn hoá truyền thống và tiếp thu những nhân tố tiến bộ, hợp lý từ các nước tiên tiến đã khắc phục được nhiều hạn chế và hoà nhập được với dòng chảy chung của văn hoá – văn minh nhân loại. Nhiều giá trị vật thể và phi vật thể của Việt Nam được công nhận là di sản thế giới. Các tiêu chuẩn của hoạt động văn hoá thế giới được áp dụng phổ biến tại Việt Nam. Từ đó có thể thấy đời sống văn hoá của đại đa số người dân đã có nhiều chuyển biến tích cực không chỉ ở thành thị mà cả ở vùng sâu vùng xa, miền núi, nông thôn. Từ một quốc gia nghèo 171
- đói, chậm phát triển, Việt Nam đã trở ghành nước có GDP trung bình và nền kinh tế có thứ hạn trên thế giới. Chỉ số phát triển về con người của Việt Nam liên tục tăng cao và cao hơn cả chỉ số kinh tế. Công tác xóa đói giảm nghèo ở nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Cơ sở hạ tầng kinh tế, văn hóa, xã hội cho vùng nông thôn, miền núi, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số đã được quan tâm đầu tư (điện, đường, trường, trạm), tạo nên sự chuyển biến tích cực trong việc đảm bảo công bằng xã hội và hỗ trợ những vùng gặp khó khăn. Quá trình triển khai thực hiện đường lối, chính sách văn hóa của Đảng đã được thực hiện nghiêm túc ở các cấp, các ngành. Tổng mức đầu tư của Nhà nước cho Chương trình mục tiêu giai đoạn sau cao hơn giai đoạn trước. Tính tích cực, chủ động sáng tạo trong nhân dân được phát huy, dân chủ xã hội được mở rộng. Hệ thống các di sản văn hóa của dân tộc được đầu tư, tôn tạo và phát huy vai trò của nó đối với phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân. Nhiều di tích văn hóa được cộng đồng quốc tế công nhận là Di sản văn hóa thế giới như: Cố đô Huế, Di tích Mỹ Sơn, Khu phố cổ Hội An, Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, Vịnh Hạ Long, Di tích Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội, Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, Nhã nhạc Cung đình Huế, Quan họ Bắc Ninh, Ca trù, Hát Xoan (Phú Thọ) được UNESCO đưa vào danh sách di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu của nhân loại được bảo vệ khẩn cấp. Những giá trị văn hóa đặc sắc của các dân tộc anh em trên đất nước Việt Nam được giữ gìn, kế thừa và phát huy làm phong phú cho nền văn hóa dân tộc. Năm 2008, cả nước có 7.966 lễ hội, trong đó có 7.039 lễ hội dân gian, 544 lễ hội tôn giáo, 332 lễ hội lịch sử cách mạng. Các phương tiện thông tin đại chúng đã phát triển nhanh chóng và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Hiện nay cả nước đã có 707 cơ quan báo chí (báo in: 166, báo điện tử: 09, tạp chí: 440, phát thanh truyền hình: 68, nhà cung cấp thông tin trên Internet: 24, có 13.348 nhà báo). Cả nước có 53 nhà xuất bản (xuất bản khoảng 20.504 cuốn sách với 211.615.158 triệu bản). Có 125 đơn vị phát hành, có 7.045 thư viện. (4; 2006) Các tài năng trong lĩnh vực sáng tạo văn học nghệ thuật bước đầu được phát huy và tham gia tích cực vào phát triển nền văn học nghệ thuật dân tộc. Hiện nay cả nước có 48 hãng phim, 131 đoàn nghệ thuật. Tổng số tác phẩm đã đăng ký bản quyền tác giả từ 1986 đến 2005 là 21.143.(4; 2006) Hoạt động giao lưu và hợp tác quốc tế được mở rộng. Công tác văn hóa đối ngoại đã có nhiều chuyển biến tích cực để giới thiệu các thành tựu văn hóa của Việt Nam ra nước ngoài và tiếp thu những giá trị tích cực của văn hóa thế giới vào Việt Nam, nâng cao vị thế văn hóa Việt Nam trong cộng cồng quốc tế. Đánh giá về văn hoá Việt Nam qua 35 năm đổi mới, Đại hội XIII khẳng định: “Nhận thức về văn hoá, xã hội, con người ngày càng toàn diện, sâu sắc hơn. Các lĩnh vực, loại hình, sản phẩm văn hoá phát triển ngày càng đa dạng, đáp ứng nhu cầu mới, nhiều mặt của đời sống xã hội. Nhiều giá trị văn hoá truyền thống và di sản văn hoá được kế thừa, bảo tồn và phát huy. Văn hoá trong chính trị và trong kinh tế bước đầu được coi trọng và phát huy hiệu quả tích cực. Hoạt động giao lưu, hợp tác và hội nhập quốc tế về văn hoá khởi sắc. Phát triển toàn diện con người Việt Nam đăng từng bước trở thành trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Việc phê phán, đấu tranh, đẩy lùi cái xấu, cái ác, cái lạc hậu, chống các quan điểm, hành vi sai trái, gây hại đến văn hoá, lối sống con người được chú trọng”. 3.2.2. Hạn chế: Những thành tựu trên lĩnh vực văn hóa đã góp phần nâng cao mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân, góp phần vào xây dựng con người và xây dựng môi trường văn hóa 172
- tinh thần lành mạnh, làm động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, đứng ở một góc nhìn khác, quá trình thực hiện đường lối, quan điểm của Đảng về văn hóa, bên cạnh những thành tựu đạt được thì vẫn không tránh khỏi một số hạn chế nhất định: Thứ nhất, việc thực hiện đường lối, quan điểm của Đảng về văn hóa, còn mang nặng tính hình thức, chưa chú ý tới chất lượng và hiệu quả thiết thực. Các hoạt động kinh tế, nhất là của khu vực ngoài nhà nước và các lĩnh vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài thường ít hoặc chưa quan tâm đúng mức tới vai trò của văn hóa trong phát triển. Nhiều chương trình, dự án phát triển kinh tế còn nặng về tìm lợi ích kinh tế, coi nhẹ nhân tố văn hóa và môi trường. Nhiều vấn đề xã hội nổi lên như giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, an sinh xã hội, tai nạn giao thông, tệ nạn xã hội vẫn còn chưa được giải quyết dứt điểm. Thứ hai, là những thành tựu và tiến bộ đạt được trong lĩnh vực phát triển văn hóa, xã hội và xây dựng con người chưa tương xứng với tốc độ phát triển kinh tế và chưa vững chắc, chưa tác động có hiệu quả đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, lối sống. Sự suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống tiếp tục diễn biến phức tạp, có một số mặt nghiêm trọng hơn, gây tổn hại không nhỏ đến uy tín của Đảng và Nhà nước, niềm tin của nhân dân. Công tác xây dựng môi trường văn hóa trong Đảng, trong các cơ quan Nhà nước, các đoàn thể chính trị - xã hội còn hạn chế. Tình trạng quan liêu, tham nhũng và suy thoái lối sống, đạo đức trong một bộ phận cán bộ, đảng viên kể cả những người có chức, có quyền chưa được ngăn chặn. Nhiệm vụ xây dựng con người trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa chưa có sự chuyển biến rõ rệt. Môi trường văn hóa còn bị ô nhiễm bởi các tệ nạn xã hội và sự lan tràn các dịch vụ và sản phẩm văn hóa mê tín, dị đoan, thấp kém, lai căng, độc hại. Còn thiếu những tác phẩm văn hóa, văn học nghệ thuật có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật, có tác động tích cực và sâu sắc đối với việc giáo dục con người. Thứ ba, trong bảng giá trị cộng đồng, hiện tượng lệch lạc về giá trị đã được cảnh báo từ nhiều năm trước. Nhưng những năm gần đây, hiện tượng này ngày một nhức nhối hơn. Hiện nay, vị trí của danh và thực, của lao động và sự giàu có, của địa vị và tài năng, của tiền bạc và tình người, của thói phô trương và đức khiêm tốn, của sự vô cảm và lòng vị tha… đã lệch lạc đến mức đáng ngại. Trong một bộ phận không nhỏ người dân thì thói hám danh, hám lợi vẫn được nuôi dưỡng vì danh lợi vô tình lâu nay vẫn được xã hội vô tình coi là quan trọng. Đức tính khiêm tốn đôi khi ít được tôn vinh mà lại bị chèn ép. Thứ tư, đời sống xã hội ngày nay vẫn còn nhiều sự giả dối; giả dối nhiều và nguy hiểm đến mức được coi là bình thường. Từ những tệ nạn như học giả, bằng cấp giả, kiến thức giả đến danh hiệu giả, thậm chí là thuốc chữa bệnh giả… có mặt ở khắp nơi. Hơn thế nữa, xã hội lại chưa quan tâm đúng mức việc bài trừ những tệ nạn này. Điều này góp phần không nhỏ làm cho tinh thần cống hiến cũng như ý chí phấn đấu của một bộ phần lớn người dân bị hạn chế, mất niềm tin. Những hạn chế, khuyết điểm nói trên có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, nhưng cần chú ý nhấn mạnh một số nguyên nhân chủ quan là: Nhận thức trong Đảng từ Trung ương đến cấp ủy các cấp về vai trò đặc biệt của việc xây dựng con người và phát triển văn hóa chưa thật đầy đủ, nhất là trong thời kỳ phát triển kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế. Việc thực hiện chủ trương xã hội hóa chưa đồng bộ và chưa thống nhất dẫn đến tình trạng hoặc là ỷ lại cho dân tự lo, coi nhẹ vai trò của Nhà nước, hoặc là biến chủ trương “xã hội hóa” 173
- thành “tư nhân hóa”, coi nhẹ các phúc lợi xã hội và công bằng xã hội. Việc chuyển các hoạt động văn hóa, giáo dục, y tế, thể thao sang dịch vụ công còn lúng túng. Nhận thức về xây dựng và phát triển con người còn mang tính chủ quan. Những tiêu chuẩn về xây dựng con người còn xa thực tế, khó thực hiện trong thực tiễn. Việc xây dựng các thiết chế văn hóa, xã hội còn mang tính áp đặt, chưa chú ý đến vai trò chủ thể của cộng đồng trong việc tiếp nhận và sử dụng các thiết chế này. Mặc dù chỉ tiêu hưởng thụ văn hóa của người dân trong những năm đổi mới vừa qua tăng lên gấp nhiều lần so với trước đây nhưng tính sáng tạo văn hóa của nhân dân bị hạn chế do sự áp đặt của “văn hóa đại chúng”. Trong lĩnh vực sáng tác văn học nghệ thuật và lý luận phê bình còn ít những tác phẩm đỉnh cao. Việc gắn kết giữa lĩnh vực văn hóa và xây dựng con người với kinh tế và chính trị còn lỏng, thậm chí còn có xu hướng tách biệt. Các quan điểm chỉ đạo, phương hướng, nhiệm vụ của việc xây dựng con người và phát triển văn hóa được xác định trong các Nghị quyết của Đảng chưa được quán triệt và thực hiện nghiêm túc. Việc tổ chức thực hiện còn thiếu tập trung, chưa đồng bộ, chưa kiên quyết. Nhiệm vụ xây dựng văn hóa trong Đảng, bộ máy nhà nước chưa được triển khai tích cực, có nơi còn bị xem nhẹ, không ít cán bộ, đảng viên chưa nêu được tấm gương văn hóa cho quần chúng. Trong tổ chức thực hiện, năng lực và tầm lãnh đạo xây dựng con người và phát triển văn hóa của các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể còn nhiều hạn chế. Sự phối hợp giữa cán bộ, ban, ngành và đoàn thể trong việc xây dựng con người và phát triển văn hóa, xã hội còn yếu, trách nhiệm chưa rõ ràng. Chậm thể chế hóa những quan điểm, chủ trương lớn của Đảng thành luật pháp, còn bị động trước những khuynh hướng mới xuất hiện và một số biến đổi trên lĩnh vực văn hóa. Chưa có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng tài năng, nâng cao năng lực của những người hoạt động, sáng tạo văn hóa; coi nhẹ cuộc đấu tranh trên lĩnh vực lý luận, phê bình văn học - nghệ thuật. Chưa xây dựng được cơ chế chính sách và giải pháp phù hợp để phát triển văn hóa trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong một bộ phận đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, những người hoạt động trên lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế, thể thao, thông tin, báo chí và xuất bản có những biểu hiện xa rời đời sống, lúng túng trong định hướng sáng tạo và hoạt động nghiệp vụ, chạy theo chủ nghĩa thực dụng, chiều theo thị hiếu thấp kém đã tạo ra một số sản phẩm văn hóa chất lượng thấp, thậm chí sai trái. 3.3. Một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của phát triển văn hóa trong thời gian tới Một số giải pháp góp phần xây dựng và phát triển nền văn hóa mới Việt Nam trong thời gian tới Với mục tiêu nâng cao chất lượng và hiệu quả của việc phát triển văn hoá trong thời gian tới, Đảng, Nhà nước và toàn thể nhân dân phải đồng lòng, chung sức kiên đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực, suy thoái về văn hoá, xây dựng nền văn hoá tiên tiền, nhanh chóng hội nhập với nền văn minh, văn hoá tiến bộ của nhân loại. Để thực hiện được mục tiêu nói trên, tác giả đề xuất một số giải pháp cụ thể: Một là, cần xây dựng môi trường văn hoá toàn diện từ gia đình đến cộng đồng dân cư, trong các cơ quan nhà nước cũng như các doanh nghiệp, đưa văn hoá trở thành động lực cho sự phát triển kinh tế xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế. Phát triển toàn diện và đồng bộ các lĩnh vực văn hoá nhằm phát huy các giá trị văn hoá của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. 174
- Hai là, nâng cao năng lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo của tổ chức Đảng và cấp ủy các cấp đối với lĩnh vực phát triển văn hóa, xã hội. Cần phải đổi mới tư duy và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với việc và phát triển văn hóa, xã hội trên cơ sở phát huy tính chủ động sáng tạo của Nhà nước trong việc thể chế hóa đường lối, quan điểm của Đảng, đổi mới công tác quản lý của các cơ quan giáo dục đào tạo, văn hóa, xã hội, y tế, thể thao nhằm tạo ra hợp lực chung của tất cả các ngành, các cấp, của cả xã hội trong việc thực hiện chiến lược xây dựng con người và phát triển văn hóa. Ba là, đội ngũ tri thức (văn nghệ sĩ, nhà báo, nhà giáo, đội ngũ y bác sĩ…) là trụ cột trong chiến lược phát triển văn hóa của đất nước. Vì vậy Đảng và Nhà nước sớm xây dựng chính sách đối với trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Đồng thời cần chăm lo xây dựng đội ngũ trí thức, có quy hoạch và kế hoạch chăm sóc, bồi dưỡng tài năng trong các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế, thể dục, thể thao, giữ vững định hướng chính trị và phát huy dân chủ, đề cao ý thức trách nhiệm của họ trước nhân dân, trước dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Bốn là, phát huy tính năng động, sáng tạo của các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, các hội sáng tạo văn học - nghệ thuật, khoa học kỹ thuật, thông tin báo chí, các tổ chức kinh tế- xã hội, tạo nên sức mạnh tổng hợp của toàn thể xã hội nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của vấn đề phát triển văn hóa, xã hội. Xây dựng cơ chế, chính sách, chế tài ổn định đáp ứng yêu cầu xã hội hóa các hoạt động văn hóa, giáo dục, y tế, thể dục thể thao nhằm huy động mọi nguồn lực trong nước và quốc tế tham gia vào sự nghiệp xây dựng con người và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Năm là, tập trung xây dựng môi trường văn hóa, lối sống và đời sống văn hóa của mọi người dân ở cơ sở, phát huy tính tự nguyện, tính tự quản và năng lực làm chủ của nhân dân. Khuyến khích sự sáng tạo văn hóa, văn học nghệ thuật, tạo ra những công trình khoa học và nghệ thuật có giá trị cao. Xây dựng và nâng cấp đồng bộ hệ thống thiết chế văn hóa, giáo dục, y tế, thể thao ở cơ sở. Chú trọng các công trình văn hóa, giáo dục, y tế, thể thao mang tầm vóc quốc gia cập nhật với trình độ của khu vực và thế giới. Sáu là, chú trọng phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế, nhất là các vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số. Chú trọng xây dựng hoàn thiện các thiết chế văn hóa - xã hội ở những khu vực này. Tăng cường đầu tư các thiết chế văn hóa- xã hội ở những khu công nghiệp, khu chế xuất tập trung đông công nhân lao động. Thực hiện các chính sách xã hội đối với người lao động và các đối tượng chính sách. Chú ý giảm sự phân hóa giàu nghèo, nâng cao chất lượng dân số, khai thác và bảo vệ tốt nguồn tài nguyên thiên nhiên, chăm lo bảo vệ môi trường sinh thái. Bảy là, kiên quyết đấu tranh loại trừ các tiêu cực xã hội và các tệ nạn xã hội trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao. Bài trừ tệ nạn, mê tín, dị đoan, ma túy, mại dâm và các loại tội phạm khác. Giữ vững an ninh, trật tự an toàn xã hội, đập tan âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực phản động trong nước và quốc tế. 4. KẾT LUẬN Trong quá trình lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng ta đã “nhận thức ngày càng sâu sắc rằng xã hội, văn hóa là những lĩnh vực thể hiện rõ nhất bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa. Trong những năm tới, cần đưa việc giải quyết các vấn đề xã hội và phát triển văn hóa lên nhanh hơn nữa, tương xứng với nhịp độ phát triển kinh tế”. Chiến lược 175
- xây dựng và phát triển văn hóa, xã hội chính là một mục tiêu, một động lực quan trọng của sự nghiệp đổi mới, đồng thời thể hiện bản chất ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa khi Việt Nam bước vào phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Đường lối xây dựng con người và phát triển văn hóa, xã hội hoàn toàn đúng đắn của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới vừa qua đã góp phần quan trọng vào việc củng cố hệ thống chính trị, phát triển kinh tế, đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần ngày càng cao của nhân dân, góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước. Đường lối này chính là kết quả của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của đất nước ta. Những đóng góp sáng tạo của Đảng về lý luận phát triển văn hóa là một bộ phận quan trọng hợp thành lý luận đổi mới của Đảng. Việc tổ chức và triển khai những quan điểm những nhiệm vụ về xây dựng và phát triển văn hóa trong 35 năm đổi mới vừa qua đã tạo nên sự chuyển biến tích cực trong đời sống văn hóa của đất nước. Những thành tựu và đóng góp về lý luận và chỉ đạo thực tiễn của Đảng trên lĩnh vực này đã góp phần phát huy mạnh mẽ vai trò to lớn của văn hóa và con người trong sự nghiệp đổi mới. Sự nghiệp đổi mới trong thời kỳ toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế dưới sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại cũng đem đến cả thời cơ và thách thức mới, đảm bảo tiến bộ xã hội và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trong quá trình này, việc tiếp tục bổ sung, hoàn thiện đường lối, chính sách phát triển văn hóa, xã hội là một yêu cầu khách quan. Mặt khác, việc tổ chức và triển khai nghiêm túc những quan điểm chỉ đạo, những nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược xây dựng con người và phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội là nhân tố có ý nghĩa quyết định để biến tư tưởng của Đảng thành hiện thực. Qua đó, cần phát huy những thành tựu đã đạt được, khắc phục những khuyết điểm và yếu kém của thời kỳ vừa qua, tranh thủ thời cơ, quyết tâm thực hiện đồng bộ và toàn diện các giải pháp cấp bách nêu trên để giành những thành tựu mới, tạo nên sự phát triển về chất để khẳng định sức mạnh mới của văn hóa Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006).Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Hà Nội: Nxb Chính trị Quốc gia. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011).Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia. 3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021).Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII và danh sách Ban chấp hành Trung ương Đảng, Nxb Thê giới. 4. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998).Văn kiện Hội nghị lần thứ năm, BCH Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị Quốc gia. 5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006). Kết luận Hội nghị lần thứ mười, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa IX) Về Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (Khóa VIII) về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong những năm sắp tới”. 6. Phạm Minh Hạc - Nguyễn Khoa Điềm (Chủ biên) (2003).Về phát triển văn hóa và xây dựng con người trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb CTQG, HN. 7. Phạm Duy Đức (Chủ biên) (2011).Phát triển văn hóa Việt Nam giai đoạn 2011-2020. Xu hướng và giải pháp. Nxb CTQG, HN. 176
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội VI đến Đại hội VIII
16 p | 1914 | 178
-
Bài giảng Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam: Chương 5 - ThS. Hoàng Trang
23 p | 164 | 64
-
Phân tích quan điểm của Đảng về xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
22 p | 222 | 26
-
Bài giảng Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam - chương V: Đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
14 p | 143 | 21
-
Hướng dẫn việc kiểm điểm tự phê bình và phê bình năm 2013 gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng
13 p | 275 | 18
-
Triết lý về giáo dục trong thành ngữ, tục ngữ Việt Nam
7 p | 145 | 11
-
Lý luận và thực tiễn về xây dựng, phát triển văn hóa Việt Nam: Phần 1
154 p | 44 | 8
-
Hậu phương miền Bắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ (1954-1968)
12 p | 130 | 8
-
Vận dụng quan điểm của Đảng về xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN tại văn kiện Đại hội XII vào giảng dạy học phần tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước
7 p | 215 | 8
-
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hóa mới và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay
6 p | 25 | 7
-
Bài giảng Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam: Bài 5
18 p | 55 | 5
-
Suy nghĩ về tiêu chuẩn để trở thành "đầy tớ trung thành của nhân dân" trong việc xây dựng đội ngũ đảng viên ở Bộ môn Lý luận chính trị, trường Đại học Đồng Nai
9 p | 82 | 4
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ huyện Bắc Mê (1939-2013): Phần 2
71 p | 5 | 3
-
Chủ trương của Đảng về xây dựng Đảng trong những năm 1945-1946
4 p | 59 | 2
-
Giải đáp thắc mặc về xây dựng nếp sống văn minh: Phần 2
81 p | 28 | 2
-
Sự phát triển quan điểm của Đảng về mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
13 p | 7 | 2
-
Vận dụng điểm mới trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng về vấn đề con người vào giảng dạy Lý luận chính trị tại các trường đại học ở thành phố Hồ Chí Minh
16 p | 4 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn