intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sự phát triển quan điểm của Đảng về mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Chia sẻ: Tưởng Trì Hoài | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:13

7
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Sự phát triển quan điểm của Đảng về mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam" khái quát quan điểm về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trước Đại hội XIII của Đảng; đồng thời, đánh giá kết quả và những hạn chế về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thời gian qua. Từ đó làm rõ một số quan điểm mới của Văn kiện Đại hội XIII về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sự phát triển quan điểm của Đảng về mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

  1. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” SỰ PHÁT TRIỂN QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ MÔ HÌNH KINH TẾ TỔNG QUÁT TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM Nguyễn Dũng Anh Học viện Chính trị Khu vực III Tác giả liên hệ: Nguyễn Dũng Anh, email: dunganhnguyen73@gmail.com Tóm tắt: Trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thành tựu của văn minh nhân loại và thực tiễn quá trình đổi mới ở nước ta, Đảng ta đã nhận thức, vận dụng sáng tạo về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam - Mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Bài viết khái quát quan điểm về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trước Đại hội XIII của Đảng; đồng thời, đánh giá kết quả và những hạn chế về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thời gian qua. Từ đó làm rõ một số quan điểm mới của Văn kiện Đại hội XIII về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ khóa: mô hình kinh tế tổng quát; kinh tế thị trường; thời kỳ quá độ; quan điểm mới; Văn kiện Đại hội XIII. 1. MỞ ĐẦU Quá trình đổi mới nền kinh tế ở nước ta có đặc điểm nổi bật là chuyển từ nền kinh tế chỉ huy sang nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), với nội hàm quan trọng nhất là phát triển mạnh mẽ nền kinh tế hàng hóa với nhiều thành phần kinh tế có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN. Đại hội VI của Đảng xác định: “Xuất phát từ thực tiễn của nước ta và là sự vận dụng quan điểm của Lênin coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1987, 56). Đại hội VII khẳng định: “Tiếp tục xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và đổi mới quản lý kinh tế” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1991, 66). Đại hội VIII tổng kết chặng đường đổi mới 10 năm có rút ra một số bài học chủ yếu, trong đó có bài học: “Xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường phải đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1996, 14). 1
  2. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG Yêu cầu đổi mới đó bắt nguồn từ thực tiễn nền kinh tế, từ khát vọng nội tại của nhân dân, cùng với đổi mới tư duy kinh tế của Đảng. Sự chuyển đổi sang mô hình kinh tế mới ở nước ta đã đem lại những biến đổi sâu sắc, toàn diện, đặc biệt là trên lĩnh vực kinh tế - xã hội theo hướng ngày càng tiến bộ, đúng quy luật, hội nhập ngày càng hiệu quả hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới. 2. QUAN ĐIỂM VỀ NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM TRƯỚC ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG Thực tiễn 35 năm đổi mới khẳng định bước tiến quan trọng trong quá trình nhận thức về vai trò của sở hữu và các thành phần kinh tế qua những đóng góp đối với phát triển nền kinh tế quốc dân. Từ chỗ dựa trên loại hình sở hữu công hữu với hai thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể; đến thừa nhận đa hình thức sở hữu, tồn tại khách quan nền kinh tế nhiều thành phần; và thừa nhận tất cả các thành phần kinh tế là những bộ phận cấu thành của nền KTTT định hướng XHCN, các thành phần kinh tế đều được bình đẳng trước pháp luật. Mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ (TKQĐ) đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở Việt Nam được Đại hội IX (năm 2001) của Đảng Cộng sản Việt Nam khái quát là KTTT định hướng XHCN, từng bước được bổ sung, phát triển qua các kỳ đại hội của Đảng trên cơ sở nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn phát triển KTTT ở nước ta, vận dụng sáng tạo những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm từ thực tiễn phát triển KTTT hiện đại của các nước trên thế giới. Đại hội IX của Đảng khẳng định: “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2001, 87). “Chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện tư duy, quan niệm của Đảng ta về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Đó là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2001, 88). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (năm 2006) chỉ rõ: Trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân), hình thành nhiều hình thức sở hữu và “các thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, 2
  3. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2006, 27-28). Đại hội XI của Đảng có những khái quát mới về lý luận “Phát triển nền KTTT định hướng XHCN với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh doanh và hình thức phân phối” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 73). Đây là một bước phát triển mới trong nhận thức lý luận của Đảng về nền KTTT định hướng XHCN và tiếp tục khẳng định “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển. Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng ngày càng phát triển” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 73-74). Đại hội XII của Đảng đã chỉ ra những nội hàm cơ bản của nền KTTT định hướng XHCN là “nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của KTTT, đồng thời bảo đảm định hướng XHCN phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền KTTT hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, 102); “có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật;….” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, 103). Định hướng XHCN của nền kinh tế được nhất quán xác lập và tăng cường thông qua sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, lấy con người làm trung tâm, vì mọi người và do con người; phát huy đầy đủ vai trò làm chủ của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam có thể khái quát ở ba điểm sau: Thứ nhất, tuân thủ những đặc trưng của KTTT, bởi vì, KTTT là một phương thức, một kiểu tổ chức kinh tế mà xã hội loài người sáng tạo ra, là thành quả của văn minh nhân loại, có thể tồn tại ở các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau, các chế độ chính trị - xã hội khác nhau. KTTT ra đời, phát triển phụ thuộc vào các điều kiện 3
  4. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG như phân công lao động xã hội, sự phát triển của lực lượng sản xuất,… Tuân theo các quy luật kinh tế khách quan như: quy luật giá trị, cạnh tranh, cung cầu, lưu thông tiền tệ,… tạo động lực phát triển kinh tế, phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động xã hội. Thực tiễn thế giới đã minh chứng, nhiều quốc gia không theo chế độ chính trị - xã hội tư bản chủ nghĩa vẫn sử dụng KTTT làm phương tiện tạo lập cơ sở kinh tế, sức mạnh kinh tế cho sự phát triển của mỗi quốc gia như: Trung Quốc, Lào… Thứ hai, giữa KTTT và định hướng XHCN, thể hiện hai khía cạnh chủ yếu là sử dụng “phương tiện” KTTT để đạt “mục đích” định hướng XHCN của nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam. Về mặt lý luận cũng như kinh nghiệm thực tiễn của thế giới đã được kiểm chứng và khẳng định, KTTT là “phương tiện tốt nhất” tạo lập cơ sở kinh tế, sức mạnh kinh tế cho sự phát triển của mỗi quốc gia. KTTT càng hiện đại và được vận hành có hiệu quả thì cơ sở kinh tế, sức mạnh kinh tế do nó tạo ra càng có điều kiện gia tăng mạnh mẽ thế và lực. Còn “mục đích” KTTT bao giờ cũng gắn với một chế độ chính trị - xã hội nhất định, phục vụ cho mục tiêu và lợi ích của chế độ đó. Nền KTTT định hướng XHCN mục đích là phát triển, giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH, nâng cao hiệu quả kinh tế, phục vụ lợi ích của nhân dân và hoàn thiện quan hệ sản xuất nhằm xây dựng chế độ chính trị xã hội của CNXH. Giữa “mục đích” định hướng XHCN và “phương tiện” KTTT ở Việt Nam không có sự loại trừ, mâu thuẫn nhau mà là sự dung hợp, gắn kết, hỗ trợ lẫn nhau trong chỉnh thể thống nhất “KTTT định hướng XHCN”. Điều đó có nghĩa rằng, tính định hướng XHCN của nền KTTT hay tính định hướng trong phát triển nền KTTT là hoàn toàn đúng đắn, phản ánh mục tiêu, phương thức phát triển, phân phối của cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta; nhờ đó khai thác tốt nhất mặt tích cực của thị trường, đồng thời khắc phục và hạn chế mức thấp nhất những khuyết tật, rủi ro của nó nhằm hướng đến các mục tiêu của CNXH. Thứ ba, phát triển KTTT định hướng XHCN là kiểu tổ chức kinh tế xã hội phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh lịch sử của Việt Nam. Trước hết phải thấy rằng, Việt Nam xây dựng CNXH từ xuất phát điểm rất thấp về kinh tế và con đường xây dựng CNXH là con đường quá độ, trải qua nhiều giai đoạn, bước đi khác nhau. Tất yếu khách quan Việt Nam phải phát triển KTTT với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành 4
  5. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” phần kinh tế; trong đó có sở hữu tư nhân, thành phần kinh tế tư nhân và các hình thức sở hữu hỗn hợp khác còn phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Tất cả các thành phần kinh tế trong nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. 3. KẾT QUẢ VÀ NHỮNG HẠN CHẾ VỀ PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM THỜI GIAN QUA Đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện trên hầu hết các lĩnh vực (kinh tế, xã hội, môi trường…). Thành quả đạt được trong thực hiện Chiến lược 10 năm 2011 - 2020 đã góp phần quan trọng tô đậm thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của 35 năm đổi mới, làm cho đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Tốc độ tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức độ khá cao, bình quân 2011 - 2015 đạt 5,9%/năm; 2016 - 2020 đạt 6%/năm; tính chung 10 năm 2011 - 2020 đạt 5,95%/năm, Việt Nam thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao trong khu vực và trên thế giới; chất lượng tăng trưởng được cải thiện, năng suất lao động được nâng lên rõ rệt; kinh tế vĩ mô ổn định vững chắc hơn, lạm phát được kiểm soát ở mức thấp (ổn định dưới 4%/năm trong nhiệm kỳ 2016-2020). Các cân đối lớn của nền kinh tế được cải thiện đáng kể như: tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng gần 3,5 lần, từ 157,1 tỉ USD năm 2010 lên 543,9 tỉ USD năm 2020, trong đó xuất khẩu khoảng 281,5 tỉ USD; cán cân thương mại được cải thiện rõ rệt (chuyển từ thâm hụt 12,6 tỉ USD năm 2010 sang thặng dư liên tục và mức độ ngày càng tăng trong 5 năm 2016-2020); dự trữ ngoại hối tăng kỷ lục (đạt gần 100 tỉ USD năm 2020); bội chi ngân sách nhà nước so với GDP giảm mạnh (từ 5,4% giai đoạn 2011 - 2015 xuống còn 3,5% giai đoạn 2016 - 2019; năm 2020 mặc dù chịu ảnh hưởng lớn của đại dịch Covid-19 nhưng vẫn dưới 4%); tỷ lệ nợ công so với GDP giảm (chỉ còn 55,3% vào cuối năm 2020, trần là 65%) (X. P. Nguyễn, 2021). Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh Covid-19, tăng trưởng kinh tế năm 2020 đạt 2,91% là mức tăng thấp nhất của các năm trong giai đoạn 2011 - 2020, một trong số ít quốc gia trên thế giới duy trì được khả năng chống chịu của nền kinh tế; năm 2021 tăng trưởng kinh tế chỉ ở mức 2,58% mức thấp nhất trong 35 năm Đổi mới (1986 - 2020). Nhưng trong bối cảnh đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, ảnh hưởng tiêu cực tới mọi mặt kinh tế - xã hội thì đây 5
  6. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG là thành công lớn của Việt Nam so với thế giới và thuộc nhóm nước có tăng trưởng cao nhất thế giới. Tăng trưởng xuất, nhập khẩu là gam màu sáng nhất trong bức tranh kinh tế vĩ mô năm 2021, với tổng kim ngạch kỷ lục 668,5 tỷ USD, tăng 22,6% so với năm 2020; trong đó, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 336,25 tỷ USD, tăng 19% so với năm 2020, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước đạt 332,25 tỷ USD, tăng 26,5% so với năm trước (Bùi & Hà, 2022, 68). Với chủ trương phát triển KTTT nên đã huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển được đẩy mạnh, đầu tư khu vực ngoài nhà nước tăng nhanh và chất lượng, hiệu quả được cải thiện như: Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội giai đoạn 2011-2020 đạt gần 15,7 triệu tỉ đồng (tương đương 673 tỉ USD), tăng bình quân 10,1%/năm; vốn đầu tư của khu vực ngoài nhà nước ở trong nước chiếm tỉ trọng ngày càng lớn trong tổng đầu tư xã hội, tăng từ 36,1% năm 2010 lên 44,9% năm 2020; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng mạnh (thu hút được nhiều dự án quy mô lớn, công nghệ cao), tổng số vốn đăng ký giai đoạn 2011 - 2020 đạt 268,2 tỉ USD, vốn thực hiện đạt 152,3 tỉ USD, chiếm 22,6% tổng vốn đầu tư toàn xã hội (X. P. Nguyễn, 2021). Cơ cấu kinh tế ngành và nội ngành chuyển biến tích cực; tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo và ứng dụng công nghệ cao tăng lên; tỷ trọng khu vực nông nghiệp trong GDP giảm từ 18,9% năm 2010 còn 15,2% năm 2020; các khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ tăng từ 81,1% lên 84,8%; cơ cấu nội ngành chuyển dịch tích cực (tỉ trọng ngành khai khoáng giảm từ 9,5% GDP xuống còn 5,5%; tỉ trọng hàng hoá xuất khẩu qua chế biến tăng từ 65% năm 2011 lên 85% năm 2020) (X. P. Nguyễn, 2021). Thể chế KTTT định hướng XHCN từng bước được hoàn thiện theo hướng hiện đại, đồng bộ và hội nhập; ban hành Hiến pháp năm 2013 và sửa đổi, hoàn thiện các luật, pháp lệnh và văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành; vị trí xếp hạng môi trường kinh doanh toàn cầu của Việt Nam tăng từ 88/183 năm 2010 lên 70/190 năm 2019 (X. P. Nguyễn, 2021). Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) đánh giá: Việt Nam là một trong 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất thế giới; là điểm sáng trên toàn cầu trong việc thực hiện thành công “mục tiêu kép”, vừa phòng chống dịch, vừa phục hồi và phát triển kinh tế xã hội, bảo đảm an sinh xã hội và đời sống nhân dân. 6
  7. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” Thành quả đạt được trong 35 năm đổi mới và thực hiện chiến lược 10 năm 2011 - 2020 về phát triển văn hoá, xây dựng con người Việt Nam đạt kết quả tích cực; tỉ lệ lao động qua đào tạo tăng từ 40% năm 2010 lên 64,5% năm 2020, trong đó, tỉ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ tăng từ 14,6% năm 2010 lên 24,1% vào năm 2020; chỉ số đổi mới sáng tạo của Việt Nam tăng vượt bậc, năm 2020 xếp thứ 42/131 nước và vùng lãnh thổ, tăng 17 bậc so với năm 2016, dẫn đầu nhóm quốc gia, nền kinh tế cùng mức thu nhập; đời sống văn hoá của nhân dân ngày càng phong phú, nhiều giá trị văn hoá truyền thống tốt đẹp được đề cao và phát huy; tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh: còn dưới 3% vào năm 2020 (theo chuẩn nghèo đa chiều); đời sống người dân được cải thiện, chú trọng, tạo sinh kế và nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản (thu nhập bình quân đầu người tăng 3,1 lần, từ 16,6 triệu đồng năm 2010 lên 51,5 triệu đồng năm 2019). Thực hiện tốt các chính sách bảo đảm an sinh xã hội (tỉ lệ bao phủ bảo hiểm y tế tăng từ 60,9% dân số năm 2010 lên 90,7% vào năm 2020) (X. P. Nguyễn, 2021). Công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân được quan tâm. Việt Nam kiểm soát tốt đại dịch Covid-19, được nhân dân cả nước và cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam được cải thiện, thuộc nhóm các nước có mức phát triển con người cao của thế giới. Công tác quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu ngày càng được chú trọng hơn; các nguồn lực tài nguyên từng bước được quản lý, khai thác, sử dụng hiệu quả hơn, đặc biệt là đất đai, khoảng sản; công tác phòng ngừa, kiểm soát, khắc phục ô nhiễm, ngăn ngừa suy thoái, cải thiện chất lượng môi trường đạt kết quả tích cực; nhiều giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, tránh thiên tai được triển khai tích cực và đạt nhiều kết quả. Tuy nhiên, nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam còn một số hạn chế, yếu kém sau: Một là, tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa đạt mục tiêu đề ra (tốc độ tăng GDP bình quân đạt 5,95%/năm giai đoạn 2011 - 2020 so với mục tiêu Chiến lược là 7-8%/năm); cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng còn chậm; chưa phát huy được đầy đủ, hiệu quả các tiềm năng, lợi thế phát triển; hoạt động sản xuất kinh doanh trong nhiều lĩnh vực vẫn chủ yếu đang ở phân khúc thấp trong chuỗi giá trị; tỷ lệ 7
  8. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG tham gia vào các chuỗi giá trị khu vực, toàn cầu chưa cao. Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong một số lĩnh vực còn chưa được phát huy; trình độ khoa học, công nghệ quốc gia nhìn chung còn khoảng cách so với nhóm đầu khu vực. Thực hiện ba đột phá chiến lược còn chậm: Một số quy định pháp luật, cơ chế, chính sách còn bất cập; thực thi pháp luật có nơi chưa nghiêm; nguồn nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển; kết cấu hạ tầng chưa theo kịp yêu cầu phát triển, chất lượng chưa cao. Do đó, chưa tạo được nền tảng để đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Hai là, khoảng cách phát triển và chênh lệch thu nhập giữa các vùng chậm được thu hẹp; việc thực hiện các mục tiêu phát triển văn hoá, xã hội và con người còn hạn chế; kết quả giảm nghèo đa chiều chưa bền vững, nguy cơ tái nghèo còn cao ở nhiều nơi. Ba là, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu còn bất cập: Hiệu quả quản lý, sử dụng và huy động nguồn lực từ đất đai, tài nguyên chưa cao, chưa bền vững; tình trạng ô nhiễm môi trường có nơi còn diễn biến phức tạp; tác động, ảnh hưởng của thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu ngày càng nặng nề nhưng nguồn lực còn hạn hẹp; hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực chưa cao. Những hạn chế, yếu kém nêu trên do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu: Một là, nhận thức về KTTT định hướng XHCN ở một số nội dung còn chưa thực sự sâu sắc, thống nhất. Hai là, tính thượng tôn pháp luật chưa cao, kỷ luật, kỷ cương có lúc, có nơi chưa nghiêm; công tác đánh giá, kiểm tra, giám sát, theo dõi, đôn đốc thực thi công vụ có nơi còn buông lỏng. Ba là, chưa phát huy đầy đủ tiềm năng, năng lực của con người Việt Nam trong phát triển đất nước. Bốn là, phương thức lãnh đạo quản lý kinh tế, quản lý xã hội trong thực tiễn ở một số lĩnh vực, một số nơi chưa thực sự phù hợp, hiệu lực, hiệu quả chưa cao. Còn có biểu hiện cơ chế “xin - cho”, “tư duy nhiệm kỳ”, “lợi ích nhóm”; năng lực, ý thức trách nhiệm của một bộ phận cán bộ, công chức có mặt còn hạn chế. Sự phối hợp giữa các cấp, các ngành, giữa các cơ quan quản lý nhà nước trong nhiều trường hợp còn thiếu chặt chẽ, hiệu quả chưa cao. 8
  9. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” 4. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM MỚI CỦA VĂN KIỆN ĐẠI HỘI XIII VỀ NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Trên cơ sở tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận phát triển kinh tế và quá trình đổi mới của đất nước, Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ ra những nội hàm cơ bản về nền KTTT định hướng XHCN như sau: “Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó: kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế xã - hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 128-129). Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã bổ sung, phát triển một số quan điểm mới về phát triển KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam: Một là, kế thừa những nội dung về phát triển KTTT định hướng XHCN trong Văn kiện Đại hội XII, Báo cáo chính trị Đại hội XIII nhấn mạnh cần phải tiếp tục thống nhất và nâng cao nhận thức về KTTT định hướng XHCN. Điểm mới của Văn kiện Đại hội XIII ở nội dung này là ngay từ đầu Văn kiện đã nêu rõ nội hàm của KTTT định hướng XHCN của nước ta và trên cơ sở đó nhấn mạnh những nội dung quan trọng của nội hàm này, để từ đó thống nhất nhận thức và thực hiện. Trong đó, vai trò, vị trí, chức năng của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân được xác định rõ hơn: (1) Kinh tế nhà nước được khẳng định là công cụ, lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều tiết, dẫn dắt thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trường. Đây là chức năng quan trọng của kinh tế nhà nước, đồng thời cũng là đặc điểm đặc trưng khác biệt, tiến bộ của KTTT định hướng XHCN. (2) Kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác, các hợp tác xã, tổ hợp tác có vai trò cung cấp dịch vụ cho các thành viên; liên kết, phối hợp sản xuất kinh doanh, bảo vệ lợi ích và tạo điều kiện để các thành viên nâng cao năng suất, hiệu quả sản xuất kinh doanh, phát triển bền vững. Tăng cường liên 9
  10. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG kết giữa các hợp tác xã, hình thành các hiệp hội, liên hiệp hợp tác xã. (3) Kinh tế tư nhân được khẳng định là một động lực quan trọng của nền kinh tế và được khuyến khích phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm, nhất là trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, dịch vụ được hỗ trợ thành các công ty, tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có sức cạnh tranh cao. (4) Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận quan trọng của kinh tế quốc dân, có vai trò to lớn trong huy động nguồn vốn đầu tư, công nghệ, phương thức quản lý hiện đại, mở rộng thị trường xuất khẩu (Hội đồng Lý luận Trung ương, 2021, 134). Hai là, nêu rõ mối quan hệ chặt chẽ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội. Điểm mới nổi bật chính là trong mối quan hệ này bổ sung thêm nhân tố xã hội. Trong đó cũng nêu rõ vai trò của Nhà nước, thị trường và xã hội trong mối quan hệ chung. Nhà nước thực hiện chức năng xây dựng và quản lý thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, cơ chế, chính sách, phân bổ nguồn lực phát triển theo cơ chế thị trường. Đổi mới mạnh mẽ phương thức quản lý nhà nước về kinh tế theo hướng chuyển giao những công việc Nhà nước không nhất thiết phải làm cho các tổ chức xã hội. Thị trường đóng vai trò quyết định trong xác định giá cả hàng hóa, dịch vụ; tạo động lực huy động, phân bổ hiệu quả các nguồn lực; điều tiết sản xuất và lưu thông; điều tiết hoạt động của doanh nghiệp, thanh lọc những những doanh nghiệp yếu kém. Các tổ chức xã hội có vai trò tạo sự liên kết, phối hợp hoạt động, giải quyết những vấn đề phát sinh giữa các thành viên; đại diện và bảo vệ lợi ích của các thành viên trong quan hệ với các chủ thể, đối tác; cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho các thành viên; phản ánh nguyện vọng, lợi ích của các tầng lớp nhân dân với Nhà nước và tham gia phản biện luật pháp, cơ chế, chính sách của Nhà nước, giám sát các cơ quan và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước trong việc thực thi pháp luật, công vụ. Ba là, xác định hoàn thiện đồng bộ thể chế KTTT nói chung, nhưng tập trung vào tháo gỡ những điểm nghẽn đang cản trở sự phát triển KTTT của nước ta và nâng cao chất lượng thể chế. Cụ thể là hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế KTTT định hướng XHCN, giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; nâng cao chất lượng, hiệu quả quản trị quốc gia, xây dựng và thực thi pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch. Thực tiễn phát triển KTTT ở nước ta đã xác định một trong những cản trở chính là hệ thống pháp luật còn chưa hoàn thiện, chồng chéo, ảnh hưởng đến phát triển nói chung. Đồng thời, trước yêu cầu phát triển mới, đặc biệt tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhiều ngành nghề mới ra 10
  11. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” đời cần phải có môi trường pháp lý bảo đảm cho sự phát triển. Mặt khác, tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính một cách quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả, cải thiện, nâng cao chất lượng môi trường kinh doanh, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, minh bạch. Phấn đấu đến năm 2030 môi trường kinh doanh của Việt Nam được xếp trong nhóm 30 quốc gia hàng đầu. Văn kiện Đại hội XIII đề cập nội dung hoàn thiện thể chế để tháo gỡ các điểm nghẽn, các rào cản của KTTT như thể chế xây dựng và hoàn thiện pháp luật, thể chế hình thành thị trường các yếu tố thị trường, các loại thị trường, thể chế thúc đẩy phát triển doanh nghiệp… Mục tiêu quan trọng là nâng cao chất lượng thể chế. Bốn là, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế. Điểm mới nổi bật ở nội dung này là xác định rõ mối quan hệ biện chứng giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế. Thực tiễn 35 năm đổi mới đã khẳng định mở cửa, hội nhập quốc tế, trong đó, hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần quan trọng vào những thành tựu to lớn mà đất nước đã đạt được. Đồng thời, chính mở cửa, hội nhập quốc tế sâu rộng đã tạo ra áp lực để Việt Nam cải cách, đổi mới thành công. Tuy nhiên, quá trình đổi mới, hội nhập quốc tế cũng cho thấy cần giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế. Đặc biệt, qua các cuộc khủng hoảng, hoặc những biến động của thế giới cho thấy, để hội nhập thành công phải có nội lực mạnh, đồng thời phải đa phương hóa, đa dạng hóa các đối tác, các thị trường để tránh những rủi ro và lệ thuộc. Vì vậy, phải nâng cao năng lực nội tại nền kinh tế quốc dân mới có thể hội nhập thành công, tránh lệ thuộc vào một đối tác, một thị trường. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới” (Nguyễn, 2022, 25). Từ thực tiễn quá trình đổi mới, nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam về cơ bản đã hội đủ các yếu tố của nền KTTT hiện đại theo các chuẩn mực quốc tế, như đa dạng các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, tự do sản xuất, kinh doanh, lưu thông những hàng hóa mà pháp luật không cấm, các chủ thể kinh tế cạnh tranh bình đẳng, hệ thống các loại thị trường phát triển ngày càng đồng bộ…; vai trò của nhà 11
  12. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG nước về quản lý kinh tế đã được đổi mới, như quản lý bằng luật pháp, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và sử dụng nguồn lực kinh tế của nhà nước, không can thiệp vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của các chủ thể kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, hạn chế, khắc phục khuyết tật của cơ chế thị trường,… Trong điều kiện đó, các quy luật của KTTT vận hành đồng bộ, các chủ thể kinh tế cạnh tranh để tồn tại và phát triển; giá cả hàng hóa cơ bản do thị trường quyết định; sản xuất và lưu thông hàng hóa phải chú ý đến tín hiệu giá cả, quan hệ cung - cầu trên thị trường; thị trường đóng vai trò trực tiếp điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa, điều tiết hoạt động của các chủ thể kinh tế, huy động và phân bổ các nguồn lực của sản xuất,… Các yếu tố bảo đảm định hướng XHCN của nền KTTT gắn với vai trò quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo để hạn chế, khắc phục những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, ổn định xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường, phát triển nhanh và bền vững đất nước,… 5. KẾT LUẬN “Những thành tựu đổi mới tại Việt Nam đã chứng minh rằng, phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa không những có hiệu quả tích cực về kinh tế mà còn giải quyết được các vấn đề xã hội tốt hơn nhiều so với các nước tư bản chủ nghĩa có cùng mức phát triển kinh tế. Những kết quả, thành tích đặc biệt đạt được của Việt Nam trong bối cảnh đại dịch Covid-19 và suy thoái kinh tế toàn cầu bắt đầu từ đầu năm 2020 được nhân dân và bạn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta” (Nguyễn, 2022, 33). Thực tế đó đã chứng minh và khẳng định sự đúng đắn, khoa học, hiệu quả của việc sử dụng KTTT định hướng XHCN làm “phương tiện” và “mục đích” để xây dựng CNXH ở Việt Nam trên cả phương diện lý luận và thực tiễn. Những thành tựu này tạo tiền đề, điều kiện, nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục công cuộc đổi mới và phát triển trong thời gian tới; càng khẳng định chủ trương, quan điểm, nhận thức về phát triển mô hình kinh tế tổng quát trong TKQĐ đi lên CNXH ở Việt Nam, đặc biệt là những điểm mới trong Văn kiện Đại hội XIII, thể hiện nhất quán, sáng tạo ba nguyên tắc cơ bản trong xây dựng các văn kiện của Đảng là: kế thừa và phát triển, kiên định và đổi mới, kết hợp nhuần nhuyễn thực tiễn và lý luận phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại mới. 12
  13. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Bùi, Q. T., & Hà, H. N. (2021). Kinh tế Việt Nam năm 2020 và triển vọng năm 2021. Tạp Chí Cộng Sản, 958, 77-83. [2]. Bùi, Q. T., & Hà, H. N. (2022). Kinh tế Việt Nam năm 2021 và triển vọng năm 2022. Tạp chí Cộng sản, 983, 66-71. [3]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1987). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. Chính trị Quốc gia. [4]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1991). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII. Chính trị quốc gia. [5]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1996). Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. Chính trị quốc gia. [6]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2001). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Chính trị quốc gia. [7]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2006). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Chính trị quốc gia. [8]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Chính trị quốc gia. [9]. Đảng Cộng sản Việt Nam,. (2016). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Chính trị Quốc gia. [10]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (Vol. 1). Chính trị quốc gia Sự thật. [11]. Hội đồng Lý luận Trung ương. (2021). Những điểm mới trong các Văn kiện Đại hội XIII của Đảng. Chính trị quốc gia. [12]. Nguyễn, P. T. (2022). Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Chính trị quốc gia - Sự thật. [13]. Nguyễn, X. P. (2021, March 28). Đánh giá tình hình thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2011 - 2020 và phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2016 - 2020. Hội nghị trực tuyến toàn quốc nghiên cứu, học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Hà Nội. 13
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2