intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Chuyên đề: PHẤN ĐẤU BÌNH ĐẲNG GIỚI VÌ SỰ PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG BỀN VỮNG

Chia sẻ: Batman_1 Batman_1 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:73

184
lượt xem
37
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bộ tài liệu nguồn theo các chuyên đề Giáo dục vì Sự phát triển bền vững dành cho Trung tâm học tập cộng đồng - Dự án “Phát triển chiến lược hệ thống nguồn lực hỗ trợ sáng kiến nâng cao năng lực xóa mù chữ (LIFERSS) ở Việt Nam” - Bộ Giáo dục và Đào tạo - Văn phòng UNESCO Hà Nội.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Chuyên đề: PHẤN ĐẤU BÌNH ĐẲNG GIỚI VÌ SỰ PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG BỀN VỮNG

  1. Tổ chức Giáo dục Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc HÀ NỘI - 2009
  2. Chuyên đề PHẤN ĐẤU BÌNH ĐẲNG GIỚI VÌ SỰ PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG BỀN VỮNG
  3. Bộ tài liệu nguồn theo các chuyên đề Giáo dục vì Sự phát triển bền vững dành cho Trung tâm học tập cộng đồng - Dự án “Phát triển chiến lược hệ thống nguồn lực hỗ trợ sáng kiến nâng cao năng lực xóa mù chữ (LIFERSS) ở Việt Nam” - Bộ Giáo dục và Đào tạo - Văn phòng UNESCO Hà Nội. Bộ tài liệu được tổ chức biên soạn bởi Trung tâm Nghiên cứu Giáo dục Không chính quy - Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, góp ý, chỉnh sửa và phê duyệt bởi Vụ Giáo dục Thường xuyên - Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tác giả: Thái Thị Xuân Đào Nguyễn Thị Mai Hà Nguyễn Bích Liên © Văn phòng UNESCO Hà Nội 2009 Xuất bản bởi Văn phòng UNESCO Hà Nội Để biết thêm thông tin xin liên hệ: Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam Văn phòng UNESCO Hà Nội Trung tâm Nghiên cứu Giáo dục KCQ Địa chỉ: 23 Cao Bá Quát, Hà Nội Địa chỉ: 4 Trịnh Hoài Đức, Hà Nội ĐT: 04-37470275/6 ĐT: 04-38232562 Fax: 04-37470274 Fax: 04-37332008 Email: registry@unesco.org.vn Giấy phép xuất bản số: In tại: Công ty CP In Trần Hưng. Số lượng: 750 cuốn. In xong và nộp lưu chiểu tháng 10.2009.
  4. Lời giới thiệu Trong khuôn khổ của dự án “Phát triển chiến lược hệ thống nguồn lực hỗ trợ sáng kiến nâng cao năng lực xóa mù chữ (LIFERSS) ở Việt Nam” do UNESCO tài trợ, Vụ Giáo dục Thường xuyên - Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phối hợp với Trung tâm Nghiên cứu Giáo dục Không chính quy - Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam tổ chức biên soạn Bộ tài liệu nguồn dành cho các Trung tâm Học tập Cộng đồng (TTHTCĐ). Mục đích của Bộ tài liệu nguồn nhằm cung cấp thông tin cho cán bộ của các Trung tâm nguồn, Trung tâm Giáo dục Thường xuyên, giáo viên/hướng dẫn viên (GV/ HDV) của các TTHTCĐ để biên soạn học liệu địa phương và tổ chức/hướng dẫn thực hiện các chuyên đề Giáo dục vì sự phát triển bền vững phù hợp với nhu cầu và tình hình cụ thể của từng địa phương. Bộ tài liệu nguồn bao gồm 20 chuyên đề thuộc 4 lĩnh vực của Giáo dục vì sự phát triển bền vững, đó là: văn hoá - xã hội; sức khỏe; môi trường và kinh tế. Mỗi chuyên đề bao gồm 1 - 3 bài. Mỗi bài không chỉ cung cấp thông tin, thông điệp, khái niệm cơ bản, mà còn cung cấp cả thực trạng, nguyên nhân và giải pháp cải thiện thực trạng cũng như những chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và quy định pháp luật có liên quan. Đặc biệt, các chuyên đề còn cung cấp các số liệu, tư liệu, bài báo, câu chuyện/tình huống thực tế ... để giúp cán bộ, GV/HDV tham khảo trong quá trình biên soạn học liệu địa phương hoặc sử dụng để minh họa, tổ chức thảo luận trong quá trình giảng dạy tại TTHTCĐ. Bộ tài liệu đã được biên soạn theo một quy trình khoa học và đã được thử nghiệm tại 10 tỉnh ở ba miền (Bắc, Trung, Nam). Trong quá trình biên soạn và thử nghiệm, Bộ tài liệu đã nhận được sự góp ý của các chuyên gia từ các Bộ, ban ngành đoàn thể, các nhà khoa học, các cán bộ và giáo viên của các địa phương với mục đích nhằm tăng cường tính chính xác, tính khoa học, tính sư phạm và tính thực tiễn của Bộ tài liệu. Mặc dù vậy, Bộ tài liệu vẫn không thể tránh khỏi thiếu sót. Chúng tôi rất mong tiếp tục nhận được đóng góp của các chuyên gia, của cán bộ, GV/HDV và các học viên trong quá trình sử dụng Bộ tài liệu này. Vụ Giáo dục Thường xuyên chân thành cảm ơn Văn phòng UNESCO Hà Nội đã giúp đỡ về kỹ thuật và tài chính để biên soạn và in ấn Bộ tài liệu này. Xin chân thành cảm ơn các chuyên gia của các Bộ, ban, ngành, đoàn thể đã tham gia biên soạn và góp ý cho Bộ tài liệu. Cảm ơn các địa phương đã nhiệt tình tham gia thử nghiệm và đóng góp ý kiến để hoàn thiện Bộ tài liệu này. Hà Nội, tháng 7 năm 2009 Vụ Giáo dục Thường xuyên Bộ Giáo dục và Đào tạo
  5. Mục lục Bài Một. Cùng nhau tìm hiểu giới và bình đẳng giới 7 I. Một số hiểu biết chung về “giới” và “bình đẳng giới” 8 II. Thực trạng, nguyên nhân bất bình đẳng giới và giải pháp nâng cao bình đẳng giới 15 III. Chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và các quy định pháp luật có liên quan tới bình đẳng giới 18 Phụ lục 1. Số liệu về phụ nữ Việt Nam 21 Phụ lục 2. Thế giới hướng về phụ nữ và vì phụ nữ 26 Phụ lục 3. Một số định kiến giới 27 Phụ lục 4. Nguyễn Thị Duệ - Nữ Tiến sĩ đầu tiên trong lịch sử khoa bảng nước nhà 28 Phụ lục 5. Công chúa Huyền Trân - Sứ giả của tình hòa bình và hữu nghị 29 Phụ lục 6. Anh hùng, liệt sĩ Mạc Thị Bưởi 30 Bài Hai. Phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ vì bình đẳng giới 32 I. Một số hiểu biết chung về bạo lực gia đình đối với phụ nữ 33 II. Thực trạng, nguyên nhân, hậu quả của bạo lực gia đình đối với phụ nữ và một số giải pháp ngăn chặn bạo lực gia đình đối với phụ nữ 36 III. Chủ chương, chính sách của Đảng, Nhà nước và các quy định pháp luật về bạo lực gia đình đối với phụ nữ 41 Phụ lục 1. Truyền thống “nhịn chồng” 46 Phụ lục 2. Mâu thuẫn gia đình và tự sát 47 Phụ lục 3. Kẻ vô nhân tính nhiều năm bạo hành vợ dã man 48 Phụ lục 4. Hang ổ của quỷ 49 Phụ lục 5. Bạo lực đang hoành hành trong gia đình 50 Phụ lục 6. Bị chồng lột truồng nhốt vào ... chuồng chó 51 Bài Ba. Phòng, chống buôn bán phụ nữ và trẻ em vì sự phát triển bền vững của cộng đồng 53 I. Một số hiểu biết chung về nạn buôn bán phụ nữ và trẻ em 54 II. Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp phòng, chống buôn bán phụ nữ và trẻ em 57 III. Chủ trương, chính sách của Nhà nước và quy định pháp luật về phòng, chống buôn bán phụ nữ và trẻ em 60 Phụ lục 1. Tình hình xét xử 65 Phụ lục 2. Những con số báo động 66 Phụ lục 3. Hàng chục cô gái thoát y để được lấy chồng ngoại 67 Phụ lục 4. Hướng dẫn nội dung chi, mức chi 68 Phụ lục 5. Chuyện của chị Lan 69
  6. Một quốc gia, một cộng đồng không thể phát triển bền vững (PTBV) nếu còn bất bình đẳng giới. Vì vậy cùng với sự tăng trưởng kinh tế, các quốc gia trên thế giới đã và đang rất quan tâm tới giới và bình đẳng giới. “Thúc đẩy bình đẳng giới và nâng cao vị thế cho phụ nữ” là một trong 8 mục tiêu phát triển của Thiên niên kỷ do Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc đề ra. Trong hơn 60 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước Việt nam đã đạt được thành tựu to lớn trong việc nâng cao bình đẳng giới. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, vẫn còn bất bình đẳng giới ở mọi lĩnh vực, dưới các hình thức khác nhau, ở các mức độ khác nhau. Một trong nguyên nhân chủ yếu là nhận thức về giới và bình đẳng giới của xã hội, gia đình và bản thân chị em phụ nữ còn hạn chế. Vì vậy cần thiết và cấp bách phải đẩy mạnh tuyên truyền nâng cao nhận thức về giới và bình đẳng giới. I. MỘT SỐ HIỂU BIẾT CHUNG VỀ “GIỚI” VÀ “BÌNH ĐẲNG GIỚI” 1. Một số khái niệm cơ bản 1.1 “Giới” và “Giới tính” Khái niệm “Giới” (Gender) chỉ có thể hiểu được một cách rõ ràng khi phân biệt được mối liên quan và sự khác biệt với khái niệm “Giới tính” (Sex) hay đôi khi còn gọi là “Giống”. Tuy nhiên, 2 khái niệm này còn chưa được hiểu một cách rõ ràng và đôi khi còn bị nhầm lẫn. Theo Luật Bình đẳng giới, “Giới” chỉ đặc điểm, vị trí, vai trò của nam và nữ trong tất cả các mối quan hệ xã hội. “Giới tính” chỉ các đặc điểm sinh học của nam, nữ. Như vậy, “Giới tính” chỉ những khác biệt về mặt sinh học giữa nam và nữ. Ví dụ, chỉ có đàn ông mới có tinh trùng, chỉ phụ nữ mới có trứng, mới có kinh nguyệt, mới có thể mang thai, mới có thể đẻ con, cho con bú bằng sữa mẹ v.v... Sự khác biệt này do bẩm sinh, không thể thay thế, chuyển đổi cho nhau giữa 2 giới, không thể thay đổi theo thời gian và không gian. Phụ nữ khắp nơi trên thế giới và từ xưa đến nay đều sinh con và cho con bú bằng sữa mẹ. Còn “Giới” chỉ sự khác biệt về mặt xã hội giữa nam và nữ. (Ví dụ, nữ thường dịu dàng, khéo léo và thường làm nội trợ v.v... Nam thường quyết đoán, thường làm lãnh đạo v.v...). Sự khác biệt về mặt xã hội giữa nam và nữ không phải do bẩm sinh, mà có nguồn gốc xã hội sâu xa. • Sự khác biệt về giới trước hết do giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội. Trẻ em trai hay trẻ em gái ngay từ lúc mới sinh đã được bố mẹ, xã hội đối xử, đòi hỏi và giáo dục một cách khác nhau (Ví dụ: trẻ em trai phải mạnh mẽ, trẻ em gái phải dịu dàng khéo léo v.v…). Trong nhà trường cũng có sự đối xử, sự đòi hỏi, giáo dục khác biệt đối với học sinh trai và học sinh gái như vậy. (Học sinh trai thường học tốt các môn tự nhiên. Học sinh gái thường học tốt các môn xã hội …) Phấn đấu bình đẳng giới vì sự phát triển cộng đồng bền vững • Nguồn gốc sâu xa của sự khác biệt về giới là do các định kiến về giới. “Định kiến giới” là nhận thức, thái độ và đánh giá thiên lệch, tiêu cực về đặc điểm, vị trí, vai trò và năng lực của nam hoặc nữ. Định kiến này được thể hiện ở các quan niệm, phong tục, tập quán, các quy định và các chuẩn mực xã hội đối với những hành vi, cách ứng xử nam và nữ. (nam phải mạnh mẽ, quyết đoán, làm những công việc nặng nhọc; nữ phải dịu dàng, làm nội trợ, làm những công việc nhẹ như thư kí, y tá, cô giáo, phải che mặt …). Các quan niệm, quy định này rất khác nhau đối với từng quốc gia, từng địa phương và từng cộng đồng. (Quan niệm về phụ nữ ở phương Tây và phương Đông khác nhau v.v... Phụ nữ ở nước hồi giáo phải che mặt khi ra đường, còn phụ nữ ở các nước khác không phải như vậy v.v...). Sự khác biệt về mặt xã hội này giữa nam và nữ có thể thay đổi theo thời gian. (Phụ nữ trước đây không được ngồi cùng mâm với khách, còn phụ nữ bây giờ có thể ngồi cùng mâm tiếp khách với chồng …). Sự khác biệt về mặt xã hội này giữa nam và nữ chỉ có tính chất tương đối, có thể chuyển đổi cho nhau được (Những đức tính thường được cho là chỉ có ở nam giới hay ở nữ giới đều có thể có ở cả hai giới. Phụ nữ cũng có người quyết đoán. Ngược lại, nam giới cũng có người khéo léo, làm nội trợ …). 8
  7. Tóm lại, sự khác biệt về mặt xã hội giữa nam và nữ do giáo dục trong gia đình và nhà trường, do quan niệm, phong tục tập quán, định kiến của từng quốc gia, từng địa phương, từng cộng đồng. Vì vậy, đặc điểm về “Giới” có thể chuyển đổi cho nhau giữa 2 giới, có thể thay đổi theo thời gian và không gian (từ nước này sang nước khác, từ cộng đồng này sang cộng đồng khác …). Sự khác nhau giữa “Giới” và “Giới tính” có thể so sánh qua bảng sau: Giới tính Giới - Bẩm sinh - Do quan niệm, phong tục, tập quán, do giáo dục - Không thể thay thế cho nhau được - Có thể thay thế, chuyển đổi cho nhau được - Không thể thay đổi theo thời gian - Có thể thay đổi theo thời gian - Giống nhau ở mọi nơi - Khác nhau tùy từng địa phương, từng quốc gia Vì vậy chỉ có thể nói “Bình đẳng giới”, “Công bằng giới”, “Nhạy cảm giới” v.v... chứ không thể nói “Bình đẳng giới tính” hay “Công bằng giới tính”, v.v... Tuy nhiên trong thực tế, thường có sự nhầm lẫn giữa “Bình đẳng giới” với “Bình đẳng giới tính”, giữa “Nhạy cảm giới” với “Nhạy cảm giới tính”. Cần lưu ý là trong cuộc sống, người ta còn dùng thuật ngữ “Giới” để chỉ “Giới tri thức”, “Giới văn nghệ sĩ”, “Giới nhà báo” ... Tuy nhiên, “Giới” được dùng trong “Bình đẳng giới”, “Công bằng giới” hay “Nhạy cảm giới” v.v... có ý nghĩa hoàn toàn khác. 1.2 “Bình đẳng giới” (Gender Equality) Theo Luật Bình đẳng giới, “Bình đẳng giới” là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó. Các biểu hiện của bình đẳng giới trong một cộng đồng là: • Kinh tế - lao động và việc làm: phụ nữ và nam giới đều có cơ hội để tham gia vào các hoạt động kinh tế, có thu nhập như nhau đối với cùng một công việc, có cơ hội như nhau trong tiếp cận nguồn lực: như vốn, đất, thông tin,… cho sản xuất, kinh doanh. • Y tế - sức khoẻ: trẻ em gái cũng được hưởng các dịch vụ chăm sóc như em trai, chăm sóc sức khoẻ sinh sản … • GD & ĐT: tỉ lệ đến trường, kết quả học tập như nhau của trẻ em gái và trai, trẻ em gái/ phụ nữ cũng được hưởng cơ hội học tập như trai/ nam giới, trẻ em gái/ phụ nữ và trai/ nam giới đều được hưởng cơ hội tham gia vào những lĩnh vực học tập khoa học kỹ thuật hiện đại như máy tính, thông tin ... Phấn đấu bình đẳng giới vì sự phát triển cộng đồng bền vững • Vị trí lãnh đạo/ ra quyết định: nữ và nam giới đều được lắng nghe, bàn bạc, nêu ý kiến, tỉ lệ nữ trong bộ máy lãnh đạo ngang bằng nam giới. Để đo mức độ bình đẳng giới người ta thường dùng “Chỉ số phát triển giới” (Gender Development Index - GDI). “Chỉ số phát triển giới” là số liệu tổng hợp phản ánh thực trạng bình đẳng giới, được tính trên cơ sở tuổi thọ trung bình, trình độ giáo dục và thu nhập bình quân đầu người của nam và nữ. Nếu chỉ số này càng tiến tới bằng 1 thì càng bình đẳng. Nếu tỉ lệ này càng lùi về bằng 0 thì càng bất bình đẳng. “Bình đẳng giới” thường có liên quan chặt chẽ với “Công bằng giới” (Gender Equity). “Công bằng giới” là sự vô tư, không thiên vị trong ứng xử và tiếp cận các nguồn lực của xã hội giữa nam và nữ. Công bằng giới là phương tiện, biện pháp, cách làm để đạt mục tiêu bình đẳng giới. Công bằng giới được thể chế hoá thành các qui định pháp luật Đối lập với “Bình đẳng giới” là “Bất bình đẳng giới”. “Bất bình đẳng giới” là sự khác biệt giới gây thiệt hại hoặc cản trở sự tiến bộ của nam và nữ hoặc tăng trách nhiệm, nghĩa vụ của nam hoặc 9
  8. nữ. Cần lưu ý “Bình đẳng” không có nghĩa là bằng nhau. Không phải sự khác biệt nào về giới cũng dẫn tới bất bình đẳng giới. (Ví dụ, thời gian làm việc của nữ có con nhỏ là 7 tiếng, trong khi đó của nam là 8 tiếng. Sự khác biệt này không phải là bất bình đẳng giới. Ngược lại trình độ văn hoá của nữ thấp hơn nam 1,5 lớp là bất bình đẳng bởi vì điều này cản trở phụ nữ tham gia thị trường lao động và các hoạt động xã hội khác bình đẳng với nam giới hoặc phụ nữ phải làm những công việc có thu nhập thấp hơn v.v...) Biểu hiện của bất bình đẳng giới là phân biệt đối xử về giới. “Phân biệt đối xử về giới” là việc hạn chế, loại trừ, không công nhận hoặc không coi trọng vai trò, vị trí của nam và nữ, gây bất bình đẳng giữa nam và nữ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình. Tuy nhiên, phân biệt đối xử với phụ nữ thường nặng nề hơn. “Sự phân biệt đối xử với phụ nữ” (theo Công ước CEDAW) là bất kỳ sự phân biệt hay loại trừ hay hạn chế nào trên cơ sở giới tính có tác dụng hoặc nhằm mục đích làm tổn hại hoặc vô hiệu hoá phụ nữ được công nhận, hưởng thụ hay thực hiện một cách bình đẳng các quyền con người và các quyền tự do cơ bản trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá, dân sự và các lĩnh vực khác, bất kể tình trạng hôn nhân của họ”. Việc ưu tiên tuyển dụng nam giới vào làm việc hay hạn chế độ tuổi của nữ khi được tuyển dụng. Sự phân biệt đối xử với phụ nữ còn thể hiện trong việc đề bạt, trong việc cử đi học, trong việc bình xét thi đua v.v... 1.3 “Các vai trò giới” Các vai trò giới là những công việc, hoạt động mà xã hội mong đợi phụ nữ và nam giới phải thực hiện. Nhìn chung, phụ nữ và nam giới thường thực hiện 3 vai trò: • Vai trò sản xuất: là những hoạt động mà xã hội mong đợi phụ nữ và nam giới phải thực hiện để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần cho gia đình và xã hội. • Vai trò tái sản xuất: là những hoạt động mà xã hội mong đợi phụ nữ và nam giới phải thực hiện để duy trì nòi giống, tái sản xuất sức lao động. • Vai trò cộng đồng: là những hoạt động mà xã hội mong đợi phụ nữ và nam giới phải thực hiện nhằm góp phần phát triển cộng đồng nơi họ làm ăn, sinh sống. Cả nam và nữ đều thực hiện các hoạt động, các vai trò trên, nhưng có sự khác biệt giữa hai giới. Từ rất lâu, xã hội thường có quan niệm rập khuôn/ truyền thống về vai trò của phụ nữ và nam giới. Ví dụ, trong gia đình, phụ nữ phải làm việc nhà, phải chăm sóc con cái, phải phục tùng chồng v.v... Đàn ông là trụ cột trong gia đình, là người quyết định mọi việc lớn trong gia đình như “Làm nhà, tậu trâu, dựng vợ gả chồng cho con cái” v.v... Quan niệm rập khuôn/ truyền thống này về vai trò giới thường ảnh hưởng đến bình đẳng giới. Phụ nữ mất nhiều thời gian, công sức vào làm những việc bị coi là kém giá trị, không được trả công, không có quyền quyết định ngay cả khi họ là người chủ yếu kiếm ra tiền. Trong lĩnh vực sản xuất và xã hội cũng có những định kiến, phân Phấn đấu bình đẳng giới vì sự phát triển cộng đồng bền vững biệt vai trò giới. Nữ thường làm cô giáo, y tá, thư kí, thợ may v.v..., trong khi đó nam thường làm bác sĩ, kĩ sư, giám đốc v.v... Trong cộng đồng, những công việc mà phụ nữ và nam giới thường làm cũng khác nhau. Phụ nữ trong cộng đồng khi tham gia các công việc chung thường làm những công việc có tính chất phục vụ như nấu ăn, tiếp khách, dọn dẹp vệ sinh v.v... còn nam giới trong cộng đồng thường tham gia bàn bạc, lựa chọn và quyết định những vấn đề lớn, quan trọng trong cộng đồng v.v... Đó là những vai trò truyền thống của 2 giới. Nếu quan niệm truyền thống này về vai trò giới không thay đổi, sự bất bình đẳng giới vẫn còn sẽ tồn tại, khó có thể xoá bỏ được. 1.4 Giới và phát triển (Gender and Development - GAD) “Giới và phát triển” là quan điểm đòi hỏi phải xem xét và giải quyết các vấn đề về giới với sự tham gia của cả nam và nữ trong tất cả lĩnh vực chính trị, kinh tế, giáo dục, sức khoẻ v.v...Như vậy vấn đề giới không phải chỉ là vấn đề của nữ (như nhiều người thường nhầm lẫn), mà là vấn đề của cả nam và nữ. Luật bình đẳng giới không phải là Luật dành riêng cho phụ nữ, mà cho cả 2 giới. 10
  9. Quan điểm này hoàn toàn khác với quan điểm “Phụ nữ trong phát triển” (Women in Development - WID) vào cuối những năm 70 của thế kỉ XX. Quan điểm “Phụ nữ trong phát triển” nhằm phát huy sự tham gia đầy đủ của phụ nữ vào quá trình phát triển với tư cách là người thụ hưởng và người thực hiện mục tiêu phát triển. Quan điểm này đã góp phần tích cực trong việc nâng cao tỉ lệ biết chữ, trình độ văn hoá, cải thiện sức khoẻ, tuổi thọ v.v...cho phụ nữ. Tuy nhiên, quan điểm này đã bị phê phán là quá nhấn mạnh vào phụ nữ và vô hình dung đã tăng thêm gánh nặng cho phụ nữ. Phụ nữ vừa phải giỏi việc nước, lại vừa phải đảm việc nhà. Vì vậy sau Hội phụ nữ thế giới lần thứ tư tại Bắc Kinh (1995), quan điểm này đã được điều chỉnh thành quan điểm Giới và phát triển. 1.5 Trao quyền cho phụ nữ (Empowerment of women) Đây là một khái niệm tương đối mới không chỉ ở Việt Nam, mà cả ở các nước. Ở Việt Nam, khái niệm này còn sử dụng với các thuật ngữ khác nhau như “Tạo quyền”, “Tạo quyền năng”, “Nâng cao năng lực” v.v… và còn được hiểu chưa thống nhất. Trao quyền cho giới nào đó được hiểu là giúp giới đó khắc phục mặc cảm, tự ti, an phận, giúp họ nâng cao lòng tự tin vào vai trò và khả năng của bản thân, của giới mình. Với quan niệm như vậy, trao quyền thường gắn liền với các nhóm đối tượng thiệt thòi, yếu thế trong xã hội như phụ nữ, người nghèo, người dân tộc v.v… Họ thường tự ti, mặc cảm, an phận, cam chịu. Với quan niệm như vậy, trao quyền cho phụ nữ hoàn toàn không có nghĩa là đòi quyền lực cho phụ nữ, không có nghĩa kêu gọi phụ nữ đấu tranh đòi quyền lực cho mình. 2. Bình đẳng giới trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình Luật Bình đẳng giới đã quy định rõ bình đẳng giới trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình như sau Bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị (Điều 11) • Nam, nữ bình đẳng trong tham gia quản lý nhà nước, tham gia hoạt động xã hội. • Nam, nữ bình đẳng trong tham gia xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của cộng đồng hoặc quy định, quy chế của cơ quan, tổ chức. • Nam, nữ bình đẳng trong việc tự ứng cử và được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân; tự ứng cử và được giới thiệu ứng cử vào cơ quan lãnh đạo của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp. • Nam, nữ bình đẳng về tiêu chuẩn chuyên môn, độ tuổi khi được đề bạt, bổ nhiệm vào cùng Phấn đấu bình đẳng giới vì sự phát triển cộng đồng bền vững vị trí quản lý, lãnh đạo của cơ quan, tổ chức. Bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế (Điều 12) • Nam, nữ bình đẳng trong việc thành lập doanh nghiệp, tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh, quản lý doanh nghiệp, bình đẳng trong việc tiếp cận thông tin, nguồn vốn, thị trường và nguồn lao động. Bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động (Điều 13) • Nam, nữ bình đẳng về tiêu chuẩn, độ tuổi khi tuyển dụng, được đối xử bình đẳng tại nơi làm việc về việc làm, tiền công, tiền thưởng, bảo hiểm xã hội, điều kiện lao động và các điều kiện làm việc khác. • Nam, nữ bình đẳng về tiêu chuẩn, độ tuổi khi được đề bạt, bổ nhiệm giữ các chức danh trong các ngành, nghề có tiêu chuẩn chức danh. 11
  10. Bìnhđẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo (Điều 14) • Nam, nữ bình đẳng về độ tuổi đi học, đào tạo, bồi dưỡng. • Nam, nữ bình đẳng trong việc lựa chọn ngành, nghề học tập, đào tạo. • Nam, nữ bình đẳng trong việc tiếp cận và hưởng thụ các chính sách về giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ. • Nữ cán bộ, công chức, viên chức khi tham gia đào tạo, bồi dưỡng mang theo con dưới ba mươi sáu tháng tuổi được hỗ trợ theo quy định của Chính phủ. Bình đẳng giới trong lĩnh vực khoa học và công nghệ (Điều 15) • Nam, nữ bình đẳng trong việc tiếp cận, ứng dụng khoa học và công nghệ. • Nam, nữ bình đẳng trong việc tiếp cận các khoá đào tạo về khoa học và công nghệ, phổ biến kết quả nghiên cứu khoa học, công nghệ và phát minh, sáng chế. Bình đẳng giới trong lĩnh vực văn hoá, thông tin, thể dục, thể thao (Điều 16) • Nam, nữ bình đẳng trong tham gia các hoạt động văn hoá, thông tin, thể dục, thể thao. • Nam, nữ bình đẳng trong hưởng thụ văn hoá, tiếp cận và sử dụng các nguồn thông tin. Bình đẳng giới trong lĩnh vực y tế (Điều 17) • Nam, nữ bình đẳng trong tham gia các hoạt động giáo dục, truyền thông về chăm sóc sức khỏe, sức khoẻ sinh sản và sử dụng các dịch vụ y tế. • Nam, nữ bình đẳng trong lựa chọn, quyết định sử dụng biện pháp tránh thai, biện pháp an toàn tình dục, phòng, chống lây nhiễm HIV/AIDS và các bệnh lây truyền qua đường tình dục. • Phụ nữ nghèo cư trú ở vùng sâu, vùng xa, là đồng bào dân tộc thiểu số, trừ các đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, khi sinh con đúng chính sách dân số được hỗ trợ theo quy định của Chính phủ. Bình đẳng giới trong gia đình (Điều 18) • Vợ, chồng bình đẳng với nhau trong quan hệ dân sự và các quan hệ khác liên quan đến hôn nhân và gia đình. • Vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ ngang nhau trong sở hữu tài sản chung, bình đẳng trong sử dụng nguồn thu nhập chung của vợ chồng và quyết định các nguồn lực trong gia đình. • Vợ, chồng bình đẳng với nhau trong việc bàn bạc, quyết định lựa chọn và sử dụng biện pháp kế hoạch hoá gia đình phù hợp; sử dụng thời gian nghỉ chăm sóc con ốm theo quy định của pháp luật. • Con trai, con gái được gia đình chăm sóc, giáo dục và tạo điều kiện như nhau để học tập, Phấn đấu bình đẳng giới vì sự phát triển cộng đồng bền vững lao động, vui chơi, giải trí và phát triển. • Các thành viên nam, nữ trong gia đình có trách nhiệm chia sẻ công việc gia đình. 3. Các nguyên tắc cơ bản và các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới Các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới Luật Bình đẳng giới đã đưa ra 6 nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới như sau: • Nam, nữ bình đẳng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình. • Nam, nữ không bị phân biệt đối xử về giới. • Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới không bị coi là phân biệt đối xử về giới. • Chính sách bảo vệ và hỗ trợ người mẹ không bị coi là phân biệt đối xử về giới. • Bảo đảm lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng và thực thi pháp luật. • Thực hiện bình đẳng giới là trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân. 12
  11. Các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới LuậtBình đẳng giới đã đưa ra các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới bao gồm: • Quy định tỷ lệ nam, nữ hoặc bảo đảm tỷ lệ nữ thích đáng tham gia, thụ hưởng. • Đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ năng lực cho nữ hoặc nam. • Hỗ trợ để tạo điều kiện, cơ hội cho nữ hoặc nam. • Quy định tiêu chuẩn, điều kiện đặc thù cho nữ hoặc nam. • Quy định nữ được quyền lựa chọn trong trường hợp nữ có đủ điều kiện, tiêu chuẩn như nam. • Quy định việc ưu tiên nữ trong trường hợp nữ có đủ điều kiện, tiêu chuẩn như nam. Các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong từng lĩnh vực được quy định cụ thể như sau: Các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị: • Bảo đảm tỷ lệ thích đáng nữ đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân phù hợp với mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới. • Bảo đảm tỷ lệ nữ thích đáng trong bổ nhiệm các chức danh trong cơ quan nhà nước phù hợp với mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới. Các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế: • Doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ được ưu đãi về thuế và tài chính theo quy định của pháp luật. • Lao động nữ khu vực nông thôn được hỗ trợ tín dụng, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư theo quy định của pháp luật. Các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động: • Quy định tỷ lệ nam, nữ được tuyển dụng lao động. • Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho lao động nữ. • Người sử dụng lao động tạo điều kiện vệ sinh an toàn lao động cho lao động nữ làm việc trong một số ngành, nghề nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại. Các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo: • Quy định tỷ lệ nam, nữ tham gia học tập, đào tạo. • Lao động nữ khu vực nông thôn được hỗ trợ dạy nghề theo quy định của pháp luật. 4. Trách nhiệm của UBND các cấp, của gia đình và của công dân trong việc thực hiện và bảo đảm bình đẳng giới Phấn đấu bình đẳng giới vì sự phát triển cộng đồng bền vững Trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân các cấp Điều 28, Luật Bình đẳng giới đã quy định trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân các cấp trong việc thực hiện và bảo đảm bình đẳng giới như sau: • Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới tại địa phương. • Trình Hội đồng nhân dân ban hành hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật về bình đẳng giới theo thẩm quyền. • Tổ chức thực hiện pháp luật về bình đẳng giới ở địa phương. • Thực hiện thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật và giải quyết khiếu nại, tố cáo về bình đẳng giới. • Tổ chức, chỉ đạo việc tuyên truyền, giáo dục về giới và pháp luật về bình đẳng giới cho nhân dân địa phương. 13
  12. Trách nhiệm của gia đình Điều 33, Luật Bình đẳng giới đã quy định trách nhiệm của gia đình trong việc thực hiện và bảo đảm bình đẳng giới như sau: • Tạo điều kiện cho các thành viên trong gia đình nâng cao nhận thức, hiểu biết và tham gia các hoạt động về bình đẳng giới. • Giáo dục các thành viên có trách nhiệm chia sẻ và phân công hợp lý công việc gia đình. • Chăm sóc sức khoẻ sinh sản và tạo điều kiện cho phụ nữ thực hiện làm mẹ an toàn. • Đối xử công bằng, tạo cơ hội như nhau giữa con trai, con gái trong học tập, lao động và tham gia các hoạt động khác. Trách nhiệm của công dân Điều 34, Luật Bình đẳng giới đã quy định trách nhiệm của công dân trong việc thực hiện và bảo đảm bình đẳng giới như sau: Công dân nam, nữ có trách nhiệm sau đây: • Học tập nâng cao hiểu biết, nhận thức về giới và bình đẳng giới. • Thực hiện và hướng dẫn người khác thực hiện các hành vi đúng mực về bình đẳng giới. • Phê phán, ngăn chặn các hành vi phân biệt đối xử về giới. • Giám sát việc thực hiện và bảo đảm bình đẳng giới của cộng đồng, của cơ quan, tổ chức và công dân. 5. Các hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới Luật Bình đẳng giới đã qui định rõ các hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong các lĩnh vực như sau: Trong lĩnh vực chính trị: • Cản trở việc nam hoặc nữ tự ứng cử, được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, vào cơ quan lãnh đạo của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp vì định kiến giới. • Không thực hiện hoặc cản trở việc bổ nhiệm nam, nữ vào cương vị quản lý, lãnh đạo hoặc các chức danh chuyên môn vì định kiến giới. • Đặt ra và thực hiện quy định có sự phân biệt đối xử về giới trong các hương ước, quy ước của cộng đồng hoặc trong quy định, quy chế của cơ quan, tổ chức. Phấn đấu bình đẳng giới vì sự phát triển cộng đồng bền vững Trong lĩnh vực kinh tế: • Cản trở nam hoặc nữ thành lập doanh nghiệp, tiến hành hoạt động kinh doanh vì định kiến giới. • Tiến hành quảng cáo thương mại gây bất lợi cho các chủ doanh nghiệp, thương nhân của một giới nhất định. Trong lĩnh vực lao động: • Áp dụng các điều kiện khác nhau trong tuyển dụng lao động nam và lao động nữ đối với cùng một công việc mà nam, nữ đều có trình độ và khả năng thực hiện như nhau, trừ trường hợp áp dụng biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới. • Từ chối tuyển dụng hoặc tuyển dụng hạn chế lao động, sa thải hoặc cho thôi việc người lao động vì lý do giới tính hoặc do việc mang thai, sinh con, nuôi con nhỏ. • Phân công công việc mang tính phân biệt đối xử giữa nam và nữ dẫn đến chênh lệch về thu nhập hoặc áp dụng mức trả lương khác nhau cho những người lao động có cùng trình 14
  13. độ, năng lực vì lý do giới tính. • Không thực hiện các quy định của pháp luật lao động quy định riêng đối với lao động nữ. Trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo: • Quy định tuổi đào tạo, tuổi tuyển sinh khác nhau giữa nam và nữ. • Vận động hoặc ép buộc người khác nghỉ học vì lý do giới tính. • Từ chối tuyển sinh những người có đủ điều kiện vào các khóa đào tạo, bồi dưỡng vì lý do giới tính hoặc do việc mang thai, sinh con, nuôi con nhỏ. • Giáo dục hướng nghiệp, biên soạn và phổ biến sách giáo khoa có định kiến giới. Trong lĩnh vực khoa học và công nghệ: • Cản trở nam, nữ tham gia hoạt động khoa học, công nghệ. • Từ chối việc tham gia của một giới trong các khoá đào tạo về khoa học và công nghệ. Trong lĩnh vực văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao: • Cản trở nam, nữ sáng tác, phê bình văn học, nghệ thuật, biểu diễn và tham gia các hoạt động văn hóa khác vì định kiến giới. • Sáng tác, lưu hành, cho phép xuất bản các tác phẩm dưới bất kỳ thể loại và hình thức nào để cổ vũ, tuyên truyền bất bình đẳng giới, định kiến giới. • Truyền bá tư tưởng, tự mình thực hiện hoặc xúi giục người khác thực hiện phong tục tập quán lạc hậu mang tính phân biệt đối xử về giới dưới mọi hình thức. Trong lĩnh vực y tế: • Cản trở, xúi giục hoặc ép buộc người khác không tham gia các hoạt động giáo dục sức khỏe vì định kiến giới. • Lựa chọn giới tính thai nhi dưới mọi hình thức hoặc xúi giục, ép buộc người khác phá thai vì giới tính của thai nhi. Trong gia đình: • Cản trở thành viên trong gia đình có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật tham gia định đoạt tài sản thuộc sở hữu chung của hộ gia đình vì lý do giới tính. • Không cho phép hoặc cản trở thành viên trong gia đình tham gia ý kiến vào việc sử dụng tài sản chung của gia đình, thực hiện các hoạt động tạo thu nhập hoặc đáp ứng các nhu cầu khác của gia đình vì định kiến giới. • Đối xử bất bình đẳng với các thành viên trong gia đình vì lý do giới tính. • Hạn chế việc đi học hoặc ép buộc thành viên trong gia đình bỏ học vì lý do giới tính. Phấn đấu bình đẳng giới vì sự phát triển cộng đồng bền vững • Áp đặt việc thực hiện lao động gia đình, thực hiện biện pháp tránh thai, triệt sản như là trách nhiệm của thành viên thuộc một giới nhất định. II. TH Ự C TR Ạ NG, NGUYÊN NHÂN BẤ T BÌNH Đ Ẳ NG GI Ớ I VÀ GIẢ I PHÁP NÂNG CAO BÌNH Đ Ẳ NG GI Ớ I 1. Thực trạng bình đẳng giới Trong quá trình phát triển của cách mạng, Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn phấn đấu thực hiện nam nữ bình quyền như một mục tiêu của cách mạng, trong đó đặc biệt coi trọng mục tiêu bình đẳng giới đối với phụ nữ. Phụ nữ Việt Nam đã và đang đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội … Tuy nhiên, bất bình đẳng giới đối với phụ nữ vẫn còn nặng nề. Trong lịch sử 15
  14. dân tộc ta, những cống hiến, hy sinh của bao thế hệ phụ nữ từ thời bà Trưng, bà Triệu cách đây 1968 năm đã góp phần gìn giữ độc lập của dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các tầng lớp phụ nữ hăng hái tham gia kháng chiến cứu quốc, làm nên truyền thống "Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang", góp phần quan trọng vào thắng lợi của sự nghiệp giải phóng dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định sự đóng góp to lớn của phụ nữ trên tất cả các lĩnh vực: “Từ đầu thế kỷ thứ nhất, Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa, đánh giặc cứu nước cho đến ngày nay, mỗi khi nước nhà có nguy nan thì phụ nữ ta đều hăng hái đứng lên, góp phần xứng đáng của mình vào sự nghiệp giải phóng dân tộc. Nhân dân ta rất biết ơn các bà mẹ cả hai miền Nam Bắc đã sinh đẻ và nuôi dạy thế hệ anh hùng của nước ta ... Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, hàng vạn phụ nữ đã trở thành cán bộ chuyên môn các ngành và cán bộ lãnh đạo, làm giám đốc và phó giám đốc các xí nghiệp, chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp, chủ tịch ủy ban hành chính, bí thư chi bộ ... Như thế là từ xưa đến nay, từ Nam đến Bắc, từ trẻ đến già, phụ nữ Việt Nam thật là anh hùng ..." Vai trò của phụ nữ đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định "Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ". Xuất phát từ vai trò và sự đóng góp của phụ nữ, Đảng, Nhà nước luôn quan tâm tới vấn đề giải phóng phụ nữ. Bác đã khẳng định ý nghĩa của việc giải phóng phụ nữ như sau: “Nói phụ nữ là nói phần nửa xã hội. Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài người, nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng CNXH mới có một nửa”. Để thực hiện mục tiêu nam nữ bình đẳng, Đảng, Nhà nước và Bác Hồ luôn quan tâm chăm lo đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần cho phụ nữ, thể hiện qua nhiều chủ trương, chính sách, quy định cụ thể trách nhiệm của cơ quan nhà nước các cấp, tạo điều kiện cho các tầng lớp phụ nữ hoạt động và tham gia quản lý Nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã yêu cầu “Đảng và Chính phủ ta cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cắt nhắc và giúp đỡ phụ nữ phụ trách thêm nhiều công việc, kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Đó là cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thực sự cho phụ nữ” Phấn đấu bình đẳng giới vì sự phát triển cộng đồng bền vững Năm 1979 Việt Nam là một trong những nước đầu tiên ký tham gia Công ước của Liên Hợp Quốc về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (Công ước CEDAW). Gần đây nhất, tháng 4/2007, Bộ Chính trị đã có Nghị quyết 11/T.Ư về "Công tác phụ nữ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước". Trong quá trình thực hiện sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng và Nhà nước luôn chú trọng tìm mọi biện pháp để đẩy mạnh bình đẳng giới, trong đó có việc thông qua Luật Bình đẳng giới (Năm 2006), Luật Phòng, chống bạo lực gia đình (năm 2007). Từ 1990 đến nay, Chính phủ đã hai lần công bố Chiến lược và Kế hoạch hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam. Với sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước, mục tiêu bình đẳng giới ở nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn. Tỉ lệ nữ tham gia cấp uỷ và các cơ quan dân cử ngày càng tăng. Với tỉ lệ 27,3% phụ nữ trong quốc hội, Việt Nam là nước đứng đầu trong châu Á về lĩnh vực này. Trong các cơ quan quản lí nhà nước, tỉ lệ nữ Bộ trưởng và tương đương là 11,9%. Tỉ lệ nữ là Thứ trưởng và tương đương là 12,85%. Việt Nam đạt chỉ số phát triển giới (GDI) cao. Năm 1995, chỉ số GDI của Việt Nam là 0,537 xếp thứ 70/130 nước. Năm 1999, chỉ số này tăng lên 0,662 xếp thứ 91/174 16
  15. nước. Năm 2002, VN xếp thứ 89/174 nước. Tỉ lệ nữ biết chữ, trình độ văn hoá của phụ nữ đã được tăng lên đáng kể: 19,9% phụ nữ là tiến sĩ; 30% số người có trình độ sau đại học là nữ. Tỉ lệ nữ tham gia lao động là 83% cao nhất khu vực v.v... Trước những thành quả trên, Việt Nam được coi là điểm sáng về thực hiện mục tiêu bình đẳng giới của Liên Hợp Quốc. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, bất bình đẳng giới vẫn còn nặng nề, đặc biệt bất bình đẳng giới đối với phụ nữ. • Trong gia đình, công việc nội trợ đều do phụ nữ làm và mọi người đều cho đó là thiên chức của phụ nữ. Vì vậy phụ nữ có ít thời gian học tập, phấn đấu, nghỉ ngơi giải trí hoặc tham gia các công việc xã hội. Quyền hạn, tiếng nói của nam giới trong gia đình vẫn chiếm ưu thế, kể cả khi phụ nữ là lao động chính, là người kiếm tiền chủ yếu. Tệ nạn bạo lực gia đình đối với phụ nữ ngày càng tăng, nhất là tệ nạn bạo lực về tinh thần, bạo lực về tình dục. • Trong lao động, người phụ nữ thường làm những công việc giản đơn, không có kĩ thuật. Trong tuyển dụng lao động, đề bạt, lên lương còn có sự phân biệt đối xử đối với phụ nữ v.v... • Ngoài xã hội, phụ nữ còn chưa được tôn trọng thực sự. Tỉ lệ nữ quản lí lãnh đạo ở các cấp còn thấp, chưa tương xứng với lực lượng và sự đóng góp của phụ nữ. • Trong cộng đồng, phụ nữ thường tham gia công việc tổ chức, bếp núc, còn đàn ông thường tham gia quản lí, lãnh đạo, bàn bạc, quyết định những công việc chung của cộng đồng. Đặc biệt, những mặt trái của cơ chế thị trường đã và đang tác động tiêu cực đến đời sống, sức khỏe của phụ nữ. Những tệ nạn xã hội như buôn bán phụ nữ, ma túy và mại dâm ... vẫn chưa được ngăn chặn. 2. Nguyên nhân bất bình đẳng giới Nguyên nhân bất bình đẳng giới, đặc biệt bất bình đẳng giới đối với phụ nữ nhìn chung đa dạng. Tuy nhiên, có thể nêu lên một số nguyên nhân chính sau đây: Thách thức lớn đối với vấn đề bình đẳng giới hiện nay là tư tưởng phong kiến, tư tưởng gia trưởng, trọng nam, khinh nữ, ngay cả ở thành phố và ở những người có trình độ văn hoá cao. Tư tưởng coi con trai mới là người nối dõi tông đường vẫn còn nặng nề. Phong tục, tập quán lạc hậu như tệ nạn “Lấy chồng sớm”, phụ nữ không được ngồi ăn cơm chung với chồng hoặc không được tham gia công việc của họ hàng, dòng tộc vẫn còn nặng nề ở một số địa phương. Nhiều định kiến sai lầm về phụ nữ, về vai trò và khả năng của phụ nữ vấn còn tồn tại, không dễ gì vượt qua trong thời gian tới. Bản thân phụ nữ còn có tư tưởng mặc cảm, tự ti, an phận, cam chịu, không có chí tiến thủ, không chịu phấn đấu. Vì vậy, trình độ, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ hạn chế của nhiều phụ nữ cũng là một trong những nguyên nhân chủ yếu của bất bình đẳng giới hiện nay. Nhận thức và hiểu Phấn đấu bình đẳng giới vì sự phát triển cộng đồng bền vững biết của xã hội, của bản thân phụ nữ về giới, bình đẳng giới, về luật pháp, về các quyền của giới mình ... còn hạn chế. Một nguyên nhân khách quan quan trọng nữa là nhận thức của xã hội của các cấp lãnh đạo về giới và bình đẳng giới còn nhiều hạn chế. Việc thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật chưa được giám sát chặt chẽ, thường xuyên; chế tài xử phạt còn chưa nghiêm cũng là một nguyên nhân quan trọng của bất bình đẳng giới ngày càng gia tăng như hiện nay. 3. Giải pháp nâng cao bình đẳng giới Để đạt được các mục tiêu cam kết với quốc tế về bình đẳng giới, đặc biệt bình đẳng giới đối với phụ nữ, cần thiết và cấp bách phải có hệ thống các giải pháp đồng bộ, đủ mạnh. • Đẩy mạnh tuyên truyền phê phán tư tưởng phong kiến trọng nam, khinh nữ, phê phán 17
  16. những phong tục, tập quán lạc hậu có ảnh hưởng tới sự phát triển, bình đẳng giới, phê phán những định kiến giới v.v... • Tăng cường giáo dục, truyền thông về giới và bình đẳng giới nhằm nâng cao nhận thức của xã hội, của các cấp lãnh đạo về giới và bình đẳng giới. • Tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lí, các văn bản dưới luật; Tăng cường giám sát việc thực thi pháp luật và xử phạt nghiêm, kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật. • Tạo điều kiện, cơ hội cho phụ nữ được tham gia, được học tập để nâng cao trình độ mọi mặt; Giúp phụ nữ nâng cao quyền năng, nâng cao lòng tự tin về bản thân, về vai trò và khả năng của phụ nữ nói chung và của bản thân mình nói riêng. III. CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VÀ CÁC QUI ĐỊNH PHÁP LUẬT CÓ LIÊN QUAN TỚI BÌNH ĐẲNG GIỚI Bình đẳng giới là một trong những mục tiêu lớn của Đảng và Nhà nước ta. Mục tiêu phấn đấu bình đẳng giới luôn được khẳng định trong các văn kiện của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Quan điểm nam, nữ bình quyền của Đảng và Bác Hồ được xác định ngay trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng và Hiến pháp đầu tiên (1946). Các Hiến pháp sửa đổi sau này (1959, 1980, 1992) vẫn tiếp tục khẳng định vấn đề bình đẳng giới. Chiến lược về phát triển kinh tế và xoá đói, giảm nghèo 2001-2010 đã xác định bình đẳng giới là mục tiêu có ý nghĩa thiết yếu đối với toàn bộ chiến lược. Luật Hôn nhân và Gia đình được Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 9/6/2000 và có hiệu lực từ ngày 1/1/2001 đã quy định rõ Quan hệ hôn nhân và gia đình được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ; Cấm tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ; Cấm kết hôn giả tạo, lừa dối để kết hôn, ly hôn; Cấm cưỡng ép ly hôn, ly hôn giả tạo; Cấm yêu sách của cải trong việc cưới hỏi; Cấm người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ; Cấm ngược đãi, hành hạ ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con, cháu, anh, chị, em và các thành viên khác trong gia đình; Mọi hành vi vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình phải được xử lý kịp thời, nghiêm minh, đúng pháp luật; Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan khác có thẩm quyền có biện pháp kịp thời ngăn chặn và xử lý nghiêm minh đối với người có hành vi vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình; Vợ, chồng bình đẳng với nhau, có nghĩa vụ và quyền ngang nhau về mọi mặt trong gia đình; Vợ, chồng tôn trọng và giữ gìn danh dự, nhân phẩm, uy tín cho nhau; Cấm vợ, chồng có hành vi ngược đãi, hành hạ, xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của nhau; Vợ, chồng tôn trọng quyền tự do Phấn đấu bình đẳng giới vì sự phát triển cộng đồng bền vững tín ngưỡng, tôn giáo của nhau; không được cưỡng ép, cản trở nhau theo hoặc không theo một tôn giáo nào; Vợ, chồng cùng bàn bạc, giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau chọn nghề nghiệp; học tập, nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ; tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội theo nguyện vọng và khả năng của mỗi người v.v... Luật Bình đẳng giới được Quốc Hội khoá XI kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 29/11/2006 và có hiệu lực từ ngày 1/7/2007 là cơ sở pháp lí quan trọng bảo đảm bình đẳng giới. Luật đã quy định rõ các nội dung về bình đẳng giới trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình (lĩnh vực chính trị; Kinh tế; Lao động; Giáo dục và đào tạo; Khoa học và công nghệ; Văn hoá, thông tin, thể dục, thể thao; Y tế; và trong gia đình), các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới. Luật Bình đẳng giới cũng đã nêu rõ Chính sách của Nhà nước về bình đẳng giới như sau: • Bảo đảm bình đẳng giới trong mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình; hỗ trợ và tạo điều kiện cho nam, nữ phát huy khả năng, có cơ hội như nhau để tham gia vào quá trình phát triển và thụ hưởng thành quả của sự phát triển. 18
  17. • Bảo vệ, hỗ trợ người mẹ khi mang thai, sinh con và nuôi con nhỏ; tạo điều kiện để nam, nữ chia sẻ công việc gia đình. • Áp dụng những biện pháp thích hợp để xoá bỏ phong tục, tập quán lạc hậu cản trở thực hiện mục tiêu bình đẳng giới. • Khuyến khích cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân tham gia các hoạt động thúc đẩy bình đẳng giới. • Hỗ trợ hoạt động bình đẳng giới tại vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn; hỗ trợ những điều kiện cần thiết để nâng chỉ số phát triển giới đối với các ngành, lĩnh vực và địa phương mà chỉ số phát triển giới thấp hơn mức trung bình của cả nước. Luật Bình đẳng giới cũng xác định các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới và quy định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, gia đình và cá nhân trong việc thực hiện và bảo đảm bình đẳng giới. Luật Bình đẳng giới quy định Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm giám sát việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới tại địa phương. Điều 42, Luật Bình đẳng giới đã qui định các hình thức xử lý vi phạm pháp luật về bình đẳng giới như sau: • Người nào có hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử lý hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. • Cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới mà gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật. Mọi hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới phải được phát hiện, ngăn chặn kịp thời. Việc xử lý vi phạm pháp luật về bình đẳng giới phải được tiến hành nhanh chóng, công minh, triệt để theo đúng quy định của pháp luật. Đặc biệt, để bảo đảm bình đẳng giới đối với phụ nữ, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách đối với phụ nữ nói riêng. Tháng 2/1982, Việt Nam đã phê chuẩn Công ước của Liên Hợp Quốc về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ (Gọi tắt là Công ước CEDAW hay còn gọi là Công ước về phụ nữ hay Điều ước quốc tế về quyền phụ nữ). Đây là văn kiện quốc tế mang tính ràng buộc pháp lí đầu tiên nhằm ngăn chặn sự phân biệt đối xử đối với phụ nữ. Mục đích của Công ước này Phấn đấu bình đẳng giới vì sự phát triển cộng đồng bền vững là mang lại quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ. Các quyền của phụ nữ được Công ước bảo vệ là: 1) Quyền được giáo dục; 2) Quyền được hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe đầy đủ, bao gồm cả dịch vụ KKH gia đình; 3) Quyền được vay tiền ngân hàng và tham gia các hình thức tín dụng khác; 4) Quyền được tham gia các hoạt động giải trí, TDTT, các mặt của đời sống văn hoá; 5) Quyền được quyết định số con và khoảng cách giữa các con; 6) Quyền được chia sẻ nghĩa vụ làm cha, mẹ; 7) Quyền được tham gia bầu cử, ứng cử, tham gia những chức vụ trong quản lí nhà nước; 8) Quyền được hưởng các cơ hội làm việc như nhau cũng như các phúc lợi xã hội khác; 9) Quyền được thù lao như nhau trên cơ sở thành qủa công việc; 10) Quyền được bảo vệ trước mọi hình thức bạo lực về thể chất, tình dục, cảm xúc, tinh thần và kinh tế, trước mọi hình thức bắt làm nô lệ hay mại dâm v.v... Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ đến 2010 đã đề ra 5 mục tiêu chính: 1) Thực hiện 19
  18. các quyền bình đẳng của phụ nữ trong lao động và việc làm; 2) Thực hiện các quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực giáo dục; 3) Thực hiện các quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực sức khoẻ; 4) Nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của phụ nữ trong mọi lĩnh vực để tăng số lượng phụ nữ được giới thiệu và bầu tham gia lãnh đạo các cấp, các ngành; 5) Tăng cường năng lực hoạt động vì sự tiến bộ của phụ nữ. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X tiếp tục khẳng định “Nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống tinh thần; tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trò của người công dân, người lao động, người mẹ, người thầy đầu tiên của con người. Bồi dưỡng, đào tạo phụ nữ để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động xã hội, các cơ quan lãnh đạo và quản lí các cấp, chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ bà mẹ, trẻ em. Bổ sung và hoàn thiện các chính sách về bảo hộ lao động, bảo hiểm xã hội, thai sản, chế độ đối với lao động nữ. Kiên quyết đấu tranh chống các tệ nạn xã hội và xúc phạm nhân phẩm của phụ nữ và trẻ em”. Tóm lại, Đảng và Nhà nước có nhiều chủ trương, chính sách để thực hiện và đảm bảo bình đẳng giới. Đặc biệt, bình đẳng giới đã được thể chế hoá bằng Luật bình đẳng giới. NỘI DUNG CẦN GHI NHỚ Phấn đấu bình đẳng giới là một mục tiêu quan trọng Đảng và Nhà nước nhằm bảo đảm sự phát triển bền vững của quốc gia. Bình đẳng giới đã đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, bất bình đẳng giới, đặc biệt bất bình đẳng giới đối với phụ nữ còn nặng nề ở một số địa phương. Việc nâng cao nhận thức cho xã hội, cho các cấp lãnh đạo và đặc biệt cho người dân ở cộng đồng về giới và bình đẳng giới là giải pháp quan trọng trong việc thực hiện bình đẳng giới. Để bảo đảm bình đẳng giới, đặc biệt bình đẳng giới đối với phụ nữ, trước hết bản thân phụ nữ cần phải: • Tự hào về vai trò và sự đóng góp của mình, của giới mình đối với gia đình, xã hội và sự phát triển của đất nước, về truyền thống “Anh hùng, bất khuất, trung hậu đảm đang” của phụ nữ Việt Nam. • Vượt qua định kiến của xã hội, của chính mình rằng nội trợ là thiên chức của phụ nữ. Phấn đấu bình đẳng giới vì sự phát triển cộng đồng bền vững • Tự tin vào khả năng của mình. Phụ nữ có thể làm những công việc mà nam giới làm. • Đấu tranh bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ. Phụ nữ đều có quyền, đều bình đẳng với nam giới trong tất cả các lĩnh vực. • Phấn đấu, tự khẳng định mình, không trông chờ vào sự chiếu cố. 20
  19. Phụ lục 1 SỐ LIỆU VỀ PHỤ NỮ VIỆT NAM I. Tỉ lệ nữ trong dân số • Nam: 49,18% Nữ: 50,82% • Dân số nông thôn: 74,28% Dân số thành thị: 25,78% (Nguồn: Khảo sát mức sống dân cư, 2004) II. Tỉ lệ nữ trong lực lượng lao động cả nước: 43,6 triệu, chiếm 49% III. Tỉ lệ nữ trong một số ngành nghề • Nông lâm ngư nghiệp: 50,2% • Y tế: 57,0% • Công nghiệp: 39,4% • Dịch vụ, thương mại, du lịch, bưu chính viễn thông: 51,8% Nguồn: Ban dân vận “Những điều cần biết về công ước CEDAW” IV. Tỉ lệ nam nữ tham gia các ngành nghề Ngành nghề Nam Nữ Giáo dục 15 57 Hành chính, sự nghiệp, quản lí 29 10 Lao động giản đơn 6 3 Lao động thủ công có tay nghề 24 9 Nông nghiệp 10 8 Bán hàng, dịch vụ 3 2 Các ngành khác 13 11 100 100 Phấn đấu bình đẳng giới vì sự phát triển cộng đồng bền vững V. Tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội qua các nhiệm kỳ Nhiệm kỳ Nữ ĐB Tổng số ĐB Tỷ lệ nữ/ Tổng số Khoá XII (2007-2012) 127 493 25.76% Khoá XI (2002-2007) 136 498 27.31% Khoá X (1997-2002) 118 450 26.22% Khoá IX (1992-1997) 73 395 18.48% Khoá VIII (1987-1992) 88 496 17.74% Khoá VII (1981-1987) 108 496 21.77% Khoá VI (1976-1981) 132 492 26.83% Khoá V (1975-1976) 137 424 32.31% 21
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2