Cơ hội và thách thức đối với xuất khẩu nông sản Việt Nam khi tham gia Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP
lượt xem 3
download
Bài viết này đã nêu được tình hình xuất khẩu nông sản của Việt Nam trong thời gian qua; chỉ ra cơ hội và thách thức của xuất khẩu nông sản của Việt nam khi tham gia TPP; Đồng thời đề xuất một số biện pháp cơ bản nhằm tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức, góp phần tăng cường xuất khẩu nông sản của Việt Nam trong thời gian tới.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Cơ hội và thách thức đối với xuất khẩu nông sản Việt Nam khi tham gia Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP
- CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI XUẤT KHẨU NÔNG SẢN VIỆT NAM KHI THAM GIA HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG TPP OPPORTUNITIES AND CHALLENGES FOR VIETNAM’S AGRICULTURAL EXPORTS WHEN JOINING THE TRANS-PACIFIC PARTNERSHIP (TPP) ThS. Nguyễn Quốc Tiến Trường Đại học Thương mại Tóm tắt TPP được xem là Hiệp định cúa thế ký XXI. Hiệp định này sẽ có ánh hưởng nhiều đến xuất khẩu đặc biệt là đến xuất khẩu hàng nông sản cúa Việt Nam. Bài viết này đã nêu được tình hình xuất khẩu nông sản cúa Việt Nam trong thời gian qua; chỉ ra cơ hội và thách thức cúa xuất khẩu nông sản của Việt nam khi tham gia TPP; đồng thời đề xuất một số biện pháp cơ bản nhằm tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức, góp phần tăng cường xuất khẩu nông sản cúa Việt Nam trong thời gian tới. Từ khóa: TPP, xuất khẩu, nông sản, cơ hội, thách thức Abstract The Trans-Pacific Partnership (TPP) is considered the agreement of the nineteenth century. This agreement will have much influence on exports, especially Vietnam's agricultural exports. This article describes the situation of Vietnam’s agricultural exports in recent years. Besides, the author points out the opportunities and challenges of the agricultural exports when Vietnam joins the TPP. Moreover, the article proposes some basic measures to take advantage of opportunities and to overcome challenges, which contributes to strengthening agricultural exports of Vietnam in the coming time. Key words: the TPP, exports, agricultural products, opportunities, challenges. 687
- Hiện nay hội nhập quốc tế là xu hướng đang diễn ra ở trên thế giới, Việt nam là một nước đang tích cực tham gia các hoạt động này, hàng loạt các hiệp định tự do hóa thương mại đã được ký kết với các nước và các khối ở trên thế giới. Gần đây nhất, ngày 04 tháng 02 năm 2016 Việt nam cùng 11 nước đã tham gia ký kết hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP). Hiệp định này sẽ tạo ra nhiều cơ hội và những thách thức cho hoạt động Thương mại Quôc tế của Việt nam đặc biệt trong hoạt động xuất khẩu nông sản, mặt hàng chủ lực của Việt nam 1. Các nội dung trong TPP ảnh hưõng đến xuất khẩu nông sản của Việt Nam Việc xóa bỏ các loại thuế, theo TPP, hầu hết các khoản thuế quan đối với hàng hóa nông sản xuất khẩu của các nước sẽ được xóa bỏ. Các nước cam kết sẽ xóa bỏ thuế nhập khẩu dành cho hàng hóa của Việt Nam ngay khi Hiệp định có hiệu lực khoảng từ 78 - 95% số dòng thuế và xóa bỏ hoàn toàn từ 97 - 100% dòng thuế. Các mặt hàng còn lại sẽ có lộ trình xóa bỏ thuế trong vòng 5 - 10 năm, trừ một số mặt hàng nhạy cảm có lộ trình trên 10 năm hoặc áp dụng biện pháp hạn ngạch thuế quan. Nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam vào thị trường TPP được hưởng thuế suất 0% ngay sau khi Hiệp định có hiệu lực hoặc sau 3 - 5 năm như nông sản, thủy sản, một số mặt hàng dệt may, giày dép, đồ gỗ, hàng điện, điện tử, cao su… Về xác định mức thuế suất mới (TRQ), đối với một số sản phẩm, việc tiếp cận thị trường ưu tiên sẽ được cung cấp qua quá trình xác định mức thuế suất mới, cho phép tiếp cận một số lượng xác định các mặt hàng nhập khẩu với mức thuế suất ưu đãi, gần như bằng zero. TPP còn quy định các biện pháp bảo vệ cho phép một nước nhập khẩu đánh thuế đặc biệt vào một mặt hàng khi số lượng nhập khẩu tăng vọt, gây ra hoặc đe doạ gây ra tổn hại trầm trọng cho ngành sản xuất nội địa liên can. TPP quy định hạn chế sử dụng các biện pháp bảo vệ. Về các biện pháp kiểm dịch động thực vật và vệ sinh an toàn thực phẩm (SPS), TPP xây dựng và tăng cường các quy định của Hiệp định về các biện pháp kiểm dịch động thực vật và vệ sinh an toàn thực phẩm (SPS) của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Chương 7 của Hiệp định TPP đã mở rộng các định SPS hiện hành của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Chương này chứa đựng các nguyên tắc mới nhằm hạn chế khả năng sử dụng các biện pháp bảo vệ như rào cản để hạn chế thương mại nông nghiệp. TPP đi xa hơn các quy định của WTO theo cách chi tiết hơn, minh bạch hơn và khu vực hóa các quy định cũng như các quy tắc SPS mới trong việc hạn chế thương mại bằng công tác thanh kiểm, cấp chứng nhận và kiểm toán. Một điểm quan trọng trong chương SPS của TPP là cho phép các nhà xuất khẩu tham gia vào các tiến trình quản lý rủi ro liên quan đến nhập khẩu. Điểm này sẽ gây khó khăn hơn cho quốc gia nhập khẩu khi tự ý hạn chế nhập khẩu. Chương SPS cũng có các điều khoản đặc thù cho thương mại thông qua việc tách bạch vấn đề an toàn sinh học, kể cả trường hợp lãnh thổ hoặc bộ phận của lãnh thổ của quốc gia xuất khẩu gặp phải dịch bệnh động vật hoặc thực vật. Những các nguyên tắc bổ sung này phản ánh một sự nỗ lực mạnh mẽ để giải quyết các biện pháp nhập khẩu SPS mà nhằm mục đích bảo hộ. Chúng kết hợp thực hành mới một cách tốt nhất để tạo điều kiện cho thương mại nông nghiệp trong khi vẫn duy trì chủ quyền của các thành viên TPP trong việc bảo vệ chống lại sâu bệnh, dịch bệnh và nguy cơ truyền 688
- bệnh qua thực phẩm. TPP thúc đẩy phát triển và áp dụng các biện pháp SPS theo phương thức chắc chắn về khoa học, dựa trên cơ sở rủi ro, đảm bảo các cơ quan quản lý tại Việt Nam và các nước thành viên TPP khác có thể bảo vệ an toàn thực phẩm và sức khỏe cây trồng và động vật. Các điều khoản của hiệp định bao gồm tăng cường tính minh bạch, thông báo nhanh về các lô hàng tại thời điểm nhập khẩu và thông tin công khai hơn trong quá trình thực hiện các biện pháp SPS. Hiệp định cũng cung cấp các cơ chế giải quyết tranh chấp và tư vấn để giải quyết các vấn đề SPS giữa các chính phủ một cách kịp thời. Điểm đặc biệt là TPP đánh dấu lần đầu tiên chủ đề công nghệ sinh học nông nghiệp được bao hàm trong một hiệp định thương mại song phương hoặc khu vực. Thừa nhận công nghệ sinh học nông nghiệp là một công cụ quan trọng để đảm bảo lương thực thực phẩm cho dân số thế giới đang ngày càng tăng theo cách thức bền vững, Hiệp định bao gồm các điều khoản về công nghệ sinh học nông nghiệp cho phép các nước tham gia TPP thúc đẩy sự minh bạch trong các tiến trình quyết định của mình, cùng hợp tác đối với các tình huống về mức độ hiện diện thấp và xúc tiến kịp thời việc công nhận cá sản phẩm công nghệ sinh học hiện đại. Hiệp định TPP cũng tạo ra nhóm làm việc tình nguyện nhằm giải quyết các vấn đề liên quan đến thương mại sản phẩm công nghệ sinh học nông nghiệp. Về nông nghiệp hữu cơ, TPP thúc đẩy sự hợp tác giữa các chính phủ tham gia TPP xem xét công nhận tính tương đương của các tiêu chuẩn hữu cơ. Với các điều khoản công nhận tính tương đương, thương mại về các sản phẩm nông nghiệp hữu cơ được tạo điều kiện. 2. Tổng quan tình hình xuất khẩu nông sản của Việt Nam Xuất khẩu nông sản của Việt Nam tập trung vào một số loại hàng hóa. Xuất khẩu cà phê và gạo chiếm đến hơn một nửa tổng kim ngạch xuất khẩu nông nghiệp, lần lượt là 2,7 tỷ USD và 2,9 tỷ USD vào năm 2015. Mỹ là điểm đến xuất khẩu số 1 của cà phê Việt Nam, chiếm đến 314 triệu USD trong tổng kim ngạch xuất khẩu 578 triệu USD đến các nước gia nhập TPP. Phần lớn gạo của Việt Nam được xuất khẩu đến các nước không tham gia TPP ở Châu Á như Indonesia, Philippines và Trung Quốc, trong khi kim ngạch xuất khẩu gạo đến các nước TPP ở Châu Á (chủ yếu Malaysia và Singapore) chỉ đạt 537 triệu USD, xuất khẩu gạo đến Mỹ và Nhật Bản lần lượt là 28 triệu USD và 14 triệu USD. Nhật Bản mua chủ yếu giống gạo japonica hạt tròn, không phải gạo indica hạt dài do Việt Nam sản xuất. 689
- Hình 1. Tăng trưởng thương mại nông nghiệp và các hiệp định thương mại Việt Nam gia nhập giai đoạn 1990 – 2014 Cao su là hàng hóa xuất khẩu có kim ngạch lớn thứ ba của Việt Nam, thị trường xuất khẩu quan trọng nhất là các nước không tham gia TPP (chủ yếu là Trung Quốc). Việt Nam cũng là nước xuất khẩu lớn về hạt điều với kim ngạch đạt 2,4 tỷ USD vào năm 2015. Mỹ là điểm đến lớn nhất cho hạt điều Việt Nam, tiêu thụ 826 triệu USD trong tổng kim ngạch xuất khẩu hạt điều trị giá 1,04 tỷ USD của Việt Nam sang các thị trường TPP. Các sản phẩm còn lại chiếm thị phần tương đối nhỏ trong tổng xuất khẩu của Việt Nam. Ngành tiêu xuất khẩu đáng kể sang các nước TPP, đạt kim ngạch 446 triệu USD vào năm 2015, chủ yếu sang Mỹ (262 triệu USD). Các hàng hóa quan trọng khác xuất khẩu sang các nước tham gia TPP gồm bánh xốp, tinh bột điều chế, các loại hạt khác và thương ăn động vật; tuy nhiên kim ngạch mỗi mặt hàng này giảm dưới 50 triệu USD. Đối với thị trường Mỹ, mật ong là mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam có giá trị kinh tế cao với kim ngạch đạt 51 triệu USD. 690
- Hình 2. Thương mại nông nghiệp của Việt Nam vào năm 2015 với các đối tác TPP tiềm năng Việt Nam tham gia hiệp định tích cực với một số nước TPP có sự chồng lấn với Hiệp định TPP. Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) khu vực ASEAN – Australia – New Zealand (AANZFTA) và Hiệp định Thương mại Ưu đãi (PTA) Chi-lê đưa ra cam kết về việc tiếp cận miễn thuế đối với đại đa số các hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam. Hiệp định Đối tác Kinh tế Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA) cũng cung cấp một số thuế suất ưu đãi nhưng hạn chế hơn về quy mô. Hiệp định thương mại chủ yếu ảnh hưởng đến thương mại của Việt Nam với các nước chưa đạt được PTA toàn diện. Tuy nhiên, trong số các nước đối tác mà Việt Nam thiếu PTA, hầu hết các hàng hóa xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam như cà phê, cao su, hạt điều và tiêu đều không được bảo vệ. Gạo, bánh ngọt, bánh pastry, bánh quy, kẹo đường, chế phẩm thực phẩm, thức ăn hỗn hợp, mật ong tự nhiên, bánh tráng và bột mì là các ngành hàng mà xuất khẩu Việt Nam hiện tại đối với thuế quan sẽ được miễn giảm theo Hiệp định TPP. Đối với thị trường Nhật Bản, xuất khẩu tinh bột sắn của Việt Nam trước đây chịu mức thuế suất tương đối cao thì nay với triển vọng tự do hóa thêm qua TPP có thể đem lại những lợi ích đáng kể. Đối với gạo, Nhật Bản ưu tiên nhập khẩu gạo hạt ngắn và gạo japonica hạt tròn, thậm chí với mức thuế quan bằng không, do đó không thể nhập thêm nhiều gạo indica hạt dài được trồng tại Việt Nam; tuy nhiên, dù tiêu thụ gạo indica hạt dài hạn chế và không thể tăng trưởng, Nhật Bản vẫn là thị trường nhập khẩu gạo indica hạt dài đáng kể với mức 200.000 – 691
- 300.000 tấn mỗi năm trong những năm gần đây, Việt Nam có thể thay thế vị thế nhập khẩu gạo indica hạt dài cho Nhật Bản hiện chịu sự chi phối bởi gạo Thái Lan. Mexico và Peru trước đây cũng áp thuế suất tương đối cao đối với các hàng hóa xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam (15 – 30%), nhưng do khoảng cách địa lý với Việt Nam khá lớn và quy mô thị trường tương đối nhỏ, mức độ tăng trưởng xuất khẩu Việt Nam đối với các thị trường này kỳ vọng đạt thấp sau khi tham gia TPP. Hình 3. Tăng trưởng sản lượng và khối lượng xuất khẩu gạo của Việt Nam giai đoạn 1960 - 2015 Nhìn chung, Việt Nam có nền kinh tế chuyển đổi theo hướng cải cách thị trường và tăng trưởng hướng đến xuất khẩu, từng bước theo đuổi các hiệp định thương mại nhằm mở rộng thương mại và đầu tư để đạt được tỷ lệ tăng trưởng cao. Dù tăng trưởng kinh tế gần đây chậm lại, Việt Nam được kỳ vọng có tiềm năng xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp. Việc gia nhập TPP sẽ giúp Việt Nam tiếp tục con đường hội nhập kinh tế sâu rộng và phát triển. Hiệp định TPP có thể ảnh hưởng đến thương mại nông nghiệp Việt Nam trên một số lĩnh vực. Hiệp định Thương mại Ưu đãi (PTA) của Việt Nam với nhiều nước thành viên TPP quy định các mức thuế suất thấp hoặc thậm chí miễn thuế, giúp Việt Nam mở rộng giao thương, đặc biệt với Mỹ và Nhật Bản là hai thị trường lớn nhất cho tiềm năng tăng trưởng thương mại của Việt Nam. Hai ngành hàng xuất khẩu nông nghiệp hàng đầu của Việt Nam là cà phê và cao su sẽ có ít tiềm năng phát triển thêm thông qua TPP. Tuy nhiên, các ngành hàng xuất khẩu nhỏ hơn như tinh bột sắn, tiêu, thực phẩm chế biến và mật ong có thể gặp nhiều thuận lợi nhờ sự tự do hóa thêm về thuế quan, đồng thời gạo của Việt Nam có thể giành được thị phần nhập khẩu gạo indica hạt dài từ Nhật Bản. 692
- 3. Cơ hội, thách thúc đối vói xuất nhập khẩu nông sản Việt Nam khi tham gia TPP 3.1Những cơ hội đối với xuất khẩu nông sản của Việt Nam Thứ nhất, mở rộng thị trường và tăng cường xuất khẩu, đặc biệt là thị trường xuất khẩu nông sản Gia nhập TPP, Việt Nam sẽ tiếp cận sâu rộng hơn vào hai nền kinh tế lớn nhất thế giới - Hoa Kỳ và Nhật Bản. Với mức lương trung bình vẫn còn thấp so với một số nước khác trong TPP, Việt Nam có nhiều tiềm năng trở thành một trung tâm xuất khẩu, bởi Hoa Kỳ và Nhật Bản là những thị trường xuất khẩu lớn. Năm 2015, xuất khẩu của Việt Nam vào các thành viên TPP đạt 60,45 tỷ USD, chiếm tỷ trọng khá cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Trong quan hệ thương mại với các nước TPP, Việt Nam ở vị thế xuất siêu khá lớn, xuất siêu tới 7/11 thị trường của TPP (khoảng 25,17 tỷ USD năm 2015 và 11,23 tỷ USD trong 6 tháng đầu năm 2015). Thuế nhập khẩu nhiều loại hàng hóa sẽ được giảm xuống 0% sẽ là cú hích mạnh cho xuất khẩu, tác động tích cực đến thu nhập của người dân, cải thiện sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu, nâng cao kim ngạch xuất khẩu. Vì mặt hàng nông sản của Việt Nam đang phải chịu mức thuế quan cao ở các thị trường đó và thuế quan là vấn đề duy nhất cản trở sức cạnh tranh cúa hàng hóa Việt Nam trên thị trưòng. Tuy nhiên, theo ITC , trong 12 nước tham gia TPP thì chí có Malaysia là nưóc nhập khẩu gạo lớn nhất cúa Việt Nam, chiếm khoáng 20% tổng kim ngach xuất khẩu gạo cúa Việt Nam trong năm 2013. Mặc dù được coi là thị trưòng xuất khẩu gao lón cúa Việt Nam nhưng thuế nhập khẩu gao cúa Việt Nam vào Malaysia đã đưoc quy định ó múc 0% theo Khu vnc Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đã ký FTA song phương vói một số nưóc khác trong TPP như Chile, Nhật Bán..., nghĩa là sán phẩm nông nghiệp đã được cam kết cắt giám thuế còn 0% theo lộ trình trong FTA. Từ đó cho thấy, sán phẩm gao cúa Việt Nam chỉ có thể mở rộng xuất khẩu sang các nước chưa có FTA với Việt Nam như Mỹ, Canada, Mexico, Peru. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, đây lại không phái là các nưóc nhập khẩu nhiều gạo từ Việt Nam. Thứ hai, cơ hội mở rộng đầu tư vào sản xuất nông sản, Tham gia TPP chắc chắn sẽ thúc đẩy đầu tư của các nước vào Việt Nam. Đầu tư trực tiếp của các nước trong TPP vào Việt Nam đạt 100,4 tỷ USD vốn đăng ký của những dự án còn hiệu lực (1988-2015), chiếm gần 40% tổng lượng vốn FDI của Việt Nam. Dòng vốn từ nhiều nước thành viên TPP có trình độ phát triển cao có thể mang lại những lợi ích lan tỏa đáng kể về công nghệ và kỹ năng quản lý, hay các lĩnh vực dịch vụ có giá trị gia tăng cao hơn. Mức tăng đầu tư sẽ giúp thúc đẩy sự hình thành vốn cố định và tạo cơ hội cho Việt Nam khai thác các lợi thế tiềm năng về nông nghiệp. Gia nhập TPP sẽ mở ra cơ hội thu hút đầu tư, hợp tác với các nước nhằm hiện đại hóa sản xuất đặc biệt là sản xuất và chế biến nông sản, nâng cao chất lượng sản phẩm, tham gia sâu hơn vào chuỗi sản xuất toàn cầu. Thú ba, cơ hội nâng cao lợi thế cạnh tranh. Nông sản là mặt hàng xuất khẩu đứng thứ 10 về kim ngạch xuất khẩu cúa Việt Nam vói mức 3,7 tý USD năm 2012 và gần 2,93 tý USD năm 2013. Tốc độ tăng trưóng bình quân hàng năm giai đoạn 2007- 2012 đat 20,3%. 693
- Tuy nhiên, xuất khẩu nông sản năm 2013 đang có chiều hưóng sụt giám so với năm trước về sán lượng và kim ngach do cả nguyên nhân bên trong và bên ngoài. Là một nền kinh tê định hướng xuất khẩu, việc Việt Nam có thể tiếp cận các thị trường lớn như Mỹ, Canada, Nhật Bản với mức thuế suất bằng 0 sẽ mang lại lợi thế cạnh tranh và triển vọng cho nhiều ngành hàng cúa Việt Nam, kéo theo đó là lợi ích cho một bộ phận lớn người lao động hoạt động trong các lĩnh vực phục vụ xuất khẩu. Lợi ích này không chỉ dừng lại ở các nhóm mặt hàng mà Việt Nam đang có thế mạnh xuất khẩu (ví dụ như dệt may, giày dép…), mà còn là động lực để nhiều nhóm mặt hàng khác hiện chưa có kim ngach đáng kể có điều kiện gia tăng sức cạnh tranh như mặt hàng gao. Nói cách khác, lợi thế này không chí nhìn từ góc độ hiện tại mà còn được nhìn thấy ở cả tiềm năng trong tương lai. Thú năm, về triển vọng xuất khẩu, TPP có thể mang lai cho nông sán nhiệt đới nưóc ta, nhất là mặt hàng gao, cơ hội tiếp cận các thị trưòng quan trọng như châu Mỹ, từ đó giảm bớt lệ thuộc vào thị trường Trung Quốc. Trong thời gian tới, hiệp định TPP được thực thị, sẽ mở ra nhiều cơ hội xuất khẩu nông sản đến các nước châu Mỹ và Nhật Bán, nơi có giá bán cao hơn nếu Việt Nam vượt qua được các rào cản kỹ thuật. Về thị trường châu Mỹ, các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản cúa Việt Nam cũng đang kỳ vọng vào TPP, bởi đây là thị trường có sự tăng trưởng tốt và giá bán cao. Đặc biệt là mặt hàng gạo, theo báo cáo cúa Hiệp hội Lương thực Việt Nam, năm 2013 xuất khẩu gạo sang châu Mỹ có sự tăng trưởng mạnh mẽ hơn 37% so với cùng kỳ năm ngoái, chủ yếu tăng từ các thị trường mới như Mỹ, Canada, Mexico, Chile. Tuy nhiên, các thị trường này chỉ mới chiếm khoảng 7% trong tỷ trọng gao xuất khẩu cúa Việt Nam nên đây là khu vực còn rất nhiều tiềm năng cho xuất khẩu gạo. Theo Bộ Công Thương, gao Việt Nam hiện có lợi thế cạnh tranh về giá so vói gạo Thái Lan. Ngoài ra, gạo trắng cao cấp nhập khẩu từ Việt Nam đang được nhiều nhà hàng châu Á ở Mỹ ưa chuộng hơn gạo Thái Lan và gạo Mỹ do phù hợp với nhiều cách chế biến. Hiện giá bán lẻ gạo trắng cao cấp Việt Nam vào nhà hàng ở Mỹ khá tốt, lên đến 1.000 USD/tấn, trong khi mức bình quân gạo trắng 5% tấm Việt Nam chỉ đang bán ở mức 420 USD/tấn. Khi TPP có hiệu lực, thuế suất đối với mặt hàng gạo xuống đến 0% như trong nội dung Hiệp định TPP đưa ra thì gạo Việt Nam càng có điều kiện giành được lợi thế cạnh tranh tốt hơn. Ðối với thị trường Nhật Bản, trong các năm 2006, 2007, 2008, xuất khẩu gạo của Việt Nam sang thị trưòng này lần lượt là 97.280, 77.829, 6.969 tấn nhưng những năm tiếp theo xuất khẩu gạo sang Nhật Bản bị “chững” lại vì rào cản kỹ thuật của quốc gia này quá khắt khe (năm 2013 chỉ đạt 400 tấn). Tuy nhiên, một khi đàm phán TPP được hoàn tất, chắc chắn mặt hàng gạo sẽ xuất khẩu qua nưóc này nhiều hơn, góp phần tăng sán lượng và kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này, đồng thời tạo điều kiện cho việc đa dạng hóa thị trường xuất khẩu gạo cúa Việt Nam. 3.2. Thách thức đối với xuất khẩu nông sản Việt Nam Bên canh cơ hội, sản xuất và xuất khẩu gạo cúa Việt Nam cũng phải đối mặt với không ít thách thức bởi theo Bộ trưởng Bộ Công Thương Vũ Huy Hoàng, khi ký kết TPP, lĩnh vực dễ bị tổn thương nhất vẫn là nông nghiệp. 694
- Thứ nhất, việc giảm thuế chắc chắn sẽ dẫn đến sự gia tăng nhanh chóng luồng hàng nhập khẩu từ các nưóc TPP vào Việt Nam vói giá cả cạnh tranh. Nhiều sản phẩm hàng hóa nông nghiệp, do quy mô sản xuẩt nhỏ lẻ, năng suất lao động còn thấp, áp dụng tiến bộ khoa học hạn chế nên giá thành sản phẩm còn cao. Vì vậy, việc mở cửa thị trường ít nhiều sẽ tác động đến những sản phẩm hàng hóa này. Hệ quả tất yếu là doanh nghiệp phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt, thì phần hàng hóa của Việt Nam sẽ bị thu hẹp, thậm chí là nguy cơ mất thị phần nội địa . Nguy cơ này đặc biệt nguy hiểm đối với nhóm hàng nông sán, trong đó có gao, vốn gắn liền với đối tượng dễ bị tổn thương trong hội nhập là nông dân. Khi Việt Nam phải mở cửa thị trường, tức là phải loại bỏ 100% đóng thuế (thuế nhập khẩu) đối với các sản phẩm nông nghiệp, trong khi rào cản kỹ thuật chưa có hoặc không cao, nên mặt hàng gạo trên thị trưòng nội địa cũng sẽ gặp bất lợi. Trên thị trường Việt Nam hiện đã có nhiều loại gao chất lượng cao cúa Thái Lan, Nhật Bán đi theo đưòng tiểu ngach. Như vậy, khi TPP có hiệu lực, gạo của Việt Nam sẽ bị cạnh tranh ngay trên sân nhà. Thứ hai, thách thức từ quy định về rào cản kỹ thuật. Việt Nam vốn là một nưóc có khu vực sán xuất và xuất khẩu nông sản khá lón nên có nhu cầu cao trong việc yêu cầu các đối tác mở cửa thị trưởng nông nghiệp cho nông sản Việt Nam. Vấn đề khó khăn là ở chỗ các nưóc TPP đều có xu hướng đàm phán hạn chê, giữ bảo hộ đối vói mặt hàng nông sản đặc biệt là mặt hàng gao nội địa (không mở cửa). Vấn đề TBT (Technical Barriers to Trade - hàng rào kỹ thuật thương mai) và SPS (Sanitary and Phytosanitary Measures – biện pháp vệ sinh dịch tễ) rất quan trọng đối vói khả năng tiếp cận thị trưòng các nưóc cúa mặt hàng gạo Việt Nam bởi dù thuế nhập khẩu vào các nước có đ ược cắt bỏ hết nhưng việc kiểm dịch, kiểm tra dư lượng kháng sinh, các đòi hói về nhãn mác bao gói... cúa các nưóc vẫn ngăn chặn khá năng xuất khẩu nông sản cúa Việt Nam. Ðiều này thậm chí còn có thể rúi ro hơn nhiều so với thuế quan. Trong khi đó, Hiệp định TPP liên quan đến vấn đề này hiện nay hầu như không giải quyết được vưóng mắc này cúa Việt Nam vì các nội dung hiệp định không đề cập tới vấn đề hạn chế quyền ban hành các điều kiện SPS, TBT mới của các nưóc TPP (và vì vậy các nưóc này vẫn được đơn phương đưa ra các điều kiện SPS, TBT mới hoặc điều chỉnh, từ đó ngăn chặn việc nhập khẩu nông sán Việt Nam vào các nước này). Thực tế, Hiệp định chỉ xoay quanh vấn đề hợp tác để xử lý vướng mắc, một vấn đề chỉ liên quan tới rút ngắn thời gian xử lý khiếu nại, còn các điều kiện kiểm dịch thì vẫn giữ nguyên. Thú ba, thách thúc liên quan đến tiêu chuẩn lao động và môi trường. có liên quan tới nông sản, nhưng ở khía cạnh sản xuất, một số cam kết trong TPP ở các lĩnh vực tưởng như không liên quan nhưng nếu không đưoc đàm phán quyết liệt cũng sẽ ánh hưởng trực tiếp tới sản xuất và triển vọng cúa hàng nông sán. Ví dụ, trong dự tháo Chương lao động, nếu điều khoản về việc chặn và buộc trá lai toàn bộ hàng xuất khẩu được làm từ lao động tré em tại biên giới không được đấu tranh loại bỏ, thì việc trồng nông sản với những sản phẩm được làm ra từ quy mô hộ gia đình, vói sự tham gia cúa tré em nông thôn Việt Nam sẽ là nhóm đầu tiên phải chịu thiệt thòi. Ðồng thời, khá năng các vấn đề về môi trưòng và lao động được đưa vào phạm vi điều chỉnh cúa TPP theo hướng nâng cao các tiêu chuẩn/yêu cầu về các lĩnh vực này là rất lớn. Trên thực tế, các yêu cầu này ở các thị trường đối tác TPP (đặc biệt là Mỹ) đã từng hoặc đang khiến nhiều loại hàng hóa xuất khau gặp nhiều thách thức ở các thị trường này. 695
- 4. Một số giải pháp cơ bản góp phần đẩy mạnh xuất khẩu nông sản Việt Nam sang các nước TPP Thứ nhất, nâng cao chất lượng và giảm giá thành nông sản xuất khẩu. Xuất khẩu nông sản của Việt Nam vào các nưóc TPP trong thòi gian vùa qua bị chững lại, trong đó, thị trưòng Nhật Bản giảm rất mạnh. Mặc dù Việt Nam là nước nông nghiệp xuất nhiều loại nông sản đặc biệt là nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới nhưng năm 2013 chỉ xuất sang Nhật Bản được 400 tấn, không tương xứng vói quan hệ kinh tế - thương mại giữa hai nưóc. Nguyên nhân vưóng mắc lón nhất là do Luật Vệ sinh an toàn thực phẩm cúa Nhật Bản rất nghiêm ngặt. Do đó, để đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng nông sản sang các thị trường khó tính như Nhật Bản, các doanh nghiệp Việt Nam cần lưu tâm nâng cao chất lượng nông sản, phát triển vùng sản xuất nguyên liệu chất lượng cao. Thòi gian qua, Việt Nam và Nhật Bản đã ký kết nhiều thỏa thuận kinh tế quan trọng. Ðây là những thuận lợi cho hợp tác thương mại Việt- Nhật, tăng cường xuất khẩu nông sán Việt Nam sang Nhật Bản. Tuy nhiên, các doanh nghiệp không thể chí chờ Nhật Bản xem xét nới lỏng quy chế vệ sinh an toàn thực phẩm khi nhập khẩu hàng hóa vào nưóc này, mà cá hai bên cùng phái quan tâm tháo gõ bằng việc triển khai các chương trình họp tác kỹ thuật nhằm nâng cao chất lượng hàng hóa và chấp nhận kết quả kiểm nghiệm cúa nhau. Ðây là cách làm hiệu quá đáp ứng các tiêu chí an toàn thực phẩm. Trong các nưóc TPP chưa ký FTA vói Việt Nam thì các nưóc châu Mỹ như Mỹ, Canada, Mexico, Peru được coi là các thị trường tiềm năng cho xuất khẩu nông s ản, đặ c biệt là thị trường Mỹ với nhu cầu nhập khẩu nông sản rất lớn đặc biệt là gạo. Tuy nhiên, lượng nông sản mà Mỹ nhập khẩu từ Việt Nam trong thời gian qua rất ít. Nguyên nhân là do mặt hàng nông sản cúa Việt Nam đang bị cạnh tranh về giá và chất lượng từ nông sản Thái Lan. Vì vậy, để nâng cao khả năng canh tranh, Việt Nam cần chú trọng cả hai vấn đề giá cả và chất lượng hàng nông sản. Ðể làm được điều này, ngay từ khâu thu hoạch phải được làm tốt, chú trọng đầu tư cho khâu chế biến và công nghiệp chế biến để giám tý lệ tổn thất (hiện nay tỷ lệ tổn thất sau thu hoạch cúa nưóc ta là 13-16%, Thái Lan khoáng 7-10%) Thú hai, xây dựng chiến lược xuất khẩu nông sản. Trên thị trường xuất khẩu nông sản hiện nay, đối thủ cạnh tranh lớn của Việt Nam là Thái Lan và Ấn Ðộ. Hai quốc gia này không tham gia hiệp định, do đó Việt Nam sẽ có lợi thế hơn trong xuất khẩu nông sản trong khối TPP. Trưóc đó, Việt Nam đã ký FTA song phương vói 7/12 nưóc trong TPP, nghĩa là nông sản đã được cam kết cắt giảm thuế còn 0% theo lộ trình, do đó TPP chí mang lại lợi ích về thuế quan cho Việt Nam đối với các nước chưa có FTA vói Việt Nam là Mỹ, Canada, Peru. Ðể đón bắt cơ hội này, Việt Nam cần có chiến lược xuất khẩu nông sản một cách cụ thể. Trong đó, quy hoạch các vùng trồng nông sản đám báo sán lượng và chất lượng, ổn định cho xuất khẩu là giái pháp cần chú trong. Thú ba, xây dựng thương hiệu cho các mặt hàng nông sản. Mặc dù Việt Nam là nưóc xuất khẩu nông sản, nhưng nhiều mặt hàng chưa có thương hiệu hay nhóm thương hiệu nổi tiếng hoặc đặc trưng cho nông sản Việt Nam. Do vậy, để nâng cao khả năng cạnh tranh và khá 696
- năng phát triển thị trường, rất cần thiết phái xây dựng thương hiệu cho các mặt hàng nông sản Việt Nam. Ðể có được thương hiệu đủ sức canh tranh, có uy tín trên thị trường, hoạt động xuất khẩu nông sản cần phái được quy hoạch ngay từ khâu sản xuất nông sản đến khâu thu hoạch và chế biến. Ðiều này đòi hỏi phải có sừ liên kết “bốn nhà” (Nhà nưóc, nhà khoa học, doanh nghiệp, nông dân) một cách chặt chẽ và hiệu quả cao để nông dân, doanh nghiệp quan tâm đầu tư, sán xuất. Doanh nghiệp và nông dân là hai tác nhân chính cúa các mối liên kết trong sản xuất nông sản. Trong đó, doanh nghiệp thu mua xuất khẩu nông sản là “đầu tàu”, là động cơ của mối liên kết. Doanh nghiệp giữ vai trò quan trọng trong liên kết “ba nhà” còn lại để quy hoạch vùng sản xuất nông sản xuất khẩu, hỗ trợ đầu vào và thu mua sán phẩm cho nông dân, tùng bước tiến tới xây dựng thương hiệu sán phẩm xuất khẩu. Trong quá trình thực hiện liên kết này, vai trò cúa Nhà nưóc là hỗ trợ tín dụng ưu đãi cho các “nhà”. Về phía doanh nghiệp, đặc biệt là khu vực tư nhân, khó khăn lớn nhất chính là việc thiếu vốn, đồng thời lại phải chịu rủi ro cao khi ứng vốn cho nông dân. Trong trưòng hợp xảy ra thiên tai hay các nguyên nhân bất khả kháng không trả được nợ, doanh nghiệp phải kéo dài thòi gian nợ ngân hàng làm tăng vốn vay, giá thành sản phẩm tăng, ánh hưởng đến hoạt động tài chính. Vì vậy, doanh nghiệp sẽ an tâm hơn trong việc đầu tư cho sản xuất nông sản nếu được các ngân hàng cùng tham gia sâu hơn trong mối liên kết này. Bên cạnh đó, các ngân hàng cũng có thể tham gia vào khâu hỗ trợ cho các nhà khoa học trong việc nghiên cứu tìm ra các giống mới cho năng suất và chất lượng cao, đảm bảo nguồn hàng nông sản ổn định cho xuất khẩu khi có cơ hội do TPP mang lai. 5. Kết l uận Cũng giống như các quá trình hội nhập khu vực khác, tham gia TPP sẽ mang lại cả cơ hội và thách thức đối với mỗi ngành ở các mức độ khác nhau. Ðối với xuất khẩu hàng nông sản, trên cơ sở xác định được những cơ hội, thách thức, Nhà nưóc và các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản cần tập trung thực hiện các giái pháp quan trọng để vưot qua thách thức, tận dụng được những cơ hội mang đến từ TPP, góp phần thúc đẩy kim ngạch xuất khẩu nông sản sang các nưóc TPP trong thòi gian tói. 697
- Tài liệu tham khảo 1. Liên minh châu Âu (EU), Báo cáo “Triển vọng thị trường nông nghiệp và thu nhập tại EU giai đoạn 2013-2023”. 2, Phạm Duy Nghĩa, Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) Cơ hội nào cho Việt Nam, NXB Thời đại Thành phố Hố Chí Minh, 3.http://www.mard.gov.vn/Lists/appsp01_BantinLanhDao/Attachments/19/LD05-2015_1.pdf 4. http://thepangroup.vn/co-hoi-va-thach-thuc-lon-cho-xuat-khau-nong-san 5. http://thuvienphapluat.vn/tintuc/vn/hiep-dinh-TPP/ Việt Nam là nước có thế mạnh trong nông nghiệp với điều kiện thiên nhiên thuận lợi, có thể sản xuất nông nghiệp quanh năm. 698
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Bài tiểu luận "Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam"
16 p | 1449 | 303
-
Quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng ở Việt nam, Cơ hội và thách thức
58 p | 398 | 70
-
CHỦ ĐỀ : CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI NÔNG SẢN CỦA VIỆT NAM KHI GIA NHẬP ASEAN
14 p | 219 | 27
-
Tái cơ cấu ngành nông nghiệp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển bền vững trong bối cảnh mới
30 p | 135 | 12
-
Hội nhập TTP - Những cơ hội và thách thức đối với ngành nông nghiệp Việt Nam
9 p | 70 | 8
-
Hội nhập TPP: Cơ hội và thách thức đối với nông sản Việt Nam
3 p | 97 | 7
-
Nông nghiệp Việt Nam – Thay đổi để thích nghi
9 p | 52 | 5
-
Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) cơ hội và thách thức đối với ngành công nghiệp chế biến gỗ Việt Nam
9 p | 31 | 5
-
Cơ hội và thách thức chuyển đổi số trong nông nghiệp hướng đến nền kinh tế công nghiệp 4.0
13 p | 14 | 4
-
Tạp chí Nông nghiệp & Phát triển nông thôn – Số 5/2018
149 p | 66 | 4
-
Xây dựng chỉ dẫn địa lý trở thành công cụ phát triển thị trường cho sản phẩm cam Cao Phong tỉnh Hòa Bình, những cơ hội và thách thức sau bảo hộ
8 p | 8 | 3
-
Nông nghiệp thông minh thích ứng với biến đổi khí hậu ở huyện Phù Yên tỉnh Sơn La: Cơ hội và thách thức
11 p | 11 | 3
-
Nông nghiệp Việt Nam trong bối cảnh hội nhập: Nghiên cứu trường hợp ngành mía đường
11 p | 25 | 2
-
Nông nghiệp với biến đổi khí hậu: Cơ hội và thách thức
3 p | 48 | 2
-
Tác động của siêu thị đối với nông dân sản xuất thực phẩm nông sản quy mô nhỏ trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa
9 p | 44 | 2
-
Tác động của Hiệp định Đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TTP) đối với ngành chăn nuôi Việt Nam
4 p | 43 | 2
-
Những thách thức và cơ hội mới trong sản xuất và cung cấp protein cho thức ăn chăn nuôi
45 p | 9 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn