intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Cơ sở thực tiễn của tổ chức dạy học lĩnh vực khoa học tự nhiên ở trung học cơ sở theo tiếp cận tích hợp

Chia sẻ: ViHitachi2711 ViHitachi2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

104
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết đề cập đến cơ sở thực tiễn của việc tổ chức dạy học lĩnh vực khoa học tự nhiên ở trường THCS theo tiếp cận tích hợp, trong đó đã chỉ rõ những căn cứ ngoài nước và trong nước đặc biệt tìm ra các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực của giáo viên cũng như đưa ra nguyên nhân của thực trạng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Cơ sở thực tiễn của tổ chức dạy học lĩnh vực khoa học tự nhiên ở trung học cơ sở theo tiếp cận tích hợp

JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE<br /> Educational Sci., 2016, Vol. 61, No. 6A, pp. 3-11<br /> This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn<br /> <br /> DOI: 10.18173/2354-1075.2016-0064<br /> <br /> CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA TỔ CHỨC DẠY HỌC LĨNH VỰC KHOA HỌC<br /> TỰ NHIÊN Ở TRUNG HỌC CƠ SỞ THEO TIẾP CẬN TÍCH HỢP<br /> Hà Thị Lan Hương1 , Đặng Thị Oanh2<br /> Viện Nghiên cứu Sư phạm, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội<br /> Khoa Hóa học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội<br /> Tóm tắt. Tổ chức dạy học theo tiếp cận tích hợp phải được triển khai thực hiện trên nền<br /> tảng của cơ sở lí luận bao gồm cơ sở tâm lí học, cơ sở giáo dục học và cơ sở thực tiễn. Bài<br /> báo này xin được đề cập đến cơ sở thực tiễn của việc tổ chức dạy học lĩnh vực khoa học tự<br /> nhiên ở trường THCS theo tiếp cận tích hợp, trong đó đã chỉ rõ những căn cứ ngoài nước<br /> và trong nước đặc biệt tìm ra các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực của giáo viên cũng như<br /> đưa ra nguyên nhân của thực trạng. Qua đó góp một phần nhỏ làm cơ sở cho công cuộc xây<br /> dựng và tổ chức thực hiện chương trình giáo dục phổ thông sau 2015 theo định hướng hình<br /> thành và phát triển năng lực ở người học.<br /> Từ khóa: Tổ chức dạy học, lĩnh vực khoa học tự nhiên, tiếp cận tích hợp, cơ sở thực tiễn,<br /> năng lực dạy học tích hợp, trung học cơ sở.<br /> <br /> 1.<br /> <br /> Mở đầu<br /> <br /> Phát triển chương trình và tổ chức dạy học tích hợp đã được các nước có nền giáo dục phát<br /> triển được triển khai thực hiện ở các cấp học và đáp ứng mục tiêu đặt ra là phát triển năng lực của<br /> học sinh để họ có thể vận dụng giải quyết những vấn đề trong cuộc sống [1,4,6,7,8]. Trong một<br /> vài năm gần đây, định hướng của việc xây dựng chương trình, sách giáo khoa và tổ chức dạy học ở<br /> Việt Nam nhất là ở cấp Tiểu học và Trung học cơ sở đã cập nhật với tình hình giáo dục thế giời, đi<br /> theo định hướng dạy học tích hợp để phát triển năng lực cho học sinh [2]. Tuy nhiên, theo một số<br /> nghiên cứu ở các cấp học nhất là cấp THCS thì việc tích hợp chỉ được đề cập đến trong mục tiêu<br /> dạy học của chương trình, còn trong sách giáo khoa có một số chủ đề tích hợp nội môn hoặc một<br /> số chủ đề ngoại khóa liên môn; việc tổ chức dạy học theo tiếp cận tích hợp ít được triển khai thực<br /> hiện hoặc nếu triển khai cũng chỉ ở mức độ tham gia các cuộc thi và chưa đạt được mục tiêu, hiệu<br /> quả đặt ra [3,5]. Một trong những nguyên nhân chính của thực trạng trên là việc nghiên cứu hình<br /> thức và cách thức tổ chức dạy học theo tiếp cận tích hợp còn rất mới mẻ, chưa có nhiều thành tựu;<br /> do vậy tạo ra sự thiếu hụt trong cơ sở lí luận, dẫn đến thiếu điểm tựa hướng dẫn cho giáo viên học<br /> hỏi và lựa chọn. Hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang triển khai xây dựng chương trình, sách<br /> giáo khoa ở cấp Tiểu học và Trung học cơ sở theo định hướng tích hợp. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra<br /> là khi đã có chương trình và sách giáo khoa theo định hướng này thì việc tổ chức dạy học sẽ như<br /> Ngày nhận bài: 20/2/2016. Ngày nhận đăng: 10/7/2016.<br /> Liên hệ: Hà Thị Lan Hương, e-mail: huonghtl@hnue.edu.vn.<br /> <br /> 3<br /> <br /> Hà Thị Lan Hương, Đặng Thị Oanh<br /> <br /> thế nào, năng lực giáo viên trong việc tổ chức dạy học đó ra sao? Tất cả những vấn đề được đặt ra<br /> ở trên nhận thấy cần thiết phải nghiên cứu và đưa ra cơ sở lí luận trong đó có cơ sở thực tiễn của<br /> tổ chức dạy học theo tiếp cận tích hợp. Bài báo xin được đề cập đến cơ sở thực tiễn của tổ chức<br /> dạy học tích hợp dưới góc nhìn từ thực trạng nghiên cứu ở ngoài nước và ở Việt Nam nhất là vấn<br /> đề thực trạng phát triển chương trình và tổ chức dạy học tích hợp ở Việt Nam; từ đó tìm ra nguyên<br /> nhân và đưa ra giải pháp quan trọng, cốt yếu là muốn tổ chức dạy học tích hợp thành công thì phải<br /> đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên để họ có năng lực tổ chức thực hiện chương trình và sách<br /> giáo khoa theo tiếp cận tích hợp.<br /> <br /> 2.<br /> 2.1.<br /> <br /> Nội dung nghiên cứu<br /> Những căn cứ ở ngoài nước để tổ chức dạy học theo tiếp cận tích hợp ở<br /> trung học cơ sở<br /> <br /> Từ những thập kỉ cuối của thế kỉ XX, nhiều quốc gia đã tiến hành cải cách giáo dục, tập<br /> trung vào giáo dục phổ thông mà trọng điểm là hướng tới việc thực hiện yêu cầu nâng cao chất<br /> lượng giáo dục, khắc phục tình trạng học tập nặng nề, căng thẳng, ảnh hưởng đến sức khoẻ, hứng<br /> thú và niềm tin đối với việc học tập của học sinh. Tình trạng giáo dục thoát li đời sống, quá nhấn<br /> mạnh đến tính hệ thống, yêu cầu quá cao về mặt lí thuyết mà coi nhẹ những tri thức và kĩ năng có<br /> liên quan trực tiếp đến cuộc sống hàng ngày của học sinh khiến năng lực hoạt động thực tiễn của<br /> người học bị hạn chế, không đáp ứng được yêu cầu biến đổi nhanh và đa dạng của sự phát triển<br /> xã hội.<br /> Cách tiếp cận tích hợp trong phát triển chương trình giáo dục được đề cao ở Mĩ và Châu Âu<br /> từ những năm 1960 của thế kỉ XX. Gần một thập kỉ sau vấn đề này mới được quan tâm ở Châu Á<br /> và ở Việt Nam [8,9]. Xu hướng chung của các nước trên thế giới là quán triệt tinh thần tích hợp<br /> vào xây dựng chương trình giáo dục phổ thông, đặc biệt ở Tiểu học và THCS. Theo thống kê của<br /> UNESCO (từ năm 1960 - 1974) có 208/392 chương trình môn Khoa học thể hiện quan điểm tích<br /> hợp ở các mức độ khác nhau. Ở Tiểu học, nội dung về khoa học được sắp xếp thành những chủ đề<br /> chính, xuyên suốt từ lớp 1 - lớp 6 hoặc từ lớp 3 - lớp 6 (có nước chỉ có tới lớp 5); Tích hợp được<br /> thực hiện theo hướng tạo môn học mới - tích hợp xuyên môn. Tuy nhiên, ở mỗi nước tên của môn<br /> học này không hoàn toàn như nhau. Ở THCS, việc xây dựng môn Khoa học Tự nhiên theo những<br /> cách tích hợp khác nhau: Tích hợp tạo thành môn học mới và tích hợp không tạo thành môn học<br /> mới (tích hợp liên môn và xuyên môn). Đi cùng với việc tích hợp trong việc xây dựng chương trình<br /> thì việc tổ chức dạy học theo tiếp cận này cũng được các quốc gia quan tâm nghiên cứu và triển<br /> khai thực hiện với mục đích cuối cùng là hình thành và phát triển năng lực cho người học, giúp họ<br /> giải quyết được những vấn đề trong thực tiễn đời sống hàng ngày.<br /> Một nghiên cứu chương trình, sách giáo khoa của 17 nước và một số tài liệu do UNESCO<br /> tổng hợp cho thấy: Xu hướng chung của các nước đều vận dụng quan điểm tích hợp vào xây dựng<br /> chương trình. Ở tiểu học thường tích hợp ở mức độ cao (tích hợp hoàn toàn). Sau đó giảm dần từ<br /> trung học cơ sở đến trung học phổ thông (tích hợp bộ phận) [6].<br /> Từ tinh thần trên, việc đổi mới giáo dục phổ thông ở các nước thường theo các xu thế sau:<br /> - Nhấn mạnh việc gìn giữ bản sắc văn hoá dân tộc, kế thừa truyền thống tốt đẹp của mỗi<br /> quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hoá.<br /> - Giúp trẻ em phát triển tri thức cơ bản, hình thành và phát triển khả năng tư duy phê phán<br /> và kĩ năng phát hiện và giải quyết vấn đề. Các yêu cầu được ưu tiên phát triển là: Các kĩ năng cơ<br /> 4<br /> <br /> Cơ sở thực tiễn của tổ chức dạy học lĩnh vực khoa học tự nhiên ở trung học cơ sở...<br /> <br /> bản, thói quen và năng lực tự học, thói quen và năng lực vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống<br /> hàng ngày.<br /> Nhìn chung, giáo dục phổ thông của các nước trong khu vực và trên thế giới đã coi trọng<br /> thực hành, vận dụng. Nội dung giáo dục thường tinh giản, tập trung vào các kiến thức, kĩ năng cơ<br /> bản và thiết thực, tích hợp được nhiều mặt giáo dục. Hình thức tổ chức dạy học rất đa dạng hướng<br /> tới hình thành năng lực cho học sinh dựa trên các phong cách học tập riêng của từng em.<br /> <br /> 2.2.<br /> <br /> Những căn cứ ở Việt Nam để tổ chức dạy học theo tiếp cận tích hợp ở trung<br /> học cơ sở<br /> <br /> 2.2.1. Việc phát triển chương trình theo tiếp cận tích hợp<br /> - Ở Việt Nam lí thuyết tích hợp đã được vận dụng vào phát triển chương trình và biên soạn<br /> sách giáo khoa, tổ chức dạy học theo tiếp cận tích hợp trong giáo dục phổ thông Miền Nam giai<br /> đoạn 1954-1975. Hệ thống giáo dục giai đoạn này có hai bậc: Bậc Tiểu học, bậc Trung học (có hai<br /> cấp: Đệ nhất cấp-THCS, đệ nhị cấp-THPT). Giai đoạn này, do biến cố chính trị mà chương trình<br /> có nhiều lần thay đổi nhưng luôn được cải tiến, tăng tính hữu ích của kiến thức, hướng tới một nền<br /> giáo dục đại chúng. Qua nghiên cứu chương trình giáo dục Miền Nam, giai đoạn 1954-1975, cụm<br /> từ “tích hợp” xuất hiện rất ít (chỉ có ở chương trình Trung học tổng hợp). Tuy nhiên, qua nghiên<br /> cứu khảo sát của Ngô Minh Oanh (2012) chỉ ra: Quan điểm tích hợp thể hiện rõ trong từng mục<br /> tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá quá trình học tập của học<br /> sinh. Mục tiêu của chương trình phát triển toàn diện mỗi cá nhân, phát triển tinh thần quốc gia ở<br /> mỗi học sinh, phát triển tinh thần dân chủ và tinh thần khoa học. Bên cạnh những mục tiêu chung,<br /> mục tiêu của các chương trình Tiểu học và Trung học cũng thể hiện quan điểm dạy học tích hợp<br /> bằng việc gắn kết giữa lí thuyết và thực tiễn; các kiến thức và kĩ năng của từng môn học phải được<br /> gắn bó chặt chẽ với nhau trên tinh thần tôn trọng nhân cách học sinh, phát huy tinh thần khoa học<br /> và dân chủ. Ở nội dung chương trình: Đối với giáo dục tiểu học các chủ đề đưa vào chương trình<br /> được lặp đi, lặp lại từ mức thấp đến mức cao; đối với giáo dục Trung học thể hiện các hình thức<br /> thức tích hợp: Liên môn và đa môn (môn Sử - Địa, môn Lí - Hóa, đặc biệt chương trình Trung<br /> học tổng hợp thể hiện tích hợp ở mức độ cao bao gồm các môn khoa học, kiến thức xã hội và giáo<br /> dục y tế); phân môn (môn Quốc văn tích hợp giữa 3 phân môn: Giảng văn, luận văn, tiếng Việt);<br /> xuyên môn (kĩ năng ngoại ngữ là quan trọng và là kĩ năng xuyên môn, ngoại ngữ được bố trí tiết<br /> học nhiều hơn Toán và đến lớp 10 học sinh phải học ngoại ngữ 2). Ở phương pháp dạy học đã thể<br /> hiện rõ tiếp cận tích hợp như dạy học lí thuyết gắn với thực hành và mang tính hoạt động; dạy học<br /> lồng ghép nhiều phương pháp khác nhau. Ở khâu kiểm tra đánh giá: Việc ra ra đề gắn với những<br /> vấn đề xảy ra trong thực tế; muốn giải quyết vấn đề đặt ra, học sinh phải vận dụng kiến thức, kĩ<br /> năng của nhiều môn học [4].<br /> - Việc phát triển và thực hiện chương trình sau 2000 theo định hướng dạy học tích cực đã<br /> làm thay đổi quan niệm và cách biên soạn, cách sử dụng sách giáo khoa: Chuyển từ quan niệm là<br /> “pháp lệnh”, là một tài liệu chứa đựng kiến thức có sẵn để giáo viên truyền đạt cho học sinh” sang<br /> là “phương tiện chính thức để định hướng cho giáo viên tổ chức hoạt động học tập nhằm giúp học<br /> sinh tự học, tự phát hiện, tự chiếm lĩnh tri thức mới, biết vận dụng chúng theo năng lực của từng<br /> cá nhân”. Sự thay đổi quan niệm về sách giáo khoa đòi hỏi các nhà biên soạn sách giáo khoa phải<br /> thay đổi cấu trúc nội dung theo hướng tích hợp nhằm: Giải quyết sự mất cân đối giữa khối lượng,<br /> mức độ nội dung từng giai đoạn học tập; Tăng cường sự hỗ trợ nhau giữa các nội dung trong từng<br /> môn học và giữa các môn học, xoá bỏ những trùng lặp, tăng khả năng thực hành, vận dụng; Gia<br /> 5<br /> <br /> Hà Thị Lan Hương, Đặng Thị Oanh<br /> <br /> tăng các hoạt động thực hành. Tuy nhiên, chỉ ở cấp Tiểu học mới thể hiện rõ việc phát triển chương<br /> trình theo tiếp cận tích hợp: (1) Hình thành các môn học tích hợp: Tự nhiên - Xã hội (1991-1996);<br /> tích hợp môn Sức khỏe với môn Tự nhiên- xã hội và môn Khoa học (2001); tích hợp Mĩ thuật với<br /> Kĩ thuật thành môn Nghệ thuật. (2) Tích hợp các mạch kiến thức, kĩ năng trong một số môn học:<br /> Tích hợp 4 kĩ năng nghe, nói, đọc, viết và kiến thức văn hoá, xã hội, tự nhiên, tích hợp giữa phát<br /> triển năng lực sử dụng ngôn ngữ với phát triển nhân cách trong môn Tiếng Việt; tích hợp các yếu<br /> tố đại số vào mạch số học trong môn Toán, tích hợp cung cấp kiến thức sơ giản toán học và phát<br /> triển năng lực tư duy và giải quyết vấn đề; tích hợp các nội dung giáo dục khác vào các môn học<br /> như giáo dục môi trường, giáo dục quyền trẻ em, giáo dục giới tính, giáo dục dân số; giáo dục các<br /> giá trị sống; phòng chống các bệnh tật và tệ nạn xã hội.<br /> - Chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020 đã nêu rõ: “. . . thực hiện đổi mới chương trình<br /> SGK từ sau năm 2015 theo định hướng phát triển năng lực học sinh”. Chương trình hướng tới mục<br /> tiêu phát triển năng lực không chỉ dựa vào tính hệ thống, logic của khoa học tương ứng khi xác<br /> định nội dung học tập mà còn gắn với các tình huống thực tiễn, chú ý đến khả năng học tập và nhu<br /> cầu, phong cách học của mỗi cá nhân học sinh. Các yêu cầu này đòi hỏi chương trình cần được<br /> phát triển theo định hướng tích hợp nhằm tạo điều kiện cho người học liên tục huy động kiến thức,<br /> kĩ năng thuộc nhiều lĩnh vực môn học và hoạt động giáo dục khác nhau để thực hiện các nhiệm vụ<br /> học tập. Qua đó, các năng lực chung cơ bản cũng như năng lực chuyên biệt của người học được<br /> phát triển. Từ chiến lược đó đã định hướng cho việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông sau<br /> 2015 trong việc: Xây dựng và phát triển chương trình tích hợp, tổ chức dạy học tích hợp để hình<br /> thành phẩm chất và năng lực cho người học [1].<br /> <br /> 2.2.2. Thực trạng, nguyên nhân của việc tổ chức dạy học theo tiếp cận tích hợp ở Việt Nam<br /> a) Thực trạng của việc tổ chức dạy học theo tiếp cận tích hợp ở Việt Nam<br /> Trong một vài năm gần đây, việc triển khai dạy học theo tiếp cận tích hợp ở trường phổ<br /> thông tuy đã có cố gắng nhưng còn có rất nhiều bất cập, và quan trọng là không đạt được mục tiêu<br /> phát triển năng lực cho học sinh. Chúng tôi đã tiến hành điều tra 280 giáo viên và cán bộ quản lí<br /> cấp THCS bằng bảng hỏi và phỏng vấn sâu, xử lí kết quả bằng phần mềm SPSS, cụ thể:<br /> Kết quả khảo sát bằng phiếu hỏi để giáo viên tự đánh giá tại một số trường THCS, cho thấy<br /> có hơn 74.1% giáo viên trả lời đã thực hiện dạy học tích hợp ở các mức độ, cách thức khác nhau<br /> (như vậy số còn lại là khoảng 26% chưa thực hiện dạy học tích hợp hoặc né tránh trả lời). Theo<br /> các giáo viên thì tỉ lệ thực hiện tích hợp ở “hầu hết các bài” có 33.3%, tích hợp ở “một vài bài”<br /> có 33.3%, tích hợp ở “một nửa số bài” có 23.5%. Và chủ yếu thực hiện “tích hợp nội dung của<br /> một bài vào một vấn đề trong thực tế” (37.9%), “tích hợp các kiến thức” (40.9%), “tích hợp các kĩ<br /> năng” (32.2%), “tích hợp kiến thức với kĩ năng” (26.6%). Có thể thấy rõ, thực hiện tích hợp các<br /> kiến thức chiếm tỉ lệ cao nhất.<br /> Về cách thực hiện tích hợp, các giáo viên cho biết: Tích hợp theo cách “lồng ghép kiến thức<br /> có liên quan đến nội dung bài” chiếm tỉ lệ cao nhất (79.6%); “Liên hệ với thực tế” (78.9%); “tích<br /> hợp theo chủ đề” (60.7%).<br /> Lí do các giáo viên đưa ra để giải thích cho việc lựa chọn cách tích hợp chủ yếu là để “học<br /> sinh dễ tiếp thu, khắc sâu kiến thức, có kĩ năng vận dụng vào thực tế và hoàn thiện nhân cách, phát<br /> triển toàn diện” (43.6%), “giúp học sinh hứng thú, tích cực học tập” (9.8%), “tăng hiệu quả bài<br /> dạy và nâng cao kết quả học tập cho học sinh” (8.7%) ...<br /> Kết quả phỏng vấn sâu trên lãnh đạo nhà trường và một số giáo viên cho thấy thực tế triển<br /> 6<br /> <br /> Cơ sở thực tiễn của tổ chức dạy học lĩnh vực khoa học tự nhiên ở trung học cơ sở...<br /> <br /> khai dạy học theo hướng tích hợp còn có nhiều vấn đề phải lưu tâm. Chẳng hạn, do yêu cầu dạy<br /> học theo hướng tích hợp không bắt buộc (mà mới chỉ có tính chất khuyến khích giáo viên thực<br /> hiện) nên nhiều giáo viên không sử dụng, sợ mất nhiều thời gian hoặc giáo viên chỉ dạy học tích<br /> hợp trong các cuộc thi chủ đề tích hợp liên môn còn trong thực tế dạy học thì không thực hiện.<br /> Hơn nữa, do tâm lí thi cử nên học sinh không quan tâm đến những vấn đề giáo viên tích hợp trong<br /> bài học, và điều này đôi khi cũng làm nản lòng những giáo viên mong muốn áp dụng xu hướng<br /> dạy học mới. Một lí do khác là, vì áp lực kiến thức nhiều và áp lực của các kì thi, nên nhiều khi<br /> phần ứng dụng, liên hệ thực tiễn đã thường không được giáo viên dạy trên lớp mà để học sinh về<br /> nhà tự đọc trong sách giáo khoa. Điều này góp phần làm cho học sinh không thấy được ứng dụng<br /> của môn học với đời sống.<br /> Việc giải quyết mối quan hệ giữa kiến thức, nội dung, mục tiêu chung khi nhìn từ góc độ<br /> của dạy học tích hợp còn nhiều lúng túng, vì đối với nhiều giáo viên, qua quá trình giảng dạy mới<br /> có hiểu biết về dạy học tích hợp chứ trước đó hầu như họ không có lí luận gì. Bản thân giáo viên<br /> cũng chưa có những kĩ năng theo đúng nghĩa về cách dạy học này. Vì thế, hiện nay các mức độ<br /> quan hệ được giải quyết tùy theo bộ môn và tùy theo trình độ của giáo viên. Cụ thể là: Liên hệ với<br /> thực tiễn, liên hệ với kiến thức/nội dung của các bài học khác trong một môn, liên hệ lí thuyết với<br /> thực hành nhằm phát triển kĩ năng cho học sinh, liên hệ với mục tiêu bài học/môn học.<br /> Phần lớn giáo viên cố gắng tích hợp về mặt phương pháp dạy học như: Tăng cường sử<br /> dụng đồ dùng dạy học (băng hình, tranh ảnh. . . ), sử dụng công nghệ thông tin vào dạy học (trình<br /> chiếu. . . ). Theo các giáo viên, có những bộ môn mà bản thân nó làm cho giáo viên gặp khó khăn<br /> khi thực hiện tích hợp kiến thức, kĩ năng với mục tiêu, mặc dù giáo viên có hiểu là cần phải làm<br /> như vậy. Tóm lại, mức độ xử lí là tùy theo mức độ của quan hệ, song chủ yếu là việc giảng giải,<br /> phân tích của giáo viên; việc tổ chức hoạt động cho học sinh (tham quan, thiết kế tổ chức hoạt<br /> động ngoại khóa), giao nhiệm vụ/giao bài tập cho học sinh. Nhiều giáo viên tự đánh giá rằng, bản<br /> thân đã cố gắng làm theo yêu cầu của môn học/bài học, song hiệu quả còn hạn chế và một trong<br /> những nguyên nhân là do còn thiếu một cơ chế chung trong việc thực hiện dạy học tích hợp (ví dụ,<br /> hiện nay quỹ thời gian của giáo viên rất hạn hẹp do quy định về số tiết dạy/năm học nhiều quá.<br /> Trong khi đó, để có một tiết dạy theo hướng tích hợp, giáo viên mất nhiều thời gian để chuẩn bị<br /> bài soạn. Thậm chí giáo viên còn phải tự bỏ kinh phí của cá nhân để chuẩn bị cho tiết dạy vì nhà<br /> trường còn bị thiếu thốn nhiều về cơ sở vật chất. . . ).<br /> Có thể nói, trong nhà trường, đối với cấp quản lí, dạy học tích hợp được thực hiện xuất phát<br /> từ nhiều lí do khác nhau như: Do sự cần thiết tất yếu; do bị yêu cầu phải làm; làm theo trào lưu<br /> chung... Cũng vì thế mà kết quả thực tế đạt được rất khác nhau. Còn đối với giáo viên, các lí do<br /> cũng tương tự: Làm vì hưởng ứng trào lưu chung (thực hiện tùy hứng, không thường xuyên, ít chịu<br /> học hỏi, tìm hiểu); làm vì phải làm/phải thể hiện trách nhiệm với trường (do đó mang tính gượng<br /> ép, tỏ ra căng thẳng về tinh thần do thiếu những kĩ năng cần thiết); làm vì bản thân tự thấy là cần<br /> thiết do hiệu quả nhất định đạt được từ phía học sinh (thực hiện thường xuyên hơn, tự tìm tòi, học<br /> hỏi để biết cách làm và số này nhìn chung có rất ít).<br /> Về các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực dạy học tích hợp của giáo viên có thể chia làm hai<br /> nhóm:<br /> - Các yếu tố bên trong, thuộc nhóm này có:<br /> + Kiến thức của giáo viên về dạy học tích hợp. Đây là một yếu tố quan trọng, vì nếu giáo<br /> viên không được cung cấp những kiến thức chung, kiến thức về cách làm, kiến thức về các điều<br /> kiện phương tiện cần thiết về dạy học tích hợp thì họ khó có thể thực hiện dạy học tích hợp. Do đó,<br /> 7<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2