HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ KIM LIÊN
C¤NG NGHIÖP V¡N HãA ë
THµNH PHè Hå CHÝ MINH HIÖN NAY
(Qua khảo sát một số lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn)
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HÓA HỌC
HÀ NỘI – 2015
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ KIM LIÊN
C¤NG NGHIÖP V¡N HãA ë
THµNH PHè Hå CHÝ MINH HIÖN NAY
(Qua khảo sát một số lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn)
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HÓA HỌC
Mã số: 62 31 06 40
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. NGUYỄN THỊ HƯƠNG
PGS.TS. NGUYỄN TOÀN THẮNG
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn
gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả luận án
Nguyễn Thị Kim Liên
MỤC LỤC
Trang
1 8
MỞ ĐẦU Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI
8
19
28
31
1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới 1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước 1.3. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu Chƣơng 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN TIẾP CẬN NGHIÊN CỨU CÔNG NGHIỆP VĂN HÓA VÀ NGHỆ THUẬT BIỂU DIỄN Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
31
42 53
2.1. Một số khái niệm công cụ 2.2. Đặc điểm và vai trò của nghệ thuật biểu diễn 2.3. Những nhân tố tác động đến nghệ thuật biểu diễn ở Thành phố Hồ
Chí Minh hiện nay
61
Chƣơng 3: THỰC TRẠNG LĨNH VỰC NGHỆ THUẬT BIỂU DIỄN Ở
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY
63
3.1. Thực trạng hoạt động sáng tạo/sản xuất nghệ thuật biểu diễn ở
Thành phố Hồ Chí Minh
76 83
92
118
3.2. Thực trạng công nghệ tổ chức biểu diễn và doanh thu 3.3. Thực trạng phân khúc thị trường và vấn đề bản quyền 3.4. Đánh giá chung Chƣơng 4: NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN NGHỆ THUẬT BIỂU DIỄN Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ
118
4.1. Những vấn đề đặt ra đối với lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn ở
Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay
128
4.2. Dự báo xu hướng vận động, phát triển công nghiệp văn hóa và nghệ thuật biểu diễn ở Việt Nam nói chung và Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng
133
4.3. Khuyến nghị về các giải pháp phát triển lĩnh vực nghệ thuật biểu
diễn ở Thành phố Hồ Chí Minh
146 150
151 164
KẾT LUẬN DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
ASEAN
: Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á
CLB
: Câu lạc bộ
CNVH
: Công nghiệp văn hóa
FTA
: Hiệp định Thương mại tự do
GĐ
: Giám đốc
NCS
: Nghiên cứu sinh
NTBD
: Nghệ thuật biểu diễn
NSND
: Nghệ sĩ nhân dân
NSUT
: Nghệ sĩ ưu tú
PGS.TS
: Phó Giáo sư, Tiến sĩ
TNHH
: Trách nhiệm hữu hạn
TPP
: Đối tác Xuyên Thái Bình Dương
TS
: Tiến sĩ
Tp
: Thành phố
UNESCO
: Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc
UNCTAD
: Diễn đàn Thương mại và Phát triển Liên Hiệp quốc
VH, TT & DL : Văn hóa, Thể thao và Du lịch
VCPMC
: Trung tâm Bảo vệ quyền tác phẩm âm nhạc Việt Nam
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa
WTO
: Tổ chức Thương mại Thế giới
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Trang
81
81
Biểu đồ 3.1:Tỷ lệ tăng doanh thu của sân khấu Hồng Vân giai đoạn 2009 – 2013
82
83
86 96 97
98 98 99
106
107
120
122 123
126 144
Biểu đồ 3.2: So sánh tỷ lệ tăng doanh thu của sân khấu Hồng Vân và một số sân khấu khác trong giai đoạn 2009 – 2013
Biểu đồ 3.3: Tỷ lệ cơ cấu các yếu tố góp phần tăng doanh thu của sân khấu Hồng Vân giai đoạn 2009 – 2013 Biểu đồ 3.4: So sánh tỷ lệ đóng góp vào việc tăng doanh thu từ các dòng sản phẩm của sân khấu kịch Hồng Vân giai đoạn 2009 – 2013 Biểu 3.5: Đánh giá về giá vé tại sân khấu Biểu 3.6: Đánh giá về chất lượng ca sĩ Biểu 3.7: Mức độ hài lòng của khán giả đối với chất lượng chương trình Biểu 3.8: Đánh giá về chất lượng diễn viên chính Biểu 3.9: Đánh giá về chất lượng diễn viên phụ Biểu 3.10: Mức độ hài lòng của khán giả đối với chất lượng nội dung các vở diễn Biểu 3.11: Thông tin về các chương trình ca nhạc ở sân khấu này qua các kênh truyền thông Biểu 3.12: Thông tin về các vở diễn của các sân khấu qua các kênh truyền thông Biểu 4.1: Mức độ hài lòng của khán giả đối với chất lượng nội dung các vở diễn Biểu 4.2: Đánh giá của cán bộ quản lý sân khấu về thuật ngữ CNVH Biểu 4.3: Đánh giá của cán bộ quản lý nhà nước về thuật ngữ CNVH Biểu 4.4: Các vấn đề đặt ra hiện nay đối với sự phát triển của CNNTBD Biểu 4.5: Định hướng giá trị của các đơn vị nghệ thuật
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
139
143
Bảng 4.1: Chính sách nhà nước cần ưu tiên để tạo động lực phát triển CNVH
Bảng 4.2: Giải pháp cần ưu tiên phát triển công nghiệp văn hóa
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay nhiều quốc gia trên thế giới, công nghiệp văn hóa (CNVH) đang
đóng vai trò là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của nền kinh tế tri thức, có
khả năng to lớn trong việc truyền bá, bảo vệ, phát huy bản sắc giá trị văn hóa dân
tộc. Ở Việt Nam, vào những năm 90 của thế kỷ XX, bắt đầu xuất hiện nhận thức
mới về lao động sáng tạo văn hóa – nghệ thuật, coi đó là một loại lao động đặc
biệt và tìm tòi nhiều phương thức nhằm phát triển văn hóa – nghệ thuật trong điều
kiện nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên cho đến nay, cả về lý luận và thực tiễn phát
triển công nghiệp văn hóa chỉ mới ở giai đoạn đầu, có nhiều vấn đề đang đặt ra cần
phải tiếp tục nghiên cứu.
Việt Nam đang ở thời kỳ phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa (XHCN), phát triển công nghiệp văn hóa là tất yếu khách quan.
Trong định hướng phát triển văn hoá của Đảng và Chiến lược phát triển văn hóa
từ nay đến năm 2020, vấn đề phát triển công nghiệp văn hoá đã được đặt ra.
Điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng trong quá trình phát triển văn hóa nói
chung, phát triển công nghiệp văn hóa nói riêng. Có thể nói, Nghị quyết Hội
nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII (Nghị quyết
Trung ương 5 khóa VIII) được coi như Nghị quyết có ý nghĩa đột phá chỉ rõ vai
trò của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế: “Văn hóa là kết quả của kinh tế,
đồng thời là động lực của sự phát triển kinh tế. Các nhân tố văn hóa phải gắn kết
chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi phương diện chính trị, kinh
tế, xã hội, luật pháp, kỷ cương… biến thành nguồn lực nội sinh quan trọng nhất
của phát triển” [19, tr.55]. Trong phần giải pháp xây dựng và phát triển văn hóa,
chính sách kinh tế trong văn hóa đã được Đảng ta xác định là một trong những
chính sách quan trọng tạo điều kiện nhiều hơn để phát triển sự nghiệp văn hóa.
Trong Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020 (2009), lần đầu tiên ở Việt
Nam, khái niệm “công nghiệp văn hóa” đã xuất hiện và khẳng định: “Phát triển
2
“công nghiệp văn hoá” đang là xu thế lớn và quan trọng trong chính sách văn
hoá của các nước trên thế giới” [70, tr.11]. Nghị quyết số 23 của Bộ Chính trị
(2009) về phát triển văn học, nghệ thuật thời kỳ mới đã khẳng định về sự hình
thành một thị trường hàng hóa và dịch vụ các sản phẩm văn học, nghệ thuật.
Nghị quyết số 22-NQ/TW về Hội nhập quốc tế (2013), trong đó việc xây dựng
Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa được xem là một trong
những nhiệm vụ trọng tâm của Chính phủ. Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI (Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI)
(2014), đề ra nhiệm vụ xây dựng thị trường văn hóa lành mạnh, đẩy mạnh phát
triển công nghiệp văn hóa, tăng cường quảng bá văn hóa Việt Nam; phát triển
công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa.... Tuy
nhiên, cho đến nay, Việt Nam vẫn chưa ban hành được Chiến lược phát triển công
nghiệp văn hóa. Điều này sẽ hạn chế việc cụ thể hóa những quan điểm đổi mới của
Đảng về phát triển văn hóa, phát huy sức mạnh nội sinh của dân tộc trong giai đoạn
đổi mới, hội nhập hiện nay. Vì vậy, thực hiện đề tài nghiên cứu này sẽ góp phần
triển khai đường lối của Đảng về phát triển văn hóa nói chung và công nghiệp văn
hóa nói riêng.
Công nghiệp văn hóa bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó, nghệ
thuật biểu diễn là một trong những lĩnh vực quan trọng có tính đặc thù. Nghiên
cứu công nghiệp văn hóa trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí Minh
hiện nay là vấn đề hết sức bức thiết. Bởi lẽ, Tp. Hồ Chí Minh là một thành phố
công nghiệp trẻ, năng động và phát triển, có nhiều điểm giải trí về văn hóa nghệ
thuật nhất trong cả nước. Cùng với sự phát triển kinh tế, mức sống của người
dân được nâng cao, hoạt động vui chơi giải trí ngày càng được quan tâm hơn để
đáp ứng nhu cầu văn hoá tinh thần của xã hội. Sự phát triển về du lịch nảy sinh
yêu cầu phục vụ du khách cũng đã góp phần làm phong phú thêm lĩnh vực dịch
vụ này. Trong những năm đổi mới gần đây, do tác động của cơ chế thị trường và
ảnh hưởng của xu thế toàn cầu hóa, hoạt động nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí
Minh đã có những chuyển biến rõ rệt. Nhiều yếu tố của nghệ thuật biểu diễn
3
được các đơn vị chú trọng, như phát triển thị trường khán giả, phân đoạn thị
trường, chọn thị trường mục tiêu, đẩy mạnh tuyên truyền, quảng cáo, mở rộng
địa điểm biểu diễn, nâng cao chất lượng chương trình… Tuy nhiên, sự phát triển
lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn còn nhiều vấn đề đặt ra. Đó là hiện tượng sự phát
triển thị trường nghệ thuật còn mang tính tự phát, cạnh tranh không lành mạnh.
Nhiều mâu thuẫn xuất hiện như: mâu thuẫn giữa nhu cầu hưởng thụ nghệ thuật biểu
diễn và khả năng đáp ứng; mâu thuẫn giữa tính cấp bách phải phát triển lĩnh vực
nghệ thuật biểu diễn với nhận thức lạc hậu về tổ chức, quản lý tổ chức; mâu thuẫn
giữa bảo tồn và phát huy giá trị truyền thống của nghệ thuật biểu diễn với mở rộng
giao lưu, hợp tác quốc tế… chưa được giải quyết.
Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn trên, nghiên cứu sinh lựa chọn đề
tài: Công nghiệp văn hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay (Qua khảo sát
một số lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn) để viết luận án tiến sĩ văn hóa học. Hy
vọng kết quả nghiên cứu của luận án sẽ góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực
tiễn của phát triển ngành công nghiệp văn hóa trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn ở
Việt Nam hiện nay.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Luận án góp phần làm rõ cơ sở lý luận nghiên cứu
công nghiệp văn hóa, lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí Minh; trên cơ
sở đó khảo sát thực trạng công nghiệp văn hoá qua một số lĩnh vực nghệ thuật
biểu diễn; khuyến nghị một số giải pháp phát triển lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn
ở Tp. Hồ Chí Minh thời gian tới.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài của luận án
2. Làm rõ cơ sở lý luận về phát triển công nghiệp văn hóa và lĩnh vực
nghệ thuật biểu diễn ở Việt Nam trong thời kỳ phát triển kinh tế thị trường và
hội nhập quốc tế.
3. Khảo sát, đánh giá thực trạng lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ
Chí Minh hiện nay.
4
4. Dự báo xu hướng vận động, phát triển của công nghiệp văn hóa ở Việt
Nam nói chung, nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí Minh nói riêng trong thời
gian tới; khuyến nghị một số giải pháp nhằm phát triển lĩnh vực nghệ thuật biểu
diễn ở Tp. Hồ Chí Minh trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập
quốc tế.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Nghệ thuật biểu diễn bao gồm nhiều lĩnh vực
khác nhau. Luận án chỉ tập trung nghiên cứu, khảo sát ba lĩnh vực: Âm nhạc,
Sân khấu Kịch nói và Múa ở một số đơn vị công lập và ngoài công lập trên địa
bàn Tp. Hồ Chí Minh.
Sở dĩ luận án chọn lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn tại Tp. Hồ Chí Minh vì
đây là lĩnh vực nghệ thuật khá nổi bật trong phát triển công nghiệp văn hóa cả
trên thế giới và trong nước. Khi bàn đến cơ cấu của công nghiệp văn hóa, các
nước châu Á, châu Âu, UNESCO cũng đều đề cập loại hình này trong cách phân
loại công nghiệp văn hóa. Trong loại hình nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí
Minh thì lĩnh vực kịch nói, ca - múa - nhạc phát triển khá sôi nổi.
3.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận án khảo sát từ năm 2010 đến 2015, vì đây
là khoảng thời gian các loại hình nghệ thuật biểu diễn như Kịch nói, Âm nhạc và
Múa ở Tp. Hồ Chí Minh phát triển khá rầm rộ, chứa đựng tính đại diện và điển
hình cho sự phát triển công nghiệp văn hóa thông qua các loại hình nghệ thuật
này ở Tp. Hồ Chí Minh.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Công nghiệp văn hóa có thể được nghiên cứu từ nhiều ngành khoa học
chuyên biệt như kinh tế học, xã hội học, văn hóa học, lịch sử văn hóa…Tuy
nhiên, để phù hợp với mã số chuyên ngành văn hóa học, luận án chú trọng
phương pháp tiếp cận văn hóa học đối với nghệ thuật biểu diễn, đặc biệt chú ý
đến giá trị thẩm mỹ, nghệ thuật và ảnh hưởng của nghệ thuật biểu diễn, tiềm
năng phát triển của nó trong giao lưu và hội nhập quốc tế hiện nay. Với cách tiếp
cận như vậy, để giải quyết được mục tiêu và nhiệm vụ đặt ra, tác giả luận án chủ
yếu sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
5
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận mác xít và quan
điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng và phát triển nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, mối quan hệ giữa phát triển văn
hoá và kinh tế trong phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
+ Phương pháp lịch sử - logic: Phương pháp lịch sử - logic giúp tác giả
luận án đi sâu tìm hiểu quá trình vận động và phát triển của công nghiệp văn hóa
ở Tp. Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới gắn với quá trình phát triển nhận thức lý
luận cũng như quá trình đổi mới kinh tế - xã hội của thành phố. Đồng thời, giúp
cho tác giả luận án khái quát logic của sự vận động này theo những nội dung vấn
đề cần quan tâm nghiên cứu phục vụ cho triển khai thực hiện của luận án.
+ Phương pháp phân tích và tổng hợp: Luận án tập trung nghiên cứu phân
tích các tài liệu, các số liệu, các kết quả điều tra, các kết quả nghiên cứu đã có để
có thể khái quát hóa, tổng hợp hóa, đưa ra các nhận định khoa học của luận án,
đảm bảo tính khoa học của các nhận định về công nghiệp văn hóa ở Tp. Hồ Chí
Minh hiện nay.
+ Phương pháp nghiên cứu trường hợp: Phương pháp nghiên cứu trường
hợp hay còn gọi là phương pháp điển hình thực chất là sự phân tích một hay một
số trường hợp điển hình cụ thể nhằm mục đích nghiên cứu nào đó. Công nghiệp
văn hóa bao gồm rất nhiều các loại hình khác nhau, đó là: nghệ thuật biểu diễn,
thiết kế mỹ thuật, thời trang, mỹ thuật, nhiếp ảnh và galeres, bảo tàng, di sản văn
hóa, báo chí, in ấn – xuất bản, điện ảnh, phát thanh, truyền hình, phần mềm có
nội dung văn hóa, thủ công mỹ nghệ và các dịch vụ văn hóa sáng tạo... Tác giả
luận án chọn một số loại hình nghệ thuật biểu diễn để khảo sát, đánh giá dưới
góc nhìn công nghiệp văn hóa.
+ Phương pháp phân tích SWOT (Điểm mạnh - Điểm yếu - Cơ hội -
Thách thức): Phương pháp này giúp tác giả luận án chỉ ra điểm mạnh, điểm yếu,
thời cơ, thách thức, triển vọng để phát triển công nghiệp văn hóa ở Tp. Hồ Chí
Minh; từ đó đề xuất giải pháp để giải quyết những vấn đề đang được đặt ra.
6
+ Phương pháp điều tra xã hội học: Chúng tôi thực hiện phương pháp
này bằng quy trình sau:
Giai đoạn 1: Chọn mẫu. Chúng tôi chọn 200 khán giả của Sân khấu kịch
Idecaf, Sân khấu kịch Hồng Vân, Nhà hát Nhạc – Vũ kịch Tp. Hồ Chí Minh,
Nhà hát Kịch sân khấu nhỏ 5B, Sân khấu ca nhạc 126, Sân khấu ca nhạc Trống
Đồng, cách chọn mẫu thuận tiện – phi xác suất - nghĩa là chọn những khán giả
dễ tiếp cận nhất để khảo sát. Ngoài ra, khảo sát 100 cán bộ quản lý ở Sở Văn
hóa, Thể thao và Du lịch Tp. Hồ Chí Minh (Sở VH, TT & DL Tp. Hồ Chí Minh)
cán bộ/ nhân viên ở một số sân khấu kịch, ca nhạc nói trên.
Giai đoạn 2: Soạn câu hỏi khảo sát: dựa trên dữ liệu nghiên cứu của đề
tài; xây dựng bảng hỏi theo tiêu chí phát hiện: nhận thức, thái độ, hành vi của
các nhóm chủ thể khác nhau đối với lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí
Minh hiện nay; khảo sát thử và điều chỉnh để hoàn thiện bảng hỏi.
Giai đoạn 3: Xây dựng và tập huấn khảo sát viên (khảo sát viên là tác giả
luận án, đồng nghiệp và một số sinh viên).
Giai đoạn 4: Khảo sát đại trà khán giả tại các sân khấu và tại các cơ quan
quản lý nhà nước về văn hóa.
Giai đoạn 5: Xử lý kết quả khảo sát bằng phần mềm SPSS 16.0 và lên
bảng biểu, sơ đồ, rút ra kết luận sơ bộ.
Chúng tôi còn tiến hành phỏng vấn sâu một số nhà quản lý văn hóa, các
doanh nghiệp văn hóa, các công ty tổ chức sự kiện…tìm ra những thuận lợi, khó
khăn cũng như những thành tựu và hạn chế, những vấn đề đặt ra trong lĩnh vực
nghệ thuật biểu diễn trên địa bàn Tp. Hồ Chí Minh.
+ Phương pháp thống kê – so sánh: Luận án sử dụng các số liệu thống kê
để phân tích và so sánh, đánh giá thực trạng về công nghiệp văn hóa trong lĩnh
vực nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí Minh trong thời gian qua.
+ Phương pháp dự báo: Luận án kết hợp giữa phương pháp định tính và
phương pháp định lượng để dự báo về xu hướng phát triển của công nghiệp văn
hóa ở Tp. Hồ Chí Minh trong thời gian tới.
7
- Giả thuyết nghiên cứu
+ Công nghiệp văn hóa ở Tp. Hồ Chí Minh nói riêng đang phát triển bùng nổ
gắn với kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế có nhiều cơ hội và thách thức.
+ Công nghiệp văn hóa trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí
Minh đã có những đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội, đáp ứng nhu
cầu tinh thần phong phú, sôi động của người dân thành phố. Phát triển công
nghiệp văn hóa sẽ góp phần giải quyết hài hoà giá trị kinh tế và văn hoá trong
quá trình phát triển.
+ Công nghiệp văn hóa trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí
Minh cần có nhiều giải pháp đồng bộ và thiết thực để tạo động lực, tháo gỡ khó
khăn tiếp tục phát triển mạnh hơn nữa trong thời kỳ hội nhập quốc tế.
5. Đóng góp mới của luận án
- Góp phần làm rõ những vấn đề lý luận liên quan đến công nghiệp văn hóa và
lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn trên thế giới và ở Việt Nam hiện nay.
- Phân tích, đánh giá thực trạng lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ
Chí Minh trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) và
hội nhập quốc tế hiện nay. Từ đó dự báo xu hướng phát triển công nghiệp văn
hóa ở Việt Nam nói chung và ở Tp. Hồ Chí Minh nói riêng.
- Kết quả nghiên cứu của luận án là tài liệu tham khảo cho các trường đại
học, cao đẳng, các nhà nghiên cứu, cơ quan nghiên cứu và hoạch định chính sách
xây dựng và phát triển công nghiệp văn hóa ở Việt Nam.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung luận án kết cấu thành 4 chương, 13 tiết. Cụ thể:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Chương 2: Cơ sở lý luận tiếp cận nghiên cứu công nghiệp văn hoá và nghệ thuật
biểu diễn ở Thành phố Hồ Chí Minh
Chương 3: Thực trạng lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn ở Thành phố Hồ Chí Minh
hiện nay
Chương 4: Những vấn đề đặt ra đối với phát triển nghệ thuật biểu diễn ở
Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay và một số khuyến nghị
8
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRÊN THẾ GIỚI
1.1.1. Những nghiên cứu lý thuyết về công nghiệp văn hóa và nghệ
thuật biểu diễn
Hiện nay, ngành công nghiệp văn hoá nói chung và nghệ thuật biểu diễn
nói riêng trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều quốc gia. Vì vậy, công
nghiệp văn hóa (CNVH) đã trở thành đối tượng quan tâm của các nhà khoa học
và quản lý. Có thể nêu ra những công trình nghiên cứu lý luận (về khái niệm,
phân loại, cấu trúc, đặc trưng, quy luật tác động… của công nghiệp văn hóa và
nghệ thuật biểu diễn) tiêu biểu sau:
Trong cuốn sách nổi tiếng Dialectic of Enlightenment (Biện chứng của
Khai sáng) xuất bản năm 1947 của Adorno và Horkheimer, lần đầu tiên cụm từ
công nghiệp văn hóa (cultural industry) đã được sử dụng.
Theodor Adorno trong cuốn sách khác: Culture Industry Reconsidered đã
dùng khái niệm công nghiệp văn hóa thay vì khái niệm văn hóa đại chúng để
diễn đạt thực trạng văn hóa bị biến thành hàng hóa trao đổi. Adorno còn cho
rằng trong hiện tượng công nghiệp văn hóa có một khía cạnh chính trị nhất định:
đảm bảo duy trì kéo dài sự phục tùng của đại chúng vào lợi ích thị trường
[Dẫn theo 67, tr.33].
Ở hướng nghiên cứu về kinh tế học văn hóa, giáo sư Throsby David - một
nhà kinh tế của nước Úc, trong tác phẩm: Economics and Culture -Kinh tế học
và Văn hóa (Cambridge University Press, 2001) đã phân tích khía cạnh kinh tế
của các hoạt động văn hóa, công nghiệp sáng tạo, các dịch vụ văn hóa và bối
cảnh văn hóa của kinh tế. Đồng thời, ông nhấn mạnh: Các sản phẩm văn hóa với
tư cách là một loại hàng hóa có giá trị cả về kinh tế và văn hóa: Sản phẩm văn
hóa có điểm giống với sản phẩm vật chất như có giá trị và giá trị trao đổi. Tuy
nhiên, bên cạnh đó, sản phẩm văn hóa còn mang các giá trị khác như giá trị thẩm
9
mỹ, tinh thần, xã hội, lịch sử, giá trị biểu tượng [109, tr.208]. Tác giả dành nhiều
trang viết để phân tích vai trò của văn hóa trong phát triển kinh tế, các ngành
công nghiệp văn hóa và chính sách văn hóa, giới thiệu các khái niệm về vốn văn
hóa với phát triển bền vững, xem xét mối quan hệ giữa kinh tế và bản sắc văn
hóa trong thế giới toàn cầu hóa. Ngoài ra, Throsby David còn quan tâm đến các vấn
đề: nghệ thuật biểu diễn, vai trò kinh tế của các nghệ sĩ, kinh tế và sự can thiệp trực
tiếp trên thị trường nghệ thuật, phát triển văn hóa, chính sách văn hóa, vấn đề di sản
và tính bền vững của quá trình văn hóa. Ông nhận định: bản thân mỗi loại hình
nghệ thuật đều có thể coi là một ngành công nghiệp văn hóa [109, tr.208].
Harold L. Vogel1 (2001), Entertainment Industry Economics - A Guide for
Financial Analysis- Hướng dẫn phân tích tài chính cho nền công nghiệp giải trí,
Cambridge University Press. Tác giả của công trình đã phân tích và chứng minh
ngành công nghiệp giải trí là một trong những ngành lớn nhất của nền kinh tế
Mỹ và trong thực tế đã trở thành một trong những ngành kinh tế nổi bậc nhất
trên phạm vi toàn cầu với các sản phẩm: phim, âm nhạc, chương trình truyền
hình, phát thanh, quảng cáo, nghệ thuật biểu diễn, thể thao... Bên cạnh đó, công
trình cũng là tài liệu tham khảo hữu ích về các vấn đề về kinh tế, tài chính, sản
xuất, tiếp thị và vui chơi giải trí ở Mỹ và nhiều nước khác trên thế giới đối với
các nhà đầu tư, quản trị kinh doanh, kế toán, luật sư, nhà quản lý nghệ thuật và
độc giả nói chung.
Throsby David and Glenn A. Withers: The Economics of the Performing
Arts - Kinh tế học về Nghệ thuật biểu diễn (edition 1993), Edward Arnold
(Australia). Ở công trình này, các tác giả đã đề cập đến các vấn đề chung về
nghệ thuật biểu diễn và hệ thống lý thuyết trong kinh tế của nghệ thuật biểu diễn.
Ngoài ra, một số nước châu Á như Trung Quốc, Hồng Kông, Nhật Bản,
Hàn Quốc, Ấn Độ... đã và đang đặt ra mục tiêu trở thành cường quốc về “công
nghiệp văn hóa”. Khái niệm công nghiệp văn hóa được dùng phổ biến.
Ở Hồng Kông, tư tưởng về công nghiệp văn hóa lần đầu tiên được nêu lên
do một số tổ chức phi chính phủ về văn hóa vào khoảng năm 1999 – 2000.
10
Trong bản báo cáo năm 2003, định nghĩa các ngành công nghiệp văn hóa được
nêu rõ: “một nhóm các hoạt động kinh tế khai thác và triển khai tính sáng tạo, kỹ
năng và tài sản trí tuệ để sản xuất và phân phối các sản phẩm và dịch vụ có ý
nghĩa văn hóa và xã hội, một hệ thống sản xuất thông qua đó tiềm năng tạo ra giàu
có và sáng tạo nghề nghiệp được thực hiện”. Danh sách các ngành công nghiệp
văn hóa được liệt kê bao gồm: quảng cáo, kiến trúc, nghệ thuật, cổ vật và đồ thủ
công, thiết kế, giải trí kỹ thuật số, phim và video, âm nhạc, nghệ thuật trình diễn,
xuất bản và in ấn, phần mềm và kỹ thuật máy tính, phát thanh truyền hình.
Hiện nay, Hàn Quốc là một trong năm nước có ngành công nghiệp văn
hóa mạnh nhất thế giới. Có được điều này là vì Chính phủ Hàn Quốc khẳng định
văn hóa là một lĩnh vực kinh tế năng động, đóng góp trực tiếp và gián tiếp vào
sự phát triển của nền kinh tế Hàn Quốc. Luật Phát triển Nghệ thuật và Văn hóa
của Hàn Quốc định nghĩa sản phẩm văn hóa, nghệ thuật và sáng tạo, được sản
xuất, biểu diễn, trưng bày, mua bán và phân phối sản phẩm của các ngành công
nghiệp văn hóa. Luật Xúc tiến công nghiệp văn hóa năm 1999, nêu rõ phạm vi
công nghiệp văn hóa bao gồm nghệ thuật nghe nhìn, game, âm nhạc, phát thanh
truyền hình, quảng cáo, xuất bản, thiết kế, nghề thủ công, phim đặc tả nhân vật,
mỹ thuật, video, phim, hoạt hình, các nội dung số hóa. Phòng Chính sách văn
hóa và du lịch Hàn Quốc cũng định nghĩa công nghiệp văn hóa là “công nghiệp
dịch vụ có liên quan đến phát triển, sản xuất, chế tác, phân phối và tiêu thụ các
nội dung văn hóa”. Các ngành công nghiệp đó có tính tri thức cao, dựa trên sự sử
dụng công nghệ văn hóa cho các mục đích thực tế.
Ở Trung Quốc, năm 2003, Bộ Văn hóa Trung Quốc đã coi công nghiệp
văn hóa là ngành nghề mang tính chất kinh doanh, sản xuất sản phẩm văn hóa và
cung cấp dịch vụ văn hóa. Công nghiệp văn hóa là khái niệm đối ứng với sự
nghiệp văn hóa. Hai khái niệm đó đều là bộ phận hợp thành quan trọng của xây
dựng văn hóa XHCN. CNVH là sản phẩm tất yếu của phát triển sức sản xuất xã
hội, là sản nghiệp mới trỗi dậy, được hoàn thiện dần cùng với nền kinh tế thị
trường và phát triển mạnh mẽ cùng với sự tiến bộ không ngừng của phương thức
11
sản xuất hiện đại. Về phạm vi công nghiệp văn hóa, Bộ Văn hóa Trung quốc đã
đưa ra 9 loại ngành nghề lớn như ngành trình diễn, ngành tivi điện ảnh, ngành
video, ngành vui chơi giải trí văn hóa, ngành du lịch văn hóa, ngành văn hóa
mạng, ngành báo chí xuất bản, ngành cổ vật và tác phẩm văn nghệ, ngành đào
tạo, bồi dưỡng nghệ thuật vào phạm vi quản lý của công nghiệp văn hóa [58,
tr.85-86]. Đại hội đại biểu lần thứ XVI của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đưa
ra khái niệm công nghiệp văn hóa và coi đó là sự đột phá quan trọng về lý luận
văn hóa của Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Nghiên cứu về công nghiệp văn hóa không thể không kể đến những quan
tâm nghiên cứu của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá Liên hợp quốc
(UNESCO). Cùng với những vấn đề nảy sinh trong phát triển xã hội đương đại,
với tư cách là một cơ quan văn hóa của Liên hợp quốc, UNESCO ngày càng có
những quan tâm đặc biệt đến vấn đề này, cả về phương diện lý luận lẫn phương
diện thực tiễn. Từ những nhận thức mới về vai trò của văn hóa đối với sự phát
triển của các quốc gia và nhân loại nói chung, UNESCO đã đề cập đến vai trò
của văn hóa trong những lĩnh vực cụ thể, trong đó có công nghiệp văn hóa.
Trong công trình: Các ngành công nghiệp văn hóa – Tâm điểm của văn
hóa trong tương lai [116], UNESCO đã định nghĩa: “Các ngành công nghiệp kết
hợp sự sáng tạo, sản xuất và khai thác các nội dung có bản chất phi vật thể và
văn hóa. Các nội dung này thường được bảo vệ bởi luật bản quyền và thể hiện
dưới dạng các sản phẩm hay dịch vụ”. Các ngành công nghiệp văn hóa bao gồm
ngành in ấn, xuất bản, đa phương tiện, nghe nhìn, ghi âm, điện ảnh, thủ công và
thiết kế. Đối với một số nước, các ngành công nghiệp văn hóa còn bao hàm kiến
trúc, nghệ thuật biểu diễn, nghệ thuật thị giác, thể thao, sản xuất nhạc cụ, quảng
cáo và du lịch văn hóa. Như vậy, phạm vi của các ngành công nghiệp văn hóa
khá rộng, từ những ngành mang tính truyền thống như văn hóa dân gian, thủ
công, lễ hội, văn học, nghệ thuật biểu diễn đến các ngành mang nặng tính công
nghệ như điện ảnh, truyền thông, phim hoạt hình kỹ thuật số, trò chơi điện tử và
các ngành thiên về dịch vụ như kiến trúc và quảng cáo.
12
Các ngành công nghiệp văn hóa có sự kết hợp chặt chẽ giữa văn hóa, nghệ
thuật, kinh tế và công nghệ. Các ngành này đều sáng tạo, sản xuất và phân phối
các sản phẩm và dịch vụ sử dụng nguồn lực trí tuệ của con người như những
nguyên liệu đầu vào then chốt.
Vai trò quan trọng của văn hóa đã được thể hiện qua bốn mục tiêu cuộc
vận động Thập kỷ thế giới phát triển văn hóa: (1) Với khẩu hiệu “Văn hóa vì
phát triển” đã khẳng định vị trí quan trọng của văn hóa trong phát triển, tìm mọi
phương thức có thể cho sự phù hợp giữa sản xuất và sáng tạo, để kinh tế có thể
bắt rễ trong văn hóa; (2) Tôn trọng tất cả các nền văn hóa của các dân tộc, tuân
thủ nguyên tắc bình đẳng và khuyến khích sự tự khẳng định, tự làm phong phú
bản sắc văn hóa dân tộc trong sự thống nhất với tinh hoa văn hóa và văn minh
nhân loại; (3) Đảm bảo sự tham gia của mọi lực lượng vào đời sống văn hóa, tạo
ra càng nhiều cơ hội và điều kiện để từng cá nhân và mỗi cộng đồng tự do hưởng
thụ và sáng tạo văn hóa; (4) Đẩy mạnh hợp tác văn hóa quốc tế với luận điểm
quan trọng: “Nhận thức về vị trí và vai trò của văn hóa trong phát triển, chúng ta
cần vượt lên cách tiếp cận kinh tế học thuần túy và tìm ra hàng trăm phương
thức có thể được để cho tính công nghiệp và tính sáng tạo có thể gắn bó, móc nối
với nhau và để cho kinh tế có thể bắt rễ trong văn hóa”.
Theo UNESCO, sản phẩm văn hóa là kết quả của hoạt động sáng tạo, sản
xuất, khai thác giá trị văn hóa trong ngành công nghiệp văn hóa. Sản phẩm văn
hóa được lưu thông, buôn bán trên thị trường nên còn được gọi là hàng hóa văn
hóa. UNESCO cho rằng: hàng hóa văn hóa là “các sản phẩm tiêu dùng chứa
đựng ý tưởng, biểu tượng và lối sống. Chúng có chức năng thông báo hoặc giải
trí, đóng góp cho việc xây dựng bản sắc văn hóa cộng đồng và ảnh hưởng đến
các tập quán văn hóa”. Sản phẩm văn hóa mang tính phi vật thể. Điều này có thể
thấy rõ trong các sản phẩm văn hóa nghệ thuật thuộc loại hình nghệ thuật biểu
diễn. Các sản phẩm văn hóa khác như tác phẩm hội họa, điêu khắc, trưng bày
sắp đặt tuy có vỏ vật chất để biểu hiện nhưng phần quan trọng vẫn là nội dung, ý
tưởng sáng tạo, hình tượng nghệ thuật mang tính biểu cảm và phi vật thể.
13
1.1.2. Những nghiên cứu về thực tiễn công nghiệp văn hóa và nghệ
thuật biểu diễn
Ngoài nghiên cứu về lý luận, các nhà khoa học còn quan tâm đến thực
tiễn. Đó là chính sách phát triển, thực tiễn phát triển, kinh nghiệm quản lý, giải
pháp phát triển CNVH và nghệ thuật biểu diễn… Có thể kể ra một số công trình
tiêu biểu sau:
James Heilbrun and Charles M.Gray (1993), The Economics of Art and
Culture - An American Perspective - Kinh tế học về Nghệ thuật và Văn hóa –
Một triển vọng ở Mỹ, Cambridge University Press. Các vấn đề được bàn đến
trong công trình này là: Vấn đề tài chính, kinh tế của mỹ thuật và nghệ thuật biểu
diễn ở Hoa Kỳ; chính sách công và vai trò của nó đối với các loại hình văn hóa
nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật biểu diễn; một số khái niệm, lý thuyết liên quan
đến hoạt động biểu diễn nghệ thuật; vấn đề sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm nghệ
thuật biểu diễn; vấn đề tài chính và thị trường nghệ thuật trong xã hội đương đại; dự
báo tương lai phát triển nghệ thuật biểu diễn tại Hoa Kỳ.
Throsby David and Glenn A. Withers: The Economics of the Performing
Arts - Kinh tế học về Nghệ thuật biểu diễn (edition 1993), Edward Arnold
(Australia). Ở công trình này, ngoài nghiên cứu về lý luận kể trên, các tác giả
còn phân tích một số kinh nghiệm về chính sách công của nghệ thuật biểu diễn
và các quan điểm về chính sách công. Phát triển các lý thuyết cơ bản về hành vi của
các tổ chức nghệ thuật, người tiêu dùng và khách hàng trung thành; kiểm chứng
tính đúng đắn của những lý thuyết này với thực tiễn. Công trình đã trở thành một
trong những tài liệu tham khảo quan trọng trong lĩnh vực kinh tế văn hóa.
Cùng với Throsby David, giáo sư Victor A. Ginsburgh - một nhà kinh tế
học người Bỉ, gốc Áo, chuyên nghiên cứu các lý thuyết về kinh tế vi mô, văn hóa
kinh tế đã cho ra đời tác phẩm: Handbook of the Economics of Art and Culture -
Sổ tay Kinh tế học Văn hóa và Nghệ thuật. Công trình gồm 05 phần với các nội
dung chuyên sâu như: Giá trị và việc xác định giá trị trong nghệ thuật và văn
hóa; cung, cầu; tiêu dùng và đầu tư; đổi mới và thay đổi công nghệ, thương mại,
phát triển đa dạng văn hóa và các vấn đề văn hóa rộng hơn.
14
Ruth Towse là giáo sư đầu ngành của lĩnh vực kinh tế và công nghiệp văn
hóa, bà đã tham gia giảng dạy ở rất nhiều trường đại học nổi tiếng ở trên thế giới
về những lĩnh vực này vừa xuất bản cuốn sách: A Handbook of Cultural
Economic: Sổ tay kinh tế học văn hóa (2011). Ở công trình này, giáo sư đã tập
trung phân tích những thay đổi trong lĩnh vực kinh tế văn hóa trong xã hội
đương đại; Phân tích những tác động của công nghệ mới đối với ngành công
nghiệp sáng tạo. Bên cạnh đó, tác giả còn phân tích những tính chất kinh tế của
hoạt động văn hóa, nghệ thuật như: vấn đề đấu giá sản phẩm, thị trường tiêu thụ
sản phẩm văn hóa nghệ thuật, giá cả, thị trường lao động của các nghệ sĩ, sáng
tạo và sáng tạo kinh tế, giá trị văn hóa, toàn cầu hóa và thương mại quốc tế,
internet, phương tiện truyền thông kinh tế, bảo tàng, các tổ chức phi lợi nhuận,
biểu diễn nghệ thuật, xuất bản, kinh tế phúc lợi. Đây là cuốn sách thực sự có giá
trị đối với những người nghiên cứu về lĩnh vực công nghiệp văn hóa và những
vấn đề liên quan đến kinh tế văn hóa.
Harry Hillman, Joni M.Cherbo2 and Margaret J. Wyszomirski3 (2000) The
Public Life of the Arts in America - Đời sống công cộng của nghệ thuật ở Mỹ,
(Nxb Rutgers University Press, New York). Công trình gồm 2 phần: Phần
I:“Exploring a changing landscape”, Phần II: “The public and the arts”.Công
trình này đã có những đóng góp quan trọng trong hệ thống tài liệu về nghệ thuật
ở Mỹ. Công trình đã cung cấp nhiều thông tin khoa học có giá trị như: 96% người
dân Mỹ liên quan đến hoạt động nghệ thuật dưới nhiều hình thức trực tiếp hay
gián tiếp: là khán giả, là những người có sở thích, hoặc thông qua truyền hình, ghi
âm, video, Internet... Công trình cũng cho thấy nền công nghiệp văn hóa đã đóng
góp quan trọng vào sự phát triển của nền kinh tế Mỹ. Bên cạnh đó, nền công
nghiệp văn hóa Mỹ cũng đang tìm cách để ngày càng phục vụ những lợi ích
công ngày càng tốt hơn. Các tác giả công trình cũng cho rằng các chính sách
công của chính phủ sẽ tác động đến nghệ thuật và văn hóa Mỹ. Vì vậy, theo họ,
Mỹ nên tiếp tục hỗ trợ nghệ thuật để lĩnh vực này không ngừng phát triển. Điều
này hỗ trợ góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của cộng đồng, duy trì sự
15
sáng tạo của các nghệ sĩ và các tổ chức nghệ thuật ở Mỹ. Công trình đã khẳng
định: một ngành công nghiệp liên quan đến hai yếu tố cơ bản là bên cung (sản
xuất) và bên cầu (tiêu thụ) trong cán cân kinh tế. Các ngành công nghiệp được
tạo nên do nhu cầu của xã hội và cung ứng cho thị trường sản phẩm, dịch vụ để
đáp ứng nhu cầu đó. Tương tự như vậy, ngành công nghiệp văn hóa ra đời do
nhu cầu văn hóa, tinh thần của xã hội.
Với cách tiếp cận văn hóa là một ngành công nghiệp, Richard E. Caves -
chuyên gia đầu ngành của Đại học Harvard về lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn
hóa, công nghiệp văn hóa đã xuất bản cuốn sách: Creative Industries: Contracts
Between Art and Commerce, Ngành công nghiệp sáng tạo: khế ước giữa nghệ
thuật và thương mại, Harvard University Press (2000). Nghiên cứu này phân tích
vấn đề tổ chức của các ngành công nghiệp sáng tạo bao gồm nghệ thuật thị giác và
biểu diễn, phim, nhà hát, xuất bản sách... Ông cho rằng, việc tổ chức kinh doanh
của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp sáng tạo cũng được
thực hiện theo một logic, quy trình giống như các lĩnh vực kinh doanh khác.
Công trình cung cấp một cách toàn diện các vấn đề cốt lõi trong quản lý
nghệ thuật biểu diễn là: Theatre Management: Producing and Managing the
Performing Arts - Quản lý Nhà hát: Sản xuất và quản lý nghệ thuật biểu diễn của David M. Conte4and Stephen Langley, xuất bản năm 2007. Theo các tác giả này,
vấn đề cốt lõi trong quản lý nghệ thuật biểu diễn là sản xuất giới thiệu các sản
phẩm nghệ thuật đáp ứng nhu cầu của khách hàng và phù hợp với tiềm lực của
đơn vị nghệ thuật; vấn đề tìm kiếm và phát triển thị trường khán giả, tài chính,
ngân sách, quan hệ công chúng, tính sáng tạo và xây dựng đội ngũ nguồn nhân lực
của đơn vị nghệ thuật; những nhiệm vụ, tổ chức và cơ cấu pháp lý, địa điểm thực
hiện những dự án nghệ thuật biểu diễn, phòng vé và công tác bán vé; vấn đề gây
quỹ, tiếp thị, quảng cáo… Trong việc cập nhật một cách cẩn thận, kỹ lưỡng những
thông tin từ các nhà quản lý nhà hát, quản lý nghệ thuật biểu diễn tại Mỹ, công
trình giải quyết nhu cầu và mối quan tâm đối đầu với các nhà quản lý nghệ thuật
trong thế kỷ XXI. Đây là một tài liệu tham khảo không thể thiếu cho tất cả các nhà
quản lý nghệ thuật và việc phát triển công nghiệp nghệ thuật biểu diễn.
16
Một công trình khác nghiên cứu về thị trường và chiến lược phát triển
khán giả: “Who is my maket? Aguide to researching audience and visitors in the
ats” (Ai là thị trường của tôi? Hướng dẫn nghiên cứu tác giả và du khách trong
các tổ chức nghệ thuật) của Helen Close và Robert Dovovan, xuất bản năm
1998. Đây là công trình đầu tiên về nghiên cứu thị trường khán giả tại các tổ
chức văn hóa nghệ thuật. Công trình này gồm 4 phần. Ở phần đầu, các tác giả
đưa ra khái niệm phát triển khán giả và phân tích sự cần thiết nghiên cứu phát
triển thị trường khán giả. Trong phần hai, các tác giả trình bày các nguyên tắc cơ
bản của quá trình nghiên cứu thị trường như: phương pháp và loại hình nghiên
cứu, cách xây dựng, thiết kế bảng hỏi nghiên cứu định lượng, phân tích các dữ
liệu thu thập được và trình bày kết quả nghiên cứu. Phần tiếp theo là một số vấn
đề trong quá trình thực hiện nghiên cứu thị trường; nghiên cứu lợi thế cạnh
tranh, gây quỹ và tài trợ, lập hồ sơ dữ liệu khách hành và các yếu tố ảnh hưởng
đến quyết định mua hàng của khán giả ở Australia…
Ngoài ra, các nhà nghiên cứu còn đề cập đến một số quan điểm và chính
sách văn hóa liên quan đến công nghiệp văn hóa và dịch vụ văn hóa của một số
nước trên thế giới. Tiêu biểu như ở nước Anh – một trong những quốc gia đi đầu
trong phát triển các ngành công nghiệp sáng tạo và văn hóa trên thế giới. Chính
phủ Anh đã có nhiều chính sách hỗ trợ tích cực cho phát triển các ngành công
nghiệp sáng tạo, điều tra nhu cầu, khảo sát hiện trạng, từ đó hoạch định chính
sách và phối hợp giữa nhiều ngành, nhiều lực lượng xã hội trong đầu tư, hỗ trợ
các doanh nghiệp ở tầm vĩ mô của Nhà nước. Bên cạnh đó, còn khuyến khích sự
năng động, chủ động của các doanh nghiệp và tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp hình thành và hoạt động một cách tự chủ và linh hoạt. Ở Pháp, chính phủ
Pháp đã phát huy tích cực vai trò của nhà nước trong phát triển các ngành công
nghiệp văn hóa. Với các chính sách về tài chính như chính sách thuế, chính sách
đầu tư cho văn hóa, các ngành công nghiệp văn hóa Pháp có thêm nhiều nguồn
lực để phát triển. Tuy nhiên, Pháp luôn nhấn mạnh bản chất đặc biệt của sản
phẩm văn hóa và có chủ trương đối xử với sản phẩm văn hóa như một loại văn
17
hóa đặc biệt khác với các hàng hóa thông thường. Khác với Pháp, Mỹ quan niệm
văn hóa là một loại sản phẩm hàng hóa, tập trung đầu tư phát triển công nghiệp
văn hóa, đặc biệt là điện ảnh và âm nhạc. Mỹ không có chính sách văn hóa giống
như các nước Châu Âu. Tổng thống hay Quốc hội, chính quyền Trung ương
không trực tiếp can thiệp vào chính sách văn hóa cụ thể. Nhà nước chỉ thông qua
Luật công pháp quy định thành lập Quỹ quốc gia về văn hóa và nhân văn, hỗ trợ
vật chất, tạo môi trường khuyến khích tự do trong sáng tạo... Hay như ở Hàn
Quốc, đặc điểm nổi bật nhất hiện nay trong chính sách văn hóa của Hàn Quốc là
sự dịch chuyển từ chỗ quá trình hoạch định chính sách văn hóa hoàn toàn tập
trung trong tay cơ quan quản lý nhà nước trung ương sang phân cấp, phân quyền
cho các chính quyền địa phương với sự tham gia tích cực của xã hội dân sự, bao
gồm các đơn vị, tổ chức văn hóa – nghệ thuật, các nhà nghiên cứu văn hóa, các
tổ chức phi chính phủ và giới văn nghệ sĩ trong quá trình nghiên cứu, hình thành,
xây dựng và triển khai thực hiện chính sách văn hóa.
Đánh giá chung:
Có thể thấy, cho đến nay, các nhà khoa học trên thế giới đã có khá nhiều
các công trình nghiên cứu về công nghiệp văn hóa cũng như nghệ thuật biểu
diễn. Các vấn đề được các học giả nghiên cứu tập trung ở một số mặt:
Về nghiên cứu lý thuyết: Xuất phát từ các góc độ tiếp cận cũng như điều
kiện lịch sử, địa lý, kinh tế, văn hóa khác nhau nên các nhà nghiên cứu về công
nghiệp văn hóa đều đưa ra những cách hiểu khác nhau về quan niệm cũng như
cách phân loại lĩnh vực này. Vẫn còn nhiều tranh luận xoay quanh tên gọi: công
nghiệp văn hóa, công nghiệp sáng tạo, công nghiệp văn hóa và sáng tạo, công
nghiệp nghệ thuật, công nghiệp bản quyền, công nghiệp giải trí... Mặc dầu tên
gọi khác nhau nhưng tất cả các quốc gia đều nhìn nhận công nghiệp văn hóa là
một ngành công nghiệp. Nghĩa là, công nghiệp văn hóa cũng bao gồm các hoạt
động sản xuất, khai thác, phân phối và tiêu thụ sản phẩm như các ngành công
nghiệp khác. Chỉ khác là đối tượng của quá trình sáng tạo, sản xuất và khai thác
ở đây không phải là sản phẩm vật chất thông thường mà là sản phẩm văn hóa.
18
Sở dĩ, UNESCO và các nước như Phần Lan, Tây Ban Nha, Đức, Hàn
Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc... sử dụng khái niệm “các ngành công nghiệp văn
hóa” (Cultural Industries) vì quan niệm đây là ngành công nghiệp kết hợp sự
sáng tạo, sản xuất và khai thác các nội dung có bản chất phi vật thể và văn hóa;
những sản phẩm và dịch vụ này có ý nghĩa văn hóa xã hội cao. Anh, Australia,
NewZealand, Singapore sử dụng khái niệm “các ngành công nghiệp sáng tạo”
(Creative Industries) bởi họ quan niệm đây là những hoạt động bắt nguồn từ sự
sáng tạo, kỹ năng và năng khiếu của cá nhân, có tiềm năng tạo ra của cải qua quá
trình khai thác quyền sở hữu trí tuệ nên gọi là “công nghiệp sáng tạo”. Ngoài ra,
các nước này còn sử dụng khái niệm “công nghiệp văn hóa và sáng tạo”
(Cultural and Creative Industries), “nền kinh tế sáng tạo và văn hóa” để nhằm
nhấn mạnh yếu tố sáng tạo trong sản xuất văn hóa, nghệ thuật. Một số nhà
nghiên cứu Mỹ và Canađa thì dùng khái niệm "công nghiệp nghệ thuật” (Arts
Industries) vì cho rằng đây là ngành sử dụng và tạo ra sản phẩm nghệ thuật; sáng
tạo, sản xuất và sử dụng các sản phẩm nghệ thuật nhằm mục đích phục vụ giải trí
cao. Công nghiệp nghệ thuật có thể coi là bộ phận trung tâm của công nghiệp
văn hóa. Với cách tiếp cận ở góc độ sở hữu trí tuệ, trong đó nhấn mạnh trọng
tâm là các nội dung bản quyền – kiểu mẫu – nhãn hiệu thương mại - thiết kế...
Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới và Hồng Kông lại quan niệm đây là “ngành
công nghiệp bản quyền” (Copyright Industries). Theo quan điểm này, các ngành
công nghiệp bản quyền được hiểu là tất cả các ngành công nghiệp sáng tạo ra sản
phẩm bản quyền hoặc sản phẩm liên quan như những sản phẩm cơ bản, cốt lõi
của ngành. Quan điểm này cũng phù hợp với quan điểm của UNESCO: khi đề
cập đến công nghiệp văn hóa không thể không nói đến luật bản quyền trong sử
dụng và bảo hộ các sản phẩm văn hóa.
Ngoài những tác phẩm đề cập đến khái niệm khác nhau liên quan đến công
nghiệp văn hóa, các học giả còn khẳng định vai trò của ngành công nghiệp văn hóa
và phân loại các ngành công nghiệp văn hóa. Với tư cách là một cơ quan văn hóa
của Liên Hợp Quốc, UNESCO đã đưa ra những quan điểm, chủ trương, chính sách
cũng như khẳng định tầm quan trọng của việc phát triển công nghiệp văn hóa.
19
Riêng về khái niệm công nghiệp nghệ thuật biểu diễn, cho đến nay chưa
thấy đề cập ở công trình nghiên cứu nào. Tuy nhiên, tiếp cận ở quy trình hoạt
động loại hình nghệ thuật biểu diễn như các ngành công nghiệp văn hóa cụ thể
thì đã có rất nhiều tác giả đề cập tới. Cũng như các nhà nghiên cứu đã bàn nhiều
đến những vấn đề chung của nghệ thuật biểu diễn và hệ thống lý thuyết trong
kinh tế của nghệ thuật biểu diễn; vai trò của nghệ thuật biểu diễn.
Về nghiên cứu thực tiễn: Các công trình nghiên cứu đã phân tích chính
sách công của chính phủ trong việc tác động đến lĩnh vực công nghiệp văn hóa,
lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn nhằm đáp ứng các nhu cầu văn hóa, tinh thần của
người dân trong xã hội, nhấn mạnh khía cạnh kinh tế của các hoạt động văn hóa,
mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa, tính đặc thù của các sản phẩm hàng hoá
văn hóa, thị trường văn hoá phẩm. Vấn đề chi phí, ngân sách, thị trường, tổ chức
hoạt động, xây dựng thương hiệu, tiếp thị và phát triển khán giả…trong công
nghiệp văn hóa, đặc biệt là lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn đều được các tác giả
quan tâm. Ngoài ra, các nhà khoa học còn phân tích các quan điểm về chính sách
công, về thực tiễn phát triển, quản lý phát triển hoạt động nghệ thuật biểu diễn
và một số kinh nghiệm ở các nước về lĩnh vực này.
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƢỚC
Ở Việt Nam, công nghiệp văn hóa và nghệ thuật biểu diễn nhìn nhận dưới
góc độ công nghiệp văn hóa đến nay vẫn chưa được quan tâm nghiên cứu nhiều.
Để có cách nhìn hệ thống, tác giả luận án bước đầu tổng quan về những công
trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề lý thuyết và những vấn đề thực tiễn về
công nghiệp văn hóa và nghệ thuật biểu diễn trong thời gian qua.
1.2.1. Những nghiên cứu lý thuyết về công nghiệp văn hóa và nghệ
thuật biểu diễn
Có khá nhiều nghiên cứu góp phần làm rõ hơn khái niệm, đặc trưng, cấu
trúc và vai trò... của công nghiệp văn hóa và nghệ thuật biểu diễn gắn với đặc thù
của Việt Nam, như: đề tài khoa học, sách, hội thảo khoa học và các bài viết:
20
Đề tài khoa học: “Nghiên cứu xây dựng và phát triển công nghiệp văn hóa
ở Thủ đô Hà Nội trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa” (Sở Văn hóa
Thông tin Hà Nội 01X-12/01-2006-3 do PGS,TS. Phạm Duy Đức làm chủ
nhiệm). Đề tài đã làm rõ nhận thức lý luận về công nghiệp văn hóa: quan niệm,
cơ cấu, vai trò và những vấn đề đặt ra đối với việc xây dựng và phát triển công
nghiệp văn hóa ở Hà Nội; đánh giá thực trạng công nghiệp văn hóa của Thủ đô
từ 1990 đến nay qua một số lĩnh vực cơ bản: công nghiệp báo chí, công nghiệp
phát thanh truyền hình, công nghiệp xuất bản, công nghiệp băng đĩa, công
nghiệp sản xuất đồ chơi và các phương tiện phục vụ khu vui chơi giải trí ở Hà
Nội hiện nay. Từ đó công trình đưa ra những phương hướng và giải pháp tạo
động lực cho việc xây dựng và phát triển ngành công nghiệp văn hóa nhằm bảo
tồn và phát huy các giá trị văn hóa của Thủ đô.
Đề tài khoa học cấp Bộ (2009): Phát triển công nghiệp văn hóa ở Việt
Nam hiện nay. Thực trạng và giải pháp do PGS,TS. Nguyễn Thị Hương, Viện
Văn hóa và Phát triển, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
làm chủ nhiệm. Ở đề tài này, tác giả đã tổng hợp các kết quả nghiên cứu về công
nghiệp văn hóa từ các góc độ khác nhau, khái quát quan niệm, bản chất, cấu trúc
của công nghiệp văn hóa, từ đó đưa ra quan niệm công nghiệp văn hóa và làm rõ
vai trò của công nghiệp văn hóa đối với phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đồng thời đề tài khảo sát, đánh
giá thực trạng phát triển công nghiệp văn hóa ở nước ta hiện nay trên một số lĩnh
vực cơ bản, dự báo xu hướng và đề xuất phương hướng và những giải pháp
nhằm phát triển lĩnh vực này.
Đề tài khoa học cấp Nhà nước (chưa nghiệm thu): Định hướng phát triển
công nghiệp văn hóa dưới góc nhìn văn hóa và tác động của nó đến thế hệ trẻ
Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa và hội nhập quốc tế do
PGS,TS Nguyễn Ngọc Hà, Học viện Chính trị khu vực I làm chủ nhiệm. Ở đề tài
này, các tác giả đã làm rõ một số khái niệm liên quan đến CNVH ở trên thế giới
và ở Việt Nam; cơ cấu, vai trò, chức năng của CNVH; vấn đề thị trường hàng
21
hóa và CNVH. Điểm mới của đề tài này là đã nêu lên được những tác động của
CNVH đối với thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay – nhìn từ góc độ văn hóa. Những
tác động theo phương thức: trực tiếp, gián tiếp; theo ý nghĩa: tích cực, tiêu cực
và đặc biệt theo lĩnh vực: tư tưởng, đạo đức, lối sống, thẩm mỹ... Qua đó, nghiên
cứu sinh (NCS) hiểu rõ hơn về tác động của CNVH đối với xã hội, nhất là giới
trẻ dưới góc nhìn văn hóa học.
Cuốn sách: Văn hóa, tiếp cận lý luận và thực tiễn của tác giả Nguyễn Tri
Nguyên xuất bản năm 2006. Trong công trình này, tác giả cho rằng công nghiệp
văn hóa là một trong những vấn đề của văn hóa đương đại, gắn liền với quyền sở
hữu trí tuệ.
Giáo trình các ngành công nghiệp văn hóa (giáo trình dành cho sinh viên
và cao đẳng các trường văn hóa – nghệ thuật) (2009) của tác giả Phạm Bích
Huyền, Đặng Hoài Thu (Trường Đại học Văn hóa Hà Nội). Trong cuốn giáo
trình này, các tác giả đã trình bày những kiến thức và kỹ năng cơ bản về ngành
công nghiệp văn hóa như khái niệm, quy trình sáng tạo – phân phối của công
nghiệp văn hóa, đặc điểm, vai trò của các ngành này đối với sự phát triển kinh tế
- xã hội. Ngoài ra, giáo trình còn nêu lên bối cảnh, xu hướng phát triển của công
nghiệp văn hóa và chính sách phát triển các ngành công nghiệp văn hóa của một
số nước.
Cuốn sách: Quan hệ giữa xây dựng văn hóa và phát triển kinh tế ở nước
ta hiện nay (2011) của tác giả Mai Hải Oanh đã dành hẳn một phần để nói về
kinh tế văn hóa và việc xây dựng ngành công nghiệp văn hóa ở nước ta. Trong
đó, tác giả đã đưa ra khái niệm công nghiệp văn hóa và cơ cấu công nghiệp văn
hóa; phân tích những đặc trưng của công nghiệp văn hóa và những yếu tố thúc
đẩy việc hình thành các loại hình công nghiệp văn hóa ở nước ta; nguyên tắc cơ
bản và tư tưởng đối sách của phát triển công nghiệp văn hóa. Cũng trong cuốn
sách này, tác giả đã nêu lên những cơ hội và thách thức phát triển công nghiệp
văn hóa cũng như những tồn tại và bất cập của công nghiệp văn hóa ở nước ta
hiện nay.
22
Cuốn sách: Văn hóa học – những bài giảng do A.A.Radughin làm chủ
biên (Viện Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2004) đã có một phần phân tích văn hóa
tinh hoa và văn hóa đại chúng; những tiền đề kinh tế và chức năng xã hội, cơ sở
triết học của văn hóa đại chúng. Mặc dầu tác giả chưa nêu ra khái niệm công
nghiệp văn hóa nhưng qua công trình này, người đọc có thể hiểu hơn về đặc
điểm của công nghiệp văn hóa.
Hội thảo về: Công nghiệp văn hóa Việt Nam - Thực trạng và giải pháp do
Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (Bộ VH,
TT & DL) tổ chức ngày 30/8/2010 ở Hà Nội. Tại hội thảo, các đại biểu đã tranh
luận sôi nổi và tỏ ra rất hào hứng với lĩnh vực khá mới mẻ này. Bài tham luận:
“Một vài nét về công nghiệp văn hóa ở Việt Nam” của TS. Nguyễn Danh Ngà
(Vụ Kế hoạch- Tài chính, Bộ VH, TT & DL) đã nhấn mạnh tầm quan trọng của
việc phát triển công nghiệp văn hóa ở nước ta và khẳng định phát triển công
nghiệp văn hóa là yêu cầu cấp thiết trong sự nghiệp xây dựng và phát triển văn
hóa hiện nay. Tác giả bài viết đã đưa ra khái niệm công nghiệp văn hóa và các
lĩnh vực của công nghiệp văn hóa: "CNVH là việc sản xuất, tái sản xuất và
truyền bá các dịch vụ văn hóa và sản phẩm văn hóa được tạo ra bằng phương
thức công nghiệp hóa, tin học hóa, thương phẩm hóa lấy sự thỏa mãn của người
dân làm mục tiêu". Nó bao gồm một số lĩnh vực như: báo chí, xuất bản, phim
ảnh, nghệ thuật biểu diễn, mỹ thuật, nhiếp ảnh...". Về lĩnh vực nghệ thuật biểu
diễn tác giả Nguyễn Danh Ngà chủ yếu đề cập đến những vấn đề đặt ra hiện nay
đó là: Một số đơn vị còn mang tính thương mại tạo ra những tác phẩm nghệ
thuật thiếu chất lượng. Đội ngũ tác giả, đạo diễn, nhạc sĩ, biên đạo, nghệ sĩ tài
năng trẻ đang trong tình trạng đáng báo động. Đội ngũ quản lý các đơn vị nghệ
thuật vừa thiếu, vừa yếu. Còn thiếu những cơ chế, chế độ chính sách đặc thù để
tạo hành lang pháp lý, khuyến khích các mặt tích cực và ngăn chặn các mặt tiêu
cực trong việc quản lý hoạt động nghệ thuật biểu diễn như hiện nay. Đồng thời,
tác giả cũng đã nêu lên một số kinh nghiệm của các nước trên thế giới, từ đó rút ra
bài học kinh nghiệm cho Việt Nam và những giải pháp nhằm phát triển một nền
công nghiệp văn hóa Việt Nam.
23
Tham luận “Ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam: Thực trạng và một số
vấn đề đặt ra đối với lĩnh vực âm nhạc” của TS. Phạm Việt Long (Tạp chí Văn
hiến) đã nêu bật thực trạng của ngành công nghiệp văn hóa trên lĩnh vực âm
nhạc. Theo tác giả, trong thời gian qua, ở Việt Nam lĩnh vực này chúng ta đã đạt
được một số thành công bước đầu đó là thực hiện xã hội hóa khá mạnh mẽ để
sản xuất ra các sản phẩm phục vụ xã hội. Sản phẩm công nghệ âm nhạc phong
phú, đa dạng, số lượng nhiều. Các đơn vị ngoài quốc doanh trên lĩnh vực này
vươn lên nhanh chóng. Tuy nhiên, tác giả dành nhiều số trang đánh giá những
hạn chế, bất cập của công nghiệp âm nhạc thời gian qua. Từ đó, tác giả đề cập
đến những vấn đề đặt ra trong sản xuất, kinh doanh cũng như quản lý thị trường
âm nhạc hiện nay ở nước ta. Ở một công trình khác khi bàn đến khái niệm
CNVH, tác giả này cho rằng: "Nói đến công nghiệp văn hoá thì người ta sợ rằng
nó trở thành kỹ nghệ, công nghệ đơn thuần. Nhưng thực sự thì nó không phải
vậy. Điều cốt lõi của công nghiệp văn hoá là hình thành một hệ thống giúp cho
sự sáng tạo và những người chuyển tải sự sáng tạo đó đến với công chúng mang
tính chuyên nghiệp, chứ không manh mún như hiện nay".
Hội thảo khoa học: Công nghiệp văn hóa: vai trò trong nền kinh tế và
khung chính sách phù hợp với phát triển công nghiệp văn hóa tại Việt Nam ngày
13/5/2013 tại Hà Nội đã được các chuyên gia trong và ngoài nước am hiểu về
lĩnh vực này trao đổi sôi nổi về vai trò, giá trị của công nghiệp văn hóa và những
kinh nghiệm trên thế giới để xây dựng, phát triển ngành công nghiệp văn hóa ở
Việt Nam.
Dưới góc nhìn lịch sử, tác giả Nguyễn Ngọc Hà trong bài viết: “Tiếp tục
đổi mới tư duy, định hình quan niệm về phát triển các ngành công nghiệp văn
hóa ở Việt Nam” đăng trên Tạp chí Khoa học – Công nghệ đã hệ thống lại
những quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước trong suốt quá trình từ đổi
mới đến nay liên quan đến vai trò của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã
hội; thị trường văn hóa và các chính sách văn hóa. Từ Nghị quyết Trung ương 5
24
khoá VIII (1998), Hội nghị Trung ương 10, khoá IX (2004), Nghị quyết số 23-
NQTW của Bộ Chính trị (6-2008) "Về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học,
nghệ thuật trong thời kỳ mới", Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020
(2009) đến Hội nghị Trung ương 9 khóa XI (tháng 5-2014) ra Nghị quyết về xây
dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền
vững đất nước. Lần đầu tiên trong văn kiện Đảng xuất hiện khái niệm "công
nghiệp văn hóa". Một trong 5 mục tiêu cụ thể của Nghị quyết là: Xây dựng thị
trường văn hóa lành mạnh, đẩy mạnh phát triển công nghiệp văn hóa, tăng cường
quảng bá văn hóa Việt Nam. Một trong những nhiệm vụ quan trọng, được Nghị
quyết nhấn mạnh là Phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn
thiện thị trường văn hóa. Tác giả bài viết cho rằng: chủ trương phát triển công
nghiệp văn hóa ở Việt Nam là kết quả một quá trình đổi mới tư duy của Đảng về
văn hoá gắn với đổi mới tư duy kinh tế và xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Ngoài ra còn có một số bài viết đăng trên tạp chí như: “Xây dựng và phát
triển ngành công nghiệp văn hóa ở nước ta” của tác giả Tô Huy Rứa, Tạp chí
Cộng sản số 1/2006; “Xây dựng ngành công nghiệp văn hóa ở nước ta” của tác
giả Mai Hải Oanh, Tạp chí Văn hóa – Nghệ thuật, số 6/2006; "Công nghiệp văn
hóa” đăng trên Tạp chí Lý luận Chính trị số 12/2014 của tác giả Đoàn Minh
Huấn và Nguyễn Ngọc Hà. Gần đây có bài viết: “Công nghiệp sáng tạo và văn
hóa” của tác giả Trần Nho Thìn, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 2 (158)/2015 đã
phân tích khái niệm công nghiệp văn hóa và công nghiệp sáng tạo, làm rõ đặc
điểm và vai trò của công nghiệp văn hóa đối với sự phát triển bền vững xã hội;
khẳng định công nghiệp văn hóa – công nghiệp sáng tạo là một hiện tượng mới
của kỷ nguyên toàn cầu hóa và phát triển vũ bão của công nghệ...
1.2.2. Những công trình nghiên cứu về thực tiễn công nghiệp văn
hóa và nghệ thuật biểu diễn
Cuốn sách: Chính sách phát triển văn hóa trên thế giới và việc hoàn thiện
chính sách văn hóa ở Việt Nam (2009), tác giả Nguyễn Văn Tình đã đề cập đến
25
chính sách phát triển công nghiệp văn hóa của một số nước như Nhật Bản, Hàn
Quốc, Trung Quốc, khẳng định phát triển công nghiệp văn hóa đang là xu thế
lớn và quan trọng trong chính sách văn hóa của các nước trên thế giới.
Ở cuốn sách khác: Văn học, nghệ thuật trong cơ chế thị trường và hội
nhập của Hội đồng lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương xuất bản
năm 2009 đã đề cập đến những vấn đề vừa cơ bản, vừa cấp bách trong đời sống
văn học, nghệ thuật nước ta hiện nay, cho thấy rõ những bước tiến, những thành
tựu đã đạt được, những thách thức, trăn trở, những việc cần phải làm, phải rút
kinh nghiệm… để văn học, nghệ thuật phát triển xứng đáng với dân tộc và thời
đại. Trong cuốn sách này có một số bài viết của những nhà lý luận cũng như các
nhà hoạt động thực tiễn về lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn. Trong đó, phải kể đến
bài viết của nghệ sĩ nhân dân (NSND). Chu Thúy Quỳnh (Chủ tịch Hội Nghệ sĩ
múa Việt Nam) về: “Nghệ thuật biểu diễn trong cơ chế thị trường và hội nhập”.
Ở bài viết này, tác giả đã đề cập đến yêu cầu văn hóa, nghệ thuật phục vụ xã hội,
nhu cầu hưởng thụ ngày càng nhiều, làm thế nào để nghệ thuật biểu diễn đi vào
nền kinh tế thị trường được phát huy. Theo tác giả, cần phải xã hội hóa các bộ
môn nghệ thuật về lâu dài trong kinh tế thị trường, đây là điều rất nên và có tính
khả thi. Ngoài ra, tác giả còn lưu ý đến vấn đề hội nhập và cho rằng đây là một
sách lược đúng đắn để học tập, tự khẳng định nghệ thuật nước nhà trước xu thế
toàn cầu hóa và hội nhập mạnh mẽ hiện nay. Một số bài viết khác như: “Sân
khấu Việt Nam đương đại - bức tranh nhiều màu nhưng không đậm nét” của
NSUT. Lê Chức (Phó Chủ tịch Thường trực Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam),
“Về tình hình âm nhạc hiện nay và những vấn đề bức xúc đang tồn tại” của
Nhạc sĩ Đỗ Hồng Quân (Chủ tịch Hội nhạc sĩ Việt Nam)… đã góp phần vẽ lên
bức tranh về thực trạng nghệ thuật biểu diễn ở nước ta hiện nay. Đây quả là
những căn cứ đáng lưu tâm khi thực hiện luận án này.
Trong cuộc hội thảo khoa học: Công nghiệp văn hóa: vai trò trong nền
kinh tế và khung chính sách phù hợp với phát triển công nghiệp văn hóa tại Việt
Nam ngày 13/5/2013 tại Hà Nội, bà Almuth Meyer Zollitsch, Viện trưởng Viện
26
Goethe nêu rõ: Việt Nam cần có một đánh giá về tiềm năng các ngành công
nghiệp văn hóa, ở đó xác định được nhu cầu thị trường, người tiêu dùng và chính
sách nhà nước, từ đó xác định được loại hình mũi nhọn ưu tiên cho ngành công
nghiệp văn hóa. Các nhà khoa học Việt Nam trong buổi hội thảo cũng trăn trở
làm sao có được các sản phẩm văn hóa chất lượng, vừa đưa lại nguồn thu, vừa là
sứ giả quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam.
Hội thảo về Văn học nghệ thuật 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương
5 (khóa VIII): Phấn đấu sáng tạo nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị
tư tưởng và nghệ thuật cao - Thực trạng và giải pháp của Hội đồng Lý luận, phê
bình văn học, nghệ thuật Trung ương tổ chức tại Hà Nội tháng 11/2013 đã có
khá nhiều những bài viết của những người nghiên cứu chuyên sâu về văn học,
nghệ thuật. Bài tham luận: “Cần thể chế hóa chủ trương chính sách của Đảng,
Nhà nước để thúc đẩy nghệ thuật sân khấu tạo nên những tác phẩm có giá trị tư
tưởng và nghệ thuật cao” của NSND Lê Tiến Thọ (Chủ tịch Hội Nghệ sĩ Sân
khấu Việt Nam) đã nhận định: văn học nghệ thuật nói chung, nghệ thuật sân
khấu nói riêng là bộ phận quan trọng góp phần làm nên bản sắc văn hóa của mỗi
dân tộc. Tác giả bài viết đã đánh giá về sáng tác và biểu diễn trên lĩnh vực sân
khấu trong thời gian qua, tìm ra nguyên nhân của thực trạng còn ít những tác
phẩm sân khấu có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao (theo tác giả, có 5 nguyên
nhân: từ đội ngũ văn nghệ sĩ; từ hoạt động lý luận phê bình sân khấu; từ quản lý
Nhà nước; từ tác động của cơ chế thị trường; từ tác động giao lưu, hội nhập văn
hóa). Từ đó tác giả đề xuất những chính sách nhằm thúc đẩy nghệ thuật sân khấu
sáng tạo nhiều tác phẩm có giá trị tư tưởng nghệ thuật cao, kiến nghị các giải
pháp khả thi để xây dựng toàn diện nền văn học, nghệ thuật nước nhà phát triển.
Đề tài khoa học của Bộ Văn hóa - Thông tin (2004) về: Khảo sát thực
trạng hoạt động marketing trong nghệ thuật biểu diễn tại Nhà hát Tuổi trẻ Hà
Nội và Sân khấu IDECAF Thành phố Hồ Chí Minh do tác giả Trương Nhuận (Phó
Giám đốc Nhà hát Tuổi trẻ) làm chủ nhiệm. Ở công trình này, nhóm tác giả đã nêu
rõ đặc điểm và vai trò của nghệ thuật biểu diễn; đánh giá thực trạng marketinh trong
27
hoạt động biểu diễn nghệ thuật của Nhà hát Tuổi trẻ và Sân khấu Idecaf Tp. Hồ Chí
Minh; từ đó đề xuất phương hướng và giải pháp đẩy mạnh công tác marketing biểu
diễn nghệ thuật...
công nghiệp văn hóa dưới góc nhìn văn hóa và tác động của nó đến thế hệ trẻ
Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa và hội nhập quốc tế (đề cập
Ở góc độ thực tiễn, đề tài khoa học cấp nhà nước: Định hướng phát triển
ở trên) đã đưa ra một số kinh nghiệm của các nước, tổ chức quốc tế về phát triển
CNVH và định hướng tác động của CNVH đối với thế hệ trẻ; đánh giá thực trạng
CNVH ở Việt Nam về quy mô, cơ cấu và trình độ. Tuy nhiên, do phạm vi nghiên
cứu của đề tài là cả nước và tất cả các lĩnh vực thuộc CNVH nên lĩnh vực nghệ
thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí Minh dưới góc độ CNVH chưa được khảo sát sâu.
Đánh giá chung:
Đóng góp của các nghiên cứu về lĩnh vực công nghiệp văn hóa trong đó
có nghệ thuật biểu diễn ở Việt Nam:
Về nghiên cứu lý thuyết:
- Các nghiên cứu đã làm rõ tính tất yếu khách quan và đặc thù của phát
triển công nghiệp văn hóa trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và hội nhập của Việt Nam.
- Lý luận phát triển công nghiệp văn hóa như: quan niệm công nghiệp văn
hóa, cấu trúc của công nghiệp văn hóa trên thế giới và ở nước ta ngày càng được
nhận thức sâu sắc, toàn diện hơn.
- Bước đầu nghiên cứu vai trò, ý nghĩa của phát triển công nghiệp văn hóa
nói chung và lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn nói riêng đối với việc xây dựng và
phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và phát triển
kinh tế. Phân tích những vấn đề đặt ra trong việc xây dựng, phát triển công
nghiệp văn hóa ở nước ta.
Về nghiên cứu thực tiễn:
Bước đầu đã có một số công trình khảo sát đánh giá về thực trạng hoạt
động của một số lĩnh vực công nghiệp văn hóa, trong đó có nghệ thuật biểu diễn
28
ở một số địa phương như Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh và đã đưa ra khuyến nghị
cần thiết hữu ích cho phát triển lĩnh vực này. Ngoài ra, các công trình đã đề cập
đến kinh nghiệm quản lý, phát triển lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn trong nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay.
1.3. NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
Thời gian gần đây, xây dựng và phát triển công nghiệp văn hóa là vấn đề
thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học và nhà quản lý. Tuy nhiên, cho đến
nay vẫn chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu chuyên sâu về sự phát
triển công nghiệp văn hóa trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí
Minh. Công nghiệp văn hóa nói chung và đặc biệt là lĩnh vực nghệ thuật biểu
diễn ở Tp. Hồ Chí Minh những năm gần đây đã phát triển khá mạnh, nhưng quá
trình nghiên cứu thực tiễn, phát triển lý luận về lĩnh vực này vẫn còn nhiều hạn
chế. Khoảng trống về lý luận công nghiệp văn hóa nói chung, lĩnh vực nghệ
thuật biểu diễn nói riêng đã làm hạn chế đến việc cung cấp luận cứ khoa học cho
can thiệp chính sách cũng như thiếu định hướng để phát triển lĩnh vực còn khá
mới mẻ này.
Trên cơ sở kế thừa và chọn lọc những kết quả nghiên cứu đã công bố,
luận án tiếp tục giải quyết những vấn đề cụ thể sau:
Một là, về mặt lý luận, luận án góp phần làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm,
cấu trúc, vai trò của công nghiệp văn hóa và loại hình nghệ thuật biểu diễn (tiếp cận
nghệ thuật biểu diễn như một bộ phận quan trọng của công nghiệp văn hóa).
Hai là, về mặt thực tiễn, luận án tập trung vào các vấn đề sau:
- Phân tích những yếu tố chủ quan và khách quan tác động đến lĩnh vực
nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí Minh.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng hoạt động của một số loại hình nghệ thuật biểu
diễn (dưới góc nhìn công nghiệp văn hóa) ở Tp. Hồ Chí Minh trong những năm qua.
- Chỉ ra những mặt tích cực, hạn chế của công nghiệp văn hóa trong lĩnh
vực nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí Minh hiện nay, tìm ra nguyên nhân.
29
Ba là, luận án dự báo xu hướng vận động, phát triển của công nghiệp văn
hóa nói chung, nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí Minh nói riêng trong thời gian
tới, từ đó đưa ra một số khuyến nghị nhằm phát triển lĩnh vực biểu diễn ở Tp. Hồ
Chí Minh trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
Tiểu kết
Như vậy, trên thế giới, quan niệm, cơ cấu, chức năng, vai trò của công
nghiệp văn hóa đã được bàn đến khá nhiều. UNESCO đã đưa ra những quan
điểm, chủ trương, chính sách phát triển công nghiệp văn hóa, khẳng định tầm
quan trọng của công nghiệp văn hóa. Các học giả quốc tế tập trung khẳng định
vai trò của công nghiệp văn hóa và nhấn mạnh đến khía cạnh kinh tế của các
hoạt động văn hóa, mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa, tính đặc thù của các sản
phẩm văn hóa. Lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn cũng được bàn đến dưới góc độ là
một thành tố của ngành công nghiệp văn hóa; nhấn mạnh những quan điểm về
chính sách công trong quản lý và phát triển hoạt động nghệ thuật biểu diễn, phân
tích phương pháp ứng dụng các lý thuyết và phương pháp kinh tế để phát triển lĩnh
vực nghệ thuật biểu diễn. Những vấn đề mới trong công tác quản lý nghệ thuật như:
xây dựng thương hiệu, tiếp thị và phát triển khán giả; những mâu thuẫn về giá trị
kinh tế với giá trị văn hóa, nghệ thuật; phân tích những tác động của công nghệ đối
với ngành công nghiệp văn hóa cũng được giới nghiên cứu chú ý.
Ở trong nước, thời gian gần đây công nghiệp văn hóa đã được bàn đến
khá sôi nổi. Những nội dung được đưa bàn thảo chủ yếu về quan niệm, vai trò, ý
nghĩa của công nghiệp văn hóa và sự tác động của xu thế toàn cầu hóa, hội nhập
cũng như kinh tế thị trường đối với lĩnh vực này. Đến nay vẫn chưa có công
trình nào nghiên cứu về công nghiệp nghệ thuật biểu diễn mà chỉ dừng lại ở những bài viết chuyên sâu về từng loại hình nghệ thuật đơn lẻ, chưa có sự kết nối
giữa các nhân tố sáng tạo, sản xuất, quảng bá, tiếp nhận như một hệ thống thống
nhất của công nghiệp nghệ thuật biểu diễn.
Những quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về xây
dựng và phát triển văn hóa trong cơ chế thị trường định hướng XHCN có liên
30
quan đến phát triển công nghiệp văn hóa trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4
khóa VII; Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII; Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ
VIII, IX, X, XI; Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020 do Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt, Dự thảo Chiến lược phát triển ngành công nghiệp văn hóa Việt
Nam đến năm 2020, tầm nhìn năm 2030; Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI…
chính là cơ sở quan trọng làm tiền đề cho Việt Nam phát triển ngành công nghiệp
văn hóa.
Khái niệm “công nghiệp văn hóa” còn khá mới mẻ ở Việt Nam. Nghiên
cứu xây dựng và phát triển công nghiệp văn hóa nói chung, lĩnh vực nghệ thuật
biểu diễn ở Tp. Hồ Chí Minh nói riêng có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận
lẫn thực tiễn. Kế thừa và vận dụng những thành tựu lý luận và thực tiễn đã đạt
được, luận án đi sâu khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng một số lĩnh vực
nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí Minh trong thời gian vừa qua, từ đó có thể
phát hiện ra những vấn đề đang đặt ra cần giải quyết trong thời gian tới.
31
Chƣơng 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN TIẾP CẬN NGHIÊN CỨU CÔNG NGHIỆP
VĂN HÓA VÀ NGHỆ THUẬT BIỂU DIỄN Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CÔNG CỤ
2.1.1. Khái niệm, cơ cấu và đặc trƣng của công nghiệp văn hóa
2.1.1.1. Khái niệm công nghiệp văn hoá
Vào giữa thế kỷ XX, thuật ngữ công nghiệp văn hóa (cultural industry) đã
được thế giới đề cập đến rất nhiều và nhanh chóng trở thành loại hình công
nghiệp phát triển rầm rộ ở các quốc gia khác nhau. Loại hình đó là sự kết hợp
giữa kỹ thuật cao với sáng tạo văn hóa, thể hiện xu thế kinh tế và văn hóa thấm
sâu vào nhau. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ đã được áp dụng
để phát triển văn hóa. Đó là những thành tựu về kỹ thuật xuất bản, băng ghi âm,
ghi hình, sắp chữ điện tử, mạng lưới truyền thông và kỹ thuật số được ứng dụng
rộng rãi tạo nên một khối lượng lớn các sản phẩm văn hóa nghệ thuật và đồng
thời tạo nên một thị trường văn hóa rộng lớn. Những thành tựu và hiệu quả đạt
được ngày càng nhiều từ lĩnh vực này đã khiến nó trở thành đề tài nghiên cứu
của rất nhiều công trình khoa học trên thế giới. Vậy, quan niệm của thế giới cũng
như ở Việt Nam về công nghiệp văn hóa như thế nào?
Công nghiệp văn hóa xuất hiện gắn với văn hóa đại chúng. Văn hóa đại
chúng (mass culture) là loại sản phẩm văn hóa được sản xuất hàng ngày với khối
lượng lớn. Những đặc điểm về sản xuất và tiêu thụ các giá trị văn hóa là cơ sở để
các nhà khoa học đưa ra khái niệm văn hóa đại chúng và văn hóa tinh hoa.
Những điều kiện tạo nên văn hóa đại chúng đó là sự gia tăng về số lượng người
lao động cùng với quá trình tập trung dân cư do quá trình đô thị hóa; sự phát
triển của quá trình sản xuất, tiêu thụ lớn trong cơ chế thị trường; khát vọng muốn
thấy hàng hóa trong hoạt động sản xuất tinh thần kết hợp với sự phát triển mạnh
mẽ của các phương tiện truyền thông đại chúng... Đối tượng tiêu thụ văn hóa đại
chúng là tất cả mọi người, không phụ thuộc vào đặc điểm và đất nước sinh sống
được phổ cập, truyền bá thông qua các phương tiện thông tin đại chúng.
32
Theodor Adorno (1902 – 1969) và Max Horkheimer (1895 - 1973) – là
những người đề xuất khái niệm công nghiệp văn hóa (cultural industry) trong
cuốn sách nổi tiếng Dialectic of Enlightenment (Biện chứng của Khai sáng) năm
1947. Không lâu sau đó, khái niệm công nghiệp văn hóa đã có sức lan toả mạnh
mẽ đối với các quốc gia khác trên thế giới. Tuy nhiên, quan niệm, cách nhìn
cũng như tầm quan trọng của lĩnh vực này vẫn được đưa ra bàn luận sôi nổi. Đã
có nhiều nhận thức khác nhau, thậm chí là trái ngược nhau về quan niệm cũng
như vai trò của nó.
Với cách hiểu công nghiệp văn hóa xuất hiện gắn với văn hóa đại chúng
nên một số học giả đã quan niệm rằng đây là một bước thụt lùi của sáng tạo văn
hóa. Họ cho rằng: nói đến văn hóa là nói đến sự sáng tạo, nói đến sự thể hiện
năng lực người. Vì vậy, những sáng tạo văn hóa bao giờ cũng xuất hiện từ những
cá nhân cụ thể, tạo ra những sản phẩm văn hóa mang dấu ấn cá nhân, thể hiện
tính độc đáo, tính đơn nhất của nó, nên khác với những sản phẩm văn hóa được
sản xuất hàng loạt bởi công nghiệp. Công nghiệp văn hóa làm ra văn hóa đại
chúng, văn hóa đại chúng giống như một nhà máy sản xuất hàng loạt các sản
phẩm văn hóa theo những tiêu chuẩn nhất định để lôi kéo quần chúng vào hưởng
thụ một cách bị động. Quần chúng hưởng thụ những sản phẩm văn hóa cùng
loại, sản xuất hàng loạt, ồ ạt. Nhu cầu được thưởng thức những giá trị văn hóa
nghệ thuật chân chính, mang tính sáng tạo, đặc sắc của mỗi cá nhân sẽ bị hạn
chế. Do đó, những người theo quan niệm này cho rằng, chính nền công nghiệp
văn hóa đã kích thích những nhu cầu sai lầm, những thứ được tạo ra và thoả mãn
giá trị kinh tế đã làm hạn chế sự sáng tạo của con người.
Quan niệm của một số học giả phương Tây khác thì cho rằng, công
nghiệp văn hóa xuất hiện là tất yếu khách quan khi khoa học, kỹ thuật phát triển.
Hàng loạt những sản phẩm giống nhau được sản xuất để đáp ứng những nhu cầu
giống nhau. Chính điều này đã làm cho người tiêu dùng không có sự lựa chọn.
Sức mạnh của kỹ thuật hiện đại đã chi phối mạnh mẽ sự sản xuất hàng loạt sản
phẩm văn hóa và trên thực tế sức mạnh đó là của những kẻ có thế lực về kinh tế.
33
Các học giả còn cho rằng, sự xuất hiện của công nghiệp văn hóa đã làm cho văn
hóa có sự trộn lẫn ở những trình độ cao thấp với nhau. Tính nghiêm túc của loại
hình nghệ thuật cao cấp bị tiêu diệt bởi những tính toán nhằm mục đích lợi
nhuận của các nhà kinh doanh...
Thực ra, những ý kiến đó không hẳn là không có lý, nhất là trong nền kinh
tế thị trường, hoạt động sản xuất, kinh doanh các sản phẩm văn hóa đều hướng
tới mục đích kinh tế. Song, thực tế đã chứng minh rằng, ngành công nghiệp văn
hóa có khả năng tác động mạnh mẽ vào đời sống của đại chúng, đáp ứng nhu cầu
văn hóa đa dạng và phức tạp của xã hội. Sự phát triển của ngành công nghiệp
văn hóa góp phần tạo nên quá trình đa dạng hóa và dân chủ hóa về tri thức cho
xã hội. Nó có khả năng cung cấp và truyền bá sâu rộng trong đời sống xã hội
hàng loạt những thông tin về các lĩnh vực văn hóa khác nhau, đáp ứng nhu cầu
tinh thần của xã hội.
Chính vì vậy, thuật ngữ công nghiệp văn hóa đã được gần 200 quốc gia
thông qua từ năm 1998 trong Hội nghị Thượng đỉnh về văn hóa được tổ chức tại
Stockholm (Thuỵ Điển). Mặc dầu còn có nhiều quan niệm khác nhau nhưng
chung quy lại khi nói đến công nghiệp văn hóa là sự tập hợp các ngành kinh tế
khai thác và sử dụng hiệu quả tính sáng tạo, kỹ năng, sở hữu trí tuệ, sản xuất các
sản phẩm và dịch vụ có ý nghĩa văn hóa xã hội; nhấn mạnh đến hai yếu tố: công
nghiệp và sáng tạo. Sự kết hợp giữa hai yếu tố công nghiệp và sáng tạo đã tạo
nên đặc trưng của ngành công nghiệp này. Hay nói cách khác, năng lực sáng tạo
của cá nhân thông qua các phương tiện công nghệ hiện đại tạo nên một ngành
kinh doanh hùng mạnh, giàu tiềm năng, chứa đựng cả giá trị kinh tế lẫn văn hóa.
Quan niệm có tính phổ biến hiện nay cho rằng, Công nghiệp văn hóa là
các ngành sản xuất, tái sản xuất và truyền bá các dịch vụ văn hóa và sản phẩm
văn hóa được tạo ra bằng phương thức công nghiệp hóa, tin học hóa và thương
phẩm hóa; là ngành nghề sản xuất sản phẩm văn hóa và cung cấp dịch vụ văn
hóa. Công nghiệp văn hóa lấy sự thoả mãn nhu cầu văn hóa của mọi người làm
mục tiêu chủ yếu. Đó là sản phẩm kết hợp chặt chẽ giữa kỹ thuật cao với sự
nghiệp văn hóa, thể hiện xu thế kinh tế và văn hóa thấm sâu vào nhau.
34
Ở Việt Nam, công nghiệp văn hóa đang còn là một khái niệm khá mới mẻ.
Thậm chí, có ý kiến cho rằng, ở Việt Nam đến nay vẫn chưa có ngành công
nghiệp văn hóa. Khái niệm và vai trò của công nghiệp văn hóa mới được bàn đến
ở một số công trình nghiên cứu và một số cuộc hội thảo. Nhóm tác giả nghiên
cứu đề tài: “Phát triển công nghiệp văn hóa ở Việt Nam - Thực trạng và giải
pháp” (PGS, TS. Nguyễn Thị Hương làm chủ nhiệm) đã đưa ra khái niệm về
công nghiệp văn hóa như sau:
Công nghiệp văn hóa là ngành công nghiệp sáng tạo, sản xuất, tái sản
xuất, phổ biến tiêu dùng các sản phẩm và các dịch vụ văn hóa bằng
phương thức công nghiệp hóa, tin học hóa, thương phẩm hóa, nhằm
đáp ứng nhu cầu văn hóa đa dạng của xã hội, các hoạt động đó được
bảo vệ bởi bản quyền [40, tr.17].
Đây là một trong những định nghĩa đã nêu được những đặc trưng cơ bản
của ngành công nghiệp văn hoá. Công nghiệp văn hoá được thể hiện ở những
sản phẩm tạo ra có sự kết hợp chặt chẽ giữa kỹ thuật cao với các giá trị văn hoá,
giá trị kinh tế, các sản phẩm đó phải hướng tới phục vụ số đông. Tính chất của
hệ thống ngành công nghiệp văn hóa bao giờ cũng gắn với những mô hình sản
xuất nhất định. Đây cũng là định nghĩa để xem xét các tiêu chí của ngành công
nghiệp văn hóa trong một lĩnh vực cụ thể, đó là:
- Sản xuất ra các sản phẩm văn hoá dựa trên thành tựu khoa học kỹ thuật
và công nghệ hiện đại.
- Các sản phẩm công nghiệp văn hoá là hàng hoá nhưng không phải là
hàng hoá thuần tuý, hướng tới phục vụ cho số đông, phải đảm bảo hài hoà giữa
giá trị kinh tế và văn hoá.
- Các hoạt động của công nghiệp văn hóa được bảo vệ bởi bản quyền.
Công nghiệp văn hoá vì thế vừa là ngành công nghiệp nhưng mang tính
đặc thù so với các ngành khác.
2.1.1.2. Cơ cấu của ngành công nghiệp văn hoá
Về cơ cấu của ngành công nghiệp văn hóa cho đến nay vẫn có nhiều ý
kiến khác nhau. Trước đây, theo quan niệm phổ biến trên thế giới, lĩnh vực công
35
nghiệp văn hóa gồm: quảng cáo, kiến trúc, thị trường đồ cổ và nghệ thuật, thủ
công nghiệp, thiết kế, thời trang, điện ảnh, video và nhiếp ảnh, âm nhạc, nghệ
thuật biểu diễn và thị giác, xuất bản, phần mềm, trò chơi máy tính và xuất bản
điện tử, truyền hình và đài phát thanh. Các nước châu Âu đưa ra 11 lĩnh vực
thuộc ngành công nghiệp văn hóa, đó là: Quảng cáo kiến trúc, giải trí kỹ thuật
số, mỹ thuật, đồ cổ và thủ công mỹ nghệ, thiết kế mỹ thuật, điện ảnh và video, in
ấn xuất bản, âm nhạc, nghệ thuật biểu diễn, phát thanh truyền hình và phần
mềm vi tính… Trong khi một số nước châu Á thì chỉ đề cập đến 7 lĩnh vực, đó là:
điện ảnh, phát thanh truyền hình, báo chí, xuất bản, in và sản xuất băng đĩa,
quảng cáo và dịch vụ giải trí, nghệ thuật biểu diễn.
Năm 1997, Chính phủ Anh đã xác định danh mục các ngành công nghiệp
sáng tạo gồm 13 ngành là: quảng cáo, kiến trúc, thị trường nghệ thuật và đồ cổ,
thủ công, thiết kế, thiết kế thời trang, điện ảnh và video, phần mềm giải trí tương
tác, âm nhạc, nghệ thuật biểu diễn, xuất bản, phần mềm và các dịch vụ máy tính,
truyền hình và phát thanh. Mười năm sau (2007), các ngành này được xác định
lại, bao gồm 11 lĩnh vực: 1) Quảng cáo, 2) Kiến trúc, 3) Thị trường nghệ thuật
và đồ cổ, 4) Thủ công, 5) Thiết kế, 6) Thiết kế thời trang, 7) Phim, video và
nhiếp ảnh, 8) Âm nhạc, nghệ thuật thị giác và nghệ thuật biểu diễn, 9) Xuất bản,
10) Phần mềm, các trò chơi máy tính và xuất bản điện tử, 11) Truyền hình và
phát thanh. Theo định nghĩa mới đây của Hội đồng Anh, công nghiệp văn hóa
bao gồm 7 lĩnh vực chủ chốt: truyền thông, thiết kế thời trang, sản phẩm tương
tác, nghệ thuật biểu diễn, xuất bản, phim ảnh và nghệ thuật thị giác [69, tr.15].
Như vậy, theo quan niệm của các nước châu Âu, châu Á, Hội đồng Anh về
các ngành công nghiệp văn hóa thì đều đề cập đến lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn.
Ở Việt Nam, tác giả Tô Huy Rứa trong bài viết Xây dựng và phát triển
ngành công nghiệp văn hóa ở nước ta và một số tác giả khác quan niệm, cơ cấu
của công nghiệp văn hóa nếu xét theo phạm vi ngành nghề, bao gồm: ngành
sáng tạo và biểu diễn nghệ thuật, dịch vụ tin tức, vui chơi giải trí, đào tạo văn
nghệ sĩ và kinh doanh tác phẩm nghệ thuật, ngành phát hành, xuất bản, ngành
phát thanh truyền hình, điện ảnh, video, quảng cáo.
36
Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Tình cho rằng: Các nước trên thế giới phân
loại các ngành công nghiệp văn hóa - sáng tạo khác nhau, nhưng tựu trung bao
gồm: nghệ thuật biểu diễn (trong đó có âm nhạc, múa, kịch, múa rối, các loại hình
dân ca…), thiết kế mỹ thuật, thời trang, mỹ thuật, nhiếp ảnh và galeries, bảo tàng,
di sản văn hóa, báo chí, in ấn - xuất bản, điện ảnh, phát thanh, truyền hình, phần
mềm có nội dung văn hóa, thủ công mỹ nghệ và các dịch vụ văn hóa sáng tạo.
PGS,TS Lương Hồng Quang – Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt
Nam trong bài báo cáo “Thực trạng các ngành công nghiệp văn hóa tại Việt
Nam và các định hướng phát triển từ 2011 đến 2020, tầm nhìn đến 2030” tại hội
thảo: Khung kế hoạch chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa tại
Việt Nam đã khẳng định Nghệ thuật biểu diễn là một trong ba lĩnh vực nổi bật
phát triển công nghiệp văn hóa bên cạnh điện ảnh, mỹ thuật và nhiếp ảnh. Đồng
thời khẳng định đây là những ngành công nghiệp văn hóa đã tương đối định hình
ở Việt Nam.
Như vậy, ở Việt Nam hiện nay, các nhà nghiên cứu cho rằng cơ cấu của
ngành công nghiệp văn hóa bao gồm các lĩnh vực chủ yếu sau:
Công nghiệp truyền thông đại chúng (công nghiệp của báo chí, xuất
bản, in ấn, phát hành, quảng cáo, triển lãm, thông tin cổ động…);
Công nghiệp âm nhạc (công nghiệp phục vụ hoạt động ca múa nhạc
và các sản phẩm âm nhạc từ băng, đĩa); Công nghiệp điện ảnh (công
nghiệp xây dựng phim, hậu kỳ phim và phát hành phổ biến phim);
Công nghiệp nghệ thuật biểu diễn (công nghệ tham gia vào các khâu:
sáng tạo, quảng bá, biểu diễn...); Công nghiệp mỹ thuật (công nghệ
hoá sinh trong sáng tạo và bảo quản và công nghiệp tham gia vào
khâu phát hành); Công nghiệp dịch vụ vui chơi, giải trí (công nghiệp
về các sản phẩm vui chơi trực tiếp và sản phẩm game từ phần mềm);
Hoạt động kinh doanh thương mại các vật tư chuyên ngành văn hóa
và các hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ văn hóa [40, tr.21].
37
2.1.1.3. Đặc trưng của công nghiệp văn hóa
Công nghiệp văn hóa có một số đặc trưng sau:
Thứ nhất, công nghiệp văn hóa là thành tựu của cuộc cách mạng khoa
học - công nghệ
Công nghiệp văn hóa xuất hiện đã tạo ra sự kết nối giữa các khu vực sáng
tạo và đặc biệt là sự sáng tạo trong văn hóa nghệ thuật; gắn kết với thành tựu
khoa học công nghệ, nhất là công nghệ truyền thông, công nghệ thông tin và
hướng tới phát triển thị trường, phục vụ cho xã hội đại chúng. Điều này kéo theo
tất cả các hoạt động vào phục vụ cho sự năng động và đa dạng của xã hội hiện
đại. Vượt qua những rào cản của biên giới quốc gia để có xu hướng hội nhập
toàn cầu, CNVH không chỉ phục vụ cho nhu cầu thẩm mỹ, nghệ thuật mà còn
phục vụ cho nhu cầu giải trí, nhu cầu tiêu dùng và là nguồn phát triển kinh tế
đem lại lợi nhuận cao. Chính vì vậy, phát triển CNVH là cuộc chạy đua giữa các
quốc gia khác nhau. CNVH không chỉ là sản phẩm của xã hội tư bản mà là sản
phẩm của văn minh nhân loại.
Thứ hai, công nghiệp văn hóa hoạt động theo cơ chế thị trường, chịu sự
tác động của quy luật thị trường
Công nghiệp văn hóa là một ngành công nghiệp phát triển trong nền kinh
tế thị trường. Vì vậy, các sản phẩm công nghiệp văn hóa trở thành hàng hóa
được sản xuất theo cơ chế công nghiệp và được giao dịch theo cơ chế thị
trường; chịu sự tác động của quy luật thị trường nhưng là thị trường đặc biệt.
Nghĩa là những sản phẩm hàng hóa văn hóa này mang tính đặc thù: giá trị kinh
tế được tạo ra trên cơ sở giá trị văn hóa, giá trị tư tưởng và giá trị thẩm mỹ để
công chúng tiếp nhận và tiêu thụ. Vai trò của chủ thể doanh nghiệp, chủ thể
sáng tạo, chính sách nhà nước và công chúng hết sức quan trọng để phát triển
lĩnh vực này.
Thứ ba, công nghiệp văn hóa phải được bảo vệ bởi bản quyền
Ngành công nghiệp văn hóa dựa trên sự sản xuất, khai thác, phân phối và
tiêu thụ các giá trị văn hóa – giá trị sáng tạo. Sản phẩm sáng tạo đóng vai trò cốt
38
lõi của các ngành công nghiệp văn hóa. Chính vì vậy, cần phải thực thi nghiêm
túc Luật bản quyền, nếu không sẽ ảnh hưởng đến lợi ích của người sáng tạo và
sự phát triển lành mạnh của lĩnh vực này. Hơn nữa, công nghiệp văn hóa là
ngành kinh tế, hoạt động theo luật doanh nghiệp và những quy định liên quan
đến an ninh văn hóa, tư tưởng… nên bảo vệ bởi luật bản quyền cần được đặt lên
trên hết.
Thứ tư, công nghiệp văn hóa vượt ra ngoài giới hạn của quan niệm truyền
thống phân biệt văn hóa tinh hoa, văn hóa bác học với văn hóa bình dân, văn
hóa đại chúng
Trước đây, một số quan niệm cho rằng: CNVH là sản phẩm của văn hóa
đại chúng, chỉ phục vụ số đông với chất lượng thấp. Nhưng thực ra thì không
phải vậy. Sản phẩm CNVH không chỉ đáp ứng nhu cầu sôi động của xã hội, mà
còn phục vụ cho nhiều đối tượng chuyên biệt khác nhau qua nhiều kênh chuyển
tải khác nhau với chất lượng nghệ thuật cao, đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng
của xã hội.
Ngoài ra, phát triển được CNVH cần phải vượt ra khỏi suy nghĩ cho rằng
văn hóa chỉ đáp ứng nhu cầu tinh thần, tình cảm, hoàn toàn mang tính chất tinh
thần thuần túy, không có giá trị kinh tế và không thể mua bán được bằng tiền.
Thời gian gần đây, nhân loại đã nhận thức lại về vai trò, ý nghĩa của văn hóa và
khẳng định văn hóa chính là động lực, là mục tiêu của sự phát triển kinh tế và bền
vững xã hội. Việc khai thác giá trị, tiềm lực văn hóa chính là động lực để phát triển
kinh tế. Vai trò nguồn lực của kinh tế đã được phát huy.
Phát triển CNVH cần vượt qua định kiến về vấn đề tôn giáo, dân tộc, giai
cấp, tuyệt đối hóa sự khác biệt về dân tộc, tôn giáo, giai cấp dẫn đến xung đột
văn hóa. Phát triển CNVH góp phần giao lưu, hợp tác quốc tế, đối thoại, trao đổi
vượt lên định kiến trên để tạo nên thái độ bao dung văn hóa, chia sẻ và hỗ trợ lẫn
nhau vì hòa bình và tiến bộ chung của loài người. Tất nhiên, mỗi dân tộc đều có
lợi ích riêng và chung, ở đây cần giải quyết mối quan hệ giữa cái chung và cái
riêng, cái phổ biến và cái đặc thù, xuất phát từ lợi ích của dân tộc trong mối
39
tương quan với quốc tế. Nói tóm lại, phát triển CNVH là một trong những nguồn
lực, khẳng định sức mạnh quốc gia, là “sức mạnh mềm” của văn hóa quốc gia để
giao lưu, quảng bá với bạn bè trên thế giới.
2.1.2. Khái niệm và cơ cấu của nghệ thuật biểu diễn
2.1.2.1. Khái niệm nghệ thuật biểu diễn
Nghệ thuật biểu diễn là một trong những lĩnh vực quan trọng có tính đặc
thù của công nghiệp văn hoá. Sản phẩm của nghệ thuật biểu diễn trước hết liên
quan đến sáng tạo giá trị văn hoá nghệ thuật - giá trị mà không một hình thái ý
thức nào có thể thay thế được trong việc tác động đến tư tưởng, tình cảm, lý tưởng
thẩm mỹ, góp phần phát triển hoàn thiện nhân cách con người.
Tính đặc thù của nghệ thuật biểu diễn xét ở góc độ khái quát nhất là hình
thái ý thức xã hội đặc thù, phản ánh hiện thực bằng hình tượng sinh động cụ thể,
gợi cảm nhằm thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ của con người. Nghệ thuật là sản
phẩm hoạt động sáng tạo của con người, gắn liền với tâm tư, tình cảm của con
người. Bằng những phương tiện biểu hiện đặc thù riêng của mình, nghệ thuật
phản ánh thế giới và cải tạo thế giới. Nghệ thuật giúp con người nhận thức
những giá trị chân, thiện, mỹ, là phương tiện tác động vào thế giới nội tâm của
con người, làm cho con người gắn bó với cộng đồng: “Hơn bất cứ lĩnh vực nào
trong quan hệ thẩm mỹ giữa con người và hiện thực, nghệ thuật mang ý nghĩa xã
hội sâu sắc. Nó không chỉ phản ánh các điều kiện sinh hoạt thông thường của xã
hội mà còn thể hiện chiều sâu của tâm lý” [43, tr.318].
Nghệ thuật chân chính bao giờ cũng tạo nên một sức mạnh to lớn tác động
đến cuộc sống con người. Sức mạnh đó được thể hiện ở nhiều lĩnh vực khác
nhau: nghệ thuật ngôn từ, nghệ thuật tạo hình, nghệ thuật biểu diễn… Nghệ thuật
ngôn từ dùng ngôn ngữ để diễn đạt tình cảm, tư tưởng, tâm hồn của con người
theo quy luật của cái đẹp. Nghệ thuật tạo hình chủ yếu sử dụng hình khối đường
nét và các gam màu để thể hiện vật thể dưới dạng tác phẩm mỹ thuật, kiến trúc,
điêu khắc, hội hoạ, đồ thủ công mỹ nghệ. Nghệ thuật biểu biễn là lĩnh vực nghệ
thuật được diễn xuất bằng hành động, bằng cử chỉ của người nghệ sĩ.
40
Nhà sưu tầm, nghiên cứu múa dân tộc NSND - GS,TS. Lê Ngọc Canh
quan niệm:
Nghệ thuật biểu diễn bao hàm những loại hình nghệ thuật có chung
tính chất, đặc điểm, môi trường, không gian, thời gian trình diễn với
sự sáng tạo của nhiều thế hệ trong tiến trình lịch sử hình thành, phát
triển văn hóa của các tộc người, của xã hội trong mọi thời đại, thông
qua các loại hình nghệ thuật biểu diễn như ca, múa, nhạc, tuồng, chèo,
diễn xướng... Chúng chuyển động trong mọi không gian, thời gian
trình diễn khác nhau. Sự chuyển động trình diễn ấy do các nghệ nhân,
các nghệ sĩ thực hiện thông qua những âm thanh, hình thể, điệu bộ,
hình dáng của cơ thể con người và cảm xúc, tâm hồn. Những nghệ
nhân, nghệ sĩ ấy lại tái tạo, bổ sung, hoàn thiện những bài bản đã có,
đã tồn tại trong đời sống văn hóa cộng đồng.
Nghệ thuật biểu diễn là loại hình nghệ thuật chuyển động đa loại, đa
dạng, đa hình, đa âm. Có nhà nghiên cứu còn gọi là nghệ thuật động
giàu tính thẩm mỹ trực quan, đem lại cho người tiếp cận bằng thị giác,
thính giác (nghe, nhìn), tiếp cận dưới góc độ thẩm mỹ [15, tr.193-194].
Những quan niệm trên đây cho thấy: Nghệ thuật biểu diễn là hình thức
nghệ thuật mang tính tổng hợp, tính tổng thể rất cao; là sự sáng tạo lần thứ hai
trên cơ sở gắn với thân thể, năng lực cảm thụ, trình diễn của người nghệ sĩ;
thông qua tác phẩm sân khấu để nhằm giáo dục tư tưởng, tình cảm, đạo đức, lối
sống, nâng cao dân trí, thẩm mỹ đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa tinh thần
của nhân dân. Nghệ thuật biểu diễn phát triển đúng hướng sẽ góp phần xây dựng,
phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Theo quan điểm của NCS, nếu quan niệm công nghiệp văn hóa là sự ứng
dụng của tiến bộ khoa học công nghệ và kỹ năng kinh doanh, sử dụng năng lực
sáng tạo, vốn văn hóa để tạo ra sản phẩm và dịch vụ văn hóa đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng và hưởng thụ văn hóa của người dân, thì nghệ thuật biểu diễn là ngành
công nghiệp đặc thù, quan trọng của công nghiệp văn hoá. Một số lĩnh vực nghệ
41
thuật biểu diễn ở nước ta hiện nay cũng đã được sáng tạo, sản xuất, phân phối và
tiêu dùng theo quy trình của một ngành công nghiệp. Nhưng khác với một số
thành tố khác trong đời sống văn hóa nghệ thuật, nghệ thuật biểu diễn được thể
hiện thông qua hệ thống các phương tiện (sân khấu, âm thanh, ánh sáng, trang
phục, đạo cụ…), tập trung ở nhà hát, sân khấu, rạp xiếc, múa rối, nhà chiếu
phim, vũ trường… (những đặc điểm sẽ được trình bày ở phần tiếp theo).
2.1.2.2. Cơ cấu của nghệ thuật biểu diễn
Ở Việt Nam, theo Nghị định của Chính phủ (tháng 10/2012), quy định về
biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang; thi người đẹp và người mẫu; lưu
hành, kinh doanh bản ghi âm, ghi hình ca múa nhạc, sân khấu về Nghệ thuật biểu
diễn, bao gồm các loại hình: Tuồng, Chèo, Cải lương, Xiếc, Múa rối, Kịch nói,
Kịch múa, Kịch hát, Kịch câm, Dân ca kịch, Nhạc kịch, các loại hình nghệ thuật
Ca-Múa-Nhạc, Ngâm thơ, Tấu hài, Tạp kỹ và các loại hình nghệ thuật khác được
thể hiện trên sân khấu thông qua diễn xuất của diễn viên chuyên nghiệp. Có thể
chia thành hai khối chính như quan niệm của các nhà khoa học trong đề tài
khoa học cấp Bộ về “Phát triển công nghiệp văn hóa ở Việt Nam, thực trạng và
giải pháp”:
- Khối sân khấu: gồm các loại hình nghệ thuật Tuồng, Chèo, Cải lương,
Xiếc, Múa rối, Kịch nói, Kịch câm, Dân ca kịch, sản phẩm gọi là vở diễn.
- Khối ca múa nhạc: Gồm các loại hình nghệ thuật Ca - Múa - Nhạc,
Ngâm thơ, Kịch hát, Tấu hài, sản phẩm của nó gọi là chương trình.
Thực tế cũng có sự pha trộn giữa hai khối trên hoặc với cả loại hình biểu
diễn khác, tạo ra một chương trình tổng hợp, ví dụ biểu diễn ca nhạc kết hợp
xiếc, tấu hài, biểu diễn thời trang, thể thao... [40, tr.66-67].
Trong một Báo cáo của UNCTAD (Diễn đàn Thương mại và Phát triển Liên
Hiệp quốc), khẳng định: nghệ thuật biểu diễn bao gồm mọi loại hình nghệ thuật sân
khấu, biểu diễn bởi nghệ sĩ và dành cho khán giả thưởng thức [114, tr.141]. Quan
niệm này là cơ sở để NCS xem xét đặc trưng của lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn - là
ngành công nghiệp văn hoá gắn với sàn diễn và công chúng.
42
Trong các loại hình nghệ thuật, nghệ thuật biểu diễn có thể là những sáng
tạo cá nhân, hay một nhóm nhỏ các cá nhân hoặc là kết quả của một tập thể đông
người, song xét về tổng thể, nghệ thuật biểu diễn là một ngành nghệ thuật mang
tính tập thể, mỗi một tác phẩm sân khấu, âm nhạc, múa... đều là kết quả của sự
sáng tạo cá nhân (biên đạo, nhạc sĩ, kịch tác gia...) và tập thể (đạo diễn, âm
thanh, ánh sáng...), với sự kết hợp chặt chẽ của 3 thành phần: sáng tạo (nghệ sĩ,
diễn viên), tổ chức biểu diễn (âm thanh, ánh sáng), quản trị (bán vé, marketing,
PR...), do đó, đây là một ngành đòi hỏi phải có sự quan tâm bởi 3 bình diện: nghệ
thuật, tổ chức biểu diễn và quản trị. Chính 3 bình diện này tạo nên ngành nghệ
thuật biểu diễn, vượt qua khái niệm thông thường khi chỉ coi ngành này đơn thuần
là nghệ thuật.
Công nghiệp văn hóa trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn được thể hiện ở
rất nhiều khâu, nhiều công đoạn: đội ngũ diễn viên, xây dựng kịch bản, dàn dựng
và biểu diễn (bao gồm cả phần thiết kế và thực hiện trang phục, đạo cụ và phông
cảnh); cung cấp dịch vụ kỹ thuật (bao gồm: âm thanh, ánh sáng, màn hình, sân
khấu, khán đài, phương tiện vận chuyển, các thiết bị kỹ thuật) của các loại hình
nghệ thuật ca, múa, nhạc, sân khấu và các loại hình nghệ thuật khác.
2.2. ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÕ CỦA NGHỆ THUẬT BIỂU DIỄN
2.2.1. Đặc điểm của nghệ thuật biểu diễn
Mỗi ngành công nghiệp văn hóa được hình thành do nhu cầu xã hội và có
thị trường riêng cho sản phẩm của ngành. Sản phẩm của mỗi ngành công nghiệp
văn hóa đều có đặc điểm riêng, mang tính đặc thù, bởi do phương thức sáng tạo,
tổ chức sản xuất và kinh doanh của các ngành công nghiệp văn hóa là không
giống nhau. Tuy nhiên, nhìn một cách tổng thể, các ngành công nghiệp văn hóa
đều có hoạt động chính như hình thành và phát triển ý tưởng về sản phẩm, sáng
tác/ sản xuất sản phẩm, phân phối, tiêu thụ và bảo quản sản phẩm. Các sản phẩm
này tạo thành quy trình/chu trình sáng tạo và phân phối sản phẩm của tất cả các
ngành công nghiệp trong lĩnh vực văn hóa.
43
Nghệ thuật biểu diễn cũng trải qua quy trình sản xuất, phân phối, tiêu
dùng và bảo quản như hệ thống sản xuất vật chất. Nhưng đối với loại hình nghệ
thuật biểu diễn tạo ra sản phẩm là hoạt động và dịch vụ thì quá trình sản xuất là
một chuỗi hoạt động không gián đoạn, thậm chí khâu sản xuất, phân phối và tiêu
thụ diễn ra đồng thời. Các công đoạn có thể gắn kết chặt chẽ, liên tục, không
tách rời. Ví dụ: với sản phẩm là vở kịch, múa, chương trình ca nhạc biểu diễn
trực tiếp thì quá trình sáng tạo, biểu diễn của nghệ sĩ diễn ra đồng thời với việc
tiêu thụ, thưởng thức nghệ thuật của khán giả. Khác với quá trình sản xuất vật
chất dựa vào các nguyên liệu đầu vào mang tính vật chất, vật thể như nguyên
liệu thô, nhiên liệu… thì ở các ngành công nghiệp văn hóa nói chung, nghệ thuật
biểu diễn nói riêng quá trình sản xuất phụ thuộc chủ yếu vào nguyên liệu mang
tính phi vật thể như sự sáng tạo, tài năng và kỹ năng của người sáng tạo/sản xuất.
Là ngành công nghiệp văn hóa mà các hoạt động thể hiện sự sáng tạo mang tính
tổng hợp, gắn quá trình sản xuất với các dịch vụ, sàn diễn, loại hình nghệ thuật
biểu diễn có những đặc điểm chung và đặc thù sau:
2.2.1.1. Sản phẩm của nghệ thuật biểu diễn là kết quả của quá trình
sáng tạo, sản xuất mang tính tổng hợp và liên kết
Thường thì kịch bản của các vở kịch, chèo, tuồng, ba lê, opera… được
sáng tác trước. Sau đó, qua quá trình dàn dựng, biểu diễn của đội ngũ diễn viên
và kỹ thuật viên, chương trình biểu diễn được hình thành và chuyển tải đến công
chúng. Để sản xuất chương trình nghệ thuật biểu diễn cần phòng tập và sân khấu
cùng với các trang thiết bị đi kèm như hệ thống âm thanh, ánh sáng, trang phục,
đạo cụ… Trong nghệ thuật biểu diễn, các nhà tổ chức sản xuất như nhà hát, đoàn
nghệ thuật… có vai trò xem xét chất lượng nghệ thuật, khả năng chiếm lĩnh thị
trường của chương trình biểu diễn, sau đó đầu tư vào biên tập, dàn dựng và quản lý
quá trình sản xuất. Nhà sản xuất có vai trò phối hợp các nguồn nhân lực, cơ sở vật chất
và tài chính để dàn dựng và tổ chức biểu diễn chương trình nghệ thuật. Họ cũng
thường đảm nhiệm các hoạt động pháp lý liên quan như ký hợp đồng tác quyền với tác
giả hoặc tổ chức thu phí bản quyền và xin giấy phép biểu diễn [Dẫn theo 69, tr.29].
44
2.2.1.2. Quá trình phân phối, tiêu thụ các sản phẩm nghệ thuật biểu
diễn diễn ra đồng thời
Quá trình diễn viên, nghệ sĩ biểu diễn trên sân khấu và quá trình đưa sản
phẩm nghệ thuật đó đến với công chúng xảy ra song song. Ở đây không có sự
tách biệt giữa quá trình sản xuất tác phẩm và phân phối tác phẩm. Để các tác
phẩm nghệ thuật biểu diễn đến được với người xem một cách rộng rãi, phổ biến,
hoạt động này thường diễn ra trên sân khấu, trong nhà hát, hội trường, không
gian công cộng… hoặc đi lưu diễn trong và ngoài nước.
Ngoài ra, trong thời đại khoa học – công nghệ phát triển như vũ bão, với
việc áp dụng thành tựu công nghệ mới, bên cạnh hoạt động biểu diễn nghệ thuật
trực tiếp, nhiều sản phẩm chương trình biểu diễn nghệ thuật còn được ghi âm,
ghi hình và lưu trữ bằng băng từ, đĩa CD, VCD. Như vậy, tác phẩm nghệ thuật
biểu diễn có thể được sao lưu, nhân bản và phổ biến rộng rãi tới đông đảo công
chúng. Trong trường hợp sử dụng công nghệ ghi âm, ghi hình như vậy, quá trình
sản xuất chương trình biểu diễn nghệ thuật và phân phối tới người sử dụng cũng
có sự tách biệt.
2.2.1.3. Đặc thù trong bảo quản các sản phẩm hàng hoá văn hoá cho
lần khai thác tiếp theo
Sản phẩm, sau khi được chuyển đến người tiêu dùng sẽ được tiêu thụ và
cũng cần phải được bảo quản cho lần khai thác tiếp theo.
Mỗi ngành công nghiệp văn hóa đều có người tiêu thụ hoặc chủ thể tiêu
dùng khác nhau. Nếu như ngành mỹ thuật: khách tham quan là người xem, người
thưởng thức tác phẩm mỹ thuật; nhà sưu tập, bảo tàng…là người mua tác phẩm
thì với ngành nghệ thuật biểu diễn, người tiêu thụ cuối cùng là khán giả. Các nhà
hát cũng có thể coi là người tiêu thụ khi họ quyết định ký hợp đồng biểu diễn với
một đoàn nghệ thuật để biểu diễn chương trình/ tác phẩm nghệ thuật đó.
Khác với tiêu thụ sản phẩm vật chất thông thường, sản phẩm văn hóa nói
chung và sản phẩm nghệ thuật biểu diễn nói riêng không bị hao mòn về giá trị
tiêu thụ. Nghĩa là, sản phẩm văn hóa nghệ thuật nếu đã được sử dụng rồi thì vẫn
45
có thể sử dụng lại. Những trải nghiệm tinh thần mà người xem thưởng thức được
sẽ có giá trị trường tồn với thời gian. Những giá trị nghệ thuật đó sẽ không bị
hao mòn với thời gian mà người khác vẫn có thưởng thức và cảm nhận nếu như
nó vẫn được biểu diễn.
Khâu bảo quản trong ngành nghệ thuật biểu diễn có những đặc điểm
riêng, khác với các ngành công nghiệp văn hóa khác. Đó là ngành biểu diễn
trực tiếp nên sau khi kết thúc chương trình biểu diễn thì sản phẩm cũng không
còn tồn tại, do đó, không thể lưu trữ được. Cách bảo quản các sản phẩm trong
ngành nghệ thuật biểu diễn tốt nhất là nên tiếp tục biểu diễn chúng, làm cho
chúng sống trên sân khấu cùng với thời gian. Do đó, việc truyền nghề của nghệ
nhân cho thế hệ trẻ trong nghệ thuật biểu diễn, đặc biệt là nghệ thuật biểu diễn
truyền thống của dân tộc là điều kiện cơ bản để bảo tồn và phát triển các loại
hình nghệ thuật này.
2.2.1.4. Nghệ thuật biểu diễn hoạt động theo luật doanh nghiệp nói
chung cùng với sự quản lý của cơ quan chức năng văn hoá
Trước hết đó là những hoạt động biểu diễn nghệ thuật được thực hiện bởi
những doanh nghiệp (đơn vị, công ty) trên lĩnh vực này (cả khu vực nhà nước và
tư nhân). Các doanh nghiệp này là những đơn vị kinh tế có tư cách pháp nhân,
quy tụ các phương tiện tài chính, vật chất và con người nhằm thực hiện các
hoạt động sản xuất, cung ứng, tiêu thụ sản phẩm hoặc dịch vụ văn hoá, trên cơ
sở tối đa hóa lợi ích của người tiêu dùng, thông qua đó tối đa hóa lợi ích của
chủ sở hữu, đồng thời kết hợp một cách hợp lý, hài hoà giữa các mục tiêu xã
hội và văn hoá.
Cơ quan chức năng quản lý trực tiếp các doanh nghiệp này đó là Cục
Nghệ thuật biểu diễn - tổ chức thuộc Bộ VH, TT & DL. Cục có chức năng tham
mưu giúp Bộ trưởng thực hiện quản lý nhà nước về hoạt động biểu diễn nghệ thuật
theo chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nhà
nước quản lý doanh nghiệp văn hoá bằng hệ thống thể chế. Hoạt động của các
46
ngành công nghiệp văn hoá nghệ thuật biểu diễn phải tuân thủ các Luật, như Luật
bản quyền, Luật Sở hữu trí tuệ, các Công ước quốc tế liên quan.
Các ngành công nghiệp văn hóa dựa trên sự sản xuất, khai thác, phân phối
và tiêu thụ các giá trị văn hóa đồng thời là các giá trị sáng tạo. Sản phẩm sáng
tạo là sản phẩm cốt lõi của các ngành công nghiệp văn hóa, chính vì vậy, ngành
công nghiệp văn hóa được xây dựng trên nền móng của Luật bản quyền. Luật
bản quyền và các hình thức khác của quyền sử dụng trí tuệ nhằm bảo vệ, đồng
thời thúc đẩy sự sáng tạo của con người. Nếu không có Luật bản quyền, những
sáng tạo của các tác giả sẽ bị mọi người sử dụng một cách tự do. Các cá nhân,
doanh nghiệp trong ngành công nghiệp phải đầu tư tài chính, thời gian và công
sức để có được sản phẩm, nếu sản phẩm này bị sử dụng phi pháp thì cá nhân và
doanh nghiệp đó sẽ không thu được tiền và sẽ không thể tồn tại, phát triển.
Ở lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn, tác quyền âm nhạc đã được đề cập nhiều
trong thời gian vừa qua. Trung tâm Bảo vệ Quyền tác giả Âm nhạc Việt Nam,
thành lập năm 2003 là cơ quan có nhiệm vụ bảo vệ quyền tác giả trong lĩnh vực
âm nhạc ở nước ta. Trung tâm có nhiệm vụ thu phí và phân phối cho các tác giả
nhằm đảm bảo nhạc sĩ được trả tiền bản quyền từ mọi hình thức sử dụng tác phẩm
của họ. Các hiệp hội thu phí đầu tiên được tạo ra trong lĩnh vực âm nhạc và sân
khấu nhưng hiện nay có mặt trong nhiều lĩnh vực khác như điện ảnh, nghe nhìn…
Trong vòng mười năm lại nay, Việt Nam đã tham gia khá nhiều các công
ước quốc tế để thực thi Luật Bản quyền, đó là: Công ước Berne về bảo hộ các
tác phẩm văn học nghệ thuật (năm 2004), Công ước Genevơ về bảo hộ nhà sản
xuất các sản phẩm ghi âm (năm 2005), Công ước Brussels về bảo vệ quyền lợi
của các tổ chức phát sóng đối với tín hiệu mang chương trình đã được mã hóa
truyền qua vệ tinh (năm 2006), Công ước Rome bảo hộ người biểu diễn, nhà sản
xuất ghi âm, tổ chức truyền thông (năm 2007)… Những công ước quốc tế về quyền
tác giả và các quyền liên quan được kí kết chứng tỏ Việt Nam đã thực sự bước vào
sân chơi quốc tế trong quá trình giao lưu và hội nhập ngày càng sâu rộng.
47
2.2.1.5. Khả năng đánh giá và điều chỉnh hoạt động của nghệ thuật
biểu diễn phụ thuộc chặt chẽ vào khán giả
Đây là yếu tố rất quan trọng trong quá trình phát triển ngành công nghiệp
văn hóa nói chung và lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn nói riêng. Khác với vấn đề
tiêu thụ trong lĩnh vực sản xuất hàng hóa vật chất, nhà sản xuất có thể dễ dàng
xác định khách hàng cần gì ở sản phẩm của mình vì những yêu cầu này thường
gắn với chức năng của sản phẩm. Trong khi đó, ở các ngành công nghiệp văn hóa
trong đó có nghệ thuật biểu diễn, quá trình tiêu thụ sản phẩm phụ thuộc chặt chẽ
về yếu tố tâm lý, thị hiếu, nhu cầu, sở thích và quan niệm về giá trị của khán giả.
Đây là những yếu tố khó đoán định và thường xuyên biến động. Trong
lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn, một tác phẩm được giới thiệu ra thị trường liệu có
được khán giả đón nhận hay không còn phụ thuộc rất nhiều các yếu tố khách
quan và chủ quan khác nhau. Liệu các nhà phê bình, giới truyền thông sẽ đánh
giá và bình luận tác phẩm này ra sao? Công chúng có nhìn nhận đây thực sự là
sản phẩm có giá trị đối với họ hay không? Có xứng đáng với đồng tiền họ bỏ ra
để thưởng thức, đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần của họ hay không?... Tất cả
những điều này đều phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố chủ quan của họ (người tiêu
dùng). Cái khó hơn là trình độ dân trí của chúng ta hiện nay không đồng đều,
tiêu chuẩn và kỳ vọng về giá trị tác phẩm ở mỗi khán giả đều không giống nhau.
Điều này đòi hỏi những nhà tổ chức quản lý phải hết sức nhanh nhạy thì mới có
thể thành công được.
Trong lĩnh vực sân khấu và âm nhạc hiện nay, để tồn tại và cạnh tranh
trên thị trường, các đoàn nghệ thuật và nghệ sĩ phải tìm đối tượng khán giả riêng
của mình, phân khúc thị trường và chọn thị trường mục tiêu. Nghĩa là, phải xác
định cho được đối tượng khán giả riêng của mình, sân khấu nào thì khán giả đó.
Sau khi đã phân luồng khán giả, nắm được tâm lý, đặc điểm và nhu cầu của họ
thì mới xây dựng những kịch bản hoặc mời những nghệ sĩ, chọn những ca khúc
phù hợp để đáp ứng nhu cầu của đối tượng khán giả đó. Có thể nhận thấy, theo
quy luật của kinh tế thị trường, sức cạnh tranh là thước đo quan trọng để xác
48
định mức độ phát triển ngành công nghiệp văn hóa. Sức cạnh tranh được thể
hiện chủ yếu bằng sự năng động của các đơn vị kinh doanh, sự phong phú các
loại sản phẩm và sức đào thải của thị trường với những sản phẩm không đạt chất
lượng. Thị trường, theo nghĩa thông thường đó là nơi người bán, người mua trao
đổi hàng hóa, dịch vụ. Khái niệm thị trường của lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn ở
đây có nghĩa là khách hàng, là những người mua và tiêu dùng sản phẩm, dịch vụ.
Thị trường cũng có nghĩa là một cơ chế, trong đó người mua và người bán có thể
xác định giá cả và trao đổi hàng hóa, dịch vụ. Trong nền kinh tế thị trường, thị
trường là nhân tố trung tâm, có ý nghĩa quyết định. Nó thể hiện bản chất mối
quan hệ giữa những người sản xuất và giữa người sản xuất với người tiêu dùng.
Những phân tích trên đây cho thấy đặc điểm chung của công nghiệp văn hóa
trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn đó là sự kết hợp giữa sự sáng tạo, sản xuất và
kinh doanh khai thác các nội dung có bản chất phi vật thể, tạo thành các sản phẩm
hay dịch vụ văn hóa, được bảo vệ bởi luật bản quyền. Các sản phẩm và dịch vụ này
vừa mang giá trị nghệ thuật vừa mang giá trị kinh tế, được vận hành theo những quy
luật của nền kinh tế hàng hóa và có sự hỗ trợ mạnh mẽ của các yếu tố công nghệ.
2.2.2. Vai trò của nghệ thuật biểu diễn
2.2.2.1. Nghệ thuật biểu diễn đáp ứng nhu cầu giải trí của xã hội
Giải trí là một hoạt động cơ bản của con người, đáp ứng những nhu cầu
phát triển về các mặt thể chất, trí tuệ và thẩm mỹ. Giải trí không chỉ là nhu cầu
của từng cá nhân, mà còn là nhu cầu của đời sống cộng đồng, xã hội.
Nhu cầu vui chơi, giải trí là nhu cầu văn hóa cơ bản của cá nhân và cộng
đồng, nhằm thỏa mãn những căng thẳng, mệt mỏi do lao động đưa lại, bù đắp
những thiếu hụt và mất mát về sức khỏe và tinh thần sau những giờ lao động mệt
nhọc, tạo điều kiện để cho con người phát triển toàn diện về thể lực, trí lực, tình cảm
thẩm mỹ, thỏa mãn nhu cầu tinh thần ngày càng cao của con người.
Nắm bắt được nhu cầu đó, những chủ thể của nghệ thuật biểu diễn đã
nhanh chóng sáng tạo, sản xuất ra những sản phẩm nghệ thuật để đáp ứng nhu
cầu của khán giả, nhất là khán giả trẻ. Xã hội công nghiệp với nhịp sống năng
49
động, con người luôn tất bật, căng thẳng với công việc, sau những giờ lao động
mệt nhọc đó, họ cần phải lấy lại tinh thần, cần nghỉ ngơi, thư giãn để tái sản
xuất sức lao động cho ngày sau. Hơn bất cứ loại hình nghệ thuật nào khác,
nghệ thuật biểu diễn có khả năng đáp ứng cao nhất nhu cầu đó. Những chương
trình ca nhạc sôi động hoặc sâu lắng đã giúp cho người thưởng thức được thư
thái. Những vở hài kịch nhẹ nhàng, dí dỏm đã mang lại tiếng cười sảng khoái
cho khán giả. Hay có khi chỉ là những điệu nhảy trẻ trung, sôi động của những
vũ đoàn cũng đủ góp phần làm cho sân khấu thêm nhiều màu sắc đáp ứng nhu
cầu giải trí của người dân.
Ngày nay, lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn đã trở thành một ngành công
nghiệp văn hóa, công nghiệp giải trí. Vì vậy, các sản phẩm của lĩnh vực này đã
và đang trở thành những sản phẩm hàng hóa đặc biệt, vừa có giá trị nghệ thuật
vừa có giá trị kinh tế. Vấn đề ở đây là phải làm sao vừa đáp ứng được nhu cầu
giải trí của khán giả, vừa phải “không ngừng nâng cao thị hiếu thẩm mỹ và trình
độ thưởng thức nghệ thuật của công chúng, đặc biệt là tầng lớp thanh niên, thiếu
niên, nhi đồng” [19, tr.62] như định hướng của Đảng ta đã đặt ra trong Nghị
quyết Trung ương 5 khóa VIII.
2.2.2.2. Sản phẩm nghệ thuật biểu diễn chất lượng có tác dụng giáo dục
thẩm mỹ, hoàn thiện nhân cách con người
Nghệ thuật biểu diễn có vai trò hết sức to lớn trong đời sống văn hóa nói
chung và trong nghệ thuật nói riêng. Đặc biệt trong xã hội hiện nay, khi đời sống
vật chất của con người ngày càng khá lên, nhu cầu thưởng thức nghệ thuật vì thế
cũng tăng lên gấp bội, đòi hỏi nhiều những tác phẩm nghệ thuật có giá trị để thoả
mãn đời sống tinh thần.
Trước hết, xét về cấu trúc của văn hóa nghệ thuật thì đội ngũ nghệ sĩ sáng
tạo và hoạt động biểu diễn nghệ thuật đóng vai trò quyết định nền văn hóa nghệ
thuật. Họ là những người đưa tác phẩm nghệ thuật đến với công chúng, giúp
công chúng tìm ra cái hay, cái đẹp, cái cao cả trong cuộc sống. Nói cách khác,
nghệ thuật biểu diễn là chiếc cầu nối giữa tác phẩm nghệ thuật với công chúng,
50
trực tiếp đưa các giá trị nghệ thuật đến với chủ thể thưởng thức nghệ thuật một
cách sinh động, cụ thể và truyền cảm. Trong Bản thảo Kinh tế - Triết học, Mác
đã chỉ ra rằng, dấu hiệu cơ bản để phân biệt hoạt động của con vật với hoạt động
con người là ở chỗ con người biết nhào nặn hiện thực theo quy luật cái đẹp.
Trong lịch sử phát triển của con người, cái đẹp là khát vọng, là khả năng vươn
tới, khả năng làm chủ của con người. Và ở bất cứ lĩnh vực nào, con người cũng
có khát vọng vươn tới cái đẹp. Có thể nói, cái đẹp giữ vị trí trung tâm điều tiết
cuộc sống, nó là nhu cầu sống, nó đã “cứu rỗi” nhân loại thoát khỏi cái xấu,
không có nó thì không có văn hóa, hạnh phúc, ước mơ. Vì thế, trong nghệ thuật,
cái đẹp là linh hồn của nghệ thuật. Vì cái đẹp mà nghệ thuật mới tồn tại. Không có
cái đẹp thì nghệ thuật không có công chúng. Công chúng đến với nghệ thuật để
nghệ thuật mách bảo con đường chiếm lĩnh cái đẹp. Cảm xúc thẩm mỹ, tức khả
năng biết rung động trước cái đẹp, ở một mức độ nào đó, tạo nên phẩm chất đạo
đức của con người.
Macxim Gooky đã có lý khi cho rằng: Mỹ học là đạo đức học của tương
lai. Điều này, nhà tư tưởng lớn Biêlinxki của nước Nga thế kỷ XIX đã nói rõ:
Cảm xúc của cái đẹp là một điều kiện làm nên phẩm giá của con
người. Phải có nó con người mới có được trí tuệ, phải có nó, nhà bác
học mới cất mình lên bởi những tư tưởng tầm cỡ thế giới, mới hiểu
được phẩm chất và các hiện tượng trong tính thống nhất của chúng…
Phải có nó người ta mới có thể không quỵ ngã dưới sức nặng trĩu của cuộc
đời và làm nên những chiến công… Thiếu nó, thiếu đi cái cảm xúc ấy thì
không có thiên tài, không có tài năng, không có trí thông minh mà chỉ còn
lại cái thứ đầu óc tỉnh táo một cách ti tiện cần thiết cho sinh hoạt thường
ngày trong nhà, cho những tính toán nhỏ nhen, ích kỷ [Dẫn theo 21].
Xét về phương diện ngành công nghiệp văn hoá, nghệ thuật biểu diễn là
cầu nối để tác phẩm đến với công chúng, đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ của công
chúng. Nghệ thuật biểu diễn là một bộ phận nhạy cảm của văn hóa nghệ thuật, là
thành tố trọng yếu của văn hóa thẩm mỹ. Nghệ thuật biểu diễn giữ vai trò hết sức
51
to lớn trong việc giáo dục thẩm mỹ, hình thành nhân cách con người. Nghệ thuật
biểu diễn giúp con người biết rung động sâu sắc về tình cảm, trước những sự
kiện, những con người, những biến cố của lịch sử xã hội và tự nhiên; trước
những điều lành và tội ác, hèn hạ và cao cả, vui sướng và đau khổ, đẹp đẽ và xấu
xa… Con người được trải nghiệm qua những phút giây vui, buồn, sung sướng, lo
âu, đau khổ, căm giận, ngưỡng mộ, yêu thương… Những tác phẩm nghệ thuật
biểu diễn chân chính sẽ thức tỉnh lòng người, sẽ làm cho cuộc sống có ý nghĩa
hơn, sẽ giúp cho chúng ta ngày một tiến lên, hướng về phía tuyệt mỹ chứ không
phải lui dần vào chỗ tầm thường, thô thiển, nông cạn.
2.2.2.3. Phát triển lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn góp phần giải quyết
mối quan hệ biện chứng giữa văn hóa và kinh tế
Trong Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, Đảng ta đã nhấn mạnh đến vai
trò của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Mối quan hệ giữa kinh tế và
văn hóa là mối quan hệ biện chứng. Kinh tế là điều kiện, là cơ sở để phát triển
văn hóa, đồng thời văn hóa là mục tiêu, động lực để phát triển kinh tế - xã hội.
Văn hóa không chỉ là nguồn cung cấp sản phẩm hàng hóa cho kinh tế thị trường
mà còn giữ vai trò định hướng giá trị cho hoạt động của kinh tế thị trường. Hoạt
động kinh tế thị trường càng hướng tới mục tiêu văn hóa càng mang tính xã hội
chủ nghĩa vì sự phát triển của con người, của xã hội. Sản phẩm văn hóa trở thành
hàng hóa nhưng không phải bất cứ sản phẩm nào cũng trở thành hàng hóa trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sản phẩm văn hóa không
thuần tuý về lợi nhuận kinh tế mà trước hết vì lợi ích tinh thần, thoả mãn nhu cầu
nâng cao năng lực tinh thần của con người. Như vậy, mối quan hệ giữa văn hóa
và kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ
thúc đẩy nền kinh tế thị trường phát triển về lượng (giá trị kinh tế) mà cả về chất
(giá trị tinh thần cao đẹp). Phát triển trên cơ sở kết hợp hài hoà kinh tế và văn
hóa là sự phát triển năng động có hiệu quả và vững chắc nhất.
Công nghiệp văn hóa, trong đó có lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn phát triển
sẽ tạo ra một thị trường lớn về tiêu thụ các sản phẩm văn hóa ngay chính trên đất
52
nước ta. Một cuộc biểu diễn ca nhạc, thời trang, tạp kỹ… nếu có một sân khấu
lớn, một hệ thống màn hình rộng, hệ thống âm thanh tốt… thì có thể giúp cho
hàng vạn người thưởng thức. Thị trường sản phẩm khoa học công nghệ phục vụ
cho tiêu dùng văn hóa như máy nghe nhìn, máy ghi âm, ghi hình, photo, sản xuất
băng đĩa… ngày càng phong phú. Mặt khác, ngành công nghiệp này phát triển
cũng sẽ thúc đẩy, hỗ trợ các ngành kinh tế khác phát triển như công nghiệp máy
móc, công nghiệp sản xuất trang thiết bị, ngành thủ công mỹ nghệ, trang trí và các
dịch vụ ăn uống, du lịch…
2.2.2.4. Phát triển nghệ thuật biểu diễn theo hướng công nghiệp là con
đường để hiện đại hoá nền văn hoá dân tộc và hội nhập quốc tế
Trong xu thế toàn cầu hóa, mở cửa, giao lưu hội nhập mạnh mẽ hiện nay,
văn hóa ngày càng trở thành “quyền lực mềm” có vai trò không thể thiếu trong
các bộ phận hợp thành sức mạnh tổng hợp của mọi quốc gia. Phát triển công
nghiệp văn hóa sẽ giúp cho chúng ta dễ dàng tiếp thu, tiếp biến những tinh hoa
văn hóa, văn minh nhân loại. Đó là những thành tựu về khoa học, công nghệ:
phương tiện vật chất, kỹ thuật, máy móc, thiết bị…, nâng cao năng lực sáng tạo,
sản xuất các sản phẩm văn hóa. Chúng ta tiếp nhận các phương thức sáng tạo
mới như kỹ năng, phương thức biểu diễn, thông qua công nghiệp văn hóa, cơ chế
sản xuất, phân phối, trao đổi sản phẩm văn hóa của thị trường để thúc đẩy văn
hóa dân tộc phát triển.
Mặt khác, phát triển công nghiệp văn hóa sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam
tiếp nhận được những sản phẩm nghệ thuật biểu diễn có chất lượng cao ở trên
thế giới, đáp ứng nhu cầu thưởng thức và giao lưu của đông đảo công chúng.
Hơn nữa, trong bối cảnh cần giữ chủ quyền và tính độc lập của văn hóa, thì Việt
Nam muốn chống lại những ảnh hưởng của văn hóa ngoại lai, nhất là những xâm
thực của các hiện tượng phản văn hóa thì cần phải nhanh chóng phát triển công
nghiệp văn hóa để phát huy tối đa sức mạnh văn hóa dân tộc, từng bước chiếm
lĩnh thị phần văn hóa quốc tế, góp phần bảo vệ chủ quyền và an ninh văn hóa của
đất nước, thúc đẩy sự tiến bộ và phồn vinh của văn hóa dân tộc.
53
2.3. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN NGHỆ THUẬT BIỂU DIỄN Ở
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY
Các ngành công nghiệp văn hóa xuất hiện gắn với nền văn hóa đại chúng
và sự phát triển đô thị. Văn hóa đại chúng được hình thành trên những điều kiện
mà xã hội gắn với quá trình đô thị hoá và tập trung dân cư; sự phát triển của quá
trình sản xuất, tiêu thụ lớn theo cơ chế thị trường; sự phát triển của giao thông và
truyền thông toàn cầu; sự mở rộng giao lưu quốc tế về văn hoá. Quá trình phát
triển nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí Minh đang chịu nhiều nhân tố tác động.
Những nhân tố này vừa là thời cơ, vừa là thách thức ảnh hưởng rất lớn đến sự
phát triển lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn nơi đây. Những nhân tố đó là:
2.3.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội và lịch sử - văn hoá đô thị
Tp. Hồ Chí Minh hiện là đô thị lớn nhất Việt Nam, một trung tâm kinh tế,
văn hóa, khoa học - công nghệ, đầu mối giao lưu quốc tế, có vị trí chính trị quan
trọng của cả nước.
Về địa lý tự nhiên, Thành phố là vùng tiếp nối giữa Đông Nam Bộ và Tây
Nam Bộ. Phía Bắc giáp tỉnh Bình Dương, Tây Bắc giáp tỉnh Tây Ninh, Đông và
Đông Bắc giáp tỉnh Đồng Nai, Đông Nam giáp tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và một
phần giáp biển Đông, Tây và Tây Nam giáp tỉnh Long An và Tiền Giang. Với vị
trí này, Tp. Hồ Chí Minh trở thành điểm giao lưu quốc tế giữa các con đường
hàng hải từ Bắc xuống Nam, từ Tây sang Đông, là tâm điểm của khu vực Đông
Nam Á, cửa ngõ ra thế giới cả về đường bộ và đường hàng không.
Thành phố hiện có 24 đơn vị hành chính trực thuộc (19 quận và 5 huyện),
với diện tích đất tự nhiên 2.095,01 km2, trong đó các quận nội thành chiếm
6,7%, 5 quận mới chiếm 14,3%, còn lại các huyện chiếm 79% diện tích. Theo số
liệu của Cục Thống kê, dân số Tp. Hồ Chí Minh đến ngày 01/4/2014 đã đạt tới
7.955 triệu người [125]. Nhưng nhiều nhà nghiên cứu còn cho rằng, dân số Tp.
Hồ Chí Minh hiện nay xấp xỉ 10 triệu người. Là một Thành phố trẻ, có mức độ
tập trung dân cư đông đúc và đứng vào tốp 15 Thành phố có quy mô dân số
đông nhất thế giới.
54
Về kinh tế, với vị trí và vai trò là hạt nhân của vùng kinh tế trọng điểm
phía Nam, kinh tế trên địa bàn Thành phố có tốc độ tăng trưởng cao và liên tục
trong nhiều thập niên. Trong năm năm qua, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của
Tp. Hồ Chí Minh tăng bình quân 9,6%/ năm, gấp 1,66 lần mức tăng bình quân cả
nước (Theo: Báo cáo của UBND Tp. Hồ Chí Minh trong Đại hội Thi đua yêu
nước lần thứ VI giai đoạn 2010 - 2015).
Thành phố Hồ Chí Minh tập trung rất nhiều trường đại học, viện nghiên
cứu lớn với hàng ngàn nhà khoa học, nhà nghiên cứu. Các hội văn học, nghệ
thuật trên địa bàn Thành phố quy tụ nhiều tài năng của nhiều lĩnh vực nghệ
thuật. Nơi đây cũng tập trung nhiều khu vui chơi giải trí lớn, thu hút không chỉ
nhân dân Thành phố mà còn các tỉnh lân cận.
Nghị quyết số 20 - NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX) nêu rõ: ”Xây dựng
Thành phố Hồ Chí Minh trở thành một Thành phố xã hội chủ nghĩa, văn minh,
hiện đại; một trong những Thành phố phát triển nhanh và năng động của khu
vực Đông Nam Á và Châu Á - Thái Bình Dương”. Đó là một Thành phố có kinh
tế phát triển cao dựa trên nền tảng dịch vụ và công nghiệp phát triển, nơi hội tụ
của giới kinh doanh, thu hút các tập đoàn kinh tế lớn trong và ngoài nước, một
trung tâm công nghiệp, tài chính và thương mại của Đông Nam Á. Chân dung của
Thành phố sẽ là một siêu đô thị đa trung tâm với điểm nhấn là khu vực trung tâm
hiện hành, khu đô thị mới Thủ Thiêm và đô thị mới dọc sông Sài Gòn; hình thành
chuỗi đô thị nối tiếp đô thị khác trong vùng theo mô hình tập trung đa cực, một
Thành phố xanh và sạch, một đô thị sông nước với quy mô dân số 10 triệu dân.
Đó cũng là một trung tâm khoa học – công nghệ lớn, trung tâm về giáo dục - đào
tạo chất lượng cao và y tế kỹ thuật cao của cả nước và khu vực Đông Nam Á.
Sự giao thoa tiếp biến văn hoá trong lịch sử cũng như hiện tại của Thành
phố đã tạo nên một vùng văn hóa mở có nhiều tố chất sáng tạo, hướng ngoại. Hiện
nay, các cộng đồng người nước ngoài cư trú tại Thành phố có số lượng khá đông
như: Hàn Quốc, Đài Loan, Xingapo, Nhật Bản, Trung Quốc, Anh, Pháp, Đức, Mỹ...
đặc biệt là sự gia tăng các du học sinh nước ngoài, những Việt kiều quay về quê
55
hương sinh sống ngày càng đông. Họ vừa mang văn hóa của dân tộc họ đến cùng
hòa chung với văn hóa Việt, làm phong phú đời sống văn hóa Thành phố.
Tính hội tụ và lan toả của văn hóa nghệ thuật Tp. Hồ Chí Minh còn thể
hiện ở sức thu hút những nghệ sĩ tài năng, những doanh nhân thành đạt, những
bậc anh tài... đến nơi đây để tìm những cơ hội bộc lộ tài năng của mình. Chủ
nhân của nền văn hóa nghệ thuật Tp. Hồ Chí Minh hiện nay không chỉ là những
người được sinh ra lớn lên trên mảnh đất này mà còn là những con người của
mọi miền Tổ quốc, mọi phương trời hội tụ về đây cùng lao động sáng tạo nghệ
thuật. Có thể nói, Tp. Hồ Chí Minh là trung tâm văn hóa nghệ thuật của cả khu
vực phía Nam và ảnh hưởng sâu rộng đến cả nước.
2.3.2. Tác động của khoa học công nghệ, kinh tế tri thức
Khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin phát triển đã làm
thay đổi quan niệm về không gian, thời gian; tạo ra một xã hội số hóa, một xa lộ
thông tin, làm thay đổi thời gian, tốc độ của quá trình sáng tạo, bảo quản, tiêu
dùng các giá trị văn hoá; rút ngắn khoảng cách giao lưu, quy mô và hình thức
giao lưu văn hóa. Khác với nền văn minh nông nghiệp, nền văn minh tin học với
công nghệ thông tin và truyền thông hiện đại đã làm cho môi trường văn hoá
mới trở nên phức tạp, bất định và thường xuyên biến đổi, buộc con người phải tự
biến đổi để thích nghi và sáng tạo.
Phát triển công nghiệp văn hoá trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn của
Việt Nam nói chung và Tp. Hồ Chí Minh nói riêng đang diễn ra trong bối cảnh
mở cửa hội nhập quốc tế toàn diện là xu thế chủ đạo. Các xu hướng đang diễn ra
và làm thay đổi thế giới: toàn cầu hoá kinh tế, khả năng liên kết toàn cầu, tính
minh bạch trong giao dịch và sự thích nghi xã hội, hiện đại hoá nền văn hoá mỗi
dân tộc. Phát triển công nghiệp văn hoá phải gắn với hội nhập khu vực và quốc tế.
Truyền thông toàn cầu đang làm gia tăng vai trò của các phương tiện
thông tin đại chúng (xuất bản, truyền hình và đặc biệt là Internet...) đối với phát
triển ngành công nghiệp văn hoá. Một trong những tác động đó là đẩy nhanh tốc
độ xuất nhập khẩu văn hóa phẩm có quy mô quốc tế, đặc biệt là các sản phẩm về
56
nghệ thuật, giải trí (thể thao, các trò chơi, thời trang, sản phẩm làm đẹp…). Thế
mạnh đang thuộc về những nước có nền công nghiệp văn hóa phát triển, sản phẩm
văn hóa của các quốc gia này ngày càng tràn ngập thị trường thế giới. Công
nghiệp văn hóa phát triển càng làm tăng trưởng của thương mại toàn cầu về các
sản phẩm văn hoá, thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá của thị trường văn hoá phẩm.
Những thống kê của tổ chức UNESCO cho thấy thương mại toàn cầu về
các sản phẩm văn hoá là một trong những ngành năng động nhất trong thương
mại thế giới. Trao đổi sản phẩm văn hoá (điện ảnh, radio và tivi, in ấn, văn học
và âm nhạc) đã tăng trưởng liên tục trong 20 năm vừa qua với một mức tăng
trưởng cao, ổn định. Một số chuyên gia nhận định rằng ngành công nghiệp văn
hoá đóng góp khoảng 7% vào GDP toàn cầu và 3% ở các nước đang phát triển.
Trước tiên phải kể đến những đóng góp không nhỏ của ngành công nghiệp
truyền thông và quảng cáo trong việc kích thích, khuyến khích sự tiêu dùng các
sản phẩm văn hoá trên phạm vi toàn cầu [40, tr.114].
Thực tế cho thấy Tp. Hồ Chí Minh cũng đang chịu sự tác động của nhiều
làn sóng các sản phẩm văn hóa, nghệ thuật đa dạng, phức tạp. Những tư tưởng cá
nhân cực đoan, lối sống thực dụng, gấp gáp, kích động bạo lực, tuyệt đối hóa
đồng tiền... được ẩn trong những yếu tố phản văn hóa đã trở thành mối lo của
toàn xã hội. Thị trường văn hóa nghệ thuật ở Thành phố đang ở tình trạng đáng
báo động khi thị hiếu của lớp trẻ đang bị dẫn dắt bởi những sản phẩm không phù
hợp với thuần phong mỹ tục của dân tộc.
2.3.3. Toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế và phát triển công nghiệp văn hoá
Toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế đã đẩy nhanh sự tác động của các yếu tố
về chính trị, kinh tế và khoa học, công nghệ thông tin đến quá trình phát triển,
giao lưu hội nhập văn hoá của các quốc gia và khu vực. Đặc biệt, toàn cầu hóa
tác động, thúc đẩy giao lưu giữa các nền văn hóa với phạm vi rộng lớn và quy mô,
cường độ mạnh mẽ chưa từng có. Đây là giai đoạn phát triển văn hoá dân tộc, hội
nhập khu vực và quốc tế có sự khác về cơ bản so với các giai đoạn trước đây.
Hơn bao giờ hết, phát triển ngành công nghiệp văn hóa được chú ý khai
thác là nguồn lực đặc biệt, "sức mạnh mềm văn hoá" để phát triển kinh tế quốc
57
dân. Đặc điểm nổi bật, bao trùm đó là các sản phẩm do ngành công nghiệp văn
hóa đưa lại, được kết hợp một cách tinh vi giữa nghệ thuật, công nghệ và trong
sản xuất, kinh doanh. Các sản phẩm đó được tung ra khắp thị trường thế giới,
đem lại lợi nhuận khổng lồ cho nhiều nước, nhất là những nước có nền công
nghiệp văn hóa phát triển. Không một quốc gia nào có thể phát triển trong sự
biệt lập với thế giới bên ngoài, mà ngược lại, sự tùy thuộc lẫn nhau ngày càng
gia tăng. Trong bối cảnh đó, phát triển ngành công nghiệp văn hoá nói chung,
nghệ thuật biểu diễn của Việt Nam cũng như các quốc gia khác, phải hướng đến
những tiêu chuẩn chung trong đánh giá về giá trị và bản quyền.
Với sự ra đời và hoàn thiện của các công ước quốc tế, phát triển công
nghiệp văn hoá, nghệ thuật biểu diễn của Việt Nam hướng đến chấp nhận những
giá trị chung, như tiêu chuẩn hoá và hiện đại hoá hệ thống toàn cầu về phân công
lao động xã hội và hàng hoá văn hoá trong cơ chế thị trường, sở hữu trí tuệ, quyền
con người, đa dạng văn hóa, thống nhất văn hoá, bảo vệ di sản văn hóa... Sự tác
động này đòi hỏi Việt Nam cũng như các quốc gia phải thay đổi nhận thức và hành
động thực tiễn trong phát triển công nghiệp văn hoá, lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn:
- Tìm những lợi thế của mình để cạnh tranh (vốn, nguồn nhân lực, vốn
văn hóa, tài nguyên thiên nhiên…) để phát triển công nghiệp văn hoá.
- Coi trọng sự liên kết khu vực dựa trên những điểm tương đồng, để tạo
sức cạnh tranh trong hàng hoá văn hoá, thị trường văn hoá phẩm.
- Những sáng tạo trong công nghiệp văn hoá của Việt Nam phải vừa mang
bản sắc, vừa phải hướng đến những giá trị chung của nhân loại, phát huy thời cơ
và hạn chế thách thức.
2.3.4. Chủ trƣơng, chính sách phát triển công nghiệp văn hoá ở Việt Nam
Nhận thức được tính tất yếu của phát triển văn hóa trong giai đoạn mới,
Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương và chính sách định hướng phát triển
kinh tế gắn với phát triển văn hóa, xã hội. Sự định hướng cùng với một hệ thống
chính sách kinh tế trong văn hóa đã tạo nền tảng bước đầu cho ngành công
nghiệp văn hóa nước ta phát triển, trong đó có lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn.
58
Điều đó cho thấy đã có sự thay đổi cơ bản trong quá trình nhận thức của Đảng ta,
hoạt động văn hóa không chỉ mang tính chất sự nghiệp mà còn mang tính “kinh
doanh”. Thừa nhận có thị trường văn hóa phẩm và công nhận một bộ phận sản
phẩm văn hóa như là hàng hóa được lưu thông trên thị trường; tạo điều kiện cho
thị trường văn hóa phẩm lưu hành trong đời sống kinh tế - xã hội của đất nước
bằng chính sách kinh tế trong văn hóa và chính sách văn hóa trong kinh tế.
Chính sách kinh tế trong văn hóa đã coi hoạt động của một số cơ quan văn hóa,
một số thiết chế văn hóa như hoạt động của các doanh nhiệp sản xuất kinh
doanh, từ đó có chế độ ưu đãi về thuế (thuế đất, thuế vốn)… Có quy định cụ thể
chế độ cho các doanh nghiệp đặc thù của ngành văn hóa thông tin được hưởng
mức thuế ưu đãi trong hoạt động kinh doanh, khuyến khích xuất khẩu sách, báo,
văn hóa phẩm…
Chủ trương và chính sách của Đảng, Nhà nước bước đầu đã tạo điều kiện
mở rộng quyền tự chủ cho các đơn vị trong sản xuất, kinh doanh hàng hóa văn
hóa, cơ sở pháp lý cho các doanh nghiệp văn hoá, doanh nghiệp nghệ thuật biểu
diễn. Nhà nước đẩy mạnh phân cấp quản lý, khuyến khích, hỗ trợ để đổi mới kỹ
thuật và công nghệ, tạo điều kiện để các cơ sở tiếp cận thông tin, mở rộng quan hệ
đối ngoại, nâng cao tầm nhìn và năng lực sáng tạo, từng bước thích ứng với yêu cầu
của quá trình phát triển đất nước trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Việc chủ trương
chuyển các đơn vị sản xuất, kinh doanh dịch vụ văn hóa sang hoạt động theo cơ chế
thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động văn
hóa, nghệ thuật đã được thực hiện nhất quán và tạo ra được sự phát triển năng động,
sáng tạo nhất định của các đơn vị doanh nghiệp trên lĩnh vực này.
Ngoài ra, ở Tp. Hồ Chí Minh, trong bản “Quy hoạch tổng thể phát triển
kinh tế - xã hội Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025”
đã xác định:
…Phát triển văn hóa theo hướng văn minh, hiện đại phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc và các giá trị tinh thần mang nét đặc trưng của Việt
59
Nam và của nhân dân Thành phố, đảm bảo tính đa dạng về văn hóa.
Phát triển văn hóa đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần của nhân dân
Thành phố, tạo điều kiện giao lưu văn hóa giữa Tp. Hồ Chí Minh với cả
nước và thế giới. Tiếp thu có chọn lọc văn hóa của thời đại, để nâng cao
mức độ hưởng thụ của nhân dân. Thông qua việc tổ chức các loại hình
văn hóa, mở rộng việc tham gia của nhân dân vào các tổ chức hiệp hội
chuyên môn, đào tạo kỹ năng hưởng thụ văn hóa và tổ chức các hội thi
quần chúng, sáng tạo nghệ thuật.
Kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa. Phát
triển hệ thống cơ sở vật chất ngành văn hóa đáp ứng nhu cầu hưởng
thụ văn hóa của nhân dân Thành phố, phục vụ du lịch trong nước và
quốc tế... Phát triển các khu vui chơi giải trí, ngành công nghiệp giải
trí ngang tầm các nước trong khu vực; Đảm bảo 100% người dân
thường xuyên tiếp cận với dịch vụ văn hóa. Đầu tư một số công trình
văn hóa cho tương xứng với tầm vóc của một trung tâm văn hóa lớn
phía Nam [71].
Tiểu kết
Như vậy, khái niệm công nghiệp văn hóa xuất hiện đầu tiên ở Đức, sau đó
được nêu ra đầy đủ và hoàn thiện hơn trong luận điểm của các học giả phương
Tây. Những thập niên cuối thế kỷ XX, khi nền văn hóa đại chúng xuất hiện ở
nhiều nước trên thế giới thì công nghiệp văn hóa được nhìn nhận ngày càng đầy
đủ hơn trên cả phương diện lý luận và thực tiễn. Từ năm 1998, thuật ngữ công
nghiệp văn hóa đã được gần 200 quốc gia thông qua trong Hội nghị Thượng đỉnh
về văn hóa được tổ chức tại Stockholm (Thụy Điển). Mặc dầu vậy, cho đến nay
vẫn đang tồn tại nhiều tranh luận trong quan niệm về ngành công nghiệp văn hóa
cũng như cách phân loại các lĩnh vực thuộc ngành công nghiệp này. Ở Việt
Nam, khái niệm công nghiệp văn hóa mới được biết đến gần đây- trong quá trình
hình thành nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Đây là một khái niệm khá
mới đối với xã hội. Chính vì vậy, có nhiều người còn cho rằng Việt Nam vẫn
60
chưa có một ngành công nghiệp văn hóa đúng nghĩa. Việc nghiên cứu công
nghiệp văn hóa mới chỉ ở những bước đi ban đầu, chưa có tính hệ thống và đầy
đủ. Vài năm gần đây, các cuộc hội thảo quốc tế và trong nước liên tiếp bàn đến
khái niệm, vai trò cũng như định hướng phát triển cho ngành công nghiệp văn
hóa ở Việt Nam. Cũng có nhiều định nghĩa về công nghiệp văn hóa được đề cập,
có thể sử dụng khái niệm công nghiệp văn hóa, cách phân loại các ngành công
nghiệp văn hóa trong bản dự thảo Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp
văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 của Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch vừa trình lên Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Trong đó, bản dự
thảo đã xác định nghệ thuật biểu diễn là 1 trong 12 ngành có tầm quan trọng then
chốt ở Việt Nam hiện nay.
Về đặc điểm của nghệ thuật biểu diễn: Nghệ thuật biểu diễn là một loại
hình của công nghiệp văn hóa nên cũng không nằm ngoài quy trình của ngành
công nghiệp văn hóa. Nghĩa là cũng trải qua quá trình sản xuất, phân phối, tiêu
dùng và bảo quản sản phẩm. Tuy nhiên, nghệ thuật biểu diễn có những đặc điểm
riêng, mang tính đặc thù. Vai trò của ngành công nghiệp văn hóa cũng như nghệ
thuật biểu diễn ngày càng được khẳng định. Phát triển nghệ thuật biểu diễn theo
hướng công nghiệp sẽ đáp ứng nhu cầu giải trí ngày càng đa dạng của nhân dân,
qua đó giáo dục thẩm mỹ, góp phần hình thành nhân cách con người. Phát triển
công nghiệp văn hóa nói chung, nghệ thuật biểu diễn nói riêng chính là giải quyết
mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế trong phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN. Đồng thời, đây cũng là con đường để thúc đẩy sự tiến bộ và phồn
vinh của văn hóa dân tộc, để văn hóa Việt Nam tham gia vào thị trường quốc tế.
Trên cơ sở hệ thống hóa những vấn đề lý luận về công nghiệp văn hóa và
nghệ thuật biểu diễn, luận án sẽ tiếp tục đánh giá thực trạng công nghiệp văn hóa
trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí Minh trong chương 3.
61
Chƣơng 3
THỰC TRẠNG LĨNH VỰC NGHỆ THUẬT BIỂU DIỄN
Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY
Thành phố Hồ Chí Minh hiện có 08 đơn vị nghệ thuật công lập đó là: Nhà
hát Kịch Tp. Hồ Chí Minh, Nhà hát Cải lương Trần Hữu Trang, Nhà hát Nghệ
thuật hát Bội, Nhà hát Giao hưởng – Nhạc - Vũ kịch, Nhà hát Ca múa nhạc dân
tộc Bông Sen, Đoàn Nghệ thuật Múa rối Thành phố, Đoàn Xiếc Thành phố,
Trung tâm Ca Nhạc nhẹ. Các đơn vị nghệ thuật này được Ủy ban nhân dân Tp.
Hồ Chí Minh ủy nhiệm cho Sở VH, TT & DL Tp. Hồ Chí Minh (nay là Sở VH,
TT Tp. Hồ Chí Minh) quản lý trực tiếp. Ngoài ra, Thành phố còn có 01 Trung tâm
Tổ chức biểu diễn và Điện ảnh và trên 700 doanh nghiệp có đăng ký chức năng tổ
chức biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp, trong đó có khoảng 100 đơn vị hoạt
động thường xuyên.
Những đơn vị đã có quá trình hoạt động lâu dài như: Nhà hát Kịch Sân
khấu nhỏ 5B, Công ty TNHH Sân khấu - Nghệ thuật Thái Dương (Sân khấu
Idecaf), Công ty Cổ phần Đầu tư Giải trí Phước Sang (Sân khấu Kịch Sài Gòn),
Công ty TNHH Sân khấu - Điện ảnh Vân Tuấn (Sân khấu Kịch Hồng Vân và Sân
khấu Superbowl), Công ty TTHH Nụ Cười Mới… Trong khi những đơn vị này
đã định hình được phong cách và có công chúng riêng của mình thì một số các
đơn vị tư nhân khác ra đời sau cũng đang dò dẫm tìm kiếm những lối đi riêng
như Sân khấu Kịch Thế giới trẻ, Sân khấu Kịch Lê Hay, Sân khấu Kịch Hoàng
Thái Thanh… Các đơn vị tư nhân này với sự năng động, nhạy bén của mình, chú
trọng đến công tác tiếp thị, xây dựng chương trình, vở diễn với tiêu chí hướng đến
công chúng trên cơ sở nắm bắt thị hiếu và đáp ứng kịp thời nhu cầu của khán giả,
đang từng bước hoạt động ổn định và có chiều hướng phát triển.
Ở lĩnh vực âm nhạc, Tp. Hồ Chí Minh là một thành phố đầy tiềm năng với
lực lượng sáng tác và biểu diễn hết sức hùng hậu, đồng thời là một thị trường âm
nhạc lớn nhất cả nước. Có thể nói, hoạt động ca nhạc trên địa bàn Thành phố rất
62
phong phú, đa dạng. Hiện nay, toàn Thành phố có 03 đơn vị biểu diễn nghệ thuật
công lập hoạt động trên lĩnh vực ca múa nhạc: Nhà hát Ca múa nhạc Dân tộc
Bông Sen, Trung tâm Ca Nhạc nhẹ, Nhà hát Giao hưởng - Nhạc - Vũ Kịch và
khoảng 100 đơn vị thường xuyên tổ chức biểu diễn nghệ thuật tại các tụ điểm ca
nhạc, sân khấu, cơ sở lưu trú du khách, nhà hàng, phòng trà ca nhạc,… mang
tính chuyên nghiệp. Các tụ điểm sân khấu ca nhạc như: Sân khấu Lan Anh,
Phòng trà ca nhạc M và tôi, Đồng dao, Câu lạc bộ ATB, Sân khấu 126, Sân khấu
Trống Đồng… là những điểm hẹn của đông đảo khán giả yêu thích ca nhạc,
đồng thời cũng là nơi các ca sĩ trẻ khẳng định mình. Các live show ca nhạc được
tổ chức hoành tráng với sự tham gia tài trợ của các doanh nghiệp, các mạnh
thường quân cũng là một nét mới trong đời sống âm nhạc Thành phố.
Cùng với sân khấu kịch, âm nhạc, hoạt động múa ở Tp. Hồ Chí Minh thời
gian qua diễn ra sôi động, thường xuyên và rộng rãi. Có trên 200 đơn vị tổ chức
biểu diễn nghệ thuật thường xuyên thực hiện các chương trình biểu diễn ca múa
nhạc thời trang. Nhiều quán bar, phòng trà lớn tổ chức biểu diễn nghệ thuật hàng
đêm. Có 5 đến 6 khách sạn liên doanh (xếp hạng 4-5 sao) tổ chức cho các ban
nhạc với khoảng hơn 30 nghệ sĩ người nước ngoài, thường xuyên hoạt động tại
Thành phố. Có 50 vũ đoàn hoạt động trên địa bàn rộng khắp Thành phố, với
hàng trăm điểm diễn... [36, tr.279].
Như vậy, hoạt động nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ chí Minh hiện nay phát
triển vô cùng sôi động. Tuy nhiên, luận án chỉ khảo sát thực trạng lĩnh vực Âm
nhạc, Sân khấu Kịch nói và Múa ở một số đơn vị nghệ thuật công lập và ngoài
công lập, đó là: Nhà hát Giao hưởng - Nhạc - Vũ kịch Tp. Hồ Chí Minh, Nhà hát
Kịch Tp. Hồ Chí Minh, Nhà hát Kịch Sân khấu nhỏ 5B, Nhà hát Ca múa nhạc dân
tộc Bông Sen, Sân khấu Idecaf, Sân khấu Kịch Hồng Vân và Sân khấu Superbowl,
Sân khấu ca nhạc 126, Sân khấu ca nhạc Trống Đồng. Vì đây là những đơn vị nghệ
thuật đang hoạt động khá sôi nổi tại Tp. Hồ Chí Minh. Nội dung khảo sát, đánh giá
bao gồm những khía cạnh sau: hoạt động sáng tạo/sản xuất; hoạt động tổ chức biểu
diễn và doanh thu; hoạt động phân khúc thị trường và vấn đề bản quyền.
63
3.1. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG SÁNG TẠO/SẢN XUẤT NGHỆ THUẬT
BIỂU DIỄN Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
3.1.1. Về đội ngũ sáng tạo/sản xuất
* Đối với lĩnh vực Âm nhạc
Về hệ thống cơ sở đào tạo nguồn nhân lực âm nhạc. Hiện nay, nếu theo
hệ thống đào tạo chính quy, Tp. Hồ Chí Minh có 03 cơ sở đào tạo chính là: Nhạc
viện, khoa Âm nhạc của trường Đại học Sài Gòn và chuyên ngành Quản lý âm
nhạc thuộc khoa Quản lý văn hóa của trường Đại học Văn hóa. Bên cạnh hệ
thống đào tạo chính quy, Thành phố còn có khoảng 50 công ty, trung tâm chuyên
mở các lớp đào tạo ca sỹ theo chương trình ngắn hạn từ 06 tháng đến 01 năm.
Mặc dù chất lượng đào tạo từ các trung tâm này chưa đáp ứng nhu cầu
ngày càng cao của khán giả. Nhưng trước sự phát triển không ngừng của thị
trường âm nhạc Thành phố, nguồn nhân lực từ các trung tâm này là cần thiết.
Ngoài ra, để có thể trụ vững lâu dài trên thị trường âm nhạc vốn có sự cạnh tranh
rất gay gắt này, cá nhân những ca sỹ như Lam Trường, Mỹ Tâm, Đoan Trang,
Thu Minh, Đức Tuấn... đã thực hiện những chuyến du học ngắn hạn tại những
nước có thị trường âm nhạc phát triển như Hàn Quốc, Mỹ, Hồng Kông… Chất
lượng đào tạo cũng là nguyên nhân để một số ca sĩ Việt Nam được biết đến trong
khu vực với những giải thưởng danh giá như ca sĩ Thu Minh, ca sĩ Mỹ Tâm với
giải thưởng âm nhạc MV Châu Á.
Về nguồn nhân lực của thị trường sáng tạo nghệ thuật, có thể thấy Tp. Hồ
Chí Minh là nơi tập trung lượng ca sỹ, nhạc sỹ, nhóm – ban nhạc đông đảo nhất
so với cả nước. Theo thống kê chưa đầy đủ, Thành phố hiện có khoảng 1.000 ca
sỹ, 30 nhạc sỹ, 25 nhóm nhạc, 15 công ty chuyên tổ chức các sự kiện âm nhạc
[62]. Bên cạnh đó, thị trường này còn thu hút nhiều ca sỹ, nhóm – ban nhạc
trong nước, ca sỹ hải ngoại và đặc biệt là các ca sỹ, nhóm nhạc nổi tiếng trên thế
giới, như: nhóm JYJ, Biuret của Hàn Quốc, nhóm Ari Roland, Backstreet Boys
của Mỹ, nhóm 183 Club của Đài Loan, nhóm Blues của Pháp...
64
Chính điều này đã góp phần tạo thành một thị trường âm nhạc có sự cạnh
tranh sôi động với quy luật đào thải gay gắt trong quá trình phát triển ngành công
nghiệp văn hoá của Thành phố. Những ca sỹ, nhóm nhạc, công ty nào thiếu thực
tài và không xây dựng một chiến lược phát triển bền vững thì khó có thể trụ
vững trên thị trường. Điều này được chứng minh bởi hàng năm, thị trường được
bổ sung hàng chục ca sỹ, nhạc sỹ, nhóm – ban nhạc mới từ các trung tâm đào
tạo, các cuộc thi âm nhạc trên cả nước, nhưng hàng năm, cũng có một số lượng
không nhỏ bị đào thải.
Sự phát triển mạnh lực lượng nhạc sỹ trẻ ở lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn
cũng là một biểu hiện của công nghiệp văn hóa của Thành phố. Các nhạc sĩ trẻ
khá năng động, sản phẩm âm nhạc của họ phần nào đã đáp ứng được nhu cầu
của thị trường. Điển hình cho lứa nhạc sỹ trẻ này là những tên tuổi đã có vị trí
nhất định trên thị trường âm nhạc hiện nay như Vũ Quốc Việt, Nguyễn Hải
Phong, Nguyễn Hồng Thuận, Nguyễn Văn Chung, Quốc An, Hoài An, Nguyễn
Đức Cường... Các ca khúc của các nhạc sĩ trẻ, có tài kéo theo các giọng hát trẻ
giàu nét sáng tạo, cá tính. Các ca sĩ này với những ca khúc mới đã tạo được một
sự vượt lên về nghệ thuật biểu diễn, bước đầu đã thoát khỏi sự chi phối của đồng
tiền và đã tạo nên được một đồ hình sáng sủa hơn.
Một số nhạc sĩ trẻ của miền Bắc có nhạc phẩm đang dần chiếm lĩnh thị
phần âm nhạc này, như Quốc Trung, Lê Minh Sơn, Anh Quân, Đỗ Bảo, Giáng
Son, Huy Tuấn, Nguyễn Vĩnh Tiến, Tường Văn, Hồ Hoài Anh, Duy Hùng, Lưu
Thiên Hương, Mạnh Quân... Điều này làm cho thị trường âm nhạc ở Tp. Hồ Chí
Minh thêm màu sắc.
*Đối với lĩnh vực sân khấu Kịch nói
Hiện tại, Tp. Hồ Chí Minh có 03 cơ sở đào tạo chính quy nguồn nhân lực
cho nghệ thuật sân khấu là trường Đại học Sân khấu - Điện ảnh, Đại học Văn
hóa và trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật. Ngoài ra, nguồn nhân lực sân khấu
còn được cung cấp bởi chính các sân khấu theo hình thức truyền nghề trực tiếp.
Xét về chất lượng của cả hai hình thức đào tạo trên vẫn còn nhiều hạn chế. Tuy
65
nhiên, những sinh viên tốt nghiệp từ những trường này đã góp phần bổ sung lực
lượng diễn viên, đạo diễn, nhà biên kịch, nhà quản lý….
Trong cuộc thi Tài năng trẻ đạo diễn sân khấu toàn quốc 2007, sân khấu
Tp. Hồ Chí Minh đã cho thấy dấu hiệu kế thừa hết sức xứng đáng của một thế hệ
đạo diễn trẻ. Họ đã bắt nhịp được bước tiến của xã hội, nhu cầu giải trí phóng
khoáng nhưng đầy trách nhiệm của công chúng và khát vọng muốn làm nghề của
một đội ngũ diễn viên giàu tâm huyết. Chính vì thế, họ lao tới, thể nghiệm và
chịu khó học hỏi những thế hệ diễn viên, đạo diễn thành danh đi trước để tạo vị
trí cho mình. Những vở diễn: 270gram, Nhân danh công lý, Người cáo, Người
vợ ma, Về đâu... đã tạo được ấn tượng rất tốt trong lòng khán giả. Những đạo
diễn trẻ như Lý Khắc Luyn, Đức Thịnh, Thái Hòa, Lê Nguyên Đạt, Hoàng Duẩn,
Chánh Trực... thật sự là niềm kỳ vọng lớn cho thị trường sân khấu kịch tương lai
của Thành phố.
Là một doanh nghiệp khá thành công trong lĩnh vực kịch nói, Sân khấu
kịch Hồng Vân đặc biệt quan tâm đến việc đầu tư để có được một đội ngũ diễn
viên chất lượng cao. Hiện nay, doanh nghiệp này có khoảng 60 diễn viên, trong
đó 20 diễn viên cơ hữu, 40 diễn viên hợp đồng thời vụ; 68% diễn viên thuộc
hạng A; 70% tốt nghiệp các chuyên ngành liên quan đến nghệ thuật sân khấu từ
các trường Cao đẳng, Đại học trên phạm vi cả nước; 20% ra đời từ các khóa đào
tạo của chính sân khấu kịch Hồng Vân và 10% là các diễn viên vốn xuất thân từ
lĩnh vực âm nhạc, thời trang, điện ảnh.
Ngoài ra, sân khấu kịch Hồng Vân còn có một đội ngũ đạo diễn, tác giả
khá hùng hậu với khoảng 20 người; trong đó lực lượng cơ hữu chiếm 55%;
100% được đào tạo chính quy từ những cơ sở đào tạo uy tín trong và ngoài nước.
Những đạo diễn, tác giả nổi tiếng như đạo diễn Hồng Vân, Minh Nhí, Lê Quốc
Nam, Diệp Tiên, Mạnh Phúc, Trần Kim Khôi; tác giả Thái Sơn, Phạm Tân, Tuấn
Anh, Cao Bằng, Ngô Lê, Chu Thơm… Bên cạnh đó, doanh nghiệp này còn sở
hữu 30 nhân viên kỹ thuật âm thanh, ánh sáng, văn phòng, hậu đài… trong đó,
60% có vị trị làm việc đúng chuyên ngành được đào tạo [Nguồn: Công ty Cổ
phần Sân khấu & Điện ảnh Vân Tuấn].
66
* Đối với lĩnh vực nghệ thuật Múa
Theo nhận định của các nhà quản lý, nhà nghiên cứu và một số nghệ sỹ,
Tp. Hồ Chí Minh là địa phương đứng đầu cả nước về sự phát triển của thị trường
nghệ thuật múa cả về số lượng và chất lượng.
Hiện Thành phố có khoảng 50 đoàn múa với hàng trăm diễn viên; trong
đó có khoảng 46 vũ đoàn tư nhân và 04 đoàn thuộc quốc doanh là: Nhà hát Giao
hưởng và Vũ kịch Thành phố, Nhà hát Bông Sen, Đoàn Nghệ thuật Quân khu 7
và Trường Múa Thành phố. Điều đó cho thấy việc xã hội hóa nghệ thuật múa đã
phát huy hiệu quả tích cực, góp phần làm cho thị trường múa tại Thành phố phát
triển sôi nổi hơn. Tuy nhiên, tính cạnh tranh chỉ diễn ra mạnh mẽ đối với dòng
múa không chính thống mà hoạt động của các vũ đoàn đang là hiện tượng chiếm
lĩnh thị trường múa.
Về đào tạo nguồn nhân lực cho ngành Múa: Trường Trung cấp múa Tp.
Hồ Chí Minh là một trong hai cơ sở đứng đầu về đào tạo nguồn nhân lực cho
ngành múa trong cả nước. Hiện tại, trường có khoảng 400 học sinh đang theo
học. Hàng năm, trường cung cấp cho thị trường Thành phố khoảng 70 sinh viên
tốt nghiệp. Về cơ bản, chất lượng của các diễn viên này đảm bảo đáp ứng nhu
cầu của xã hội, và thực tế họ hoạt động khá sôi nổi trên thị trường múa hiện nay.
Bên cạnh đó, Thành phố cũng gửi một số diễn viên có tài đi đào tạo tại các trung
tâm nổi tiếng của thế giới như: Trường múa Hàn lâm Vaganova - Leningrad
(Nga), Đại học Ballet cổ điển (Nga), trường múa Bắc Kinh - Trung Quốc…
Thực tế cho thấy so với một số lĩnh vực ngành công nghiệp văn hoá của
Thành phố, thì ngành Múa còn khá khiêm tốn. Dù vậy, số lượng sinh viên tốt
nghiệp đã bổ sung một lượng lớn diễn viên múa cho các vũ đoàn. Đã có những
tài năng cá nhân ngang tầm khu vực, nhiều nghệ sĩ, tài năng trẻ đoạt giải cao tại
các cuộc thi khu vực và quốc tế, như Cao Chí Thành, Đặng Linh Nga, Tạ Thùy
Chi... Một số đơn vị nghệ thuật của ngành múa cũng đang tiếp cận trình độ
chuyên nghiệp ngang hàng với nhiều nước trong khu vực. Đây chính là những cơ
sở quan trọng để phát triển ngành công nghiệp lĩnh vực này trong tương lai.
67
Hiện nay, Thành phố còn có 02 đoàn múa rối lớn là: Đoàn nghệ thuật múa
rối Tp. Hồ Chí Minh - trực thuộc Sở VH, TT Thành phố và Nhà hát Múa rối
nước Rồng Vàng của ông Huỳnh Anh Tuấn– Giám đốc sân khấu Idecaf, đồng
thời là Giám đốc Nhà hát Múa rối này. Ngoài ra còn có một số đội rối cạn của
Nhà thiếu nhi Thành phố và một số Trung tâm văn hóa thuộc các quận nội thành
với tổng số lượng diễn viên (cả rối nước và rối cạn) khoảng 100 người.
3.1.2. Về cách thức kết hợp sáng tạo/ sản xuất
* Đối với lĩnh vực Âm nhạc
Một hình thức mới chuyên nghiệp và hiệu quả hơn nhằm hướng tới sự
hoàn thiện trong sáng tạo âm nhạc xuất hiện đó chính là sự kết hợp của ca sĩ –
nhạc sĩ, tạo nên những cặp đôi ưng ý. Trước đây, sự kết hợp này đã mang lại
những thành công nhất định. Nhưng do công nghệ lăng xê ca sĩ xuất hiện và hoạt
động sôi nổi nên sự kết hợp này đã lắng xuống. Hiện nay, công nghệ lăng xê tỏ
ra yếu kém và không hiệu quả thì sự kết hợp này đang tạo ra một sắc thái mới,
chứng tỏ được sự chuyên nghiệp của làng showbiz Việt đang làm mưa làm gió
tại thị trường âm nhạc Tp. Hồ Chí Minh. Tiêu biểu cho sự kết hợp này đó là
nhạc sĩ Lê Minh Sơn với ca sĩ Thanh Lam, nhạc sĩ Anh Quân với ca sĩ Mỹ Linh,
nhạc sĩ Quốc Trung với ca sĩ Hồng Nhung, nhạc sĩ Nguyễn Thiện Thanh với ca
sĩ Đoan Trang…
Sự chuyển biến rõ nhận thấy nhất hiện nay trên thị trường âm nhạc Thành
phố là chuyện làm “liveshow” của các ca sĩ. Từ sau phát biểu của nam ca sĩ Đàm
Vĩnh Hưng rằng sẽ chuyển hướng phát triển, tiếp cận khán giả bằng các buổi
biểu diễn nhỏ ở các phòng trà hoặc tụ điểm ca nhạc, đến tuyên bố công khai trên
các báo chí của “ông bầu” Hoàng Tuấn và ca sĩ Đan Trường là sẽ tạm thời không
làm chương trình lớn thì trong giới “showbiz” Thành phố đã phát triển xu hướng
chuyển từ những dự án làm chương trình lớn sang các chương trình biểu diễn
vừa và nhỏ ở các tụ điểm ca nhạc, phòng trà, nhà hàng, khách sạn cao cấp…
Cách làm này tuy cũ nhưng thực tế hơn, dễ tiếp cận khán giả. Xu hướng này
chứng tỏ các ca sỹ, nhà tổ chức đã rất nhạy cảm với sự biến động của thị trường
âm nhạc trong thời buổi kinh tế đang ngày càng khó khăn.
68
Xu hướng tiếp theo của thị trường âm nhạc Thành phố là nhiều ca sỹ nổi
tiếng hiện nay đã quay ngược ra Bắc mua bài hát của một số nhạc sỹ Hà Nội. Xu
hướng này chứng tỏ các ca sỹ muốn tìm một nguồn cảm xúc mới cho việc thể
hiện ca khúc. Hơn nữa, đó cũng là cách để họ thể hiện thái độ rõ ràng với việc
không thể chấp nhận tình trạng kiểu nhạc ngoại, lời nội, bằng cách sao chép nhạt
nhòa đã thao túng thị trường âm nhạc Thành phố bấy lâu nay.
Thêm một minh chứng cho sự phát triển của công nghiệp văn hóa trong
lĩnh vực biểu diễn âm nhạc là các ca sỹ, nhạc sỹ, nhóm-ban nhạc đã nhận thức
được rằng dù thị trường nhạc “mì ăn liền” phục vụ giới trẻ vẫn còn nhiều tiềm
năng để khai thác. Thế nhưng, nếu cứ tiếp tục sản xuất, biểu diễn những tác
phẩm thiếu giá trị nghệ thuật để thỏa mãn nhu cầu đơn thuần giải trí này thì vô
tình họ đã đánh mất vai trò quan trọng của âm nhạc là khơi gợi trong con người
những tình cảm thẫm mỹ tốt đẹp. Vì vậy, từ cuối năm 2010 đến nay, số lượng
các ca khúc dạng này đã giảm hẳn trên thị trường. Các ca sỹ đã ý thức hơn trong
việc chọn bài hát để thể hiện và phát hành album ngày càng có chất lượng. Đây
là một tín hiệu vui về một sự đổi mới toàn diện của thị trường âm nhạc Thành
phố trong việc đáp ứng nhu cầu của công chúng.
*Đối với lĩnh vực sân khấu Kịch nói
Cũng như thị trường của một số lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn khác, chất
lượng sản phẩm gắn với thương hiệu và diễn viên ngôi sao... là yếu tố hàng đầu
trước sự cạnh tranh ngày càng gay gắt của thị trường nghệ thuật hiện nay. Các
diễn viên muốn trụ lại trên sàn diễn phải không ngừng học tập, làm mới mình để
khẳng định tài năng với khán giả. Như vậy, sức cạnh tranh trên thị trường kịch
nói đang diễn ra rất sôi động. Sự cạnh tranh này, xét ở góc độ nào đó thì hơi
khắc nghiệt bởi nó dễ tạo một bầu không khí căng thẳng trên thị trường sân
khấu, tuy nhiên đây là điều cần thiết khi chúng ta đang từng bước phát triển toàn
diện nền công nghiệp văn hóa nước nhà. Đối với lĩnh vực sân khấu Kịch nói, đó
là sự cạnh tranh trong sáng tạo thể loại, sự chuyển thể tác phẩm nghệ thuật, sự
kết hợp giữa một số loại hình nghệ thuật...
69
Sáng tạo trong thể loại với xu hướng phát triển hài kịch
Bên cạnh các sân khấu chuyên về kịch hài, hiện nay, do nhu cầu giải trí
của khán giả ngày càng cao nên hầu hết các sân khấu kịch tại Thành phố đều đầu
tư dựng hài kịch. Nhận định về vấn đề này, ông Huỳnh Anh Tuấn – Giám đốc
sân khấu Idecaf cho biết:
Thành phố Hồ Chí Minh là một thành phố công nghiệp rất năng động,
luôn hối hả và có phần căng thẳng. Vì vậy, nhu cầu “được cười” của
công chúng rất cao. Sau những ngày làm việc căng thẳng, họ không
muốn gì hơn là những tiếng cười sảng khoái để chuẩn bị cho một ngày
làm việc mới. Vì lẽ đó, hiện nay, nhiều sân khấu đầu tư phát triển hài
kịch để thu hút khán giả.
Khi được hỏi “Liệu còn lý do nào khác khiến hài kịch đang phát triển rất
mạnh không? Ông Tuấn cho biết thêm “Vì dựng một vở hài kịch đơn giản hơn
rất nhiều so với chính kịch, nhất là khâu kịch bản, đầu tư cho hài kịch đỡ tốn
kém hơn nhưng đời sống của vở lâu hơn, lợi nhuận thu được lớn hơn. Vì vậy,
các đơn vị đang chạy đua dựng hài kịch để thu lợi nhuận” [Phụ lục 3].
Chính vì kinh doanh hài kịch lợi nhuận cao nên sân khấu hài đã thu hút một
lực lượng lớn các tác giả, đạo diễn và diễn viên. Hiện nay, ước tính có đến 2/3
diễn viên kịch chạy theo diễn hài. Thành phố hiện có khoảng 50 nhóm hài hoạt
động thường xuyên với tổng số diễn viên khoảng 170 người. Trung bình mỗi năm,
thị trường Thành phố được bổ sung khoảng 100 tiểu phẩm hài. Một thị trường đa
dạng sản phẩm kịch hài đã tạo điều kiện cho những người yêu kịch có thêm sự lựa
chọn để đáp ứng nhu cầu giải trí của mình.
Xu hướng chuyển thể tác phẩm văn học sang kịch bản sân khấu
Xu hướng này ra đời trong bối cảnh số lượng kịch bản sân khấu có chất
lượng chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Hơn nữa, việc chuyển thể
những tác phẩm từng nổi tiếng một thời còn để tận dụng lượng đọc giả đã từng
đam mê những tác phẩm văn học này.
Đi đầu trong việc chuyển thể này là sân khấu Hồng Vân. Một loạt vở kịch
được sân khấu này xây dựng từ các tác phẩm thuộc dòng văn học hiện thực phê
70
phán của thế kỷ XX như “Số đỏ” - tiểu thuyết cùng tên của Vũ Trọng Phụng,
“Chị Dậu” - chuyển thể từ truyện“Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, “Làm đĩ”- chuyển
thể từ tiểu thuyết “Bỉ vỏ”của Nguyên Hồng.
Kế đến là sân khấu Idecaf với vở “Hãy khóc đi em”- chuyển thể từ truyện
ngắn “Trăng nơi đáy giếng” của Trần Thuỳ Mai; sân khấu nhỏ 5B với vở“Người
đàn ông của trời” - chuyển thể từ truyện ngắn “Làn môi đồng trinh” của Võ Thị
Hảo; Nhà hát Kịch Thành phố phối hợp Nhạc viện Thành phố dựng vở“Cánh
đồng bất tận”và“Hiu hiu gió bấc” từ hai truyện ngắn cùng tên của Nguyễn
Ngọc Tư. Ngoài ra, tác giả Hoàng Linh Hương cũng chuyển thể một số tiểu
thuyết của cố nhà văn, nhà viết kịch Ngọc Linh thành kịch bản sân khấu.
Dù hiệu quả của các vở kịch chuyển thể này vẫn còn một khoảng cách so
với tác phẩm văn học, nhưng phần nào đã thu hút được khán giả vì họ có thể
được nhìn thấy những nhân vật bằng xương, bằng thịt mà họ đã đọc qua các
trang sách. Hơn nữa, đây cũng là cách để tạm thời về kịch bản cho sân khấu kịch
nói Thành phố.
Xu hướng kết hợp yếu tố điện ảnh với kịch nói
Xu hướng này mới được sân khấu Kịch Sài Gòn và Nhà hát kịch Thành
phố áp dụng đầu tiên. Trong vở “Người thi hành án tử” – của Nhà hát Kịch Tp.
Hồ Chí Minh, đến cảnh nhân vật nói chuyện với những linh hồn trong nghĩa
trang, ngoài giọng nói phát ra từ nghĩa trang – do một người từ sau cánh gà nói,
trên màn hình máy chiếu của sân khấu còn xuất hiện những cái tên chớp sáng từ
một bản danh sách các liệt sĩ. Không cụ thể hóa ra hình người, nhưng khán giả
ngồi xem ai cũng hiểu mỗi cái tên là một linh hồn tham gia cuộc nói chuyện, lại
còn được "cường độ giác cảm" của những linh hồn trong từng nhịp chớp sáng.
Đây là một vở kịch thành công tiêu biểu trong việc đưa các yếu tố điện ảnh vào
kịch trên thị trường kịch nói hiện nay. Đạo diễn Đức Thịnh cho biết “Khi nói
đến việc lấy yếu tố điện ảnh để đưa vào kịch là muốn nói đến việc sử dụng các
thủ pháp nghệ thuật của điện ảnh chứ không có nghĩa là sử dụng sản phẩm của
điện ảnh”. Dù việc sử dụng các yếu tố điện ảnh vào kịch nói chỉ mới dừng lại ở
71
những thử nghiệm bước đầu và còn nhiều hạn chế, tuy nhiên đây là một bước
phát triển mới của nền công nghiệp biểu diễn của nghệ thuật kịch nói Thành phố.
Sự kết hợp này đã mang đến cho khán giả những cảm xúc mới mẻ và thú vị.
Trong tương lai, nếu có một định hướng tốt thì xu hướng này sẽ tạo nên những
điều mới mẻ trong kịch mục.
Sự hình thành những tổ chế tác kịch bản là biểu hiện rõ nét nhất sự phát
triển ngày càng toàn diện, chuyên nghiệp hơn nền công nghiệp biểu diễn của sân
khấu kịch Thành phố. Sự ra đời của bộ phận này góp phần làm giảm tình trạng
khan hiếm nguồn kịch bản sân khấu như hiện nay. Nó cũng hạn chế sự mâu
thuẫn giữa tác giả kịch bản và đạo diễn, bởi nguyên tắc hoạt động của tổ chế tác
là phải có sự thống nhất trước khi kịch bản được đưa lên sàn tập. Tác giả Nguyễn
Thị Minh Ngọc nói: “Việc hình thành tổ chế tác kịch bản là một bước phát triển
đáng mừng của sân khấu kịch. Các nước có công nghệ điện ảnh, sân khấu tiên tiến
đều đã làm theo cách này”. Nghệ sĩ Phước Sang cho biết thêm “Tổ chế tác phải
tuân theo nguyên tắc: không đem ý tưởng của tổ kể cho bất cứ một tác giả nào nghe
vì chỉ cần nghe ý tưởng là tác giả có thể tự viết thành kịch bản”.
Công việc của tổ chế tác kịch bản là đi tìm ý tưởng, dựng kịch bản, đặc
biệt là lên chiến lược dàn dựng, tiếp thị để thu hút khán giả, dự đoán sức hút trên
thị trường. Một yếu tố quan trọng nữa là tổ chế tác biết “ đo ni đóng giày” cho
từng nghệ sĩ. Vì tác giả thường trực nên họ biết được ưu điểm của từng người.
Đây là mô hình hoạt động mới mà tiên phong là công ty chuyên cung cấp ý
tưởng kịch bản Cánh đồng gió do nghệ sĩ Đức Thịnh và Thanh Thúy thành lập.
Tiếp đó, một số công ty cung cấp ý tưởng khác cũng được khai trương như Lúa
mới, Mặt trời bé con, Huyền thoại…Việc thành lập công ty cung cấp ý tưởng cho
sân khấu kịch là một bước tiến đáng kể. Về mặt kinh tế, để đảm bảo các thành
viên của tổ chế tác yên tâm sáng tạo, ngoài mức lương cứng, tổ chế tác còn nhận
tiền tác quyền 6.0% trên tổng doanh thu mỗi suất hoặc lãnh từ 10 đến 15 triệu
đồng trọn gói. Thực tế sôi động trên thị trường sân khấu kịch nói trong những
năm gần đây đã chứng tỏ tính hiệu quả của các tổ chế tác.
72
*Đối với lĩnh vực Múa
Mối quan hệ giữa diễn viên múa - vũ đoàn - ca sỹ và các công ty tổ chức
sự kiện là một mắt xích vô cùng chặt chẽ. Các vũ đoàn muốn tồn tại và phát
triển, ngoài việc luôn có những sản phẩm đáp ứng được yêu cầu còn phải thiết
lập mối quan hệ thật tốt với các ca sỹ, công ty tổ chức sự kiện. Ngược lại, các ca
sỹ, công ty tổ chức sự kiện muốn có một chương trình hoành tráng, toàn diện thì
cũng không thể thiếu sự có mặt của các vũ đoàn. Những điệu nhảy trẻ trung, sôi
động của họ sẽ làm sân khấu thêm nhiều màu sắc. Chính vì vậy, việc ca sỹ hát
kèm theo nhóm múa minh họa đang là một mốt trong đời sống “showbiz” Thành
phố hiện nay. Thậm chí có một vài ca sỹ có tên tuổi còn thuê hẳn cả vũ đoàn
riêng cho mình như Đan Trường, Mỹ Tâm, Hồ Ngọc Hà...
3.1.3. Đầu tƣ cơ sở vật chất, khoa học, công nghệ trong sáng tạo/sản xuất
Cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động biểu diễn nghệ thuật
*Đối với lĩnh vực sân khấu Kịch nói: Hiện nay, có trên 12 sân khấu kịch
đang hoạt động tại địa bàn Tp. Hồ Chí Minh. Đang chiếm lĩnh thị trường kịch
nói Thành phố là: sân khấu Idecaf của Công ty TNHH Sân khấu Nghệ thuật Thái
Dương, sân khấu Hồng Vân của Công ty cổ phần Sân khấu Điện ảnh VTTM, sân
khấu Kịch Sài Gòn của công ty Văn hóa Giải trí Phước Sang, sân khấu Nụ Cười
Mới của Công ty TNHH Nụ Cười Mới, Nhà hát Kịch sân khấu nhỏ 5B của Hội
Nghệ sỹ Thành phố, Sân khấu Thế Giới Trẻ của Công ty Sài Gòn Phẳng, Nhà
hát kịch Thành phố Hồ Chí Minh trực thuộc Nhà nước… Ngoài ra, thị trường
kịch Thành phố còn có sự góp sức của hàng chục nhóm kịch, diễn viên tự do.
Trong số các cơ sở kể trên thì sân khấu kịch Hồng Vân là đơn vị kinh
doanh sở hữu nhiều điểm biểu diễn nhất Thành phố hiện nay. Cụ thể:
+ Cơ sở 1: Sân khấu Phú Nhuận tại số 70 – 72, đường Nguyễn Văn Trỗi,
Quận Phú Nhuận với sức chứa khoảng 400 khán giả;
+ Cơ sở 02: Sân khấu Superbowl tại lầu 1, TTTM Superbowl, số 43A,
đường Trường Sơn, Quận Tân Bình với sức chứa khoảng 300 khán giả;
73
+ Cơ sở 3: Sân khấu VM tại lầu 1, TTTM Superbowl, số 43A, đường
Trường Sơn, Quận Tân Bình với sức chứa khoảng 70 khán giả.
Tất cả các cơ sở trên đều được đầu tư hệ thống ghế ngồi, âm thanh, ánh
sáng, sân khấu cùng các trang thiết bị chuyên dụng chất lượng đủ để
đám bảo phục vụ tốt nhất cho các đêm diễn. Riêng tại cơ sở 2 còn được
đầu tư không gian chờ, không gian ẩm thực nhẹ và không gian triển
lãm, trưng bày hình ảnh của các nghệ sỹ sân khấu kịch qua nhiều thời
kỳ, cùng với đó là những bức ảnh liên quan đến các hoạt động của nghệ
thuật sân khấu Thành phố nói chung và sân khấu kịch Hồng Vân nói
riêng. Đặc biệt, hệ thống ghế ngồi tại cơ sở này rất hiện đại và tiện
dụng. Có thể nói, sân khấu Superbowl là điểm diễn kịch nói duy nhất tại
Tp. Hồ Chí Minh hiện nay xây dựng được một không gian nghệ thuật
hoàn thiện, thẩm mỹ và phù hợp với xu thế xây dựng sân khấu, nhà hát
của các nước tiên tiến trên thế giới. Chính nhờ sở hữu một hệ thống cơ
sở vật chất khá hoàn thiện đã góp phần nâng tầm thương hiệu kịch Hồng
Vân so với các đối thủ trên phạm vi Tp. Hồ Chí Minh [59, tr.42].
* Đối với lĩnh vực Âm nhạc: Tp. Hồ Chí Minh hiện có khoảng 20 địa
điểm có thể phục vụ biểu diễn nghệ thuật. Nhà hát Hòa Bình - Nhà hát hiện đại
nhất Việt Nam với sức chứa 2.400 chỗ. Nhà hát Bến Thành, sức chứa khoảng
1.046 chỗ. Nhà hát Thành phố là địa điểm lý tưởng cho các chương trình nghệ
thuật hàn lâm. Có lẽ, trên địa bàn Thành phố hiện nay, sân khấu Lan Anh được
xem là địa điểm biểu diễn lý tưởng nhất với sức chứa khoảng 2.500 chỗ cùng hệ
thống âm thanh, ánh sáng tương đối tốt. Nhà hát Giao hưởng và Vũ kịch Tp. Hồ
Chí Minh, Sân khấu ca nhạc Trống Đồng, Sân khấu ca nhạc Cầu Vòng 126, Nhà
hát Đại Đồng, CLB Phan Đình Phùng, Nhà thi đấu Nguyễn Du và sân vận động
Quân khu 7 cũng là địa điểm biểu diễn thường xuyên của hầu hết các nghệ sỹ
trong lĩnh vực âm nhạc.
Riêng lĩnh vực nghệ thuật Múa cho đến nay vẫn chưa có một sân khấu hay
địa điểm nào dành riêng cho lĩnh vực này. Các chương trình biểu diễn nghệ thuật
Múa đều phải thuê địa điểm hoặc biểu diễn cùng với các chương trình ca nhạc.
74
Nguồn nhân lực sử dụng các công nghệ, kỹ thuật hiện đại
Trong tất cả các hoạt động về sân khấu (ca nhạc, kịch...) âm thanh, ánh
sáng là những lĩnh vực không thể thiếu được, nó hòa nhập vào chương trình như
xương sống và kịch bản là linh hồn của buổi biểu diễn. Đổi mới khoa học, kỹ
thuật và công nghệ là một trong hai hướng cơ bản để phát triển công nghiệp văn
hóa bên cạnh sự mở rộng, chiếm lĩnh thị trường.
Để đổi mới khoa học công nghệ, trước hết, phải là việc đầu tư đào tạo đội
ngũ kỹ thuật viên kỹ thuật âm thanh, ánh sáng, hậu đài, hóa trang, phục trang...
Hiện nay có một số cơ sở đào tạo đội ngũ này, đó là Khoa Kỹ thuật âm thanh,
ánh sáng của trường Đại học Hoa Sen, Đại học Mỹ thuật, Đại học Hồng Bàng và
Đại học Sân khấu – Điện ảnh Tp. Hồ Chí Minh. Ngoài ra, còn có một số công ty
tư nhân mở đào tạo các lớp chuyên về sử dụng công nghệ, kỹ thuật cao trong sân
khấu kịch. Tiêu biểu là Công ty Cổ phần đào tạo nghề và kỹ thuật thiết bị âm
thanh ánh sáng Đông Dương Tp. Hồ Chí Minh. Các cơ sở đào tạo này đã giúp
sinh viên hiểu rõ lý thuyết về âm thanh, ánh sáng, giải mã công nghệ, thiết bị âm
thanh, ánh sáng hiện đại trên thế giới để khai thác các tính năng của thiết bị.
Những sinh viên này sau khi ra trường đã trở thành những kỹ thuật viên chuyên
nghiệp sử dụng các công nghệ kỹ thuật hiện đại phục vụ cho các sân khấu.
Hiện tại, trừ một số đơn vị nghệ thuật Trung ương, mặc dầu Nhà nước có
chính sách đầu tư, nhưng các đơn vị nghệ thuật công lập vẫn thường xuyên phải
đối phó với tình trạng thiết bị âm thanh thiếu thốn, lạc hậu. Trong khi đó, các
đơn vị ngoài công lập đã tự đầu tư trang thiết bị và sử dụng các trang thiết bị kỹ
thuật cho biểu diễn nghệ thuật tương đối hiện đại. Ngoài ra, ở Tp. Hồ Chí Minh
hiện nay có những công ty chuyên cho thuê công nghệ tổ chức sân khấu. Những
thiết bị nâng cấp mau chóng đáp ứng nhu cầu thưởng thức của công chúng.
Hiện nay, để một ca sĩ biểu diễn trên sân khấu đạt được hiệu quả cao thì
phải nhờ đến sự can thiệp kỹ thuật công nghệ hiện đại. Đó là: Các thiết bị thu âm
(Microphon), trong đó Model Shure thông dụng nhất là SM 58 để thu giọng hát
trung thực và không bị tạp âm; các thiết bị Pre – ampli (tiền khuyếch đại); các
75
thiết bị kỹ xảo (effect) biến chất âm thanh làm tăng hiệu quả tới người nghe. Đó là
thiết bị Echo, Delay, thiết bị này là thành phần chính, không thể thiếu được trong
âm thanh sân khấu. Từ một âm thanh (voive) đơn giản, nó có thể tạo thêm Echo
(tiếng vọng) Delay (lập lại), Reverb (vang ra), Chorus (đồng ca) và hàng trăm thứ
tiếng khác (Multi effeet).
Ngoài ra, còn sử dụng bàn Mixer kiểm soát tín hiệu âm thanh: Amplifer
công suất lớn (Peavey, crown...). Đèn sân khấu Led par RGBW 54+3W, Moving
head Led, Moving head beam, màn hình Led P8.928, P6.67, P3.906, âm thanh
công suất lớn, ánh sáng công suất lớn, bảng Led tạo hiệu ứng hào quang, biểu
tượng chuyển động, Led Matrix...
Trong quá trình khảo sát thực tế, NCS đã tìm hiểu về việc ứng dụng công
nghệ trong hoạt động biểu diễn sân khấu tại Tp. Hồ Chí Minh. Khi được hỏi về
sử dụng loại kỹ thuật - công nghệ trước đây và loại kỹ thuật - công nghệ hiện tại,
chúng tôi đã nhận thấy sự thay đổi khá rõ. Đó là, nếu như trước đây hệ thống ánh
sáng bằng bàn điều khiển tín hiệu DMX thì nay sử dụng hệ thống điều khiển ánh
sáng bằng tín hiệu DMX 512chanel; kỹ thuật - công nghệ chiếu sáng trước đây
sử dụng đèn Par 64, đèn Profile và đèn Fresnell thì hiện nay chủ yếu sử dụng lại
đèn Parled, đèn Moving head; về hệ thống âm thanh, trước đây sử dụng bàn điều
khiển cơ (Allen heat) nay đã được thay thế bằng bàn điều khiển kỹ thuật số
Yamaha 48 chanel hiện đại hơn nhiều [Phụ lục 1.6]. Với tiến bộ của công nghệ
thông tin, cái nhìn được đẩy đến giới hạn của cái thật và ảo. Nhờ công nghệ số
và máy điện toán mà người ta có thể mô phỏng được mọi loại âm sắc, mọi loại
nhịp điệu...và hòa quyện chúng để sáng tạo ra nhiều loại âm nhạc.
Xu hướng số hóa, tích hợp công nghệ ngay trong chính các tác phẩm nghệ
thuật, làm nhòe ranh giới các loại hình nghệ thuật bởi công nghệ đòi hỏi ngành
nghệ thuật biểu diễn phải thay đổi với sự thay đổi về tư duy sáng tạo, đầu tư áp
dụng công nghệ, đầu tư thay đổi quy trình sản xuất tác phẩm, sản phẩm. Việc áp
dụng những thành tựu công nghệ mới sẽ hỗ trợ tích cực cho việc ghi âm, ghi
hình và lưu trữ bằng băng từ, đĩa CD, VCD chương trình biểu diễn nghệ thuật.
76
Các tác phẩm nghệ thuật biểu diễn có thể được sao lưu, nhân bản và phổ biến
rộng rãi tới đông đảo quần chúng. Nhưng đây cũng chính là những thách thức
đối với hoạt động biểu diễn nghệ thuật trực tiếp, nếu không nổ lực cố gắng đổi
mới, phát triển thì khó có thể tồn tại.
3.2. THỰC TRẠNG CÔNG NGHỆ TỔ CHỨC BIỂU DIỄN VÀ DOANH THU
3.2.1. Về công nghệ tổ chức biểu diễn
*Đối với lĩnh vực Âm nhạc
Hiện nay, Tp. Hồ Chí Minh là địa phương có công nghệ tổ chức các sự
kiện âm nhạc phát triển mạnh nhất so với cả nước. Các công ty có thương hiệu
trong việc tổ chức các sự kiện âm nhạc đều tập trung ở Thành phố này. Ngoài ra,
Thành phố còn sở hữu một lực lượng lớn các đạo diễn chương trình âm nhạc có
thực tài, nhờ đó, những ý đồ nghệ thuật của ca sỹ, nhóm nhạc được thực hiện
một cách dễ dàng, đồng bộ và mang lại hiệu quả đáng tin cậy.
Không những thế, nơi đây còn có sự gắn kết hết sức chặt chẽ giữa: ca sỹ-
nhóm/ban nhạc - nhạc sỹ - công ty tổ chức sự kiện và giới truyền thông trong
việc quảng bá hình ảnh. Truyền thông đã dựa vào sức hút rất mạnh của các sản
phẩm âm nhạc với khán thính giả - nhất là khán giả trẻ để phát triển. Hiện đã có
rất nhiều kênh phát thanh và truyền hình dành riêng cho âm nhạc ở địa bàn
Thành phố. Ngược lại các ca sỹ, nhóm - ban nhạc, nhạc sỹ, các công ty tổ chức
muốn tồn tại và phát triển cũng không thể không cần đến sự quan tâm của giới
truyền thông - một công cụ thông tin có sức lan tỏa rất mạnh đối với thị trường.
Nắm bắt được sức mạnh của truyền thông, hầu hết các ca sỹ khi phát hành an-
bum đều phát hành cả đĩa hình, đĩa tiếng và chủ động mời đạo diễn ghi hình một
hoặc nhiều bài hát để quảng bá hình ảnh trên truyền hình. Đây là mối quan hệ
hữu cơ không thể tách rời, một dây chuyền khép kín, mang tính tất yếu trong bối
cảnh cạnh tranh trên thị trường hiện nay, là minh chứng thiết thực cho sự phát
triển vượt bậc của tính công nghiệp trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn âm nhạc.
Ở một số chương trình ca nhạc do tư nhân tổ chức hoặc có tài trợ tại một
số sân khấu Tp. Hồ Chí Minh đã gây được tiếng vang đối với lượng khán giả trẻ.
77
Có được những thành công này là nhờ một phần không nhỏ của các yếu tố kỹ
thuật công nghệ. Đối với khán giả ngày nay, nhất là khán giả trẻ, họ đi xem biểu
diễn nhiều hơn là nghe biểu diễn. Một màn hình khổng lồ làm phông hậu, ánh
sáng lúc thì sáng rực toàn bộ dàn nhạc, lúc thì chỉ đặc tả một nhạc công đang
solo, màu sắc biến đổi đa dạng… sẽ làm cho người thưởng thức cảm thụ tốt hơn.
Vì vậy, yếu tố kỹ thuật công nghệ âm thanh, ánh sáng, trang phục, hóa trang…
hệ thống trang thiết bị hiện đại đóng vai trò không thể thiếu đối với một chương
trình biểu diễn nghệ thuật.
Sự phát triển của công nghệ tổ chức và biểu diễn trong lĩnh vực âm nhạc
còn được góp sức bởi một lực lượng lớn phóng viên, nhiếp ảnh của các kênh
truyền thông, báo chí có trình độ tác nghiệp cao; sự phát triển dây chuyền tiếp thị -
PR chuyên nghiệp của nhà tổ chức, một hệ thống nhà hát, sân khấu lớn cùng hạ
tầng cơ sở kỹ thuật, đặc biệt đây còn là Thành phố sở hữu một thị trường tiêu thụ
khoảng 10 triệu dân mà đa phần là những người trẻ, có đời sống kinh tế tương
đối cao. Với những điều kiện thuận lợi như trên, không những các sự kiện âm
nhạc mà hầu hết các ca sỹ, nhóm - ban nhạc, nhạc sỹ, công ty tổ chức sự kiện âm
nhạc luôn chọn Tp. Hồ Chí Minh là ưu tiên hàng đầu để phát triển thị trường.
*Đối với lĩnh vực sân khấu Kịch nói
Trong ngành nghệ thuật biểu diễn, do đặc điểm của hoạt động biểu diễn
trực tiếp nên quá trình diễn viên, nghệ sỹ biểu diễn trên sân khấu và quá trình
đưa sản phẩm nghệ thuật đó đến với công chúng xảy ra song song. Để những tác
phẩm nghệ thuật đến được với người tiêu dùng một cách rộng rãi, nhiều đơn vị
sân khấu đã tổ chức lưu diễn.
Trong vài năm trở lại đây, sân khấu kịch không chỉ phát triển tại thị
trường Thành phố mà nhiều đơn vị đã mạnh dạn đầu tư cho những chuyến lưu
diễn trong khắp cả nước. Tiên phong cho hoạt động này là sân khấu Hồng Vân, họ
đã mang vở “Người vợ ma” đi lưu diễn 10 tỉnh phía Nam. Nghệ sỹ Hồng Vân -
Giám đốc sân khấu này chia sẻ về chuyến lưu diễn này: “Mục tiêu ban đầu của
chuyến lưu diễn là chỉ để các diễn viên trẻ của đoàn có cơ hội khẳng định tài
78
năng của mình trong một môi trường mới chứ chưa dám tính chuyện lợi nhuận”
[Phụ lục 3]. Tuy nhiên, thực tế chuyến lưu diễn trên đã thành công ngoài mong
đợi, đến mức nghệ sỹ Hồng Vân đã quyết định đưa vở kịch trên đi lưu diễn lần
thứ hai và vẫn được đông đảo khán giả ủng hộ.
Học hỏi kinh nghiệm từ chuyến lưu diễn của nghệ sỹ Hồng Vân, Nhà hát
Kịch Thành phố đưa vở “Niềm tin bị đánh cắp” và hai vở kịch thiếu nhi đến các
tỉnh miền Trung và Tây Nguyên biểu diễn. Đạo diễn Hoàng Duẩn cho biết: “Tất
cả suất diễn đều “cháy vé”. Tại mỗi địa phương, đoàn thường diễn hai ngày
nhưng ngay trong ngày đầu, vé của ngày sau đã bán hết”. Sự ủng hộ của khán giả
các tỉnh thành đã tiếp thêm sức mạnh cho Hoàng Duẩn, giống như bà bầu Hồng Vân,
quyết định đưa “Niềm tin bị đánh cắp” lưu diễn lần hai đến các tỉnh miền Tây.
Vừa qua, sân khấu kịch Idecaf đã có chuyến lưu diễn tại Mỹ với vở “Hợp
đồng mãnh thú” (tháng 4/2015) và tháng 7 tới tiếp tục sang Mỹ để diễn thêm 3
suất nữa. Ngoài ra sân khấu này còn dự định một năm hai lần đưa các vở kịch và
múa rối nước sang diễn tại Mỹ. Từ đây mở ra một triển vọng sẽ có thêm nhiều
vở kịch trong nước diễn bán vé ở nước ngoài.
Việc đưa các vở kịch lưu diễn là dấu hiệu đáng mừng cho đời sống sân
khấu hiện nay. Bởi sự sôi động như thế, không những mang lại những giá trị văn
hóa tinh thần cho người dân mà còn góp phần tạo nên tên tuổi của nhiều diễn
viên, đạo diễn trẻ cho sân khấu kịch.
*Đối với lĩnh vực Múa
Ở lĩnh vực Múa, trong khi cả nước đang gặp lúng túng trong phát triển
lĩnh vực này thì ở Tp. Hồ Chí Minh đã tìm được hướng đi riêng. Các diễn viên múa (chủ yếu là múa minh họa) không còn hoạt động độc lập như trước
mà thường tập hợp nhau thành nhóm. Sau một thời gian lớn mạnh, nhóm này
phát triển thành những vũ đoàn chuyên nghiệp. Thậm chí hiện nay, một số vũ
đoàn lớn đã lập công ty riêng để dễ dàng trong khâu tổ chức trọn gói kiêm
luôn vai trò đào tạo các diễn viên cho vũ đoàn như vũ đoàn Phương Việt,
ABC, Rạng Đông...
79
3.2.2. Doanh thu
Khi nhìn nhận nghệ thuật biểu diễn dưới góc nhìn của một ngành công
nghiệp văn hóa thì không thể không bàn đến vấn đề doanh thu của các đơn vị
nghệ thuật. Đây là mục đích đầu tiên của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh
trong ngành công nghiệp không khói này.
Tuy nhiên, đối với Việt Nam nói chung, Tp. Hồ Chí Minh nói riêng, đây
là vấn đề không đơn giản. Bởi chúng ta chưa phát triển ngành công nghiệp văn
hoá theo đúng nghĩa, hơn nữa bài toán đặt ra vẫn phải giải quyết hài hoà mối
quan hệ giữa văn hoá và kinh tế trong phát triển kinh tế thị trường hiện nay. Lâu
nay, không ít bài báo đã nói đến cuộc đối đầu giữa nghệ thuật và doanh thu của
các doanh nghiệp văn hoá trong cơ chế kinh tế thị trường ở nước ta.
Sân khấu Kịch Tp. Hồ Chí Minh vốn năng động nhất cả nước với nhiều
điểm diễn do tư nhân bỏ vốn đầu tư luôn sáng đèn mỗi đêm nhưng cũng là nơi
thấy rõ nhất khoảng cách giữa nghệ thuật và doanh thu. Mặc dầu những người
làm sân khấu luôn mang trong mình nhiều tâm huyết.
Trong ngành công nghiệp văn hóa, trong đó có lĩnh vực nghệ thuật biểu
diễn, quá trình tiêu thụ sản phẩm phụ thuộc chặt chẽ vào yếu tố tâm lý, thị hiếu,
nhu cầu, sở thích và quan niệm về giá trị của khán giả. Chính vì vậy, có những
tác phẩm nghệ thuật được đầu tư nghiêm túc nhưng khi đưa ra thị trường thì lại
không được công chúng đón nhận. Chẳng hạn, vở nhạc kịch lịch sử Ngàn năm
tình sử của sân khấu kịch Idecaf phải bỏ ra 600 triệu đồng để dựng vở nhưng
phải diễn cả trăm suất mới có thể thu hồi được khoảng một phần ba vốn. Hay vở
Người thi hành án, Tả quân Lê Văn Duyệt được Nhà hát Kịch Tp. Hồ Chí Minh
dựng rất hoành tráng, đạt tính nghệ thuật cao nhưng khi công diễn thì không thu
hồi được vốn chứ chưa nói đến lợi nhuận. Vì vậy, để có thể có nhiều doanh thu
giữ chân các nghệ sĩ nhà hát phải dựng thêm những vở kịch mang tính giải trí.
Nhà hát Kịch Sân khấu nhỏ 5B Võ Văn Tần luôn được đánh giá là nơi có
nhiều vở kịch tử tế mang tính định hướng, không chạy theo thị hiếu dễ dãi và
cũng chính vì vậy mà mức doanh thu ở đây cũng khá khiêm tốn. Những vở được
80
dựng với mục đích thử nghiệm ở đây luôn được giới chuyên môn đánh giá cao
với nhiều sáng tạo, khám phá nhưng không phù hợp với thị hiếu của công chúng
đại trà nên thường diễn năm ba buổi là nghỉ. Những người làm sân khấu tâm
huyết bao giờ cũng muốn đưa hai khái niệm nghệ thuật và doanh thu về gần bên
nhau. Phải làm sao vừa đạt tới đỉnh cao của nghề vừa sống được bằng nghề, vừa
được giới chuyên môn nhìn nhận vừa được công chúng ái mộ, đó là mong ước
của những người tâm huyết với nghề. Thế nhưng, trong lĩnh vực nghệ thuật nói
chung và sân khấu nói riêng, giá trị nghệ thuật và hiệu quả doanh thu không phải
lúc nào cũng tỉ lệ thuận.
Trước cơn lốc của thị trường, các Nhà hát kịch ở phía Bắc có lẽ chìm hơn
so với các nhà hát, sân khấu kịch Tp. Hồ Chí Minh. Nhà hát Tuổi trẻ là đơn vị
duy nhất năng động, bên cạnh việc thỉnh thoảng dựng vài vở kịch kinh điển từ
tiền tài trợ của Nhà nước. Những năm gần đây, các nghệ sĩ của nhà hát đều phải
tìm “giải pháp tình thế” bằng các tiểu phẩm trong chương trình Đời cười để kiếm
doanh thu.
Câu chuyện doanh thu trong nền kinh tế thị trường hiện nay cũng là câu
chuyện sống còn của các nhà hát, nhất là sân khấu kịch tư nhân. Chính vì vậy
nên sân khấu Kịch Hồng Vân đã chọn cho mình con đường ở giữa, nghĩa là
không quá nghiêng về tính định hướng như Nhà hát 5B nhưng cũng không sa
vào tiếng cười dễ dãi như một số sân khấu khác. Sân khấu Hồng Vân muốn khai
thác nhiều thể loại đề tài, dàn dựng nhiều phong cách, đa dạng hóa vở diễn để
đáp ứng được nhiều đối tượng khán giả khác nhau nhưng vẫn phải đặt bài toán
lời lỗ lên trên hết. Chính vì vậy, trong khoảng 5 năm trở lại đây, Sân khấu kịch
Hồng Vân đã thu được nguồn doanh thu đáng kể.
Kết quả thống kê từ năm 2009 đến 2013 cho thấy doanh thu của Sân khấu
kịch Hồng Vân luôn tăng ở mức trung bình 13.9%/năm. Đây là mức tăng mà rất ít
sân khấu kịch nói tại Tp. Hồ Chí Minh đạt được trong bối cảnh khủng hoảng kinh
tế đã và đang có tác động một cách toàn diện và sâu sắc đến đời sống xã hội.
81
Biểu đồ 3.1:Tỷ lệ tăng doanh thu của Sân khấu kịch Hồng Vân giai đoạn 2009 – 2013
Nguồn: Công ty Cổ phần Sân khấu và Điện ảnh Vân Tuấn
So sánh tỷ lệ doanh thu tăng trung bình trong giai đoạn 2009 – 2013 của
sân khấu kịch Hồng Vân với một số sân khấu kịch cho kết quả như sau:
Biểu đồ 3.2: So sánh tỷ lệ tăng doanh thu của Sân khấu kịch Hồng Vân và một số sân khấu khác giai đoạn 2009 – 2013
82
Biểu đồ cho thấy tỷ lệ tăng doanh thu trung bình trong giai đoạn 2009 –
2013 của sân khấu kịch Hồng Vân gấp Idecaf 1,5 lần, gấp sân khấu Nhỏ 4.2 lần
và gấp sân khấu Hoàng Thái Thanh 2.8 lần [59, tr.70]
Biểu đồ 3.3: Tỷ lệ cơ cấu các yếu tố góp phần tăng doanh thu của Sân khấu kịch Hồng Vân giai đoạn 2009 – 2013 Biểu đồ cho thấy việc doanh thu của sân khấu Hồng Vân tăng qua các
năm chủ yếu là do tăng tỷ lệ ghế bán trong từng suất diễn (chiếm 41,2%) và tăng
suất diễn (chiếm 37,9%); trong khi đó việc tăng giá vé chỉ góp 12% và việc đưa
sân khấu Superbowl vào khai thác chỉ góp 8.9% vào tỷ lệ tăng doanh thu chung
của sân khấu Hồng Vân trong giai đoạn 2009 – 2013 [59, tr.72].
Bên cạnh đó, khi phân tích sâu về cơ cấu doanh thu giai đoạn 2009 – 2013
còn cho thấy kịch kinh dị và hài kịch đóng góp trung bình đến 72.7%/năm vào
việc doanh thu của sân khấu tăng, trong khi các dòng sản phẩm khác chỉ chiếm
27.3% [59, tr.72].
83
Biểu đồ 3.4: So sánh tỷ lệ đóng góp vào việc tăng doanh thu từ các dòng sản phẩm của Sân khấu kịch Hồng Vân giai đoạn 2009 – 2013
Đối với Sân khấu Kịch Ideaf, gần 20 năm hoạt động, đến nay sân khấu
này đã tạo được chỗ đứng và thương hiệu trong lòng khán giả. Với nguyên tắc
làm việc nghiêm túc và tâm huyết với nghề, quan niệm đặt nghệ thuật đi trước,
kinh tế theo sau, quan tâm giữ gìn thương hiệu và chăm sóc khách hàng… của
Giám đốc Huỳnh Anh Tuấn, càng ngày khán giả đến với sân khấu này càng đông
hơn. Chính vì vậy, trong những năm gần đây, doanh thu của Sân khấu kịch Ideaf
liên tục tăng trưởng. Cụ thể: Doanh thu năm 2011: 13.504.768.194 đồng, năm
2012: 56.873.325.648 đồng, năm 2013: 36.968.580.395 đồng, năm 2014:
53.653.805.137 đồng [Nguồn: Chi cục Thuế Thành phố].
Hay một số các chương trình nghệ thuật đạt được doanh thu khá cao như
chương trình “Cầm tay mùa hè” của nhạc sĩ Quốc Trung, bán vé tới 1,8 triệu
đồng, tổng thu hai đêm là 1,6 tỷ đồng [120].
3.3. THỰC TRẠNG PHÂN KHÖC THỊ TRƢỜNG VÀ VẤN ĐỀ BẢN QUYỀN
3.3.1. Thực trạng phân khúc thị trƣờng nghệ thuật biểu diễn
*Đối với lĩnh vực Âm nhạc
Trước hết, thị trường tiếp nhận/tiêu thụ của nghệ thuật biểu diễn thể hiện
ở việc phân khúc thị trường, nhất là trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay
gắt như hiện nay.
84
Năng lực của mỗi cá nhân, tổ chức biểu diễn có hạn, không thể đáp ứng
được nhu cầu của tất cả các phân đoạn thị trường là mang tính khách quan. Để
có thể cạnh tranh được, mỗi ca sỹ, nhạc sỹ, nhóm - ban nhạc và nhà tổ chức đều
quan tâm đến việc xác định được phân khúc thị trường của riêng mình. Từ đó
các đơn vị ít nhiều đã có chiến lược đầu tư hiệu quả, bền vững và tạo ra sản
phẩm đáp ứng được yêu cầu cơ bản của phân đoạn thị trường đó. Thời gian qua,
sự phát triển của thị trường âm nhạc Thành phố cho thấy những phân khúc thị
trường đã có sự chuyển biến mạnh mẽ nhờ các cá nhân, tổ chức nắm được đặc
trưng và nhu cầu của khán giả. Theo kết quả nghiên cứu cho thấy, nếu căn cứ vào
độ tuổi và trình độ thưởng thức âm nhạc thì Thành phố đang tồn tại các phân khúc
thị trường cơ bản sau:
+ Thị trường nhạc nhẹ: có phân khúc thị trường mục tiêu là những người trẻ
có độ tuổi từ 15 đến 25;
+ Thị trường nhạc dân gian đương đại, nhạc cổ điển – thính phòng: có phân
khúc thị trường mục tiêu là những người có trình độ thưởng thức âm nhạc;
+ Thị trường nhạc tiền chiến, nhạc cách mạng: có phân khúc thị trường mục
tiêu là những người lớn tuổi;
+ Thị trường nhạc hải ngoại: có phân khúc thị trường mục tiêu là những
người trong độ tuổi trung niên.
Tuy nhiên, nếu căn cứ vào mức thu nhập của người dân thì thị trường âm
nhạc Thành phố đang tồn tại hai phân khúc thị trường cơ bản là:
+ Phân khúc những người có thu nhập trên trung bình – đây là phân khúc có
biên độ hẹp hơn so với phân khúc còn lại;
+ Phân khúc những người có thu nhập thấp và trung bình – đây là phân khúc
có biên độ rất lớn.
Đối với một Thành phố vốn có nhịp sống rất năng động, một bộ phận lớn
là những người trẻ tuổi luôn tất bật, căng thẳng với công việc. Vì vậy, họ rất cần
những sản phẩm âm nhạc đơn thuần chỉ để giải trí, họ dễ dàng chấp nhận những
tác phẩm ít được trau chuốt về nghệ thuật, dễ thuộc, dễ hát. Hiệu quả nhiều khi
85
phải nhờ vào phần lớn hiệu ứng kỹ thuật phòng thu hiện đại và sự “đánh giá”
nhẹ nhàng hơn của giới truyền thông. Chính vì thế, với giới ca sĩ, nhạc sĩ trẻ, Tp.
Hồ Chí Minh được xem là nơi có thể giúp họ thực hiện được những điều mình
mong ước. Các phòng thu âm ở Tp. Hồ Chí Minh gần như hoạt động liên tục. Từ
khoảng năm 2000 trở lại đây, hàng loạt các sản phẩm âm nhạc với một lực lượng
ca sỹ “nhạc trẻ” hùng hậu ra đời và phát triển rất nhanh chóng. Hiện nay, dòng
“nhạc trẻ” cùng những sản phẩm của nó đang chi phối, chiếm lĩnh thị trường âm
nhạc Thành phố.
Đối với sự phát triển của các phân khúc thị trường chia theo mức thu
nhập, thị trường âm nhạc Thành phố trong thời gian qua cũng có nhiều ví dụ
điển hình. Tiêu biểu là các chương trình “liveshow” của một số ca sỹ nổi tiếng
như: “Vì ta cần nhau” của cặp ca sỹ Hồng Nhung - Quang Dũng với giá vé đến
3,000,000vnđ/vé. Hay như “Chuyện tình yêu” của ca sỹ Quang Dũng, “Dạ tiệc
trắng” của Đàm Vĩnh Hưng, chương trình biểu diễn của các ca sỹ Tuấn Ngọc,
Phạm Duy….đều chọn đối tượng phục vụ là những người có thu nhập cao vì giá
vé các chương trình này đều trên 1,000,000vnđ/vé. Phân khúc thị trường kiểu
này cũng được áp dụng đối với các buổi biểu diễn của các ca sỹ nổi tiếng tại một
số phòng trà trên địa bàn Thành phố hiện nay.
Ngược lại với lựa chọn phân đoạn thị trường này, các ca sỹ: Mỹ Lệ, Hồ
Ngọc Hà, Đoan Trang, Thanh Thảo, Đan Trường, Quang Vinh… hoặc các ca sỹ
hải ngoại: Phi Nhung, Hương Lan, Giao Linh... thường tổ chức những chương
trình nhỏ tại các sân khấu tụ điểm như sân khấu Trống Đồng, sân khấu 126 với
giá vé không quá 100.000vnđ/vé cho những khán giả có thu nhập thấp và trung
bình. Do giá vé hợp lý, trong khi phân khúc này có biên độ rất lớn nên những
chương trình thường đạt doanh thu khá cao, nhà tổ chức thu được lãi trong khi
khán giả Thành phố vẫn thỏa mãn được nhu cầu thưởng thức âm nhạc của mình.
Trong tương lai, khuynh hướng phân khúc theo thu nhập sẽ tiếp tục phát triển
mạnh mẽ hơn, góp phần làm cho đời sống âm nhạc Thành phố thêm sôi động.
Theo kết quả điều tra khán giả đến xem ca nhạc tại sân khấu Trống Đồng
và sân khấu 126, khi được hỏi: Theo ông/bà, giá vé tại sân khấu này như thế nào?
86
(trong khoảng 100.000đ/vé) thì 57.3% khán giả tham gia khảo sát cho rằng giá
vé phù hợp; 37.3% cho ý kiến giá vé rẻ; trong khi chỉ có 1.3% ý kiến cho rằng
rất cao và 4% cho rằng tương đối cao [Bảng 5, a.1, phụ lục 2]. Điều này cho
thấy, giá vé đã tạo nên lợi thế cạnh tranh của các đơn vị này so với các đối thủ
khác trên thị trường văn hóa nghệ thuật Thành phố. Giá vé là một trong những
công cụ marketing quan trọng nhất của mỗi đơn vị kinh doanh nghệ thuật biểu
diễn trong ngành công nghiệp văn hóa. Giá vé cùng với chất lượng sản phẩm sẽ
tạo nên một lợi thế cạnh tranh rất lớn cho các doanh nghiệp này.
Biểu 3.5: Đánh giá về giá vé tại sân khấu
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
*Đối với lĩnh vực sân khấu Kịch nói
Chính sức cạnh tranh của thị trường, để tồn tại, các sân khấu buộc phải đi
tìm đối tượng khán giả riêng của mình. Thị trường sân khấu Thành phố vì thế
được phân khúc khá rạch ròi. Sân khấu nào thì khán giả đó. Xét một cách tương
đối, những sản phẩm của sân khấu Idecaf dành cho khán giả trẻ cá tính, những
người làm văn phòng và các em thiếu nhi. Sân khấu Hồng Vân lại nhắm vào đối
tượng khán giả gốc Bắc ở quận Phú Nhuận, Gò Vấp. Trong khi đó, sân khấu nhỏ
87
5B thì hướng đến khán giả là tầng lớp trí thức và những người lớn tuổi. Sân khấu
Kịch Sài Gòn lại chọn đối tượng khán giả là giới bình dân, tiểu thương, bà con
gốc Hoa để phục vụ. Sân khấu Nụ Cười Mới lại chủ yếu khai thác lượng khán
giả hâm mộ danh hài Hoài Linh, Chí Tài và những người cần những tác phẩm
giải trí thuần túy. Nhà hát Kịch Thành phố phục vụ khán giả ngoại thành, vùng
sâu vùng xa, đơn vị bộ đội, các trường cai nghiện... Nếu phân khúc theo độ tuổi
thì nói chung các sân khấu kịch Tp. Hồ Chí Minh đều tập trung vào khai thác đối
tượng khán giả trẻ tuổi và người trưởng thành để phục vụ. Khán giả trong độ tuổi
vị thành niên, học sinh, thiếu nhi – một trong những phân khúc rất giàu tiềm
năng bởi biên độ phát triển của phân khúc này còn rất rộng thì chưa được quan
tâm đúng mức.
Mỗi phân đoạn thị trường có những đặc trưng khác nhau, vì vậy các sân
khấu phải xây dựng những kịch bản phù hợp nhu cầu các phân khúc thị trường
của riêng mình. Đối với sân khấu nhỏ 5B đó chính là những vở bi kịch, chính
kịch; trong khi đó, Nhà hát Kịch Thành phố với tư cách là một sân khấu quốc
doanh, chủ yếu dựng những vở mang tính thể nghiệm và phục vụ nhiệm vụ
chính trị. Còn thương hiệu của sân khấu Idecaf là những vở chính kịch và kịch
dành cho thiếu nhi. Sân khấu Hồng Vân lại chuyên dựng những vở kịch mang
phong cách văn hóa miền Bắc. Kịch Sài Gòn chủ yếu dàn dựng những vở hài kịch
phục vụ nhu cầu "muốn được cười"của khán giả. Dù ra đời sau, nhưng sân khấu Nụ
Cười Mới nhanh chóng xây dựng được thương hiệu từ các vở diễn thiên về hài, các
chương trình biểu diễn do các danh hài như Thúy Nga, Chí Tài, Hoài Linh.
Việc các sân khấu kịch đã biết phân đoạn thị trường, chọn thị trường mục
tiêu để đáp ứng nhu cầu sao cho phù hợp với nhu cầu của khán giả là vô cùng
quan trọng. Thế nhưng, trong bối cảnh cạnh tranh như hiện nay thì giá vé cũng là
điều kiện quan trọng không kém để thu hút khán giả của các sân khấu kịch. Khi
chúng tôi khảo sát ý kiến của khán giả đến xem kịch ở một số sân khấu về giá vé
thì kết quả như sau: 54.9% khán giả cho rằng giá vé rất cao; 43.7% cho biết giá
88
vé tương đối cao; chỉ có 1.4% khán giả cho rằng giá vé phù hợp (giá vé tại các
sân khấu Hồng Vân, sân khấu Nhỏ 5B, sân khấu Idecaf đều ngang nhau:
150.000đ/vé) [Bảng 6, a.2, phụ lục 2]. Như vậy, kết quả khảo sát ở các sân khấu
kịch cho thấy nếu phần lớn khán giả ca nhạc cho rằng giá vé xem ca nhạc rẻ và
hợp lý thì có đến 98.6% khán giả sân khấu kịch tham gia khảo sát cho ý kiến giá
vé tương đối cao và rất cao; trong khi chỉ có 1.4% cho rằng phù hợp. Trong thời
buổi kinh tế khó khăn, việc giá vé cao sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến nhu cầu tiêu
thụ sản phẩm nghệ thuật của khán giả và đồng thời giảm lợi thế cạnh tranh của
các đơn vị sân khấu. Nếu so sánh với một số cơ sở kinh doanh giải trí khác trên
địa bàn như: giá vé của rạp chiếu phim Galaxy Nguyễn Du và Galaxy Nguyễn
Trãi loại film 2D thấp hơn từ 47% đến 70%; loại fiml 3D thấp hơn 23%; giá vé
sân khấu ca nhạc Trống Đồng thấp hơn từ 20% đến 60%; sân khấu ca nhạc 126
có giá vé thấp hơn từ 33% đến 66% [59, tr.57] thì đây chính là cơ sở quan trọng
để các cơ sở kinh doanh kịch đưa ra các chiến lược để giữ chân khán giả.
*Đối với lĩnh vực Múa
Đối với thực trạng phân khúc thị trường của lĩnh vực Múa, qua quá trình
đi khảo sát, tác giả luận án nhận thấy loại hình Múa rối nước đang phát triển khá
mạnh ở Tp. Hồ Chí Minh theo hướng công nghiệp. Các nhà hát múa rối đã biết
chọn thị trường mục tiêu để khai thác và phục vụ khán giả. Tiêu biểu là Nhà hát
múa rối Rồng Vàng do ông Huỳnh Anh Tuấn làm giám đốc.
Sự phát triển của nghệ thuật biểu diễn múa rối tại Thành phố được thể
hiện chủ yếu trong việc gắn kết giữa du lịch với loại hình nghệ thuật này. Trong
bối cảnh người dân Thành phố ngày càng xa rời các loại hình nghệ thuật truyền
thống, trong đó có nghệ thuật múa rối thì sự định hướng thị trường là khách du
lịch - nhất là khách quốc tế là một định hướng đúng, đây là một cách để duy trì
và phát triển loại hình nghệ thuật độc đáo này. Hiện có khoảng 05 công ty du
lịch - lữ hành trên địa bàn Thành phố đã đưa nội dung phục vụ đi xem múa rối
vào lịch trình tham quan của du khách. Ông Huỳnh Anh Tuấn - Giám đốc Nhà
hát múa rối nước Rồng vàng cho biết:
89
Hiện nay, chúng tôi đã liên kết ít nhất 05 công ty du lịch trong Thành phố
để đưa khách đến nhà hát của chúng tôi. Trong đó, đối tác lớn nhất của chúng tôi
là công ty du lịch Sài Gòn Tourist. Nhờ có sự kết hợp này mà Nhà hát chúng tôi
đã vượt qua được những giai đoạn khó khăn nhất. Đến hôm nay thì chúng tôi hoàn
toàn tin tưởng rằng, Nhà hát chúng tôi sẽ tiếp tục tồn tại và sẽ phát triển hơn nữa
trong tương lai [Phụ lục 3].
Ông Tuấn cũng cho biết thêm“Ngoài 2 suất diễn cố định lúc 18h30 và
20h, chúng tôi cũng thường xuyên biểu diễn tăng cường theo yêu cầu của đối
tác”. Hiện nay, Nhà hát múa rối nước Rồng Vàng đã tạo dựng được uy tín với
nhiều công ty du lịch - lữ hành, là một thương hiệu của nghệ thuật biểu diễn rối
nước tại Thành phố. Một hướng dẫn viên của công ty du lịch Sài Gòn Tourist
cho biết“Để đa dạng sản phẩm phục vụ du khách, nhất là khách nước ngoài,
chúng tôi đã hợp tác với Nhà hát Múa rối nước Rồng Vàng để đưa khách đến
đây giải trí. Tôi nghĩ, hướng hợp tác này là cần thiết, tuy nhiên, tại Thành phố
hiện nay chưa có nhiều đơn vị nghệ thuật đủ điều kiện để chúng tôi hợp tác”.
Khi được hỏi về thái độ của du khách khi đến xem biểu diễn, hướng dẫn viên
này chia sẻ tiếp“Tôi đã rất nhiều lần đưa khách đến đây, lần nào tôi cũng thấy
khách rất thích thú với các vở diễn, nhất là khách đến từ Nhật, Ý, Đức. Xem xong,
họ đứng vỗ tay rất lâu, có người còn đòi chụp hình chung với nghệ sỹ biểu diễn
cho bằng được. Lúc ra về, họ thường hỏi chúng tôi là “Các bạn còn loại hình
nghệ thuật nào thú vị như thế này nữa không?” [Phụ lục 3].
Như vậy, nếu phân tích ở góc độ phân khúc thị trường của Nhà hát Múa rối
nước Rồng Vàng thì Nhà hát này đã chọn đúng thị trường mục tiêu chính là đối
tượng khán giả khách du lịch, nhất là khách du lịch quốc tế. Ngoài ra, Múa rối còn
nhắm vào đối tượng khán giả là các em thiếu nhi, học sinh. Sự phân khúc này
cũng thấy rõ ở Nhà hát Múa rối nước Thăng Long, Hà Nội.
3.3.2. Vấn đề bản quyền trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn
Công nghiệp văn hoá là một ngành kinh tế, các doanh nghiệp văn hoá
hoạt động theo quá trình sản xuất, khai thác, phân phối và tiêu thụ các giá trị văn
90
hóa. Cũng như các lĩnh vực khác của ngành công nghiệp văn hoá, các hoạt động
của nghệ thuật biểu diễn cũng phải được bảo vệ bởi bản quyền.
Dù chưa phát triển hoàn chỉnh với tư cách của một ngành công nghiệp văn
hoá, nhưng các cá nhân và tổ chức, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực âm
nhạc, sân khấu kịch nói và múa ở Tp. Hồ Chí Minh, họ phải đầu tư tài chính,
thời gian và công sức để có được sản phẩm. Các sản phẩm này phải được bảo vệ
bởi luật bản quyền, nếu sử dụng phi pháp thì cá nhân và doanh nghiệp văn hóa sẽ
không thu được tiền để trang trải chi phí, tái sản xuất dẫn đến không thể tiếp tục
và phát triển. Bên cạnh quyền lợi của người thưởng thức thì phải có quyền lợi
của người sản xuất, sáng tạo; có bao nhiêu công sức bỏ ra thì phải có bấy nhiêu
quyền lợi.
Về kịch nói, nhìn chung, các doanh nghiệp sân khấu kịch ở Tp. Hồ Chí
Minh chấp hành nghiêm túc Luật Bản quyền và Sở hữu trí tuệ. Khi sử dụng kịch
bản, các doanh nghiệp đều trả tiền cho tác giả. Có thể có nhiều hướng: hoặc thỏa
thuận giữa đôi bên, hoặc theo quy định của Cục Sở hữu trí tuệ. Theo ông Huỳnh
Anh Tuấn – Giám đốc Sân khấu Idecaf:
Ở nước ngoài, đạo diễn viết kịch bản xong thì đến Cục Sở hữu trí tuệ
để đăng ký bản quyền nhưng ở Việt Nam thì ít khi đăng ký. Chỉ khi
nào ai sử dụng mới trả tiền, có khi là độc quyền, có khi là đồng sở
hữu, nhưng phải được đồng ý của tác giả. Có thể hợp đồng sở hữu
trong khoảng vài năm hoặc lâu hơn [Phụ lục 3].
Hiện nay ở Việt Nam đã có sàn giao dịch thương mại điện tử cho lĩnh vực
nghệ thuật biểu diễn, đó là Chợ kịch bản. Sự ra đời của chuyên trang điện tử này
đem lại lợi ích cho hai phía, các tác giả kịch bản có cơ hội đăng tải, giới thiệu
kịch bản để các đơn vị nghệ thuật tìm kiếm, tham khảo, lựa chọn dàn dựng, biểu
diễn. Các đơn vị nghệ thuật có thêm nhiều cơ hội lựa chọn kịch bản để dàn dựng
hoặc phục dựng lại trong bối cảnh khan hiếm như hiện nay. Có nhiều kịch bản
viết xong nhưng tác giả không biết quảng bá, giới thiệu bằng cách nào, dẫn đến
tình trạng lãng phí chất xám, công sức, tâm huyết… Chợ kịch bản là một biểu
91
hiện rõ nét của công nghiệp văn hóa trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn, đảm
bảo tốt quyền tác giả. Ở Tp. Hồ Chí Minh hiện nay có Công ty Đức Thịnh –
Thanh Thúy chuyên cung cấp kịch bản, hoạt động khá sôi nổi.
Mặc dầu, ngày 01/07/2002 Hội Nhạc sĩ Việt Nam đã ra Quyết định số
39/2002/QĐ-NS về việc thành lập Trung tâm Bảo vệ quyền tác phẩm âm nhạc
Việt Nam (VCPMC) – chi nhánh phía Nam và quy định chức năng nhiệm vụ của
Trung tâm, tháng 04/2004 đã đi vào hoạt động. Trong suốt 10 năm hoạt động,
Trung tâm đã đạt được những kết quả đáng trân trọng để phục vụ lợi ích cộng
đồng. Cụ thể: Số lượng nhạc sĩ, tác giả thành viên tin tưởng và ký hợp đồng ủy
thác cho Trung tâm ngày càng tăng theo từng năm. Năm 2004 có 148 thành viên;
năm 2010 có 979 thành viên và đến năm 2014 có 1.963 thành viên. Số tiền thù
lao sử dụng quyền tác giả âm nhạc mà Trung tâm đã thu cho các nhạc sĩ, tác giả
thành viên tăng từ con số 497 triệu đồng (năm 2004) đến hơn 20 tỷ đồng (năm
2010) và 39 tỷ đồng (năm 2014). Tổng số tiền thu được cho các nhạc sĩ 10 năm
qua đã lên đến hơn 180 tỷ đồng [130].
Tuy vậy, hiện nay lĩnh vực âm nhạc ở Việt Nam nói chung, Tp. Hồ Chí
Minh nói riêng, việc vi phạm bản quyền vẫn diễn ra khá phức tạp. Từ khi âm
nhạc có thể được kinh doanh và làm ra lợi nhuận thì bản quyền rất quan trọng.
Một nhạc sĩ khi hòa âm một bài hát, họ có bản quyền chất xám trên bản
hòa âm đó. Nếu một nghệ sĩ muốn dùng bản hòa âm đó để viết nhạc thì phải
mua, hoặc phải có sự đồng ý của tác giả cho dù họ có thay đổi giai điệu hay
không. Nhưng luật hiện nay không quy định một khái niệm thành văn cố định,
toàn diện thế nào là đạo nhạc. Các vấn đề về beat nhạc và người sản xuất beat
vẫn còn đang bỏ ngõ ở Việt Nam. Dù có như vậy thì những hành vi vay mượn
không xin phép, không công bố là không thể cho qua mà không lên án, chấn
chỉnh. Xây dựng một nền công nghiệp âm nhạc là phải xây dựng những mối
quan hệ văn minh, lành mạnh dựa trên luật pháp.
Vào thời điểm giữa năm 2004, báo chí và công luận đều quan tâm đến vụ
“đạo nhạc” trong sáng tác bài hát Tình thôi xót xa của nhạc sỹ Bảo Chấn. Bài hát
92
này giống tới 50% bài hát Frontier của Nhật và giống tới 99% bài hát I’ve never
been to me của Charlene 9 (Mỹ). Sau đó, chính nhạc sĩ Bảo Chấn đã phải xin lỗi
công luận và xin thôi không sử dụng bài hát Tình thôi xót xa.
Thời gian gần đây, nghi án đạo nhạc trong bài hát Chắc ai đó sẽ về của ca
sỹ Sơn Tùng M-TP (giống ca khúc Because I miss you do Jung Yong Hva - Hàn
quốc sáng tác) rộ lên, dư luận xôn xao, tốn biết bao thời gian, giấy mực, công
sức không phải của chỉ riêng báo giới mà còn huy động được rất nhiều cơ quan
quản lý. Chưa bao giờ vấn đề về bản quyền lại được quan tâm đến như vậy, các
báo đài đều đưa tin hàng ngày, các cơ quan quản lý vào cuộc, nhiều hội đồng
thẩm định được thành lập để phân tích, thẩm định.
Ngoài ra, hiện nay còn có hiện tượng các ca sĩ mua quyền nhân thân,
nghĩa là mua ý tưởng từ khi tác phẩm mới manh nha hình thành. Khi tác phẩm
âm nhạc ra đời thì người nhạc sĩ đó không được lấy tên của mình mà phải để tên
của ca sĩ đó.
3.4. ĐÁNH GIÁ CHUNG
Trong quá trình đổi mới, hội nhập phát triển của đất nước, Đảng ta đã có
định hướng quan trọng về đảm bảo sự gắn kết giữa phát triển kinh tế và văn hóa.
Cùng với chính sách xã hội hóa, đẩy mạnh các hoạt động sản xuất, kinh doanh
sản phẩm văn hóa trong cơ chế kinh tế thị trường, bước đầu đã tạo điều kiện cho
các chủ thể và một số lĩnh vực văn hóa hoạt động theo hướng phát triển của ngành
công nghiệp.
Tp. Hồ Chí Minh là một trong những đơn vị đi đầu cả nước về phát triển thị
trường hàng hoá văn hoá. Công nghiệp văn hóa trong lĩnh vực nghệ thuật biểu
diễn ở Thành phố đang trong giai đoạn đầu của sự phát triển, tuy non trẻ, nhưng
đã khẳng định được vị trí và từng bước phát triển theo hướng công nghiệp giải
trí, công nghiệp văn hóa. Các chủ thể tham gia vào quá trình sáng tạo/sản xuất, tổ
chức biểu diễn cũng như quản lý trong lĩnh vực này đang ngày càng mang tính
chuyên nghiệp hơn. Khảo sát thực trạng lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn ở Thành
phố cho thấy:
93
3.4.1. Lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn đã có những bƣớc đi ban đầu
hƣớng đến phát triển ngành công nghiệp văn hoá
Trước hết, đó là vấn đề đầu tư cho đội ngũ sáng tạo/sản xuất. Là trung tâm
kinh tế - văn hoá - khoa học hàng đầu của khu vực và cả nước, Tp. Hồ Chí Minh
quan tâm đến đào tạo và nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật.
Với 7 trường đào tạo, 1 Trung tâm và 1 Viện nghiên cứu chuyên sâu về các lĩnh
vực văn hoá nghệ thuật, qui mô đào tạo lớn, tập trung của Tp. Hồ Chí Minh hiện
chỉ đứng sau thủ đô Hà Nội. Hoạt động nghiên cứu và đào tạo về văn hoá nghệ
thuật của Thành phố có sự liên kết với các đơn vị đào tạo liên quan, với các đơn
vị nghệ thuật.
Đội ngũ sáng tạo/sản xuất được đào tạo ngày càng chuyên nghiệp, có sự
chủ động tìm tòi, sáng tạo để có nhiều các sản phẩm nghệ thuật có chất lượng
cao. Đội ngũ nghệ sĩ trẻ khá năng động, được đào tạo, có khả năng đón nhận,
hòa nhập nhanh chóng với các trào lưu, sản phẩm văn hóa mới của thế giới và
cũng có khả năng sáng tạo tốt. Sự phát triển của đội ngũ nghệ sĩ (bao gồm: đạo
diễn, tác giả, biên đạo, nhạc sĩ, ca sĩ, diễn viên…) còn có nguyên nhân từ việc,
ngày càng có nhiều các công ty, các trung tâm đào tạo, quản lý chuyên nghiệp ra
đời và phát triển. Đây cũng chính là dấu hiệu đánh dấu sự hình thành của một
ngành công nghiệp biểu diễn ở Tp. Hồ Chí Minh. Ngoài ra, việc quan tâm tìm
kiếm, đầu tư, bồi dưỡng cho đội ngũ nghệ sĩ, diễn viên, tác giả tài năng của các
cơ quan thông tin đại chúng (báo, đài) thông qua các chương trình truyền hình
(Duyên dáng Việt Nam…), các cuộc thi (Sao Mai điểm hẹn, Bài hát Việt, Gala
cười,…) cũng là một động lực thúc đẩy sự phát triển lớn mạnh của đội ngũ nghệ
sĩ cũng như các hoạt động biểu diễn nghệ thuật ở Tp. Hồ Chí Minh.
Thứ hai, đầu tư đổi mới kỹ thuật - công nghệ phục vụ cho lĩnh vực nghệ thuật
biểu diễn. Đổi mới khoa học, kỹ thuật và công nghệ là một trong hai hướng cơ
bản để phát triển công nghiệp văn hóa bên cạnh sự mở rộng, chiếm lĩnh thị
trường. Vì vậy, thời gian qua, các đơn vị nghệ thuật tại Tp. Hồ Chí Minh đã tìm
cách đổi mới khoa học công nghệ. Trước hết, đó là việc đầu tư đào tạo đội ngũ
94
kỹ thuật viên kỹ thuật âm thanh, ánh sáng, hậu đài, hóa trang, phục trang....Các
đơn vị nghệ thuật này đã tuyển dụng hoặc đưa đội ngũ nhân lực của mình đi đào
tạo trong lĩnh vực này. Ngoài ra, còn có một số công ty tư nhân mở đào tạo các
lớp chuyên về sử dụng công nghệ, kỹ thuật cao trong sân khấu kịch. Tiêu biểu là
Công ty Cổ phần đào tạo nghề và kỹ thuật thiết bị âm thanh ánh sáng Đông
Dương Tp. Hồ Chí Minh. Các cơ sở đào tạo này đã giúp sinh viên hiểu rõ lý
thuyết về âm thanh, ánh sáng, giải mã công nghệ, thiết bị âm thanh, ánh sáng
hiện đại trên thế giới để khai thác các tính năng của thiết bị. Những sinh viên này
sau khi ra trường đã trở thành những kỹ thuật viên chuyên nghiệp sử dụng các
công nghệ kỹ thuật hiện đại phục vụ cho các sân khấu.
Các đơn vị ngoài công lập đã tự đầu tư trang thiết bị và sử dụng các trang
thiết bị kỹ thuật cho biểu diễn nghệ thuật tương đối hiện đại. Ngoài ra, ở Tp. Hồ
Chí Minh hiện nay có những công ty chuyên cho thuê công nghệ tổ chức sân
khấu. Những thiết bị nâng cấp mau chóng đáp ứng nhu cầu thưởng thức của
công chúng.
Thứ ba, về năng lực cạnh tranh trong phân khúc thị trường. Trong môi
trường cạnh tranh khốc liệt của nền kinh tế thị trường, các loại hình nghệ thuật
biểu diễn muốn tồn tại và phát triển thì phải tạo ra được những sản phẩm đáp
ứng được nhu cầu của thị trường. Mà thị trường thì vô cùng rộng lớn với nhiều
đối thủ cạnh tranh ác liệt, trong khi đó năng lực của tổ chức biểu diễn nghệ
thuật lại có hạn. Vì vậy, loại hình nghệ thuật: Âm nhạc, Kịch nói và Múa đã
phải phân đoạn thị trường, từ đó chọn thị trường mục tiêu – phân đoạn thị
trường có khả năng phát triển nhất để tiếp cận và chiếm lĩnh. Sức cạnh tranh
được thể hiện chủ yếu bằng sự năng động của các đơn vị kinh doanh, sự phong
phú các loại sản phẩm và sức đào thải của thị trường với những sản phẩm
không đạt chất lượng.
Bên cạnh đó, các loại hình nghệ thuật này cũng đã sử dụng các công cụ
marketing như là một biện pháp hữu hiệu nhất trong giai đoạn hiện nay để tồn tại
và phát triển.
95
Nhìn chung, thực tế hiện nay cho thấy, ở Tp. Hồ Chí Minh, các đơn vị
ngoài công lập có bộ phận tổ chức biểu diễn tốt hơn các đơn vị công lập. Các
đơn vị công lập vẫn nặng tư duy bao cấp, thiếu tính chủ động, lại bị vướng nhiều
cơ chế tài chính không cho phép chi tiêu vượt định mức hiện hành, trong khi đó,
các định mức này luôn lạc hậu so với mặt bằng giá thị trường. Trong kinh tế thị
trường, đơn vị ngoài công lập được chủ động hơn về chi tiêu tài chính, về tuyển
dụng và sa thải nhân viên, về tạo quan hệ với các đối tác. Họ còn chủ động đưa
nhân viên đi đào tạo nước ngoài. Tất cả những điều đó tạo cho họ ưu thế hơn hẳn
so với các đơn vị công lập.
Thứ tư, lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn của Thành phố đã phần nào giải
quyết được mối quan hệ giữa văn hoá và kinh tế trong cơ chế thị trường, đáp ứng
nhu cầu đời sống văn hóa tinh thần của người dân.
Số lượng các tác phẩm ở tất cả các loại hình nghệ thuật biểu diễn đều có
sự gia tăng đáng kể, nhất là ở hai loại hình âm nhạc và sân khấu kịch. Nhiều tác
phẩm có chất lượng thu hút được sự quan tâm, yêu thích của khán giả và tạo nên
diện mạo mới cho đời sống nghệ thuật của Thành phố. Nhiều tác phẩm cũ cũng
được làm mới theo những phong cách khác nhau và cũng đã được khán giả đón
nhận. Khâu dàn dựng vở diễn ở những sân khấu khác nhau cũng ngày càng công
phu và hiện đại hơn trước bởi sự sáng tạo của các đạo diễn, diễn viên trẻ và sự
hỗ trợ của khoa học - công nghệ. Quá trình tổ chức biểu diễn và biểu diễn có
những bước phát triển mạnh, cơ sở vật chất cũng được quan tâm đầu tư, đặc biệt
là những khâu quảng cáo, tiếp thị sản phẩm ngày càng được xem trọng, đã tạo
nên một thị trường cung - cầu nghệ thuật có sự cạnh tranh rõ nét. Có nhiều địa
điểm sân khấu chuyên nghiệp được tổ chức biểu diễn hàng đêm, nhiều chương
trình được đầu tư với chi phí cao, chất lượng nghệ thuật được quan tâm, dàn
dựng công phu, thu hút đông đảo người xem. Do tính chất đặc thù của từng đơn
vị nên chương trình biểu diễn, đối tượng khán giả của mỗi đơn vị cũng khác
nhau, trong quá trình xây dựng kế hoạch, các đơn vị luôn hướng đến công
chúng, không ngừng nâng cao thị hiếu thẩm mỹ và trình độ thưởng thức nghệ
96
thuật của công chúng, đặc biệt công chúng trẻ; luôn tìm tòi, thể nghiệm để có
nhiều tác phẩm nghệ thuật có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao, kết hợp hài hòa
tính dân tộc và tính hiện đại, bảo tồn và phát huy các giá trị của văn hóa dân tộc.
Kết quả khảo sát của đề tài khi lấy ý kiến của khán giả về đánh giá chất
lượng ca sĩ, diễn viên và mức độ hài lòng của họ đối với chất lượng chương trình
ca nhạc và vở diễn đã phần nào phản ánh được khả năng đáp ứng nhu của nghệ
thuật biểu diễn của Thành phố. Khi được hỏi: Ông/bà đánh giá như thế nào về
chất lượng ca sĩ tại đây? (sân khấu ca nhạc Trống Đồng) thì có đến 94.6% khán
giả cho biết phần lớn ca sỹ tại các sân khấu được khảo sát có chất giọng và trình
diễn từ khá trở lên; trong khi chỉ có 5.4 % khán giả tham gia khảo sát cho rằng ca
sỹ tại đây có chất giọng và trình diễn ở mức trung bình [Bảng 3, a.1, phụ lục 2].
Biểu 3.6: Đánh giá về chất lƣợng ca sĩ Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
Khi được hỏi mức độ hài lòng của ông/bà đối với chất lượng chương
trình ca nhạc tại sân khấu thì kết quả khảo sát cho thấy tỷ lệ khán giả rất hài
lòng và hài lòng về chất lượng các chương trình ca nhạc chiếm 100% tỷ lệ khán
giả được khảo sát; không có khán giả nào không hài lòng đối với phần lớn các
chương trình ca nhạc tại các sân khấu được khảo sát [Bảng 4, a.1, phụ lục 2].
97
Biểu 3.7: Mức độ hài lòng của khán giả đối với chất lƣợng chƣơng trình ca nhạc tại sân khấu Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
Như vậy, mặc dầu kết quả khảo sát cho thấy khán giả chưa rất hài lòng về
chất lượng ca sĩ và chất lượng các chương trình ca nhạc tại các sân khấu Thành
phố (chỉ chiếm 35.1%) nhưng nhìn chung đã đáp ứng được yêu cầu của khán giả
đến thưởng thức các chương trình ca nhạc tại đây.
Về sân khấu kịch nói, khi được hỏi: Ông/bà đánh giá như thế nào về chất
lượng diễn viên tại đây, kết quả cho thấy cả diễn viên chính và diễn viên phụ đều
nhận được sự đánh giá rất tích cực từ chính khán giả [Bảng 3,4, a.2, phụ lục 2].
Điều đó cho thấy các sân khấu này có một đội ngũ nhân sự chất lượng đảm bảo,
góp phần thu hút khán giả đến với sân khấu mình. Chất lượng diễn viên là một
lợi thế cạnh tranh lớn của các sân khấu kịch nói được khảo sát.
98
Biểu 3.8: Đánh giá về chất lƣợng diễn viên chính Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
Biểu 3.9: Đánh giá về chất lƣợng diễn viên phụ Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
Khi được hỏi mức độ hài lòng của ông/bà đối với chất lượng nội dung các
vở diễn thì có 30.1% tỷ lệ khán giả được khảo sát rất hài lòng; 69.9% khán giả
tương đối hài lòng với phần lớn các vở kịch; không có khán giả nào không hài
lòng về chất lượng các vở kịch [Bảng 5,a.2, phụ lục 2]. Những con số này cũng
99
phần nào cho thấy mức độ hài lòng của khán giả khi thưởng thức loại hình nghệ
thuật này tại Tp. Hồ Chí Minh.
Biểu 3.10: Mức độ hài lòng của khán giả đối với chất lƣợng nội dung các vở diễn Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
Tuy nhiên, ngành công nghiệp nước ta còn mang tính tự phát, manh mún,
mới chỉ là sự khởi đầu. Các hoạt động sản xuất, kinh doanh còn nhằm mục đích
chạy đua theo lợi nhuận, bất chấp hậu quả xấu của nó. Nhiều thủ pháp trong sản
xuất, kinh doanh không phù hợp với sự phát triển văn hóa.
3.4.2. Những hạn chế so với yêu cầu phát triển ngành công nghiệp văn
hoá ở lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn
3.4.2.1. Sản phẩm nghệ thuật biểu diễn còn chiều theo thị hiếu tầm
thường, tẻ nhạt. Thị trường nghệ thuật biểu diễn thiếu những sản phẩm có
chất lượng cao đáp ứng nhu cầu của công chúng
Thực trạng này diễn ra ở hầu hết các loại hình nghệ thuật biểu diễn của
Thành phố. Cụ thể:
- Nghệ thuật Kịch nói
Tiếng cười không chỉ là liệu pháp tinh thần mang lại niềm vui cho con
người, mà đó còn là vũ khí độc đáo của người nghệ sĩ để chuyển tải những nội
100
dung sâu sắc, góp phần xây dựng đời sống văn hóa, xã hội văn minh. Vì vậy, gây
cười là quan trọng, nhưng không thể xem tiếng cười là mục đích cuối cùng của
hài kịch. Thế nhưng, theo đánh giá của các nhà quản lý, đạo diễn sân khấu, các
vở hài của sân khấu kịch vẫn chủ yếu dừng ở mức “vui là chính”. Các lời thoại,
tình huống hài xen lẫn chỉ tạo ra những tiếng cười gượng ép, lạc lõng với mạch
kịch. Như trong vở “Trinh nữ” của Sân khấu Kịch Sài Gòn, để tạo tiếng cười
cho khán giả, đạo diễn đã xen vào một phân đoạn hài trên cái nền những cảm
xúc bi kịch của nhân vật chính. Tiếng cười trở nên vô tâm khi những bác sĩ cười
cợt trên nỗi đau của một người muốn chuyển đổi giới tính; hay như khi một
người con gái lấy chuyện trinh tiết ra làm trò đùa; đó còn là những lời tư vấn vô
tâm đến tàn nhẫn của bác sĩ. Những lời thoại, cử chỉ hài hước chen ngang vào
tình huống không dành cho tiếng cười chỉ khiến cảm xúc của khán giả dành cho
những khoảnh khắc nội tâm của nhân vật bị tắc nghẽn giữa chừng. Và như vậy,
tiếng cười đã không tạo ra những hiệu ứng tâm lý tích cực.
Cũng với mục đích kéo công chúng đến rạp, hầu hết các sân khấu kịch
trên địa bàn Thành phố còn khai thác yếu tố sexy. Có thể kể một số tác phẩm
tiêu biểu như khi vở “Trinh nữ”của Sân khấu Kịch Sài Gòn, “Nhà trọ tình yêu”,
“Cõi tình” của Nhà hát sân khấu nhỏ 5B, “Sát thủ hai mảnh” của sân khấu
Idecaf, “Nước mắt người điên” của sân khấu kịch Phú Nhuận… đều khiến khán
giả ngỡ ngàng bởi những hành vi lẽ ra chỉ nên có ở chốn phòng the bỗng nhiên
xuất hiện công khai trên sàn gỗ nghệ thuật. Yếu tố sexy của sân khấu kịch phát
triển đến mức Cục Nghệ thuật Biểu diễn phải có công văn đề nghị Thành phố
(và các địa phương khác) theo dõi và chấn chỉnh kịp thời những tác phẩm nghệ
thuật khai thác quá đậm tình huống riêng tư trên sân khấu.
Cùng với đề tài sexy, sân khấu kịch nói còn khai thác triệt để yếu tố kinh
dị. Dù dòng kịch này đã được sân khấu Idecaf tiên phong khai thác với vở
“Hạnh phúc trên đồi hoa máu” cách đây khoảng 6 năm. Nhưng phải đến sự ra
đời chùm tác phẩm “Người vợ ma” của Sân khấu kịch Phú Nhuận thì phong trào
dựng kịch kinh dị trên thị trường kịch Thành phố mới thật sự trỗi dậy. Sau
101
“Người vợ ma”, một loạt các tác phẩm nhanh chóng ra đời như “Quỷ”, “Hồn
ma báo oán” của Sân khấu Kịch Sài Gòn, "Ma rừng" và "Hồn trinh nữ" của sân
khấu Thế Giới Trẻ, “Tử thi không đầu” của sân khấu Sài Gòn Phẳng, “Ngôi nhà
số 13” của sân khấu Idecaf, “Oan gia”, “Căn hộ 404”, “Trăng máu”, “Quả tim
máu”của Sân khấu kịch Phú Nhuận… làm cho thị trường kịch kinh dị Thành
phố trở nên sôi động hơn bao giờ hết. Trên thực tế, hiện nay, dòng kịch này vẫn
có một sức hút rất mãnh liệt đối với khán giả Thành phố. Chính nghệ sỹ Hồng
Vân – người chuyên dựng kịch kinh dị từng chia sẽ trên báo chí “Khán giả
Thành phố lạ lắm. Chúng tôi cũng dựng và diễn nhiều thể loại kịch khác nhau.
Nhưng chỉ cần kịch kinh dị công diễn là sẽ đánh bạt tất cả các dòng kịch này”.
Vẫn biết, sân khấu kịch cần phải tồn tại và phát triển trên cơ sở thỏa mãn
nhu cầu của thị trường nhưng nếu người nghệ sỹ mải chạy theo những nhu cầu
giải trí thông thường, tận dụng khai thác những yếu tố dễ gây tò mò cho khán giả
như hiện nay, thì đó là dấu hiệu chứng minh sự xuống dốc của một nền sân khấu
kịch đúng nghĩa. Thực tế lịch sử phát triển sân khấu trên thế giới và trong nước
đã chứng minh, một nền sân khấu khỏe là một nền sân khấu có thể tạo ra những
tác phẩm mà sức lan tỏa đủ mạnh để hình thành những giá trị thẩm mỹ tốt đẹp
trong lòng người yêu kịch.
- Nghệ thuật Múa rối
Thị trường múa rối chưa được hình thành đúng nghĩa. Thành phố có
khoảng gần 10 triệu dân, nhưng chỉ hai đơn vị biểu diễn, dẫn đến thị trường
thiếu tính cạnh tranh. Điều này đã tạo ra sức ỳ rất lớn cho các đơn vị biểu diễn
múa rối trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm để phục vụ khán giả. Với rối
nước, hiện nay có khoảng 17 trò, rối cạn khoảng 15 trò; 90.0% trong số này là
những trò lẻ, mô phỏng những tích cũ vốn đã trở nên quá quen thuộc với khán
giả trong hàng chục năm qua. Không chỉ thiếu những tiết mục mới, mà sự tinh tế
trong biểu diễn các tiết mục cũng chưa cao. Không những thiếu những tiết mục
được dàn dựng công phu, mà nhiều vở diễn đạt đỉnh cao về nghệ thuật còn biến
mất hẳn hoặc bị biến thể theo những tư duy dàn dựng mới, thiếu chuyên nghiệp
102
và thiếu cả điểm nhấn thời đại. Tất cả những điều này đã tạo nên cảm giác nhàm
chán đối với người dân Thành phố.
- Nghệ thuật Múa
Hiện nay, dù Tp. Hồ Chí Minh được xem là nơi có thị trường nghệ thuật
múa phát triển mạnh nhất so với cả nước. Trung bình hàng năm, Thành phố có
khoảng 300 vở diễn thuộc các thể loại được dàn dựng mới. Thế nhưng, chất
lượng sản phẩm của loại hình nghệ thuật này vẫn chưa thể cạnh tranh với các
hình thức giải trí khác. Nhiều tác phẩm nghệ thuật múa thiếu tính thuyết phục về
nghệ thuật, chưa thật đầy đủ những yếu tố kỹ thuật và chưa tạo được sự hấp dẫn
với công chúng. Nhiều tác giả còn lúng túng trong việc chuyển hóa những chất
liệu múa dân gian thành ngôn ngữ kịch múa đích thực, có sức biểu hiện sâu sắc.
Việc kế thừa, phát huy giá trị của kho tàng nghệ thuật truyền thống để sáng tạo
nên những hình tượng nghệ thuật độc đáo, đậm đà màu sắc dân tộc chưa thật
hiệu quả. Nghệ thuật múa cổ điển, múa dân gian... được giảng dạy từ các
trường múa chính quy ít xuất hiện trên thị trường nghệ thuật biểu diễn Thành
phố. Thay vào đó là những tác phẩm được dàn dựng gấp gáp, thiếu sự đầu tư để
minh họa cho các loại hình nghệ thuật khác lại đang rất phát triển, đặc biệt là
loại hình múa minh họa cho sân khấu ca - múa - nhạc tổng hợp.
- Nghệ thuật Âm nhạc
Hiện nay, dòng Nhạc trẻ với những ca khúc kém chất lượng; ca từ dễ dãi,
nội dung ca khúc nghèo nàn, đơn điệu, giai điệu âm nhạc thiếu sáng tạo đang
chiếm lĩnh và chi phối thị trường âm nhạc Thành phố. Từ các kênh truyền hình,
truyền thanh, trang nhạc online trên internet, báo chí… đều dành những ưu ái
đặc biệt cho dòng nhạc này. Trong khi đó, nhạc truyền thống dân tộc và giao
hưởng - thính phòng chưa bắt kịp với mặt bằng chung của xã hội. Thực trạng
này đang phát triển mạnh và vượt ra khỏi tầm kiểm soát của các cơ quan chức năng. Hậu quả là nhiều “thảm hoạ”5 âm nhạc trên thị trường Thành phố ra đời.
Tiêu biểu nhất trong thời gian gần đây là trường hợp của người mẫu Phi Thanh
Vân với chùm tác phẩm “Da nâu 1, 2, 3”. Có thể nói, chưa bao giờ các diễn đàn
103
âm nhạc trên Internet lại có nhiều ý kiến phản ứng mãnh liệt như trường hợp
này. Theo khảo sát trên 10 diễn đàn âm nhạc từ ngày 20/8/2011 đến ngày
27/8/2011, có đến 97.7% ý kiến dùng những lời lẽ chê bai nặng nề nhất cho ca
sỹ này cùng với những tác phẩm mà cô thể hiện.
Thêm một thực trạng khác của thị trường âm nhạc Thành phố là sự xuất hiện của những ca khúc dân gian đương đại6 kém chất lượng. Trong một lần trả
lời trên báo chí, nhạc sỹ Minh Châu cho rằng:
Việc khai thác chất liệu dân gian dường như có 2 khuynh hướng: đậm
đặc và nhạt nhòa. Ở khuynh hướng “đậm đặc” sự khai thác có thể quá
tập trung vào một thể loại, tác phẩm được xây dựng nặng tính học
thuật, đôi khi cầu kỳ hóa, khó thẩm thấu. Ở khuynh hướng “nhạt
nhòa”, ngôn ngữ âm nhạc quá giản đơn, nội dung tác phẩm nghèo nàn,
thiếu chiều sâu và thậm chí có phần tầm thường. Theo tôi, cả hai
nhánh này dường như vẫn chưa vào đúng mạch của âm nhạc dân gian,
đó là sự dân dã, bình dị nhưng sâu sắc, thâm thúy [130].
Âm nhạc dân gian đương đại chính là sự kết hợp của các yếu tố hiện đại
trên cơ sở những giá trị văn hóa truyền thống. Đây chính là xu hướng phát triển
tất yếu trong thời đại ngày nay của nền âm nhạc của mỗi quốc gia. Vì vậy, trước
những biểu hiện tiêu cực trên, các cơ quan cần thiết có những điều chỉnh hợp lý
và kịp thời.
Nguyên nhân của những hạn chế trên một phần là do biểu hiện thiếu bản
lĩnh nghệ thuật của các nhạc sĩ, đạo diễn…chỉ chạy theo vuốt ve những thị hiếu
tầm thường của thị trường. Việc đầu tư, sáng tạo để có những đứa con tinh thần
thật sự có chất lượng của người nghệ sĩ hiện nay đang bị những thị hiếu tầm
thường của nền kinh tế thị trường chi phối.
Nguyên nhân nữa là do đội ngũ làm công tác lý luận phê bình văn hóa
nghệ thuật còn nhiều hạn chế. Với tư cách là một khoa học, lý luận phê bình có
chức năng hướng dẫn và định hướng sáng tác sao cho phù hợp với văn hóa dân
tộc và sự phát triển của văn hóa nhân loại. Thực tiễn đã chứng minh, khoa học lý
104
luận, phê bình phát triển mạnh sẽ tạo dựng một nền công nghiệp nghệ thuật biểu
diễn phát triển bền vững. Muốn có một nền phê bình vững mạnh thì cần có một
lực lượng con người đủ mạnh về số lượng và chất lượng; sự dũng cảm - dám nói
thật, nói thẳng của nhà phê bình trên cơ sở một hệ quy chiếu khoa học, hợp thời
đại. Thế nhưng hiện nay, không chỉ riêng Tp. Hồ Chí Minh mà cả Việt Nam, ba
yếu tố này đều thiếu và yếu. Nhà lý luận phê bình thiếu một hệ quy chiếu cụ thể,
ổn định trên cơ sở những chuẩn mực về thẩm mỹ nghệ thuật để hoạt động
chuyên môn. Vì vậy, dẫn đến tình trạng, cùng một vở diễn nhưng nhiều ý kiến
khen - chê trái chiều, thậm chí là mâu thuẫn kịch liệt. Nhiều nhà phê bình còn áp
đặt lối tư duy lỗi thời, lạc hậu khi nhìn nhận, xem xét tác phẩm nghệ thuật. Một
số khác lại chạy theo xu hướng nghiệp dư hóa sân khấu, cổ xúy cho những giá trị
thiếu tính thẩm mỹ nghệ thuật. Điều này góp phần làm cho hoạt động biểu diễn
nghệ thuật thiếu tính định hướng. Nhưng có lẽ điều đáng ngạc nhiên nhất hiện
nay là hoạt động của giới lý luận phê bình sân khấu Thành phố dường như tách
khỏi hoạt động thực tiễn của sân khấu. Các nhà phê bình, lý luận sân khấu không
được tạo điều kiện thuận lợi để xem những vở diễn mới. Thậm chí, trong các
cuộc liên hoan, hội diễn hội tụ đủ các thành phần tiêu biểu của giới sân khấu
nhưng lại vắng bóng những nhà lý luận phê bình có tài, có tâm.
3.4.2.2. Tình trạng phát triển manh mún, không có sự liên minh, liên
kết giữa các lĩnh vực với nhau
Nhìn một cách tổng thể, thị trường nghệ thuật biểu diễn Tp. Hồ Chí Minh
phát triển nhỏ lẽ, manh mún và kém bền vững. Sức cạnh tranh của một số sản
phẩm nghệ thuật biểu diễn còn yếu so với các loại hình giải trí khác, thị trường
phát sinh nhiều vấn đề phức tạp và dần vượt khỏi tầm kiểm soát của cơ quan
quản lý Nhà nước. Cụ thể:
Thiếu sự hợp tác hiệu quả trong các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp có liên
quan trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn. Các doanh nghiệp văn hóa và các
mạng lưới doanh nghiệp sáng tạo đang bắt đầu tự tổ chức và hình thành nên các
mạng lưới, nhưng nhìn chung các mạng lưới này còn mỏng và chưa gắn kết với
105
các cơ hội chính sách mang tính chiến lược như các chương trình giáo dục,
chương trình hỗ trợ doanh nghiệp (thuế, thủ tục, vay vốn) hoặc các quy hoạch
xây dựng cơ sở vật chất phục vụ cho nghệ thuật biểu diễn ở đô thị.
Thiếu sự định hướng mang tính chiến lược từ các cơ quan nhà nước, thiếu
bàn tay của quy hoạch cũng chính là nguyên nhân của sự phát triển manh mún,
tự phát. Khi chúng tôi lấy ý kiến của cán bộ tham gia khảo sát về chính sách nhà
nước cần ưu tiên để tạo động lực phát triển CNVH thì có đến 96.2% ý kiến cho
rằng chiến lược phát triển chính là nội dung đầu tiên mà nhà nước cần dành
nhiều sự quan tâm nhất để có thể phát triển lĩnh vực này [Bảng 4, b.1, phụ lục 2].
Khả năng mở rộng, phát triển thị trường quốc tế của lĩnh vực nghệ thuật
biểu diễn Thành phố còn nhiều hạn chế:
Hiện nay, nếu nhìn bề nổi, có lẽ xiếc là lĩnh vực có nhiều thành công nhất
trong việc mở rộng thị trường ra ngoài biên giới. Bên cạnh xiếc, những nghệ sỹ
hoạt động trong lĩnh vực âm nhạc cũng có nhiều cố gắng trong việc phát triển thị
trường quốc tế. Hiện nay, việc lưu diễn nước ngoài của ca sỹ rất thường xuyên,
nhất là những ca sỹ nổi tiếng. Nhưng trên thực tế, phần lớn hoạt động này hoàn
toàn tự phát, nhỏ lẽ theo kiểu “mạnh ai nấy làm”. Vì vậy, tại Tp. Hồ Chí Minh,
không ít ca sỹ từng ra nước ngoài để tìm kiếm một thị trường lớn hơn. Họ cũng
xây dựng những kế hoạch, dự án rất nghiêm túc nhưng cho đến nay, vẫn chỉ là
những bước dò tìm ban đầu, chưa có bất kỳ một dự án, kế hoạch mở rộng thị
trường thực hiện và thành công, khó có một ca sỹ nào chiếm lĩnh thị trường âm
nhạc thế giới và có chỗ đứng vững chãi trong lòng người yêu nhạc quốc tế.
Tác giả Lê Duy Hạnh từng đưa ra một tầm nhìn:“Trong thời kỳ hội nhập
và phát triển, sân khấu chúng ta không thể nào cứ mãi quanh quẩn trong nước
mà đòi hỏi phải vươn mình ra thế giới”. Thế nhưng, thực tế cho thấy, việc đưa
công nghệ nghệ thuật biểu diễn “xuất khẩu” ra thị trường thế giới còn rất nhiều
khó khăn, thử thách lớn. Những khó khăn này có nhiều nguyên nhân, song
nguyên nhân lớn nhất là chúng ta vẫn chưa có những tác phẩm đủ chất lượng để
cạnh tranh với các đối thủ khác. Hơn nữa, Thành phố cũng không có bất kỳ một
106
đơn vị tổ chức nào chịu trách nhiệm trong việc hoạch định chiến lược để nghệ
thuật biểu diễn Thành phố đủ sức có thể khai thác thị trường thế giới một cách
hiệu quả. Chúng ta đã và đang hội nhập quốc tế về mọi mặt, trong đó có văn hóa.
Vì vậy, thiết nghĩ “xuất khẩu” nghệ thuật biểu diễn là một việc làm cần thiết và
có nhiều ý nghĩa quan trọng.
3.4.2.3. Thiếu định hướng chiến lược phát triển bền vững
Việc thiếu định hướng chiến lược phát triển bền vững thể hiện ở một số
phương diện sau:
Một là, chưa sử dụng hiệu quả công cụ marketing
Marketing trở thành một công cụ không thể thiếu trong bối cảnh kinh tế
thị trường. Vì vậy, trước sự cạnh tranh giữa các loại hình giải trí trên địa bàn
Thành phố ngày càng gay gắt, để tồn tại và phát triển, các đơn vị kinh doanh
trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn phải tăng cường công tác marketing. Tuy
nhiên, kết quả khảo sát cho thấy, hiện nay, công tác này ở các đơn vị còn nhiều
hạn chế.
Biểu 3.11: Thông tin về các chƣơng trình ca nhạc ở sân khấu này qua các kênh truyền thông
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
107
Truyền thông là một công cụ không thể thiếu trong bối cảnh thông tin hóa
như hiện nay. Ngày nay, đơn vị kinh doanh nghệ thuật biểu diễn nào biết khai
thác những ưu thế truyền tin vượt trội của các kênh thông tin đại chúng thì cơ
hội thành công trong kinh doanh sẽ đến. Tuy nhiên, tại các sân khấu ca nhạc
được khảo sát cho thấy chỉ có 10.7% khán giả được hỏi cho biết mình biết thông
tin về các chương trình của sân khấu này thông qua báo điện tử; 12% qua báo in
và 23.9% qua website của sân khấu; trong khi đó có đến 76% ý kiến cho biết mình
biết qua biển quảng cáo và 82.7% qua truyền miệng [Bảng 8, a.1, phụ lục 2].
Nhiều đơn vị, nhà sản xuất đã biết cách lập những trang Web riêng để giới thiệu
về đơn vị mình, hoặc quảng cáo cho tác phẩm. Nhưng đa số các trang web đều
rất “nghèo nàn”, đơn điệu và thiếu thông tin. Thậm chí có trang web còn không
đăng tải lịch diễn của đơn vị. Rất ít các trang web được đầu tư về cả nội dung và
hình thức; thiếu vắng hẳn các mục phê bình hay giao lưu, liên lạc với khán giả;
thiếu cả việc quản lý, liên kết, tổ chức các “fan” hâm mộ… Như vậy, các đơn vị
sân khấu ca nhạc được khảo sát chưa khai thác hiệu quả của các phương tiện
truyền thông hiện đại.
Biểu 3.12: Thông tin về các vở diễn của các sân khấu qua các kênh truyền thông Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
108
Đối với các công cụ truyền thông, nếu so với các sân khấu ca nhạc được
khảo sát sẽ thấy, các sân khấu kịch khai thác có hiệu quả hơn các công cụ truyền
thông hiện đại, đặt biệt là website điện tử. Điều này được thể hiện khi có đến 50.7%
khán giả kịch cho biết mình biết các vở kịch thông qua website của sân khấu. Tuy,
các hình thức truyền thông truyền thống là biển quảng cáo và truyền miệng vẫn là
kênh thông tin quan trọng nhất mà khán giả biết đến các sân khấu này.
Việc xây dựng chiến lược marketing - quảng bá thương hiệu cho hoạt
động của các đơn vị nghệ thuật biểu diễn trên địa bàn Thành phố vẫn chưa được
những cá nhân, tổ chức có liên quan nhận thức một cách đúng đắn, đầy đủ. Kết
quả khảo sát cho thấy, 100.0% các đơn vị biểu diễn nghệ thuật tại Tp. Hồ Chí
Minh - cả đơn vị công lập và tư nhân không có bộ phận chuyên trách công tác
marketing. Kinh phí dành cho hoạt động này chủ yếu được hiểu là “Khoản tiền
dành cho hoạt động quảng cáo, tiếp thị khi có sản phẩm mới ra đời”. Đặc biệt
đối với các đơn vị công lập, trong số kinh phí từ ngân sách nhà nước, không có
khoản nào dành cho hoạt động marketing. Thực trạng này khiến ông Gerald Lidstone7, trong một lần tổ chức tập huấn về marketing văn hóa nghệ thuật cho
các cán bộ, công nhân viên tại Việt Nam vào năm 2010 phải ngỡ ngàng “Tôi
không hiểu làm thế nào để khán giả biết đến các chương trình nghệ thuật của
họ. Nhân sự của các nhà hát cũng không hề được đào tạo về marketing, kể cả
các lãnh đạo. Trong nhận thức của họ cũng không coi marketing là quan trọng.
Đây quả là một vấn đề lớn”. Ở nhiều nước trên thế giới, các đoàn nghệ thuật
thường có khoản kinh phí độc lập cho hoạt động này, nó chiếm khoảng từ 15 đến
20% tổng vốn đầu tư cho một dự án nghệ thuật. Và khoảng 50 nghệ sỹ thì có
một nhóm nhân viên chuyên làm công tác tiếp cận, quảng bá hoạt động nghệ
thuật đến công chúng. Thế nhưng, tại Việt Nam nói chung, Tp. Hồ Chí Minh nói
riêng, việc marketing văn hóa nghệ thuật vẫn là một công việc mới mẻ. Điều này
cản trở rất lớn để ngành công nghiệp văn hóa của Thành phố có thể phát triển.
Hai là, chưa quan tâm giải quyết mối quan hệ giữa nghệ thuật biểu diễn
với phát triển du lịch
109
Hoạt động du lịch không chỉ mang tính chất kinh doanh mà đó còn là
những hoạt động văn hóa. Người đi du lịch không chỉ muốn thưởng thức những
thắng cảnh đẹp, lạ mà còn muốn khám phá những giá trị văn hóa phi vật thể của
con người. Do vậy, cần phải khơi dậy tiềm năng, các nguồn lực văn hóa để phát
triển du lịch theo hướng đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch,
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp phát triển một cách bền vững. Đặc biệt đối với
Tp. Hồ Chí Minh - điểm đến của nhiều du khách quốc tế, việc tạo ra sản phẩm
du lịch để tăng mức chi tiêu, giữ chân và sự quay trở lại của du khách là vấn đề
quan trọng mà ngành Văn hóa cần quan tâm. Việc khai thác những giá trị của
nghệ thuật biểu diễn để thu hút khách du lịch, nhiều nước trên thế giới đã làm rất
thành công. Tiêu biểu như Trung Quốc với sân khấu Kinh kịch cổ điển. Thái Lan
với các chương trình biểu diễn nghệ thuật hoành tráng đầy màu sắc và đậm nét
văn hóa truyền thống. Hay đảo quốc Singapore với những chương trình biểu
diễn nghệ thuật được quốc gia này đầu tư dàn dựng quanh năm. Nhật Bản với
kịch Kabuki và kịch Noh đậm nét văn hóa Nhật....
Tại Tp. Hồ Chí Minh, việc đưa nghệ thuật biểu diễn vào phục vụ du khách
cũng đã được triển khai những năm gần đây với dự án “Sân khấu du lịch”. Chủ
trương hoàn toàn đúng đắn và được nhiều đơn vị du lịch, nghệ thuật biểu diễn
tích cực hưởng ứng. Nhiều đơn vị nghệ thuật đầu tư dàn dựng các chương trình
sân khấu phục vụ du khách như Nhà hát Ca Múa Nhạc dân tộc Bông Sen cho ra
mắt chương trình nghệ thuật chủ đề “Đêm Tứ Bình”; Công ty Tổ chức biểu diễn
Thành phố với chương trình Ca múa nhạc “Bức tranh quê hương”; sân khấu
kịch Hồng Vân với dự án “Kịch tiếng Anh”… Tuy nhiên, nhiều vấn đề nan giải
chưa được giải quyết như kinh phí, nội dung, nguồn nhân lực... Vì vậy, nhiều
chương trình vẫn còn nằm trên giấy. Các Đoàn Nghệ thuật chờ đợi các đơn vị lữ
hành du lịch đưa du khách đến xem một cách bị động; ngược lại, phía Công ty
Du lịch thì không tự tin để dẫn khách đi xem do chất lượng của các chương trình
không đảm bảo.
Kết quả khảo sát cho thấy, hiện nay, 90.0% Công ty Du lịch, lữ hành
không đưa nội dung phục vụ du khách xem biểu diễn nghệ thuật vào chương
110
trình phục vụ của mình; bên cạnh đó, có đến 95.0% đơn vị nghệ thuật biểu diễn
của Thành phố không có một sự liên kết chặt chẽ giữa hoạt động biểu diễn của
đơn vị mình với hoạt động du lịch. Mối quan hệ giữa du lịch và nghệ thuật là
mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau và giúp nhau phát triển, tồn
tại. Du lịch góp phần bảo tồn, phát huy nghệ thuật. Nghệ thuật góp phần đa dạng
hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch. Tuy nhiên, cả hai vẫn chưa có sự
kết hợp để đạt hiệu quả cao trong những năm gần đây.
Ba là, chưa quan tâm giải quyết mối quan hệ giữa nghệ thuật biểu diễn
với doanh nghiệp kinh tế
Đối với các nước có nền công nghiệp biểu diễn phát triển như: Thái Lan,
Singapo, Anh, Đức, Mỹ, Pháp… thì mối quan hệ giữa các đơn vị tổ chức biểu
diễn với các doanh nghiệp làm kinh tế gắn bó rất mật thiết. Mối quan hệ này theo
kiểu “đôi bên cùng có lợi”. Đối với các đơn vị tổ chức biểu diễn, các doanh
nghiệp là chỗ dựa vững chắc về tài chính thông qua tài trợ để họ yên tâm sáng
tạo nên những tác phẩm nghệ thuật đỉnh cao. Ngược lại, khi tài trợ cho các đơn
vị nghệ thuật biểu diễn, không những các doanh nghiệp được Nhà nước miễn trừ
thuế, mà hình ảnh và sản phẩm của công ty họ còn tiếp cận thị trường một cách dễ
dàng hơn. Với họ, mối quan hệ này là một chiến lược marketing hết sức hiệu quả.
Có thể nói, chính mối quan hệ hữu cơ trên mà nghệ thuật biểu diễn ở các quốc gia
này có một sức mạnh phát triển đáng kể.
Trong khi đó, hiện nay, ở Việt Nam nói chung, Tp. Hồ Chí Minh nói
riêng, mối quan hệ giữa các đơn vị tổ chức nghệ thuật biểu diễn và các doanh
nghiệp kinh tế khác chỉ mới phát triển ở một mức độ thấp sau khi chủ trương xã
hội hóa văn hóa được Nhà nước ban hành. Ngoại trừ lĩnh vực âm nhạc, đa số các
loại hình nghệ thuật biểu diễn còn lại như kịch, cải lương, tuồng, múa rối… đều
rất khó tìm nguồn tài trợ, hoặc có nguồn tài trợ nhưng kém ổn định.
Nhìn chung, các đơn vị nghệ thuật ở Tp. Hồ Chí Minh vẫn còn nhiều hạn
chế trong “công nghiệp kinh doanh” nghệ thuật biểu diễn. Hạn chế chung chính
là việc tổ chức biểu diễn thiếu tính chuyên nghiệp. Việc thiếu chuyên nghiệp thể
111
hiện ở rất nhiều vấn đề, nhưng trước hết có lẽ là trong tư duy của các nhà sản
xuất. Biểu hiện của vấn đề này là việc nhiều nhà sản xuất (hay còn gọi là “bầu
sô”) đã đưa ra những thông tin quảng cáo không đúng sự thật, đánh lừa khán giả
và làm mất lòng tin ở khán giả. Hoặc, rất nhiều các đơn vị, các nhà sản xuất đã
đầu tư cho quảng cáo, hiểu về quảng cáo một cách máy móc. Họ hiểu rất rõ vai
trò của quảng cáo, nhưng lại làm không đúng cách. Kết quả, không những không
kéo khán giả đến với mình mà ngược lại - đánh mất khán giả.
Nguyên nhân của sự thiếu chuyên nghiệp này, có lẽ chủ yếu là do chưa có
một qui định, một cơ chế rõ ràng và chặt chẽ trong việc thành lập các đơn vị
nghệ thuật hay các công ty có chức năng biểu diễn nghệ thuật (cả điều kiện về cơ
sở vật chất và chuyên môn, kỹ năng đảm bảo có thể tổ chức được một buổi
diễn). Vì hoạt động tổ chức biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp có tính đặc thù
cao nên đòi hỏi người quản lý, điều hành vừa có tri thức về kinh doanh, am hiểu
thị trường, thị hiếu khán giả, đồng thời phải có tri thức và am hiểu về nghệ thuật
nữa. Trong thực tế, đa phần các công ty, đơn vị nghệ thuật (kể cả công lập) đều
chưa thỏa mãn được những yêu cầu này. Họ hoặc là nghệ sĩ, diễn viên đứng ra
quản lý, điều hành, tổ chức, hoặc là người chỉ biết kinh doanh mà không có sự
nhạy cảm, hiểu biết sâu về nghệ thuật [Phụ lục 3]. Vì thế kết quả của việc tổ chức
biểu diễn nghệ thuật nói chung trong thời gian qua ở Tp. Hồ Chí Minh chưa thật
sự có chất lượng đồng đều và cao. Thực chất của vấn đề này chính là sự yếu kém
của đội ngũ quản lý các đơn vị nghệ thuật. Hay nói cách khác, đó là trình độ quản
lý chưa thích ứng với cơ chế thị trường.
3.4.2.4. Vấn đề quản lý và chính sách của Nhà nước còn nhiều bất cập
Nếu Nhà nước có cơ chế quản lý khoa học, chính sách khuyến khích hợp
lý sẽ tạo động lực thúc đẩy sự phát triển bền vững của các hoạt động văn hóa,
trong đó có công nghiệp văn hóa. Thế nhưng, trên thực tế, cơ chế quản lý và chính
sách đối với hoạt động nghệ thuật biểu diễn còn nhiều điều bất cập, chưa phát huy
hết hiệu quả, không đáp ứng được yêu cầu phức tạp của thị trường. Cụ thể:
112
Sự chồng chéo trong công tác quản lý đã ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát
triển nền công nghiệp văn hóa trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn của Thành
phố, tạo nên môi trường phát triển kém bền vững và sự cạnh tranh thiếu công
bằng. Tiêu biểu là trong lĩnh vực âm nhạc. Hiện tại, thị trường âm nhạc Thành
phố xuất hiện nhiều sản phẩm kém chất lượng. Nguyên nhân là nếu đơn vị, địa
phương này không cấp phép biểu diễn, xuất bản thì xin đơn vị, địa phương khác.
Cũng chính vì thế mới xảy ra chuyện cấp phép chồng chéo, đơn vị này phủ định
quyết định của đơn vị khác, tạo ra vô số kẽ hở để thị trường âm nhạc ngày càng mất
tầm kiểm soát. Đơn cử như trường hợp album “Da nâu 1” của Phi Thanh Vân, dù
không được Sở VH, TT &DL Tp. Hồ Chí Minh không cho phép xuất bản nhưng
được Nhà xuất bản chuyên ngành âm nhạc cấp phép; album “Đàn ông là thế” của
nhóm Vboys bị Sở VH, TT & DL Tp. Hồ Chí Minh yêu cầu bỏ một số ca khúc có ca
từ không phù hợp, nhưng lại được một địa phương khác thông qua “nguyên bản”…
Theo kết quả khảo sát của chúng tôi, khi lấy ý kiến của cán bộ ở các sân
khấu về nguyên nhân cản trở sự phát triển ngành công nghiệp văn hóa trong lĩnh
vực nghệ thuật biểu diễn ở Thành phố hiện nay thì có đến đến 96% ý kiến cho
rằng công tác quản lý nhà nước là nguyên nhân quan trọng nhất cản trở đến sự
phát triển [Bảng 3, b.1. phụ lục 2]; 69% ý kiến của cán bộ Sở VH, TT & DL Tp.
Hồ Chí Minh cho đây là nguyên nhân quan trọng nhất [Bảng 3, b.2, phụ lục 2].
Điều này cũng phù hợp với thực tiễn hiện nay, khi mà công tác quản lý nhà nước
lĩnh vực văn hóa nghệ thuật nói chung và NTBD nói riêng đang tồn tại nhiều bất
cập, hạn chế.
Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi năm 2009) khẳng định: “Nhà nước
công nhận và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của mọi tổ chức, cá nhân”. Tuy nhiên,
tình trạng vi phạm quyền tác giả và các quyền liên quan trong lĩnh vực nghệ
thuật biểu diễn trên địa bàn Thành phố vẫn diễn ra phổ biến. Hiện tượng này xảy
ra một phần là do những kẻ hở trong luật và những văn bản dưới luật có khả
năng điều chỉnh hoạt động nghệ thuật biểu diễn. Trong một bài báo, Nhạc sĩ
Đinh Trung Cẩn - Giám đốc VCPMC phía Nam, nhấn mạnh:
113
Thực tế trong năm 2014 cho thấy, các hành vi xâm phạm quyền tác
giả vẫn đang diễn ra hết sức công nhiên, thách thức và gây tổn hại
không nhỏ đến quyền lợi chính đáng của các tác giả. Nhiều chương
trình âm nhạc, các live show được đầu tư bài bản, công phu, giá vé
bán hàng triệu hoặc hàng chục triệu đồng, cátsê ca sĩ được trả hàng
trăm triệu, chưa kể nguồn thu tương đối lớn từ các đơn vị tài trợ và
quảng cáo, thì nhạc sĩ nhiều khi không có lấy một đồng, hoặc nếu có
cũng chỉ hết sức tượng trưng cho qua. Các bầu sô lợi dụng kẽ hở từ
Nghị định 79 mà mặc sức sử dụng tác phẩm [134].
Ngay trong Luật sở hữu trí tuệ quy định các chương trình sử dụng tác
phẩm đã được phép công bố thì “không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận
bút, thù lao” cho tác giả. Rõ ràng, điều luật này khiến chủ sở hữu tác phẩm mất
quyền cho phép hay không cho phép các tổ chức biểu diễn sử dụng tác phẩm của
mình. Hay như tại điều 22 trong Quy chế 47 quy định: các cơ quan Nhà nước có
quyền cấp phép biểu diễn. Tuy nhiên, trong toàn bộ nội dung của quy chế này
(cùng nhiều văn bản luật và dưới luật khác) lại không quy định trong hồ sơ đơn
vị xin cấp phép phải có hợp đồng giữa nhà tổ chức với tác giả của các tác phẩm
nghệ thuật. Ngoài vấn đề trên, hiện tượng vi phạm bản quyền còn do năng lực
quản lý của các trung tâm thực thi bản quyền còn hạn chế, dẫn đến hiện tượng
thời gian qua còn nhiều điều tranh cãi xung quanh Luật bản quyền và các quyền
liên quan.
3.4.2.5. Sự thiếu thốn, lạc hậu về hệ thống cơ sở vật chất
Một hệ thống cơ sở vật chất hiện đại, đồng bộ là điều kiện quan trọng để
nghệ thuật biểu diễn nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. Thế nhưng, thực tế
sự nghèo nàn, thiếu thốn và lạc hậu của hệ thống cơ sở vật chất đã góp phần đẩy
hoạt động nghệ thuật biểu diễn Thành phố hiện ngày càng rơi vào hoàn cảnh khó
khăn hơn. Cụ thể:
Đối với hệ thống cơ sở vật chất phục vụ công tác đào tạo: hiện nay,
Thành phố có các cơ sở đào tạo chính quy là Trường Đại học Sân khấu - Điện
114
ảnh; Đại học Sài gòn (chuyên ngành Thanh nhạc); Đại học Văn hóa (chuyên
ngành Quản lý hoạt động sân khấu, Quản lý hoạt động âm nhạc), Nhạc viện
Thành phố, trường Cao đẳng Văn hóa nghệ thuật, trường Trung cấp Múa và
hàng chục trung tâm đào tạo tư nhân. Thế nhưng, kết quả khảo sát cho thấy,
100.0% đơn vị không đáp ứng được những yêu cầu về cơ sở vật chất phục cho
công tác đào tạo, đặc biệt những thiết bị phục vụ học thực hành. Điều này đã ảnh
hưởng rất lớn đến chất lượng đào tạo, bởi nghệ thuật biểu diễn là một ngành đặc
thù, nên trong quá trình đào tạo, đòi hỏi tính thực hành rất cao.
Bên cạnh đó, cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động biểu diễn của Thành
phố cũng thiếu thốn. Là một Thành phố với thị trường khoảng 10 triệu dân,
nhưng Thành phố không có bất kỳ một nhà hát đa năng nào đạt chuẩn quốc gia,
quốc tế có thể phục vụ cho những chương trình biểu diễn chuyên nghiệp, nhất là
những chương trình với quy mô lớn. Hiện nay, Tp. Hồ Chí Minh có khoảng 20
địa điểm có thể phục vụ biểu diễn nghệ thuật, nhưng kết quả khảo sát cho thấy,
100.0% cơ sở này không đáp ứng được các yêu cầu về sân khấu, cùng hệ thống
âm thanh, ánh sáng... Nhà hát Hòa Bình, vốn được xem là Nhà hát hiện đại nhất
Việt Nam với sức chứa 2.400 chỗ. Nhưng hiện nay, Nhà hát được cho thuê làm
rạp phim và sân khấu Nụ Cười Mới hoạt động. Vì vậy, khi các chương trình diễn
ra tại đây, việc tập luyện của nghệ sỹ hết sức khó khăn, bởi phần lớn thời gian
trong tuần đều dành để chiếu phim. Hay như Nhà hát Bến Thành, dù đây là đơn
vị sơ hữu hệ thống âm thanh có chất lượng khá tốt, nhưng sân khấu nhỏ - sức
chứa khoảng 1.046 chỗ, thiếu chiều sâu, cách bố trí ghế chưa phù hợp, cách âm
không tốt... Nhà hát Thành phố là địa điểm lý tưởng cho các chương trình nghệ
thuật hàn lâm. Thế nhưng, Nhà hát này luôn được ưu tiên cho các sự kiện chính
trị - xã hội, vì vậy việc tập duyệt chương trình cũng rất khó khăn. Trên địa bàn
Thành phố hiện nay, có lẽ Sân khấu Lan Anh được xem là địa điểm biểu diễn lý
tưởng nhất với sức chứa khoảng 2.500 chỗ cùng hệ thống âm thanh, ánh sáng
tương đối tốt. Mặc dầu vậy, sân khấu này vẫn không đảm bảo chất lượng cho các
chương trình có quy mô lớn, có những đòi hỏi cao hơn về kỹ thuật, đặc biệt là
115
các chương trình của nghệ sỹ quốc tế. Trong khi đó, CLB Phan Đình Phùng, nhà
thi đấu Nguyễn Du và sân vận động Quân khu 7 vốn dĩ không phải được xây
dựng để phục vụ cho hoạt động biểu diễn nghệ thuật, nên khi các chương trình
được tổ chức tại đây luôn gặp rất nhiều khó khăn trong việc thiết kế hệ thống âm
thanh, ánh sáng, ghế ngồi… vì vậy, chất lượng của chương trình không đảm bảo.
Các sân khấu như Trống Đồng, Cầu Vồng – dù đây là địa điểm biểu diễn thường
xuyên của hầu hết các nghệ sỹ - nhất là lĩnh vực âm nhạc. Thế nhưng, vì là sân
khấu ngoài trời, nên bên cạnh vấn đề chất lượng âm thanh, đơn vị tổ chức luôn
chịu sự phản ứng của người dân sống xung quanh do tiếng ồn làm ảnh hưởng
đến đời sống của họ.
Kết quả khảo sát cơ sở vật chất của các đơn vị kinh doanh nghệ thuật biểu
diễn tư nhân cho thấy, chỉ Sân khấu kịch 5B là có cơ sở riêng để biểu diễn, các
đơn vị còn lại đều phải thuê cơ sở để biểu diễn. Sân khấu kịch Hồng Vân thì thuê
tại Trung tâm Văn hóa quận Phú Nhuận; Kịch Idecaf thuê tại Trung tâm Văn hóa
và hợp tác Pháp; sân khấu Nụ Cười Mới thuê Nhà hát Hòa Bình; sân khấu Kịch
Sài Gòn thì thuê cơ sở tại Nhà hát Đại Đồng…Chính vì không có cơ sở riêng để
hoạt động, nên việc đầu tư cơ sở vật chất của các đơn vị này rất hạn chế, thiếu
tính chiến lược lâu dài.
Đi cùng với cơ sở vật chất phải kể đến trang thiết bị âm thanh, ánh sáng,
nhạc cụ... Bởi nó chính là phương tiện để chuyển tải nội dung trình diễn. Mặc
dầu, Nhà nước có chính sách đầu tư, nhưng các đơn vị nghệ thuật vẫn thường
xuyên phải đối phó với tình trạng thiết bị âm thanh thiếu thốn và lạc hậu. Hiện
nay, ở khu vực nhà nước và một số công ty tư nhân đã đầu tư trang thiết bị điện
tử như các bộ đều khiển âm thanh, ánh sáng điện tử, áp dụng kỹ thuật số…để
cho thuê. Tuy nhiên, do thiếu nguồn vốn nên 100% các thiết bị hiện đang sử
dụng ở các đơn vị nghệ thuật là không đồng bộ và hiện đại vì mua từ nhiều hãng
khác nhau, nhiều thời điểm khác nhau, chất lượng khác nhau…nhưng vẫn phải
lắp vào dùng chung, các phụ kiện kèm theo hầu hết là tự làm lấy. Bên cạnh tình
trạng đó, người sử dụng thiết bị âm thanh, ánh sáng hầu hết chưa được đào tạo
116
đúng chuyên ngành nên có thể gây ra hỏng hóc, chưa chú ý bảo quản chóng xóc,
chóng ẩm, chóng quá tải…
3.4.2.6. Vấn đề nguồn nhân lực còn hạn chế
Cùng với điều kiện cơ sở vật chất, yếu tố nguồn nhân lực giữ vai trò quyết
định đối với sự phát triển của công nghiệp văn hóa. Tuy nhiên, nguồn nhân lực
của nghệ thuật biểu diễn Thành phố cũng đang đứng trước những khó khăn, thử
thách rất lớn. Những loại hình nghệ thuật âm nhạc truyền thống – dân tộc, nhạc
giao hưởng - thính phòng, nghệ thuật múa chính thống đang thiếu đội ngũ đạo
diễn, diễn viên kế thừa. Trong khi đó, đối với lĩnh vực âm nhạc – loại hình nhạc
nhẹ phục vụ giới trẻ, kịch nói, nghệ thuật múa không chính thống lại rơi vào tình
trạng: thiếu nguồn nhân lực có chất lượng cao, thừa nguồn nhân lực có chất
lượng thấp. Nguyên nhân của hiện tượng này là do chất lượng đào tạo và sự thay
đổi thị hiếu của thị trường, vì vậy người học phải chọn những ngành học phù
hợp với nhu cầu xã hội.
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đến Sở VH, TT & DL Tp. Hồ
Chí Minh để lấy ý kiến đánh giá về chất lượng nguồn nhân lực phục vụ cho sự
phát triển của công nghiệp văn hóa trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn Thành
phố. Kết quả nghiên cứu cho thấy chỉ có 2.4% ý kiến đánh giá của cán bộ Sở cho
rằng chất lượng nguồn nhân lực phục vụ cho ngành công nghiệp văn hóa trong
lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn đạt tốt; 26.8% đạt mức khá trong khi có đến 70.7%
đạt từ mức trung bình đến yếu [Bảng 8, b.2, phụ lục 2]. Đánh giá này hoàn toàn
phù hợp với thực tiễn hiện nay, phần lớn nguồn nhân lực trong lĩnh vực NTBD
làm việc theo kinh nghiệm là chính, tỷ lệ người được đào tạo bài bản, chuyên
nghiệp rất thấp. Hơn nữa, môi trường đào tạo nguồn nhân lực cho lĩnh vực này ở
Việt Nam còn chưa phát triển hoàn thiện, vì vậy việc thiếu nguồn nhân lực chất
lượng cao là tất yếu.
Tiểu kết
Như vậy, quá trình khảo sát, đánh giá thực trạng loại hình nghệ thuật: âm
nhạc, kịch nói và múa ở Tp. Hồ Chí Minh trong thời gian qua trên các bình diện:
117
hoạt động sáng tạo/sản xuất; hoạt động kinh doanh, tổ chức biểu diễn và hoạt
động phân khúc thị trường, vấn đề bản quyền cho thấy một số thành tựu đã đạt
được theo hướng công nghiệp. Đó là: đội ngũ sáng tạo/ sản xuất được đào tạo bài
bản qua các trường lớp hoặc tự bỏ tiền ra nước ngoài để học tập khá đông. Cách
thức sáng tạo/sản xuất các sản phẩm nghệ thuật chuyên nghiệp. Trong quá trình
sáng tạo/ sản xuất và tổ chức biểu diễn đã áp dụng những thành tựu của khoa học kỹ
thuật - công nghệ tiên tiến. Các chủ thể đã biết quan tâm đến phát triển thị trường
bằng cách phân khúc thị trường và chọn thị trường mục tiêu, giới thiệu, quảng bá…
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được còn tồn tại một số hạn chế:
Sản phẩm nghệ thuật biểu diễn còn chạy theo thị hiếu tầm thường, tẻ nhạt. Thị
trường nghệ thuật biểu diễn thiếu những sản phẩm có chất lượng cao đáp ứng
nhu cầu của công chúng; tình trạng phát triển manh mún, không có sự liên minh,
liên kết giữa các lĩnh vực với nhau; thiếu định hướng chiến lược phát triển bền
vững. Ngoài ra, vấn đề quản lý và chính sách của Nhà nước còn nhiều bất cập; sự
thiếu thốn, lạc hậu về hệ thống cơ sở vật chất; vấn đề nguồn nhân lực cho phát
triển nghệ thuật biểu diễn của Tp. Hồ Chí Minh còn hạn chế… Để có một ngành
công nghiệp biểu diễn hoàn thiện và hiện đại, xứng tầm với quá trình phát triển
của đất nước, cũng như với thế giới thì đòi hỏi những hạn chế đang còn vướng mắc
phải được khắc phục và phát huy tối đa những mặt tích cực đã đạt được trong thời
gian qua. Việc phát triển ngành công nghiệp văn hóa chính là một yếu tố, một động
lực thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Tp. Hồ Chí Minh và cả nước,
đồng thời góp phần xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiến tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc.
118
Chƣơng 4
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN
NGHỆ THUẬT BIỂU DIỄN Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
HIỆN NAY VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ
4.1. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN NGHỆ THUẬT
BIỂU DIỄN Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY
Qua quá trình nghiên cứu, khảo sát thực trạng đề tài, tác giả luận án nhận
thấy một số vấn đề đặt ra đối với phát triển nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí
Minh hiện nay như sau:
4.1.1. Mâu thuẫn giữa nhu cầu hƣởng thụ của công chúng và khả
năng đáp ứng của lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn Thành phố
Nhu cầu hưởng thụ nghệ thuật của công chúng Tp. Hồ Chí Minh từ trước
đến nay vốn hết sức phong phú, đa dạng và phức tạp. Do sự đa dạng về thành
phần dân cư, trình độ dân trí, địa vị xã hội… vì vậy trình độ tiếp nhận cũng như
thị hiếu thẩm mỹ của công chúng cũng có những điểm khác nhau. Ngày nay, xã
hội phát triển, trình độ dân trí được nâng cao, dân chúng đến với nghệ thuật
không những chỉ giải trí đơn thuần. Sự hấp dẫn của văn hóa, văn nghệ hay nói rõ
hơn là sự hấp dẫn của các tác phẩm nghệ thuật phải là sự hấp dẫn của cái hay
chân chính. Sự hấp dẫn xuất phát từ nhu cầu văn hóa văn nghệ chân chính của xã
hội chứ không phải hấp dẫn vì chiều theo những đòi hỏi một cách tuỳ tiện và tự
phát của công chúng. Nhu cầu của công chúng muốn được thưởng thức những
bộ phim rõ nét, rõ hình, thích nghe những bài hát rõ tiếng, rõ lời, biết thể hiện
nội dung bài hát không chỉ qua chất giọng mà còn qua điệu bộ, phong cách biểu
diễn; thích hợp với những lớp kịch mang đậm tính hài có thể gây được những
tiếng cười no nê, thoải mái; thích được khóc theo diễn viên trong những màn bi,
được nhập thân vào những tình huống sôi nổi, hừng hực trong những cảnh,
những màn hùng tráng; thích được thấy thật rõ những cảnh sống thật, tâm trạng
thật của chính mình phản ánh lên sân khấu, lên màn ảnh… Ngay cả việc thích
119
tán dương, thích ngưỡng mộ thật hết mình đối với những ca sĩ, kịch sĩ, diễn viên
điện ảnh… có thực tài, có thanh, có sắc cũng là một nhu cầu hết sức chính đáng.
Vậy nhưng, khả năng đáp ứng của hoạt động văn hóa nghệ thuật biểu diễn của
Thành phố còn có những hạn chế nhất định. Mặc dầu, so với các địa phương
khác trong cả nước, Tp. Hồ Chí Minh đã đạt được những thành tựu đáng kể,
nhưng khi được khảo sát, số khán giả thực sự hài lòng (rất hài lòng) về những
chất lượng nội dung các vở diễn, chương trình ca nhạc chưa nhiều. Ngoài nhu
cầu hưởng thụ về chất lượng nội dung, còn phải kể đến những hạn chế về chất
lượng cơ sở vật chất: hệ thống âm thanh, ánh sáng, ghế ngồi; hạn chế về các dịch
vụ đi kèm, giá vé, thông tin quảng cáo trên các kênh truyền thông…
Khi được hỏi về mức độ hài lòng của ông/bà đối với chất lượng chương
trình ca nhạc tại sân khấu thì kết quả cho thấy tỷ lệ khán giả rất hài lòng về chất
lượng các chương trình ca nhạc khá thấp – chỉ chiếm 37.8% tỷ lệ khán giả được
khảo sát; trong khi có đến 62.2% khán giả chỉ dừng ở mức hài lòng đối với các
chương trình ca nhạc tại các sân khấu được khảo sát [Bảng 4, a.1, phụ lục 2].
Một tỷ lệ lớn khán giả chọn các sân khấu để xem đơn giản chỉ vì gần nhà; trong
khi đó chỉ có 36% khán giả được khảo sát cho biết lý do đến xem tại sân khấu
được khảo sát là vì tại đây có các chương trình nghệ thuật chất lượng cao [Bảng
2, a.1, phụ lục 2]. Đó là vấn đề mà các nhà quản lý tại các sân khấu được khảo
sát cần phải lưu tâm.
Đối với khán giả của các sân khấu kịch khi được hỏi về mức độ hài lòng
đối với chất lượng nội dung các vở diễn thì kết quả cho thấy tỷ lệ khán giả rất
hài lòng về chất lượng các vở kịch khá thấp – chỉ chiếm 30.1% tỷ lệ khán giả
được khảo sát; trong khi có đến 69.9% khán giả chỉ dừng ở mức hài lòng đối với
các vở kịch tại các sân khấu được khảo sát [Bảng 5, a.2, phụ lục 2].
120
Biểu 4.1: Mức độ hài lòng của khán giả đối với chất lƣợng nội dung các vở diễn Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
Điều đó cho thấy, dù phần lớn khán giả cho rằng kịch hay chính là lý do
để họ quyết định đến xem tại sân khấu [Bảng 2, a.2, phụ lục 2], thế nhưng khi họ
được hưởng thụ trực tiếp thì đã có những đánh giá hoàn toàn khác.
Nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn trên có nhiều, trước hết, đó là do trình
độ của đội ngũ làm công tác văn hóa, văn nghệ ở Tp. Hồ Chí Minh chưa thực sự
đồng bộ về mọi mặt. Đội ngũ các văn nghệ sĩ, diễn viên được đào tạo chính quy
tại các trường có chất lượng tốt chưa nhiều, trình độ tổng hợp về nghệ thuật, về
văn hóa, về chính trị chưa cao. Vì vậy, chất lượng buổi diễn còn hạn chế. Đội
ngũ nghệ sĩ, nghệ nhân giỏi nghề phần nhiều đã lớn tuổi, lực lượng kế thừa còn
non trẻ. Ngoài ra, về chất lượng tác phẩm nghệ thuật, còn hiếm những tác phẩm
giàu tính nhân văn, mang hơi thở thời đại, tạo được dấu ấn. Sàn diễn còn tràn
ngập những vở diễn, những bài hát sáo mòn, xa lạ với cuộc sống, quanh quẩn
với mâu thuẫn nhân vật cũ mòn. Diễn viên diễn sân khấu hoặc quá công thức,
hoặc quá tuỳ tiện, ít quan tâm đến việc kết hợp hài hoà giữa nghệ thuật ca diễn
để có một vai diễn hay. Hơn nữa, Tp. Hồ Chí Minh hiện có nhiều nhà hát, đoàn
nghệ thuật chuyên nghiệp do Nhà nước quản lý nhưng lại thiếu sân khấu đủ quy
121
chuẩn “chuyên nghiệp” để biểu diễn. Thực trạng đó đã không đáp ứng được nhu
cầu hưởng thụ ngày càng cao của công chúng nghệ thuật Thành phố.
4.1.2. Mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển ngành công nghiệp văn hóa
và thực trạng của lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn
Có thể khẳng định rằng, trong khi ngành công nghiệp văn hóa ở trên thế
giới phát triển mạnh mẽ, trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều quốc gia thì
ở Việt nam, xây dựng và phát triển ngành công nghiệp này vẫn ở giai đoạn khởi
đầu. Ngành công nghiệp văn hóa nước ta mới chỉ hình thành sau một thời gian dài
chuyển đổi từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường. Quá trình phát triển kinh tế -
xã hội theo cơ chế thị trường, chúng ta có khá nhiều lĩnh vực của đời sống văn hóa
đã, đang có sự chuyển biến, hướng đến phương thức sản xuất, phổ biến, tiêu dùng
văn hóa theo lối công nghiệp.
Một trong những nguyên nhân làm cho ngành công nghiệp văn hóa nói
chung và nghệ thuật biểu diễn nói riêng ở nước ta chậm phát triển, đó là nhận thức
chung của các cơ quan lãnh đạo và quản lý về vai trò, vị trí của ngành công nghiệp
này chưa đúng. Thậm chí, nhiều cấp, nhiều ngành còn xa lạ với thuật ngữ “công
nghiệp văn hóa”, chưa coi văn hóa như một ngành công nghiệp có khả năng tạo
nên sự phát triển kinh tế - xã hội cho đất nước.
Khi chúng tôi tiến hành khảo sát đội ngũ cán bộ tại các sân khấu về thuật
ngữ CNVH thì kết quả nghiên cứu cho thấy, một thực tế là không có một cán bộ
nào từ các đơn vị sân khấu được khảo sát hiểu một cách tường tận thuật ngữ này,
trong khi đó chỉ có 5.4% cán bộ tham gia khảo sát cho biết đang tìm hiểu; 49.1%
chưa bao giờ nghe, 40% đã nghe những không quan tâm [Bảng 1, b.1, phụ lục 2]
Điều này cho thấy thuật ngữ CNVH còn khá xa lạ đối với một bộ phận không nhỏ
cán bộ làm công tác quản lý trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật. Đây là một trở
ngại rất lớn để có thể phát triển ngành CNVH tại Thành phố.
122
Biểu 4.2: Đánh giá của cán bộ quản lý sân khấu về thuật ngữ CNVH Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
Cũng với nội dung câu hỏi này, chúng tôi khảo sát ở đối tượng cán bộ
quản lý nhà nước (Sở VH, TT & DL Tp. Hồ Chí Minh) thì kết quả nghiên cứu
cho thấy, nếu so với cán bộ quản lý tại các đơn vị nghệ thuật thì tỷ lệ cán bộ tại
cơ quan quản lý nhà nước hiểu rõ về thuật ngữ CNVH (tỷ lệ 14.6%), đồng thời
có đến 35.4% cán bộ tham gia khảo sát cho biết đang tìm hiểu về thuật ngữ này;
trong khi đó chỉ có 10.4% cán bộ chưa bao giờ nghe đến thuật ngữ này và 22.9%
cán bộ đã nghe nhưng không quan tâm [Bảng 1, b.2, phụ lục 2]. Kết quả này
chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của ngành CNVH của Thành phố. Tuy
nhiên, kết quả này cho thấy thuật ngữ CNVH không còn xa lạ đối với cán bộ làm
công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật. Đây là một lợi thế
để có thể thúc đẩy sự phát triển của ngành CNVH tại Tp.Hồ Chí Minh.
123
Biểu 4.3: Đánh giá của cán bộ quản lý nhà nƣớc (Sở VH, TT & DL Tp. Hồ Chí Minh) về thuật ngữ CNVH Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
Cho đến nay, việc xây dựng Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp
văn hóa ở Việt Nam cũng chỉ mới nằm ở bản dự thảo.
4.1.3. Mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển công nghiệp nghệ thuật biểu
diễn và sự bất cập về thể chế liên quan
Trong thời gian qua, các chủ thể tham gia hoạt động trong ngành thuộc
lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn đã khá nhanh nhạy trong nhận thức cũng như trong
thực tiễn. Trên cơ sở những định hướng của Đảng về phát triển kinh tế, văn hóa
xã hội, họ hướng phát triển lĩnh vực của mình trong xu thế toàn cầu hóa và hội
nhập quốc tế. Từ đó, các chủ thể đã chủ động tích cực trong việc đổi mới kỹ
thuật và công nghệ, tiếp cận thị trường, bám sát nhu cầu, thị hiếu của xã hội để
tạo nên những sản phẩm văn hóa vừa thể hiện bản sắc độc đáo của văn hóa Việt
Nam, vừa tiếp thu những thành tựu văn hóa, văn minh của nhân loại, làm đa dạng và
phong phú đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân, tạo tiền đề quan trọng cho ngành
công nghiệp nghệ thuật biểu diễn phát triển. Tuy nhiên, qua quá trình thực hiện, họ
gặp phải nhiều vướng mắc, nhất là thiếu một hành lang pháp lý để họ thực hiện.
124
Trước những băn khoăn, bức xúc về rất nhiều bất cập đã và đang tồn tại
trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn, lần đầu tiên, Uỷ ban Văn hóa, Giáo dục
thanh niên, thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội đã tiến hành giám sát việc thi
hành chính sách, pháp luật về nghệ thuật biểu diễn từ tháng 7 đến tháng 10/2010.
Quá trình giám sát đã nhận ra lĩnh vực này đang tồn tại quá nhiều vấn đề. Theo
GS.TS Nguyễn Minh Thuyết, nguyên Phó Chủ nhiệm Uỷ ban đã khẳng định:
Lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn đang rất thiếu những văn bản quy phạm
pháp luật. Điều chỉnh trực tiếp trong lĩnh vực này mới chỉ có các quy
chế, được ban hành theo quyết định của Bộ trưởng. Mà theo Luật Ban
hành văn bản quy phạm pháp luật hiện hành thì quyết định của Bộ
trưởng không được xem là văn bản quy phạm pháp luật [128].
TS. Nguyễn Danh Ngà trong một bài viết đăng trên báo gần đây cũng đã
khẳng định: Công nghiệp văn hóa là một ngành công nghiệp, vì thế cần có một
hệ thống chính sách phù hợp. Trình độ quản lý hành chính về văn hóa trực tiếp
tác động vào công nghiệp văn hóa. Quản lý văn hóa đòi hỏi phải có hành lang
pháp lý thuận lợi cho quá trình sản xuất và tiêu dùng văn hóa, quản lý vĩ mô là
chính, vi mô là phụ, tổng hợp cả những biện pháp về kinh tế và pháp luật, hành
chính, giáo dục, dư luận, tin tức. Bởi vậy, cần hoàn thiện hơn hệ thống quản lý
nhà nước, tạo hành lang pháp lý cho sự hình thành thị trường văn hóa lành mạnh.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách nhằm khuyến khích sự sáng tạo của
các chủ thể nghệ sĩ, các nhà hoạt động văn hóa, sáng tạo văn hóa. Trong các
chính sách, thúc đẩy nền công nghiệp văn hóa phát triển, quan trọng nhất là
chính sách ưu đãi về đầu tư, thuế… và chính sách đối với các sản phẩm văn hóa
khi sản xuất và lưu thông trên thị trường.
Quá trình xã hội hóa hoạt động nghệ thuật biểu diễn đang diễn ra vô cùng
sôi động ở Tp. Hồ Chí Minh. Các lĩnh vực ca múa nhạc, sân khấu ra đời nhiều
ban, nhóm tại các nhà văn hóa, câu lạc bộ và nổi bật với phong trào sân khấu
nhỏ. Quá trình xã hội hóa diễn ra với các cấp độ khác nhau. Có thể tạm phân ra
125
thành các hình thức sở hữu như: hình thức bán công, hình thức dân lập, hình
thức tư nhân. Mặc dù quá trình xã hội hóa các hoạt động biểu diễn đã thành chủ
trương, chính sách của Nhà nước nhưng trên thực tế vẫn tiến hành một cách tự
phát, mạnh ai nấy làm, chưa có quy hoạch cụ thể. Hoạt động biểu diễn nghệ
thuật có xu hướng thương mại hóa, bỏ quên mục đích phục vụ chính trị, cho ra đời
các chương trình biểu diễn ve vuốt thị hiếu tầm thường của công chúng. Đầu tư cho
nghệ thuật không cao. Luật doanh nghiệp ra đời, vấn đề cổ phần hóa được đặt ra,
các đơn vị xã hội hóa vẫn lúng túng vì chưa có cơ sở văn bản hướng dẫn để chuyển
đổi thành một đơn vị doanh nghiệp hoạt động theo luật định ở lĩnh vực này.
4.1.4. Khoảng cách lớn về nguồn nhân lực để phát triển công nghiệp
văn hóa của Thành phố so với khu vực và thế giới
Ở các nước trong khu vực và trên thế giới, ngành công nghiệp văn hóa đã
phát triển rất mạnh mẽ và trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Công nghiệp văn
hóa góp phần tăng trưởng GDP và giải quyết công ăn việc làm cho người lao
động, tác động trực tiếp đến nền kinh tế của các nước:
Từ năm 2000 đến 2010, các ngành công nghiệp văn hóa nói chung
hàng năm đã tăng trưởng nhiều hơn hai lần so với ngành công nghiệp
dịch vụ và gấp bốn lần so với lĩnh vực sản xuất ở các nước phát triển
và đang phát triển. Thị trường toàn cầu chỉ riêng lĩnh vực âm thanh -
hình ảnh ước tính đạt 516 tỷ đô vào năm 2008. Tổng giá trị của xuất
khẩu về hàng hóa và dịch vụ sáng tạo đạt 592 tỷ đô vào năm 2008, và
tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp trong thời gian sáu năm này
đạt trung bình 14% [86, tr.2].
Nhưng ở Việt Nam nói chung, Tp. Hồ Chí Minh nói riêng bước vào quá
trình phát triển ngành công nghiệp văn hóa muộn hơn nhiều, kinh nghiệm để
phát triển các lĩnh vực phát triển công nghiệp văn hóa còn nhiều hạn chế. Đội
ngũ nguồn nhân lực để phát triển lĩnh vực này còn rất mỏng, vừa thiếu lại vừa
yếu. Ngoài một số ít cá nhân tài năng như các nghệ sĩ, các nhà sản xuất kinh
doanh, tổ chức các hoạt động văn hóa có năng lực sáng tạo tốt, nhanh nhạy trong
126
kết nối toàn cầu và quan trọng là rất tâm huyết với lĩnh vực mới mẻ này thì phần
đông nguồn nhân lực còn thiếu về kiến thức kinh tế trong văn hóa, đạo đức trong
kinh doanh các sản phẩm văn hóa, kiến thức về luật pháp và giao lưu quốc tế
trong hoạt động văn hóa…
Khi chúng tôi lấy ý kiến của cán bộ Sở VH, TT & DL Tp. Hồ Chí Minh
về những vấn đề đặt ra hiện nay đối với sự phát triển của ngành công nghiệp văn
hóa trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn Tp. Hồ Chí Minh (theo đánh giá thứ tự
ưu tiên một số bình diện như mâu thuẫn giữa nhu cầu hưởng thụ và khả năng đáp
ứng của Thành phố; mâu thuẫn giữa áp lực quốc tế và năng lực trong nước; mâu
thuẫn giữa trình độ quản lý và nhu cầu phát triển; mâu thuẫn giữa nguồn nhân
lực của CNVH với tốc độ phát triển của khu vực và thế giới) thì kết quả nhận
được như sau:
Biểu 4.4: Các vấn đề đặt ra hiện nay đối với sự phát triển của CNNTBD
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
Mâu thuẫn giữa nhu cầu hưởng thụ của khán giả và khả năng đáp ứng của
thị trường chính là vấn đề nghiêm trọng nhất hiện nay trên thị trường văn hóa
nghệ thuật. Thực tế là hiện nay có sự chênh lệch khá lớn giữa nhu cầu thưởng
127
thức nghệ thuật của công chúng và khả năng đáp ứng của các doanh nghiệp kinh
doanh. Nguyên nhân của hiện tượng này có thể do sự hạn chế về nguồn lực của
chính các doanh nghiệp hoặc hạn chế về khả năng thanh toán của các phân khúc
thị trường. Mâu thuẫn giữa trình độ quản lý và nhu cầu phát triển là mức độ quan
trọng thứ hai. Điều này hoàn toàn hợp lý khi mà chất lượng nguồn nhân lực để
giúp cho ngành CNVH phát triển là một trong những hạn chế lớn nhất hiện nay.
Mức độ quan trọng tiếp theo là sự mâu thuẫn giữa nguồn nhân lực của CNVH
với tốc độ phát triển của khu vực và thế giới. Thực tiễn phát triển hiện nay cho
thấy, nếu so với thế giới và khu vực, rõ ràng trình độ phát triển một cách toàn
diện của nền CNVH tại Việt Nam quá non trẻ và còn tồn tại vô vàn hạn chế, đặc
biệt là cơ chế thị trường và chủ trương chính sách của nhà nước. Mâu thuẫn giữa
áp lực quốc tế và năng lực trong nước là vấn đề quan trọng cuối cùng. Đó chính
là áp lực về toàn cầu hóa, quốc tế hóa ngành CNVH với khả năng thích nghi,
thức ứng, tồn tại và phát triển của chính các doanh nghiệp trong nước. Nếu
không hạn chế được mâu thuẫn này thì rất có thể, thị trường văn hóa nghệ thuật
vốn còn biên độ phát triển rất rộng này sẽ bị các doanh nghiệp nước ngoài lần
lượt thâu tóm [Bảng 10, b.2, phụ lục 2].
Nói tóm lại, ở Việt Nam nói chung, Tp. Hồ Chí Minh nói riêng hiện nay
lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn chưa phát triển đầy đủ với tư cách của một ngành
công nghiệp đúng nghĩa chuyên nghiệp. Nguyên nhân của sự thiếu chuyên
nghiệp này chủ yếu là do chưa có những quy định, cơ chế rõ ràng và chặt chẽ
trong việc thành lập các đơn vị nghệ thuật hay các công ty có chức năng biểu
diễn nghệ thuật (cả điều kiện về cơ sở vật chất và chuyên môn, kỹ năng đảm bảo
để tổ chức biểu diễn một cách chuyên nghiệp). Vì hoạt động tổ chức biểu diễn
nghệ thuật chuyên nghiệp có tính đặc thù cao, đòi hỏi người quản lý, điều hành
vừa có tri thức về kinh doanh, am hiểu thị trường, thị hiếu khán giả, đồng thời
phải có tri thức và am hiểu về nghệ thuật nữa. Trong thực tế, đa phần các công
ty, đơn vị nghệ thuật (kể cả công lập) đều chưa thỏa mãn được những yêu cầu
này. Họ hoặc là nghệ sĩ, diễn viên đứng ra quản lý, điều hành, tổ chức, hoặc là
128
người chỉ biết kinh doanh mà không có sự nhạy cảm, hiểu biết sâu về nghệ thuật.
Vì thế kết quả của việc tổ chức biểu diễn nghệ thuật nói chung trong thời gian
qua ở Tp. Hồ Chí Minh chưa thật sự có chất lượng đồng đều và cao. Thực chất
của vấn đề này chính là sự yếu kém của đội ngũ quản lý các đơn vị nghệ thuật.
Hay nói cách khác, đó là trình độ quản lý chưa thích ứng với cơ chế thị trường.
Cần nhanh chóng đào tạo nguồn nhân lực để phát triển lĩnh vực này đáp ứng yêu
cầu trong nước, đồng thời kéo gần khoảng cách với các nước khác trên thế giới.
4.2. DỰ BÁO XU HƢỚNG VẬN ĐỘNG, PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP
VĂN HÓA VÀ NGHỆ THUẬT BIỂU DIỄN Ở VIỆT NAM NÓI CHUNG VÀ
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NÓI RIÊNG
Việt Nam đang trong bối cảnh chuyển đổi nhanh chóng và mạnh mẽ trên
tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa và xã hội. Quản lý và phát triển các ngành
công nghiệp văn hóa là một vấn đề mới mẻ. Tuy nhiên, với kinh nghiệm phát
triển các lĩnh vực văn hóa nghệ thuật từ trước tới nay, thêm vào đó là quá trình
đổi mới nhận thức và chính sách, cơ chế quản lý hiện nay, kết hợp với nghiên
cứu và vận dụng linh hoạt, sáng tạo kinh nghiệm của các nước trên thế giới, chắc
chắn Việt Nam sẽ từng bước phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, đóng
góp tích cực vào sự phát triển kinh tế và phát triển văn hóa, xã hội của đất nước;
phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Xuất phát từ bối cảnh quốc tế và trong nước cùng với những chủ trương,
đường lối, chiến lược văn hóa đã đề ra, trong thời gian tới, các hình thái sản xuất
sản phẩm văn hóa sẽ xuất hiện đa dạng. Tuy nhiên sẽ có sự sắp xếp lại các lĩnh
vực sản xuất, kinh doanh, dịch vụ văn hóa theo hướng phù hợp với phát triển
ngành công nghiệp văn hóa. Trong điều kiện Việt Nam phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay, sẽ có loại hình do thị trường tự
giải quyết, có loại bán công nghiệp, có loại Nhà nước phải tự đứng ra làm. Việc
xã hội hóa trong lĩnh vực này được thực hiện ngày càng hiệu quả hơn.
Lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn sẽ ngày càng có những bước phát triển
mới. Nhu cầu thưởng thức văn hóa nghệ thuật ngày càng phong phú và đa dạng,
đòi hỏi cao hơn về chất lượng nghệ thuật. Nghệ thuật biểu diễn là loại hình
129
không thể thiếu trong việc đáp ứng đời sống tinh thần sẽ nhanh chóng nắm bắt
các nhu cầu, thị hiếu của công chúng, không ngừng đổi mới để đáp ứng nhu cầu
ngày càng đa dạng của khán giả. Do ảnh hưởng của các yếu tố ngoại sinh cũng
như do sự tìm tòi của các văn nghệ sĩ nên một số thể loại trong nghệ thuật biểu
diễn sẽ có những biến tấu nhất định. Những tác phẩm nghệ thuật mang tính giải
trí ngày càng xuất hiện nhiều hơn và được công chúng đón nhận cởi mở hơn.
Tính chuyên nghiệp của những người tham gia vào phát triển nghệ thuật biểu diễn
sẽ được nâng cao bởi được đào tạo bài bản ở trong nước và ngoài nước. Hàng rào
ngôn ngữ cản trở thu các kỹ thuật tân tiến, các trào lưu văn hóa và kinh nghiệm hoạt
động văn hóa nghệ thuật quốc tế sẽ dần được khắc phục. Khả năng cạnh tranh thị
trường trong nước và thế giới của nghệ thuật biểu diễn ngày càng tăng cao. Mức độ
thị trường hóa của sản phẩm nghệ thuật biểu diễn ngày càng đa dạng…
Là một Thành phố công nghiệp trẻ, năng động, dân số đông nhất nước,
Tp. Hồ Chí Minh sẽ có một đội ngũ công chúng ngày càng đông đảo. Văn hóa
nghệ thuật lại là một hình thái ý thức xã hội nhạy cảm sẽ nhanh chóng nắm bắt
được các nhu cầu, thị hiếu của công chúng, không ngừng tự đổi mới để đáp ứng
yêu cầu đa dạng của khán giả. Tp. Hồ Chí Minh ngày càng chứng tỏ không chỉ là
một Thành phố có những hoạt động về kinh tế sôi nổi mà thị trường nghệ thuật ở
Tp. Hồ Chí Minh cũng sôi nổi không kém. Khi điều kiện kinh tế của người dân nơi
đây ngày càng đầy đủ thì thói quen đến các phòng trà, rạp hát thưởng thức nghệ
thuật sẽ thường xuyên hơn, nhu cầu thưởng thức văn hóa nghệ thuật ngày càng đa
dạng và phong phú hơn. Đây là một điều kiện rất tốt cho việc phát triển nghệ thuật.
Thời gian vừa qua, Thành phố đã chú trọng tạo điều kiện để phát triển văn
hóa nói chung và hoạt động biểu diễn nghệ thuật nói riêng. Tuy nhiên, có thể
thấy rằng, trong hoàn cảnh kinh tế chung của nước ta hiện nay, với số kinh phí
ngân sách phân bổ cho lĩnh vực văn hóa - thông tin cũng chỉ đạt được trên dưới
1,6% thì những đầu tư ấy cũng chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của hoạt
động biểu diễn nghệ thuật. Vì thế, thời gian tới Thành phố sẽ tiếp tục khuyến
khích các thành phần kinh tế ngoài công lập tham gia dưới mọi hình thức để bảo
130
tồn phát huy các giá trị văn hóa dân tộc, phát triển các loại hình nghệ thuật
đương đại. Đồng thời, khuyến khích tập thể, tư nhân liên doanh, liên kết xây dựng
các rạp hát, trung tâm biểu diễn, tổ chức hoạt động biểu diễn, kinh doanh trang thiết
bị biểu diễn, âm thanh, ánh sáng… để phát triển nghệ thuật biểu diễn. Xã hội hóa
nghệ thuật biểu diễn sẽ phát triển càng phong phú và đa dạng ở nhiều loại hình.
Xu hướng mở rộng liên doanh, liên kết, hợp tác với các nước trong khu
vực và trên thế giới để phát triển công nghiệp văn hóa ở Tp. Hồ Chí Minh ngày
càng đa dạng và phong phú hơn. Tp. Hồ Chí Minh là cửa ngõ giao lưu các nền
văn hóa trên thế giới, là nơi tiếp nhận cái mới nhanh và mạnh mẽ nên quá trình
trao đổi các sản phẩm văn hóa nghệ thuật ngày càng gia tăng. Quá trình liên
doanh, liên kết này sẽ góp phần nâng cao nội lực của công nghiệp văn hóa Tp.
Hồ Chí Minh, sáng tạo ra nhiều giá trị và sản phẩm văn hóa mới để đáp ứng nhu
cầu của nhân dân Thành phố và nhân dân cả nước, khẳng định bản sắc và bản
lĩnh dân tộc, góp phần quảng bá hình ảnh Tp. Hồ Chí Minh và văn hóa Việt Nam
cho bạn bè thế giới, giảm bớt sự xâm nhập tràn lan của các sản phẩm văn hóa
nước ngoài tràn vào. Phát triển nghệ thuật biểu diễn trên cơ sở kết hợp hài hòa
giữa tính dân tộc và tính quốc tế ngày càng gia tăng. Nghĩa là vừa bảo tồn và
phát huy loại hình văn hóa truyền thống tiêu biểu, vừa tiếp thu, tiếp biến những
tinh hoa văn hóa nhân loại tạo nên những tác phẩm nghệ thuật vừa dân tộc, vừa
hiện đại để đáp ứng cư dân Thành phố.
Vấn đề phân đoạn thị trường, chọn thị trường mục tiêu, phát triển thị
trường cũng như khâu tổ chức và biểu diễn nghệ thuật sẽ ngày càng được quan
tâm và phát triển theo xu hướng chuyên nghiệp hơn. Các đơn vị nghệ thuật sẽ cử
người đi du học ở nước ngoài để phát triển lĩnh vực này. Sự góp mặt của Việt
Nam tại các giải thưởng, các hoạt động văn hóa nghệ thuật quốc tế trở nên
thường xuyên hơn.
Một số chính sách, pháp luật về biểu diễn nghệ thuật còn bất cập sẽ sớm
được điều chỉnh, tạo hành lang pháp lý cho các nhà đầu tư, các nhà quản lý cũng
như đội ngũ văn nghệ sĩ hoạt động thuận lợi hơn.
131
Vấn đề bảo vệ bản quyền, sở hữu trí tuệ, cơ chế mở rộng thị trường hàng
hóa dịch vụ văn hóa sẽ được quan tâm nhiều hơn. Một lý do giải thích cho đóng
góp của ngành công nghiệp văn hóa vào nền kinh tế thế giới là do sự phát triển
của các sản phẩm văn hóa có giá trị trí tuệ cao. Chính vì lẽ đó, quyền bảo vệ sở
hữu trí tuệ là hết sức quan trọng đối với sự phát triển của ngành công nghiệp văn
hóa. Thông qua quá trình phân phối thu nhập và chi phí giữa những cá nhân khác
nhau tham gia, nó tạo ra ảnh hưởng đến kinh tế và thúc đẩy sự phát triển.
Mục tiêu, phương hướng phát triển công nghiệp văn hóa Việt Nam trong
bối cảnh hiện nay và tương lai đã được Đảng ta định hướng rất rõ, đó là: Vẫn
tiếp tục ưu tiên và đặt hiệu quả xã hội lên hàng đầu, trước nhất, sau đó mới chú
trọng đến hiệu quả kinh tế. Kinh tế phát triển là nền tảng cho công cuộc xây
dựng sự nghiệp văn hóa, nhưng trong tình hình hiện tại, vẫn phải quan tâm hàng
đầu đến hiệu quả xã hội của văn hóa:
Mục đích căn bản phát triển của việc xây dựng công nghiệp văn hóa
của chúng ta không phải là để kiếm tiền mà để nâng cao tố chất văn
hóa khoa học của nhân dân, xây dựng con người với 5 đức tính cơ bản
mà Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII đã nêu ra, bảo đảm xây dựng
nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp đổi mới của chúng ta. Xây
dựng công nghiệp văn hóa không thể đi chệch hướng với những mục tiêu
căn bản này” [134].
Trong quá trình xây dựng và phát triển ngành công nghiệp văn hóa Việt
Nam, nhất định phải chú ý đến một số nguyên tắc sau:
Một là, trước hết cần khẳng định: phát triển ngành công nghiệp văn hóa
phải hướng tới xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc. Mặc dầu, CNVH phát triển sẽ mang lại nguồn lực kinh tế đáng kể nhưng
không vì lợi nhuận mà bỏ quên chức năng quan trọng của văn hóa là định hướng
giá trị. Phát triển CNVH phải đặt hiệu quả xã hội lên trên hết, mọi hoạt động văn
hóa, sản phẩm văn hóa ra đời đều phải hướng đến xây dựng con người và môi
trường văn hóa. Xây dựng và phát triển công nghiệp văn hóa nhằm góp phần
khẳng định những giá trị tích cực của văn hóa dân tộc, đầu tư cho việc bảo lưu
132
và phát huy những loại hình nghệ thuật biểu diễn truyền thống; xây dựng và phát
triển một số loại hình nghệ thuật cổ điển thế giới phù hợp với điều kiện của Việt
Nam, chống lại âm mưu lợi dụng văn hóa, áp đặt mô hình văn hóa ngoại lai vào
nước ta. Muốn thực hiện được điều này cần phải nâng cao năng lực lãnh đạo và
quản lý của các cơ quan chức năng đối với lĩnh vực công nghiệp văn hóa. Các cơ
quan lãnh đạo và quản lý các cấp cần nhận thức sâu sắc hơn vai trò của việc phát
triển ngành công nghiệp văn hóa trong thời kỳ hiện nay, xác định quan điểm và
định hướng phát triển cho lĩnh vực này để tạo nên sự phát triển toàn diện và
đồng bộ.
Hai là, phát triển công nghiệp văn hóa phải hướng tới phục vụ sự nghiệp
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Phải cải cách phương thức phát triển sự
nghiệp văn hóa cũ để đi theo con đường phát triển công nghiệp hóa phù hợp với yêu
cầu thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, sự nghiệp xây dựng và phát triển
ngành công nghiệp văn hóa phải hướng tới góp phần cổ vũ, động viên nhân dân tích
cực tham gia vào sự nghiệp xây dựng đất nước ngày càng văn minh, giàu đẹp.
Ba là, thực hiện tốt chính sách xã hội hóa trong hoạt động của ngành công
nghiệp văn hóa. Một trong những vấn đề vừa mang tính thời sự, vừa có ý nghĩa
lâu dài, liên quan đến sự tồn tại và tác động tới chiều hướng phát triển của công
nghiệp văn hóa nói chung, lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn nói riêng là quá trình xã
hội hóa. Nói cách khác, đã đến lúc cần một nhận thức mới cùng những động thái
mới cho công tác xã hội hóa, bởi đây chính là yếu tố quan trọng thúc đẩy các
hoạt động nghệ thuật phát triển đúng hướng với hiệu quả cao. Quá trình chuyển
đổi từ cơ chế bao cấp sang cơ chế kinh tế thị trường định hướng XHCN tất yếu
dẫn đến nhu cầu xã hội hóa trên nhiều lĩnh vực, trong đó có hoạt động nghệ
thuật. Cần phải có những chính sách cởi mở và thông thoáng để tranh thủ các
nguồn lực trong nước và quốc tế tham gia, tạo nên sự cạnh tranh năng động và
lành mạnh trong lĩnh vực này vừa đáp ứng nhu cầu tinh thần ngày càng cao của
xã hội, vừa góp phần phát triển kinh tế - xã hội.
133
Bốn là, nắm vững quy luật của nền kinh tế thị trường, nghiên cứu, xem
xét đặc điểm của sản xuất sản phẩm văn hóa và dịch vụ văn hóa để từ đó có tư
tưởng đối sách phù hợp, tuân theo quy luật phát triển tự thân của công nghiệp
văn hóa.
Năm là, đẩy mạnh giao lưu và hợp tác quốc tế để phát triển nền công
nghiệp văn hóa. Trong bối cảnh thế giới còn có nhiều biến đổi về kinh tế và công
nghệ, tri thức và sáng tạo có tầm quan trọng ngày càng gia tăng với tư cách là
động lực của tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa. Mở rộng giao lưu và hợp
tác quốc tế để tranh thủ nguồn vốn, kỹ thuật và công nghệ, kinh nghiệm quản lý,
tiếp cận thị trường khu vực và quốc tế, nâng cao năng lực cạnh tranh trong hội
nhập quốc tế.
4.3. KHUYẾN NGHỊ VỀ CÁC GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN LĨNH
VỰC NGHỆ THUẬT BIỂU DIỄN Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
4.3.1. Thay đổi nhận thức về vai trò của công nghiệp văn hóa
Muốn phát triển ngành công nghiệp mới mẻ này cần phải thay đổi nhận
thức. Trước hết, đó là sự thay đổi nhận thức của những người lãnh đạo trong một
số cơ quan quản lý Nhà nước về văn hoá, nghệ thuật, các cơ quan hoạch định
chính sách, các đơn vị, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực văn hoá nghệ
thuật (nhất là đơn vị công lập) ở Tp. Hồ Chí Minh để họ hiểu về khái niệm công
nghiệp văn hoá, nhận thức được sự cần thiết phải phát triển ngành công nghiệp
văn hoá nói chung, công nghiệp nghệ thuật biểu diễn nói riêng. Phải coi đây là
một ngành sản xuất đặc biệt mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao, trong đó có
lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn.
Trong các cuộc hội thảo gần đây bàn về phát triển công nghiệp văn hóa,
các nhà nghiên cứu và các nhà tư vấn chính sách đều xác định: muốn xây dựng
công nghiệp văn hóa trước hết phải đổi mới quan niệm của chúng ta về lĩnh vực
mới mẽ này. Bà Nguyễn Thế Thanh, nguyên PGĐ Sở VH, TT & DL Tp. Hồ Chí
Minh phát biểu trong buổi làm việc về “Lấy ý kiến chuyên gia về tình hình hoạt
động và thi hành chính sách, pháp luật trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn” đã
nhấn mạnh:
134
Cần phải thay đổi não trạng. Đó là phải nhìn nhận làm nghệ thuật
không thể không theo hướng thị trường vì thị trường chính là vấn đề cốt
lõi trong chủ trương xã hội hóa nghệ thuật biểu diễn. Vấn đề cung - cầu
và nhu cầu phát triển là những yếu tố không được bỏ qua trong sự phát
triển của nền kinh tế định hướng XHCN [129].
Đảng và Nhà nước cần có chủ trương và biện pháp giáo dục, nâng cao
nhận thức cho các chủ thể sản xuất, kinh doanh về vai trò đặc biệt của các sản
phẩm và dịch vụ văn hóa do ngành công nghiệp văn hóa tạo ra. Đây là những
sản phẩm hàng hóa đặc biệt vừa có chức năng kinh tế, vừa có chức năng xã hội.
Vì vậy, các chủ thể sản xuất kinh doanh và dịch vụ trên lĩnh vực này không thể
chạy theo lợi nhuận đơn thuần, bằng mọi giá mà trước hết đề cao chức năng giáo
dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong các sản phẩm công nghiệp văn
hóa. Đồng thời, đề cao giá trị tinh thần và bản sắc văn hóa Việt Nam, tinh thần
tự hào dân tộc trong sản phẩm văn hóa và dịch vụ văn hóa.
Để tạo nên thị trường giải trí năng động, đưa nghệ thuật biểu diễn trở
thành ngành công nghiệp chuyên nghiệp, đóng góp được cho sự phát triển kinh
tế đất nước thì sự hào hứng, mạnh dạn của riêng các đơn vị tư nhân vẫn chưa đủ.
Các đơn vị nghệ thuật công lập cũng cần có sự chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa,
phải chiều theo khán giả và có những thay đổi để có thể cạnh tranh được với các
đơn vị tư nhân, chứ không thể mãi đứng ngoài vòng quay thị trường.
Theo ông Trương Nhuận, phó Giám đốc Nhà hát Tuổi trẻ, Hà Nội thì:
Nghệ thuật biểu diễn của Việt Nam từ năm 2001 đến nay đã có những
bước tiến rất dài. Điều đầu tiên phải kể đến chính là việc nhận diện
được rằng, công nghiệp giải trí là một trong những yếu tố tác động rất
lớn. Và việc cho ra đời những công ty tổ chức sự kiện, tổ chức các
chương trình nghệ thuật biểu diễn, các đoàn nghệ thuật tư nhân đã tạo ra
bộ mặt mới cho nghệ thuật biểu diễn. Có đến trên 60-70% hoạt động
biểu diễn nghệ thuật hiện nay đều do các đơn vị tư nhân đảm trách [120].
135
4.3.2. Hoàn thiện các văn bản pháp luật về phát triển văn hóa, nghệ
thuật trong cơ chế thị trƣờng
Trước thực trạng nghệ thuật biểu diễn đang thiếu hệ thống các văn bản
quy phạm pháp luật đủ mạnh đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước… thì việc hoàn
chỉnh, bổ sung thêm hệ thống văn bản pháp luật cho lĩnh vực nghệ thuật biểu
diễn trong điều kiện cơ chế thị trường là việc làm vô cùng cấp thiết. Trước hết,
cần nhanh chóng ban hành Luật nghệ thuật biểu diễn nhằm phục vụ công tác
quản lý nhà nước và tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động biểu diễn nghệ
thuật phát triển phong phú.
Một hệ thống văn bản chính sách, pháp luật hoàn thiện sẽ bảo đảm quan
trọng cho công nghiệp văn hóa phát triển lành mạnh. Mặt khác, khi công nghiệp
văn hóa phát triển sẽ nảy sinh những vấn đề mới từ thực tiễn, đòi hỏi có những
chính sách kịp thời, có hiệu lực. Chính sách phát triển công nghiệp văn hóa vừa
phải thể hiện một tầm nhìn lâu dài, vừa có khả năng đáp ứng yêu cầu thực tiễn
trước mắt. Chiến lược phát triển văn hóa Việt Nam đến năm 2020 của Bộ VH,
TT & DL được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 06/05/2009 đã nhấn mạnh
nhiệm vụ “tập trung xây dựng cơ chế, chính sách và môi trường kinh doanh để
phát triển ngành công nghiệp văn hóa”. Để lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn phát
triển đúng hướng, đòi hỏi pháp luật phải nghiêm minh, các luật về văn hóa phải
phù hợp với các thông lệ và các công ước quốc tế; đồng thời, phải tôn trọng
những quy tắc thị trường phù hợp, bảo đảm công bằng, hợp lý trong việc bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, thương hiệu, quản lý các loại
ngành, nghề văn hóa theo pháp luật.
TS. Nguyễn Danh Ngà trong cuộc hội thảo “Công nghiệp văn hóa ở Việt
Nam - Thực trạng và giải pháp” do Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam tổ chức
đã phát biểu:
Để có nền công nghiệp văn hóa phải thay đổi tư tưởng coi sự nghiệp
văn hóa là ngành nghề phi sản xuất, không thể đem lại của cải cho xã
hội. Tiếp theo là phải nhìn đúng các vấn đề xuất hiện trong thị trường
136
văn hóa. Pháp luật, cơ chế, thể chế và ý thức quần chúng đang vào thời
kỳ biến đổi nhanh chóng. Trong thị trường văn hóa khó tránh khỏi xuất
hiện các vấn đề phức tạp nhưng không vì thế mà phủ định thị trường văn
hóa [87, tr.28].
Tiến sĩ Ngà cũng cho rằng:
Công nghiệp văn hóa là một ngành công nghiệp, vì thế nó cần một hệ
thống chính sách phù hợp, trình độ quản lý hành chính về văn hóa trực
tiếp tác động vào công nghiệp văn hóa. Quản lý văn hóa đòi hỏi phải có
hành lang pháp lý thuận lợi cho quá trình sản xuất và tiêu dùng văn hóa,
quản lý vĩ mô là chính, vi mô là phụ, tổng hợp cả những biện pháp về
kinh tế và pháp luật, hành chính, giáo dục, dư luận, tin tức [87, tr.29].
4.3.3. Chú trọng đầu tƣ xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật
Cơ sở vật chất - kỹ thuật hỗ trợ rất nhiều cho sự thể hiện của người sáng
tác, biểu diễn và đưa lại hiệu quả không nhỏ cho người hưởng thụ văn hóa. Vì
vậy, không thể không ứng dụng những tiến bộ của khoa học – công nghệ vào
việc quy hoạch, phát triển hệ thống các thiết chế văn hóa phù hợp với việc phát
triển nghệ thuật biểu diễn.
Ở các nước Mỹ, Nhật Bản sở dĩ phát triển công nghiệp văn hóa thành
công là nhờ vào sự kết tinh văn hóa kỹ thuật cao. Những nước đi sau như nước
ta càng phải biết tận dụng những thành quả của cách mạng khoa học kỹ thuật
hiện đại, thực hiện chiến lược “đi tắt đón đầu” hợp lý, nhằm tạo sự bức phá
mạnh mẽ trong việc xây dựng nền công nghiệp văn hóa hiện đại mang bản sắc
Việt Nam.
Như phần thực trạng đã đánh giá, các thiết chế phục vụ cho biểu diễn
nghệ thuật tại Tp. Hồ Chí Minh nhìn chung còn hạn chế về nhiều mặt, hạn chế cả
về số lượng, về quy mô, về trang thiết bị, về đội ngũ quản lý và vận hành. Vì
vậy, Thành phố cần phải dành quỹ đất để xây mới và xây thêm các Nhà hát,
Trung tâm văn hóa cho phù hợp với quá trình đô thị hóa đang diễn ra vô cùng
mạnh mẽ nơi đây, phù hợp với tình hình kinh tế, văn hóa cũng như quy mô dân
137
số, mật độ dân số và nhu cầu thưởng thức, sáng tạo văn hóa nghệ thuật vốn rất
sôi động trên địa bàn Thành phố. Các công trình xây dựng phải được đặt ở
những địa điểm thuộc trung tâm của đô thị có diện tích đủ để thực hiện các hoạt
động biểu diễn nghệ thuật phù hợp với từng loại hình nghệ thuật cụ thể. Tập
trung xây dựng một số trung tâm biểu diễn nghệ thuật hiện đại, đa năng để có thể
tổ chức được các chương trình nghệ thuật lớn trong nước và quốc tế. Trong xây
dựng cơ sở vật chất cần kết hợp công nghệ hiện đại với bản sắc dân tộc trong
kiến trúc, trong cảnh quan công trình, qua đó vừa đáp ứng yêu cầu cao về chất
lượng biểu diễn nghệ thuật, vừa tạo sức hấp dẫn với công chúng. Các công trình
đã xây dựng trong thời gian qua hầu như không tạo được dấu ấn về mặt kiến
trúc, trang thiết bị phần lớn lạc hậu, thiếu đồng bộ. Đối với các dự án xây dựng
trung tâm biểu diễn nghệ thuật do các tập đoàn kinh tế ngoài công lập đầu tư,
Nhà nước cần tạo điều kiện khuyến khích và ưu đãi để từng bước nâng cao điều
kiện phát triển nghệ thuật biểu diễn theo kịp khu vực và quốc tế.
Việc cụ thể hóa các chính sách khuyến khích phát triển các cơ sở ngoài
công lập như cho thuê, xây dựng cơ sở vật chất, giao đất...cho các đơn vị nghệ
thuật xã hội hóa là một yêu cầu rất cấp thiết, để các đơn vị chủ động hơn trong
đầu tư, trong xây dựng kế hoạch hoạt động lâu dài, đồng thời đủ sức cạnh tranh
với các đối tác nước ngoài trong giai đoạn mới, hoặc chủ trương tổ chức đấu
thầu công khai để tìm đơn vị (không phân biệt tư nhân hay nhà nước) thực hiện
tốt nhất, hiệu quả nhất đối với những công trình nghệ thuật lớn của Nhà nước.
Việt Nam cần học hỏi kinh nghiệm của một số nước tiên tiến về cách đầu tư xây
dựng các thiết chế văn hóa. Cụ thể như ở Nhật Bản, tất cả các cơ sở vật chất nhà
hát đều do nhà nước đầu tư xây dựng, mỗi quận đều có từ một đến vài nhà hát.
Sau khi nhà nước xây dựng nhà hát sẽ tổ chức đấu thầu cho các công ty tư nhân
có năng lực hoạt động thuê lại thời gian 5 năm, 10 năm... để thực hiện các
chương trình, vở diễn phục vụ nhân dân. Đó là cách để khán giả được hưởng thụ
văn hóa tốt hơn.
138
4.3.4. Kịp thời cải tiến chế độ, chính sách
Trong những năm qua, Nhà nước đã ban hành một số chính sách đối với
hoạt động nghệ thuật biểu diễn bao gồm: chính sách về chi phí quản lý hành
chính; tiền lương; xây dựng tiết mục, luyện tập biểu diễn, phụ cấp độc hại nguy
hiểm, chế độ nhuận bút; bản quyền tác giả. Vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã ký
quyết định số 14/2005/QĐ – TTg về tăng mức bồi dưỡng biểu diễn đối với
những người làm việc trong lĩnh vực NTBD lên đáng kể. Các chế độ, chính sách,
quyết định trên là cơ sở thúc đẩy nghệ thuật biểu diễn phát triển, duy trì được đội
ngũ cán bộ, nghệ sĩ yêu nghề và yên tâm sáng tạo cho nghệ thuật, nhưng so với
tình hình thực tế hiện nay, những chế độ, chính sách đó còn bộc lộ một số hạn
chế. Vì vậy, đổi mới chế độ, chính sách đối với các nghệ sĩ hoạt động trong lĩnh
vực nghệ thuật biểu diễn về lương, phụ cấp, tuổi nghề, về khen thưởng và phong
tặng các danh hiệu là việc cần phải làm ngay. Nhìn chung, các chế độ về lương,
phụ cấp, nâng ngạch bậc… đối với nghệ sĩ biểu diễn đã rất lạc hậu và không phù
hợp với đặc thù nghề nghiệp (gắn liền với năng khiếu, thanh, sắc...). NSND
Thuý Quỳnh trong lần phát biểu tại Hội nghị “Lấy ý kiến chuyên gia về tình hình
hoạt động và thi hành chính sách, pháp luật trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn”
vừa qua đã nhấn mạnh: cần coi nghệ thuật biểu diễn là một loại hình nghệ thuật
đặc thù và có chính sách đãi ngộ riêng đối với anh em nghệ sĩ và các sinh viên
ngành biểu diễn. Thứ trưởng Lê Tiến Thọ cũng đưa ra kiến nghị về chế độ chính
sách cho nghệ sĩ, nhất là về chế độ lương hiện nay. Gần đây, trong một lần trả lời
phỏng vấn trên đài truyền hình VTV3, NSND Lê Khanh đã phát biểu: Hiện nay,
kịch nói đang tưng bừng, nở rộ. Thế nhưng, để có tài năng trẻ, giữ họ được cần
có chế độ tiền lương hợp lý. Nói tóm lại, chế độ lương, phụ cấp... phải thực sự là
động lực để người nghệ sĩ phấn đấu, rèn luyện nâng cao đạo đức nghề nghiệp,
nâng cao chuyên môn và gắn bó với nghề. Hơn nữa, phải tăng cường đưa ra
những chế độ, những cơ chế chính sách phát triển như phải xây dựng pháp lệnh,
nghị định hay luật cho nghệ thuật biểu diễn phát triển.
139
Ngoài những chính sách kể trên, trong quá trình khảo sát, chúng tôi còn
lấy ý kiến của đội ngũ cán bộ quản lý lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn về thứ tự ưu
tiên các chính sách nhà nước để tạo động lực phát triển CNVH. Câu hỏi chúng
tôi đưa ra: Ông/bà vui lòng sắp xếp thứ tự các chính sách mà Nhà nước cần ưu
tiên để tạo động lực cho công nghiệp văn hóa trong lĩnh vực nghệ thuật biểu
diễn Tp. HCM phát triển (Trong đó, 1 là ưu tiên nhất)? Kết quả cho thấy:
Bảng 4.1: Chính sách nhà nƣớc cần ƣu tiên để tạo động lực phát triển CNVH
UT1 UT2 UT3 UT4 UT5 UT6 UT7 UT8 UT9 UT10
96.2 3.8 0 0 0 0 0 0 0 0
0 4 8 36 36 4 4 4 4 0
0 0 0 33.3 12.5 12.5 37.5 4.2 0 0
0 0 4.2 33.3 0 0 2.5 8.3 41.7 0
4.2 83.3 0 0 4.2 0 0 8.3 0 0
0 4.2 20.8 12.5 20.8 4.2 33.3 0 4.2 0
0 0 8.3 20.8 8.3 20.8 4.2 33.3 4.2 0
0 0 25 16.7 29.2 8.3 0 4.2 8.3 8.3
0 0 29.2 12.5 0 16.7 4.2 37.5 0 0
thu hút 0 4.2 4.2 0 4.2 0 0 0 87.5 0 CL PTCNVH Chính sách thuế Ưu đãi vay vốn CS ưu đãi thuê mặt bằng CS ĐT tài năng QTNT CS ĐT nghệ sĩ ST, BD CS trọng dụng nhân tài XHH CS hoạt động NT CS đổi mới CNKT CS đầu tư QT
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
Qua bảng đánh giá trên cho thấy, theo ý kiến của các cán bộ được khảo
sát, Chiến lược phát triển CNVH chính là nội dung đầu tiên mà nhà nước cần
dành nhiều sự quan tâm nhất để có thể phát triển ngành CNVH. Kết quả này
140
cũng phù hợp với thực tế hiện nay là tại Việt Nam, ngành CNVH đang phát triển
manh mún, tự phát mà thiếu hẳn bàn tay của quy hoạch, thiếu sự định hướng
mang tính chiến lược từ các cơ quan nhà nước. Ưu tiên thứ hai cần giải quyết
theo các cán bộ tại các đơn vị nghệ thuật được khảo sát là chính sách đào tạo
nguồn nhân lực chất lượng cao trong công tác quản trị nghệ thuật. Điều này hoàn
toàn hợp lý bởi trên thực tế hiện nay, tại Tp. HCM đang khủng hoảng về đội ngũ
nguồn nhân lực chất lượng cao làm công tác quản trị nghệ thuật. Đó chính là một
trong những nhân tố làm cho ngành CNVH của Thành phố phát triển chưa hoàn
thiện. Đứng ở vị trí ưu tiên thứ 3 là Chính sách đổi mới công nghệ kỹ thuật. Đó
là điều tất nhiên bởi khi nói đến một ngành CNVH phát triển thì không thể thiếu
yếu tố kỹ thuật - công nghệ. Các chính sách ưu đãi cho thuê mặt bằng, vay vốn,
chính sách thuế, đào tạo nghệ sỹ sáng tạo, biểu diễn, trọng dụng nhân tài, xã hội
hóa hoạt động nghệ thuật và chính sách thu hút vốn đầu tư quốc tế chiếm các vị
trí ưu tiên cần giải quyết 4, 5, 6, 7, 8, 9 và 10.
4.3.5. Quan tâm đào tạo nguồn nhân lực
Trong phần đánh giá về những tồn tại trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn
tại Tp. Hồ Chí Minh đã đề cập đến vấn đề thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao,
thừa nguồn nhân lực chất lượng thấp. Vì vậy, để giải quyết vấn đề này cần phải
quan tâm đến hệ thống trường lớp và đội ngũ giáo viên đào tạo nguồn nhân lực
này. Xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn cho đội ngũ cán bộ giảng dạy trong các
trường văn hóa nghệ thuật. Bồi dưỡng, nâng cao trình độ bằng nhiều hình thức:
đầu tư cho đào tạo chính quy, tập huấn, trao đổi nghiệp vụ trong nước và nước
ngoài, mời chuyên gia... Tập trung đào tạo nâng cao trình độ cho giảng viên, đặc
biệt trong lĩnh vực sản xuất chương trình biểu diễn nghệ thuật.
Cần nhanh chóng phát hiện tài năng trẻ thông qua các cuộc thi, hội diễn,
liên hoan... Đào tạo trong nước và nước ngoài cho các thí sinh đoạt giải; khuyến
khích các nghệ sĩ, nghệ nhân có uy tín tổ chức kèm cặp, truyền nghề, dạy nghề
hoặc mở lớp đào tạo nghệ thuật. Cử học viên có khả năng đi đào tạo tại các
141
trường nghệ thuật chuyên ngành về lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn quốc tế. Thời
gian qua chỉ có đội ngũ nghệ sĩ biểu diễn, đạo diễn được đào tạo theo trường lớp
chính quy bài bản, còn nguồn nhân lực ở các khâu khác như âm thanh, ánh sáng,
tổ chức biểu diễn phần lớn chưa được đào tạo chuyên sâu về chuyên môn. Do
đó, tính chuyên nghiệp của hoạt động biểu diễn còn nhiều hạn chế. Để khắc phục
một cách căn bản tình trạng này, cần phải đào tạo nguồn nhân lực có trình độ
chuyên môn nghiệp vụ cao. Song, để có nguồn nhân lực như vậy cần đổi mới nội
dung chương trình đào tạo của các trường văn hóa nghệ thuật theo hướng đáp
ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế; trao đổi, học tập
kinh nghiệm của các nước có nền công nghiệp nghệ thuật biểu diễn phát triển.
Có như vậy mới khắc phục được tình trạng chắp vá, thiếu chuyên nghiệp như
hiện nay.
Ngoài ra, cần phải đào tạo đội ngũ những nhà lý luận phê bình văn hóa
nghệ thuật có tâm, có tầm và có tài để dám nói thẳng, nói thật, làm tròn chức
năng hướng dẫn, định hướng giá trị sao cho phù hợp với văn hóa dân tộc và sự
phát triển của văn hóa nhân loại.
4.3.6. Đẩy mạnh xã hội hóa lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn
Có thể nói, mô hình xã hội hóa sân khấu ở Tp. Hồ Chí Minh thời gian qua
đã đem lại những thành công vượt trội so với các địa phương khác. Cái được lớn
nhất là mô hình này buộc các nhà tổ chức, các nghệ sĩ phải năng động, phải dám
“dấn thân” trong cơ chế thị trường để tồn tại và vươn lên, phải tạo ra được những
tác phẩm đáp ứng được thị hiếu đa dạng của khán giả. Chính vì sự năng động,
táo bạo, cạnh tranh nhau của các đơn vị nghệ thuật nên hoạt động sân khấu kịch
nói ở Tp. Hồ Chí Minh thời gian qua diễn ra rất sôi động. Tuy nhiên, bên cạnh
những cái được, thế mạnh đó, đôi khi kéo theo sự dễ dãi trong nội dung và chất
lượng nghệ thuật. Cần phải tìm ra những giải pháp để giải quyết những mâu
thuẫn đó. Tìm cách giải bài toán giữa doanh thu và nghệ thuật. Muốn vậy, một
mặt, Nhà nước cần khuyến khích, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tư nhân,
142
các đơn vị nghệ thuật xã hội hóa đứng vững và phát triển. Đẩy mạnh hơn nữa
hoạt động xã hội hoá không chỉ lĩnh vực sân khấu kịch nói mà cả lĩnh vực âm nhạc và múa. Nhân rộng những mô hình xã hội hoá nghệ thuật thành công. Nhà
nước cần quan tâm, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tư nhân, các đơn vị nghệ
thuật xã hội hoá đứng vững và phát triển. Tạo nên một sân chơi lành mạnh để
các đơn vị này cùng cạnh tranh phát triển. Mặt khác, cần tăng cường quản lý
Nhà nước, thanh tra, kiểm tra để cho các đơn vị nghệ thuật luôn hướng tới các
giá trị Chân - Thiện - Mỹ.
Phát triển mạnh các cơ sở ngoài công lập dưới hai hình thức dân lập và tư
nhân: cá nhân, gia đình, các tổ chức kinh tế - xã hội, đoàn thể được đầu tư, tham
gia vào hầu hết các hoạt động biểu diễn nghệ thuật. Thực hiện việc chuyển đổi
toàn bộ các đơn vị sự nghiệp thuộc ngành biểu diễn nghệ thuật trên địa bàn
Thành phố đang thực hiện chế độ tự chủ tài chính áp dụng cho đơn vị có thu
sang cơ chế cung ứng dịch vụ công ích khi có các văn bản quy phạm pháp luật
về cơ chế được ban hành. Cần phải có những chính sách cởi mở và thông thoáng
để tranh thủ các nguồn lực trong nước và quốc tế tham gia, tạo nên sự cạnh tranh
năng động và lành mạnh trong lĩnh vực này vừa đáp ứng nhu cầu tinh thần ngày
càng cao của xã hội, vừa góp phần phát triển kinh tế - xã hội... là những biện
pháp cần phải triển khai thực hiện.
4.3.7. Định hƣớng thị hiếu thẩm mỹ cho công chúng
Để lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn phát triển lành mạnh, hạn chế sự tác
động tiêu cực của kinh tế thị trường không thể không chú ý đến việc nâng cao thị
hiếu thẩm mỹ của công chúng. Sẽ không có nền nghệ thuật tiên tiến nếu không
có công chúng thưởng thức nghệ thuật tương ứng. Thực tế có những chương
trình nghệ thuật nghiêm túc có chất lượng nghệ thuật cao, thể hiện tinh hoa nghệ
thuật lại ít công chúng, trong khi đó, các chương trình chất lượng nghệ thuật
không cao, thậm chí có những tiết mục phản cảm lại thu hút nhiều người xem, có
nguyên nhân quan trọng là từ những hạn chế về thị hiếu thẩm mỹ của một bộ
phận công chúng. Thế nhưng, kết quả khảo sát của chúng tôi khi hỏi cán bộ quản
143
lý tại các đơn vị nghệ thuật về những giải pháp ưu tiên phát triển công nghiệp
văn hóa trong NTBD thì kết quả được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 4.2: Giải pháp cần ƣu tiên phát triển công nghiệp văn hóa
UT 1 UT2 UT3 UT4 UT5 UT6 UT7
Thay đổi nhận thức, tư duy 70.8 4.2 0 8.3 0 8.3 8.3
0 0 54.5 4.5 22.7 18.2 0 Hoàn thiện văn bản PL về VH, NT
Đầu tư xây dựng CSVC 8.7 43.5 8.7 13 13 13 0
Cải tiến chế độ chính sách 4.5 22.7 9.1 18.2 45.5 0 0
Đào tạo nguồn nhân lực 13.6 18.2 4.5 45.5 9.1 4.5 4.5
9.1 4.5 0 0 0 54.5 31.8 Đẩy mạnh xã hội hóa lĩnh vực NTBD
4.3 0 21.7 13 8.7 0 52.2 Nâng cao thị hiếu thẩm mỹ của công chúng
Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
Như vậy, theo đánh giá của các cán bộ tại các đơn vị sân khấu được khảo
sát thì để phát triển ngành CNVH Thành phố cần thực hiện theo thứ tự ưu tiên
các giải pháp sau: 1- Cần thay đổi nhận thức, tư duy; 2- Đầu tư xây dựng cơ sở
vật chất; 3- Hoàn thiện các văn bản pháp luật về văn hóa nghệ thuật; 4- Đào tạo
nguồn nhân lực; 5- Cải tiến chế độ chính sách; 6- Đẩy mạnh xã hội hóa lĩnh vực
NTBD và 7- Nâng cao thị hiếu thẩm mỹ của công chúng. Chỉ có 4.3% cán bộ
được hỏi cho rằng nâng cao thị hiếu thẩm mỹ cho công chúng cần phải ưu tiên
thứ nhất trong các giải pháp phát triển công nghiệp văn hóa nghệ thuật biểu diễn.
Điều này cũng dễ hiểu bởi để phát triển lĩnh vực này cần quan tâm đến rất nhiều
giải pháp. Thế nhưng, có đến 52.2% ý kiến cán bộ cho rằng đây là giải pháp ưu
tiên cuối cùng trong số các giải pháp đưa ra. Kết quả này cho thấy, mặc dầu nâng
cao thị hiếu thẩm mỹ cho công chúng là giải pháp vô cùng quan trọng để định
hướng giá trị, hướng tới các giá trị chân- thiện - mỹ, đáp ứng nhu cầu văn hóa
tinh thần lành mạnh cho công chúng nhưng đội ngũ quản lý vẫn chưa thực sự
144
quan tâm. Điều này còn được chứng minh thêm ở bảng sau khi được hỏi mức độ
ưu tiên định hướng giá trị cho đơn vị mình:
Biểu 4.5: Định hƣớng giá trị của các đơn vị nghệ thuật Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án
Định hướng giá trị là một trong những quỹ đạo quan trọng để xây dựng
chiến lược phát triển bền vững của các đơn vị kinh doanh nói chung và kinh
doanh lĩnh vực văn hóa nghệ thuật nói riêng. Đối với các sân khấu kịch nói và ca
nhạc được khảo sát, các cán bộ quản lý ở đây cho rằng, đề cao tính thẩm mỹ
nghệ thuật chỉ xếp ở mức độ ưu tiên thứ 5 trong số 8 ưu tiên đưa ra (tỷ lệ cao
nhất là 37.5%). Những con số này phần nào chứng tỏ cần phải quan tâm đến giải
pháp này nhiều hơn nữa. Các biện pháp cơ bản để nâng cao thị hiếu thẩm mỹ
cho công chúng bao gồm: chú trọng chất lượng giảng dạy những môn nghệ thuật
trong các trường phổ thông; nâng cao chất lượng hoạt động lý luận và phê bình
nghệ thuật... Theo chúng tôi, chính những người tham gia quản lý, những người
trực tiếp sáng tạo ra các sản phẩm nghệ thuật phải quan tâm đến thị hiếu thẩm
mỹ của công chúng hơn ai hết. Bởi chính họ là những người định hướng giá trị
cho tầng lớp khán giả.
145
Như vậy, việc thực hiện đồng bộ và toàn diện các giải pháp trên đây đã
góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của một ngành công nghiệp văn hóa
còn non trẻ là ngành nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí Minh hiện nay. Việc
nhấn mạnh giải pháp này hay giải pháp khác tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể của
từng thời điểm và từng công ty, từng đoàn nghệ thuật biểu diễn. Vấn đề cơ bản
đặt ra là phải có cái nhìn toàn diện và nâng cao tính chuyên nghiệp, tính hiện đại
và tính hội nhập với khu vực và quốc tế trên cơ sở giữ gìn và phát huy giá trị độc
đáo, đặc sắc của nghệ thuật dân tộc. Tạo nên sự đa dạng và khác biệt trong quá
trình phát triển công nghiệp nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí Minh chính là
động lực cho sự phát triển.
Tiểu kết
Qua quá trình nghiên cứu, khảo sát đề tài, tác giả luận án nhận thấy một
số vấn đề đang còn tồn tại, đặt ra đối với lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ
Chí Minh hiện nay như sau: Một là, mâu thuẫn giữa nhu cầu hưởng thụ nghệ
thuật biểu diễn và khả năng đáp ứng của Thành phố; Hai là, mâu thuẫn giữa nhu
cầu phát triển và định hướng phát triển ngành công nghiệp văn hóa; Ba là, mâu
thuẫn giữa lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn đang ngày càng phát triển nhưng thiếu
những văn bản quy phạm pháp luật; Bốn là, mâu thuẫn giữa nguồn nhân lực của
công nghiệp văn hóa với tốc độ phát triển của khu vực và thế giới.
Cùng với việc xác định những vấn đề đang còn tồn tại, tác giả luận án đưa
ra những dự báo về xu hướng vận động, phát triển CNVH ở Việt Nam nói
chung, Tp. Hồ Chí Minh nói riêng. Từ đó đề xuất một số khuyến nghị về các giải
pháp nhằm phát triển lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí Minh trong
thời gian tới.
146
KẾT LUẬN
Luận án “Công nghiệp văn hóa ở Tp. Hồ Chí Minh hiện nay (Qua khảo
sát một số lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn)” nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý
luận công nghiệp văn hóa và lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn. Từ đó, luận án khảo
sát, phân tích và đánh giá thực trạng phát triển công nghiệp văn hóa trong lĩnh
vực nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí Minh hiện nay, khuyến nghị một số giải
pháp. Luận án đã đạt được một số kết quả sau đây:
Thứ nhất, luận án đã nghiên cứu tổng quan tình hình nghiên cứu công
nghiệp văn hóa và nghệ thuật biểu diễn ở trong nước và ngoài nước. Trên cơ sở
đó xác định những vấn đề luận án cần phải tiếp tục làm rõ và nghiên cứu.
Thứ hai, trên cơ sở kế thừa những kết quả nghiên cứu trước đó về công
nghiệp văn hóa và nghệ thuật biểu diễn, luận án làm rõ khái niệm, cơ cấu, đặc
trưng của công nghiệp văn hóa. Đồng thời, ở góc độ tiếp cận nghệ thuật biểu
diễn là một ngành của công nghiệp văn hóa, luận án đã làm rõ khái niệm, cơ cấu,
đặc điểm và vai trò của nghệ thuật biểu diễn.
Thứ ba, luận án phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến nghệ thuật biểu
diễn ở Tp. Hồ Chí Minh hiện nay. Đồng thời, khảo sát, đánh giá thực trạng
ngành công nghiệp văn hóa trong nghệ thuật biểu diễn ở 3 lĩnh vực: Âm nhạc, sân khấu Kịch nói và Múa. Luận án đã tập trung chỉ rõ những thành tựu và hạn chế
của công nghiệp văn hóa trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí Minh.
Đây là cơ sở để kế thừa thành tựu, khắc phục các hạn chế trong thời gian tới.
Thứ tư, luận án nêu rõ những vấn đề đặt ra và đưa ra những dự báo, xu
hướng phát triển và đề xuất những giải pháp cơ bản để phát triển ngành công
nghiệp nghệ thuật biểu diễn phát triển mạnh mẽ và đúng hướng ở Tp. Hồ Chí Minh trong tương lai. Việc thực hiện toàn diện và đồng bộ các giải pháp này sẽ
góp phần thúc đẩy sự phát triển nghệ thuật biểu diễn nói riêng, công nghiệp văn
hóa nói chung ở Tp. Hồ Chí Minh trong thời gian tới.
147
Kết luận chung có thể thấy:
Ngành công nghiệp nghệ thuật biểu diễn nước ta đang trong giai đoạn
hình thành và phát triển. Tuy non trẻ, nhưng đã bước đầu khẳng định được vị trí,
phục vụ mục đích chính trị và từng bước phát triển theo hướng công nghiệp giải
trí, công nghiệp văn hóa. Thực tiễn các nước trên thế giới có nền công nghiệp
nghệ thuật biểu diễn phát triển mạnh đã chứng minh: đây là ngành công nghiệp
có khả năng đóng góp vào GDP của một nền kinh tế quốc dân rất lớn. Hơn nữa,
phát triển công nghiệp nghệ thuật biểu diễn không chỉ đơn thuần góp phần phát
triển kinh tế, mà còn tăng cao khả năng quảng bá hình ảnh đất nước, văn hóa và
con người Việt Nam ra cộng đồng quốc tế. Từ đó, chúng ta nâng cao được sự
đoàn kết, gắn bó với cộng đồng quốc tế trên cơ sở hiểu biết và tôn trọng bản sắc
văn hóa của mỗi quốc gia, dân tộc.
Sự phát triển của ngành công nghiệp văn hóa nói chung, trong đó có lĩnh
vực nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí Minh nói riêng đang vận động theo cơ
chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nên các sản phẩm văn hóa phải
được khẳng định là những hàng hóa đặc biệt. Những sản phẩm văn hóa phải vừa
có giá trị kinh tế, vừa có giá trị tinh thần, góp phần xây dựng tư tưởng, đạo đức,
lối sống, xây dựng con người và môi trường văn hóa lành mạnh, làm động lực
thúc đẩy sự phát triển xã hội, góp phần bảo vệ, phát huy bản sắc, bản lĩnh dân
tộc trong hội nhập quốc tế. Trong những năm đổi mới gần đây, do tác động của
cơ chế thị trường và ảnh hưởng của xu thế toàn cầu hóa, hoạt động văn hóa nghệ
thuật ở Tp. Hồ Chí Minh đã có những bước chuyển biến rõ rệt. Sự phát triển rầm
rộ các loại hình dịch vụ văn hóa, sự xâm nhập các yếu tố ngoại sinh gây nên sự
kích thích để văn hóa nghệ thuật của Thành phố phát triển, tạo nên một nền văn
hóa nghệ thuật đa dạng màu sắc, mới lạ, sôi động và hấp dẫn, đáp ứng nhu cầu
thưởng thức nghệ thuật ngày càng cao của công chúng. Đặc biệt, trong môi
trường cạnh tranh khốc liệt của nền kinh tế thị trường, các loại hình nghệ thuật
biểu diễn muốn tồn tại và phát triển thì phải tạo ra được những sản phẩm đáp
ứng được nhu cầu của thị trường với nhiều đối thủ cạnh tranh ác liệt. Vì vậy, mỗi
148
loại hình nghệ thuật phải phân đoạn thị trường, từ đó chọn thị trường mục tiêu -
phân đoạn thị trường có khả năng phát triển nhất để tiếp cận và chiếm lĩnh. Bên
cạnh đó, việc sử dụng các công cụ marketing như là một biện pháp hữu hiệu nhất
trong giai đoạn hiện nay để tồn tại và phát triển. Tất cả vấn đề trên đều thuộc về chủ
thể của công nghiệp nghệ thuật biểu diễn.
Hiện nay, lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn của Tp. Hồ Chí Minh còn nhiều
khó khăn, hạn chế như: chính sách quản lý chưa đồng bộ, năng lực quản lý chưa
cao, thị trường nghệ thuật biểu diễn chưa phát triển hoàn thiện, chất lượng nguồn
nhân lực còn hạn chế, cơ sở vật chất hạ tầng còn thiếu thốn, các đơn vị chưa tận
dụng được những công cụ marketing một cách hiệu quả nhất… Những khó khăn
này đã trở thành rào cản lớn để phát triển nền công nghiệp nghệ thuật biểu diễn
Thành phố. Để công nghiệp nghệ thuật biểu diễn phát triển đúng hướng và thực
sự chuyên nghiệp, chúng ta cần phát huy sức mạnh tổng hợp, trong đó: Nhà
nước cần đề ra những chính sách hợp lý để tạo điều kiện cho công nghiệp nghệ
thuật biểu diễn phát triển theo hướng tiếp cận với khoa học và công nghệ tiên
tiến trên thế giới, tạo điều kiện và cơ hội thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân
ngoài công lập tham gia và hoạt động có hiệu quả trong lĩnh vực nghệ thuật biểu
diễn. Phát huy vai trò chủ động tích cực, sáng tạo của đội ngũ văn nghệ sĩ, đội
ngũ doanh nhân, doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực này.
Khi nước ta đã gia nhập WTO, cùng với hội nhập kinh tế sẽ kéo theo sự
hội nhập quốc tế sâu rộng về văn hóa, trong đó có công nghiệp văn hóa nói
chung và nghệ thuật biểu diễn nói riêng. Công nghiệp văn hoá - giải trí sẽ trở
thành một trong những ngành công nghiệp mũi nhọn của một đất nước có lượng
người hưởng thụ văn hoá đông như nước ta. Vì vậy, phát triển công nghiệp văn
hóa, phát triển nghệ thuật biểu diễn gắn với định hướng xây dựng nền văn hóa
nghệ thuật tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, góp phần vào bồi dưỡng tâm hồn,
tình cảm tốt đẹp để xây dựng con người, làm động lực để phát triển kinh tế - xã
hội là yêu cầu khách quan và cấp thiết hiện nay.
149
Chú thích:
1Joni M. Cherbo là một nhà xã hội học nghệ thuật, đã tham gia đồng tác giả American
Participation in Opera and Musical Theater; là giám đốc chính sách nghệ thuật và chương
trình quản lý tại Đại học bang Ohio. 2Bà Wyszomirski là giáo sư chuyên về lĩnh vực: Chính sách văn hóa và nghệ thuật, Hoạt
động từ thiện và nghệ thuật, chính sách công. Bà từng là giám đốc của Quỹ Quốc gia Nghệ
thuật Hoa Kỳ, Giám đốc Văn phòng Chính sách Hoa Kỳ. Bà tham gia giảng dạy tại nhiều
trường đại học, viện nghiên cứu của Hoa Kỳ.
3HaroldL.Vogel là chuyên gia cao cấp chuyên phân tích tài chính, thị trường hàng đầu thế
giới cho các ngành công nghiệp giải trí, là giảng viên Đại học Columbia Graduate School
of Business. 4David M. Conte là một doanh nhân người Mỹ. Ông là giám đốc điều hành của Honeywell.
Năm 2013, ông được tạp chí Chief ExecutiveMagazine bầu chọn là Giám đốc điều hành
của năm. Ông được xem là một trong những giám đốc điều hành thành công nhất của nước
Mỹ và thế giới.
5Cụm từ này được báo chí hay dùng trong những năm gần đây để chỉ những tác phẩm âm
nhạc và những ca sỹ kém chất lượng xuất hiện trên thị trường âm nhạc toàn quốc.
6Ca khúc dân gian đương đại là cụm từ được hội đồng nghệ thuật của VTV3 – Đài Truyền
hình Việt Nam sử dụng chính thức trong việc phân loại ca khúc để bình chọn trao giải “Bài
hát Việt”. Cụm từ này để chỉ những tác phẩm âm nhạc được sáng tác trong thời hiện đại
nhưng sử dụng chất liệu dân gian. Một số tác phẩm tiểu biểu cho loại ca khúc này như: “Giấc
mơ trưa”– sáng tác Giáng Son - Thơ: Nguyễn Vĩnh Tiến, “Quê tôi” – sáng tác và biểu diễn Lê
Minh Sơn, “Bà tôi” – sáng tác Nguyễn Vĩnh Tiến, “Con cò” – sáng tác Lưu Hà An… 7Trưởng khoa Chính sách văn hóa và Quản lý nghệ thuật, Trường Đại học Goldsmiths –
London
150
DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Nguyễn Thị Kim Liên (2012), “Công nghiệp biểu diễn ở Thành phố Hồ
Chí Minh hiện nay – nhìn từ lĩnh vực nghệ thuật âm nhạc”, Tạp chí
Giáo dục lý luận, (4), tr. 76-78, 82.
2. Đoàn Minh Huấn, Nguyễn Thị Kim Liên (2012), “Nhu cầu và cách tiếp
cận nghiên cứu công nghiệp văn hóa Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Lý
luận Chính trị, (4), tr. 65-70.
3. Nguyễn Thị Kim Liên (2012), “Công nghiệp biểu diễn âm nhạc ở Thành
phố Hồ Chí Minh hiện nay”, Thông tin Văn hóa và phát triển, (31), tr.
45-48.
4. Nguyễn Thị Kim Liên (2012), “Yếu tố văn hóa trong hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp”.Tạp chí Giáo dục lý luận,(5), tr.56-59.
5. Nguyễn Thị Kim Liên (2013), “Phát triển công nghiệp văn hóa, yêu cầu
cấp thiết hiện nay”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, (347), tr. 23-25.
6. Nguyễn Thị Kim Liên (2015), “Xã hội hóa với phát triển nghệ thuật biểu
diễn ở Tp. Hồ Chí Minh”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, (372), tr.84-86.
151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. A.A. Radughin (chủ biên) (2004), Văn hóa học – những bài giảng, Viện
Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.
2. Bùi Diệu Anh (1998), “Cải lương và Kịch nói trong bối cảnh văn hóa Nam Bộ”,
Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, (7).
3. Ngô Thị Kim Anh (1999), Tác động xu thế toàn cầu hóa đối với việc xây
dựng nền văn hóa Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ văn hóa học
văn hóa, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
4. Dương Viết Á (2005), Mấy vấn đề văn hóa âm nhạc Việt Nam, NXB
Văn hóa dân tộc.
5. Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương (2004), Tài liệu nghiên cứu kết luận
hội nghị lần thứ mười Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Ban Tư tưởng văn hóa Trung ương (2004), Xây dựng môi trường văn hóa –
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Hà Nội.
7. Ban Tuyên giáo Trung ương (2014), Tài liệu nghiên cứu Nghị quyết và một
số chủ trương của Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa XI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Bộ Chính trị (2012), Nghị quyết số 16 – NQ/TW về phương hướng, nhiệm
vụ phát triển Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020.
9. Bộ Khoa học công nghệ, Đề tài độc lập cấp Nhà nước (2006-2007), Hoạt
động văn hóa và sản phẩm văn hóa trong cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
10. Bộ Khoa học và Công nghệ (2014), Kỷ yếu hội thảo khoa học: Quan
điểm, định hướng và giải pháp phát triển công nghiệp văn hóa ở nước
ta đến năm 2020 – Dưới góc nhìn văn hóa, Hà Nội.
152
11. Bộ Văn hóa - Thông tin (2004), Ứng dụng Marketing trong quản l ý văn
hóa nghệ thuật, Hà Nội.
12. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Cục Nghệ thuật biểu diễn (2006), Kỷ
yếu hội thảo: Thực trạng và giải pháp để phát triển ngành nghệ thuật
biểu diễn, Hà Nội.
13. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội
(2010), Hội thảo khoa học quốc tế: Văn hóa trong thế giới hội nhập,
NXB Văn hóa – thông tin, Hà Nội.
14. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội,
Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, Trường Đại học
Văn hóa nghệ thuật quốc gia Macscova (2008), Kỷ yếu hội thảo quốc
tế Các trường Đại học văn hóa nghệ thuật trong thế giới hội nhập.
15. Lê Ngọc Canh (2010), Nghệ thuật biểu diễn truyền thống trong thế giới
hội nhập, Hội thảo khoa học quốc tế “Văn hóa trong thế giới hội
nhập, NXB Văn hóa Thông tin.
16. Nguyễn Thị Minh Châu (2003), “Thị hiếu đại chúng và ca khúc thịnh hành tại
Thành phố Hồ Chí Minh”, Tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam, (3).
17. Trần Trọng Đăng Đàn (1998), Chống những biểu hiện của văn hóa, văn
nghệ thương mại, xã hội hóa các hoạt động văn hóa và xã hội hóa
kinh doanh văn hóa, NXB Văn nghệ, Sở Văn hóa Thông tin, Thành
phố Hồ Chí Minh.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp
hành Trung ương khóa VII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp
hành Trung ương khóa VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2009), Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị về Phát
triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
153
21. Phạm Duy Đức (chủ biên) (2008), Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin
về văn hóa, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Phạm Duy Đức (2006), Đề tài khoa học cấp Thành phố: Nghiên cứu xây
dựng và phát triển ngành công nghiệp văn hóa của Thủ đô Hà Nội
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
23. Phạm Duy Đức (chủ biên) (2005), Hoạt động giải trí ở đô thị Việt Nam,
những vấn đề lý luận và thực tiễn, Viện Văn hóa và NXB Văn hóa –
Thông tin, Hà Nội.
24. Phạm Duy Đức (chủ biên) (2010), Phát triển văn hóa Việt Nam giai đoạn
2011-2020, những vấn đề phương pháp luận, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
25. Phạm Duy Đức (chủ biên) (2010), Thành tựu trong xây dựng và phát
triển văn hóa Việt Nam 25 năm đổi mới (1986-2010), NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
26. Phạm Duy Đức, Vũ Phương Hậu (2012), Nghiên cứu xây dựng và phát
triển công nghiệp văn hóa Thủ đô Hà Nội, NXB Văn hóa – Thông tin
và Viện Văn hóa, Hà Nội.
27. Phạm Thanh Hà (2011), Giữ gìn bản sắc dân tộc Việt Nam trong bối cảnh
toàn cầu hóa hiện nay, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
28. Phạm Minh Hạc (2012), Giá trị học, NXB Dân trí, Hà Nội.
29. Lê Thị Thu Hiền (2010), “Marketing trong hoạt động tổ chức biểu diễn
nghệ thuật”, Tạp chí Thông tin Văn hóa nghệ thuật, (311).
30. Lê Thị Thu Hiền (2010), Quản lý hoạt động biểu diễn nghệ thuật sân
khấu truyền thống ở Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch, Luận văn
Thạc sĩ Quản lý văn hóa, Đại học Văn hóa, Hà Nội.
31. Thúy Hiền (2004), “Ban hành quy chế hoạt động biểu diễn nghệ thuật và
tổ chức biểu diễn chuyên nghiệp, thông thoáng gắn liền với trách
nhiệm”, Báo Văn hóa, ngày 20-27/7/2004
154
32. Dương Phú Hiệp (2010), Tác động của toàn cầu hóa đối với sự phát triển
văn hóa và con người Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. Dương Phú Hiệp (chủ biên) (2012), Cơ sở lý luận và phương pháp luận
nghiên cứu văn hóa và con người Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
34. Lê Như Hoa (2000), Quản lý văn hóa thị trường trong điều kiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Viện Văn hóa, Hà Nội.
35. Lê Như Hoa (chủ biên) (1996), Xã hội hóa hoạt động văn hóa, NXB Văn
hóa Thông tin, Hà Nội.
36. Hội đồng lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương (2009), Văn
học nghệ thuật trong cơ chế thị trường và hội nhập, NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
37. Nguyễn Thị Hương (2005), “Chính sách văn hóa – nhìn từ bản quyền tác
giả trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật”, Tạp chí Thông tin Văn hóa và
phát triển, (5).
38. Nguyễn Thị Hương (2008), “Phát triển ngành công nghiệp văn hóa ở
nước ta trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế”, Tạp chí Lý luận
chính trị, (10).
39. Nguyễn Thị Hương (2009), “Chính sách kinh tế trong văn hóa và phát
triển ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam”, Tạp chí Lý luận Chính
trị và Truyền thông, (5).
40. Nguyễn Thị Hương (2009), Đề tài khoa học cấp Bộ: Phát triển công nghiệp
văn hóa ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp.
41. Nguyễn Thị Hương (2009), Đề tài khoa học cấp Bộ: Thị trường văn hóa
phẩm ở nước ta hiện nay – Hiện trạng và giải pháp.
42. Nguyễn Thị Hương (chủ biên) (2011), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn xây
dựng, phát triển văn hóa Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Đỗ Huy (2000), Mỹ học- Khoa học về các quan hệ thẩm mỹ, NXB Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
155
44. Phạm Bích Huyền (2012), Hoạt động giáo dục nghệ thuật của các đơn vị
nghệ thuật biểu diễn quốc gia trên địa bàn Hà Nội, Luận án Tiến sĩ
Văn hóa học, Đại học Văn hóa, Hà Nội.
45. Phạm Bích Huyền (2013), Phát triển khán giả – nhu cầu và giải pháp cho
các
tổ chức văn hóa nghệ
thuật Việt Nam,
tại
trang
huc.edu.vn/vi/spct/id121, [truy cập ngày 12/3/2013].
46. Khoa Văn hóa xã hội chủ nghĩa – Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh (2004), Văn hóa và phát triển ở Việt Nam – Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn, NXB Lý luận Chính trị, Hà Nội.
47. Nguyễn Thị Kim Liên (2005), Giao lưu quốc tế về văn hóa nghệ thuật ở
thành phố Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới hiện nay (qua khảo sát
lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn), Luận văn Thạc sỹ Văn hóa học, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
48. Dương Thị Liễu (2013), Văn hóa kinh doanh, NXB Đại học Kinh tế quốc
dân, Hà Nội.
49. Phạm Xuân Nam (1998), Văn hóa vì phát triển, NXB Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
50. Nguyễn Đăng Nghị (2005), “Âm nhạc Việt Nam thời kỳ đổi mới, thực
trạng và giải pháp”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, (5).
51. Nguyễn Đăng Nghị, (2010), “Một cách nhìn về văn hóa âm nhạc Việt
Nam”, Tạp chí Thông tin Văn hóa nghệ thuật, (311).
52. Phan Ngọc (2002), Bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB Văn hóa Thông tin,
Hà Nội.
53. Nguyễn Tri Nguyên (2004), Những bài giảng về quản lý văn hóa trong kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, NXB Văn hóa Thông tin,
Hà Nội.
54. Mai Hải Oanh (2006), “Sức sản xuất văn hóa và công nghiệp văn hóa”,
Tạp chí Cộng sản điện tử, (105).
156
55. Mai Hải Oanh (2006), “Xây dựng ngành công nghiệp văn hóa ở nước ta”,
Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, (7).
56. Mai Hải Oanh (2010), “Phát triển công nghiệp văn hóa- Nâng cao sức
cạnh tranh của văn hóa trong thời kỳ mới”, Tạp chí Cộng sản, (10).
57. Mai Hải Oanh (2010), “Phát triển sự nghiệp văn hóa và công nghiệp văn hóa”,
Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, (9).
58. Mai Hải Oanh (2011), Quan hệ giữa xây dựng văn hóa và phát triển kinh
tế ở nước ta hiện nay, NXB Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
59. Nguyễn Hồ Phong (2015), Chiến lược phát triển khán giả của Sân khấu
kịch Hồng Vân, Thành phố Hồ Chí Minh, giai đoạn 2001-2014, Luận
văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa, Trường Đại học văn hóa Thành phố Hồ
Chí Minh.
60. Nguyễn Duy Quý (2006), Đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay - Vấn đề và
giải pháp, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
61. Tô Huy Rứa (2006), “Xây dựng và phát triển công nghiệp văn hóa ở nước ta”,
Tạp chí Cộng sản, (1).
62. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh, Báo cáo tổng quan
tình hình hoạt động văn hóa nghệ thuật tại Thành phố Hồ Chí Minh.
63. Tham luận hội thảo khoa học (2013), “Hệ giá trị văn hóa Việt Nam trong
đổi mới, hội nhập”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội.
64. Nguyễn Thị Lan Thanh (2012), Đề tài khoa học cấp Bộ, Nâng cao tính
chuyên nghiệp của hoạt động Marketing đối với nghệ thuật biểu diễn
trong thời kỳ hội nhập, Hà Nội.
65. Nguyễn Thị Lan Thanh (chủ biên) (2009), Marketting văn hóa nghệ
thuật, NXB Đại học Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội.
66. Đặng Quang Thành (2008), Văn hóa và phát triển – Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay, NXB Đại học quốc gia Thành phố
Hồ Chí Minh.
157
67. Trần Nho Thìn (2015), “Công nghiệp sáng tạo và văn hóa”, Tạp chí Văn
hóa dân gian, (2).
68. Phan Thọ (2009), Mấy vấn đề về công chúng của nghệ thuật sân khấu,
NXB Sân Khấu, Hà Nội.
69. Đặng Hoài Thu, Phạm Bích Huyền (2009), Giáo trình các ngành công
nghiệp văn hóa, Trường Đại học Văn hóa, Hà Nội.
70. Thủ tướng Chính phủ (2008), Chiến lược phát triển văn hóa đến năm
2020, Hà Nội.
71. Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định số 2631/QĐ – TTg về: Phê
duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội Thành phố Hồ
Chí Minh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025, Hà Nội.
72. Tình Nguyễn Văn Tình (2009), Chính sách văn hóa trên thế giới và việc hoàn
thiện chính sách văn hóa ở Việt Nam, NXB Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.
73. Lê Ngọc Tòng (2004), Một số nghiên cứu bước đầu về kinh tế học văn
hóa, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
74. Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh
(2010), Thị trường văn hóa phẩm, dịch vụ văn hóa, điện ảnh và một
số hoạt động của ngành Văn hóa – thông tin Thành phố Hồ Chí Minh
từ 1996 đến nay, cùng kế hoạch phát triển đến năm 2010, Đề tài
nghiên cứu khoa học, Thành phố Hồ Chí Minh.
75. Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình kỹ năng
nghiên cứu và lập luận, NXB Hồng Đức – Hội Luật Gia Việt Nam,
Thành phố Hồ Chí Minh.
76. Trường Đại học Văn hóa Hà Nội (2013), Kỷ yếu hội thảo: Những nhiệm
vụ cấp bách, quan trọng và các giải pháp tiếp tục thực hiện Nghị
quyết Trung ương 5 khóa VIII.
77. Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh (2013), Kỷ yếu hội
thảo: Mối quan hệ kinh tế trong văn hóa, văn hóa trong kinh tế qua
thực tiễn Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII – thực trạng và giải pháp.
158
78. Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, Khoa Quản lý Văn hóa
Nghệ thuật, Tổng hợp những bài báo viết về Sân khấu Kịch Thành phố Hồ
Chí Minh (kịch nói, kịch hình thể, kịch thiếu nhi) giai đoạn 2008 – 2011.
79. Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, Khoa Quản lý Văn
hóa Nghệ thuật, Tổng hợp những bài viết về hoạt động âm nhạc
Thành phố Hồ Chí Minh (giai đoạn 2008 -2010).
80. Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, Khoa Quản lý Văn
hóa Nghệ thuật, Tổng hợp những bài báo viết về nghệ thuật Múa Việt
Nam (giai đoạn 2008 -2011).
81. Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, Khoa Quản lý Văn
hóa Nghệ thuật, Tổng hợp những bài báo viết về nghệ thuật Múa rối
tại Thành phố Hồ Chí Minh (giai đoạn 2008 - 2010).
82. Tư liệu phỏng vấn sâu của dự án (2012), Phát triển cơ chế và khung luật
tài chính thích hợp cho ngành công nghiệp văn hóa và khuyến khích
đầu tư cho ngành công nghiệp văn hóa tại Việt Nam (UNESCO, EU,
VICAS).
83. Nguyễn Thanh Tuấn (2010), Đa dạng văn hóa và quyền văn hóa hiện nay
ở Việt Nam, NXB Văn hóa Thông tin và Viện Văn hóa, Hà Nội
84. Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2012), Viện nghiên cứu phát
triển: Thành phố Hồ Chí Minh 35 năm xây dựng và phát triển, NXB
Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
85. Viện nghiên cứu xã hội Thành phố Hồ Chí Minh (2007), Kỷ yếu Hội thảo
khoa học: Văn hóa – động lực phát triển bền vững của Thành phố Hồ
Chí Minh trong thời kỳ hội nhập mới, Thành phố Hồ Chí Minh.
86. Viện Văn hóa Nghệ thuật, Bộ Văn hóa , Thể thao và Du lịch (2014), Bản
dự thảo ngày 26/11/2014 về Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp
văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
159
87. Viện Văn hóa Nghệ thuật, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2010), Kỷ
yếu Hội thảo về: Công nghiệp văn hóa Việt Nam – Thực trạng và giải
pháp, Hà Nội.
88. Lê Quốc Vinh (2012), Tìm hiểu về khoảng cách giữa Nhu cầu của ngành
công nghiệp sáng tạo và sự cung ứng của ngành giáo dục sau đại học
của Việt Nam. Hội thảo Đào tạo sau đại học và Công nghiệp sáng tạo:
Bối cảnh châu Á - Anh, Singapore, 10/2012.
89. Trần Quốc Vượng (chủ biên) (1998), Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB
Giáo dục.
90. William Codjo (2012), Cơ chế tài chính mới cho ngành công nghiệp sáng
tạo của Việt Nam (báo cáo dự án), Dự án: Phát triển cơ chế và khung
luật tài chính thích hợp cho ngành công nghiệp văn hóa và khuyến
khích đầu tư cho ngành công nghiệp văn hóa tại Việt Nam (UNESCO,
EU, VICAS).
Tài liệu tiếng Anh
91. Duncan M.Webb (2005), Running Theaters: Best Practices for Leaders
and Managers, Allworth Press.
92. Derick Chong(2009), Arts Management (The second edition), Routledge.
93. David M. Conte and Stephen Langley (2007), Theatre Management:
Producing and Managing the Performing Arts, EntertainmentPro.
94. Harry Hillman, Joni M. Cherbo and Margaret J. Wyszomirski (2000)
The Public Life of the Arts in America, NXB Rutgers University
Press, New York.
95. Harold L. Vogel (2001), Entertainment Industry Economics - A Guide for
Financial Analysis, Cambridge University Press.
96. Frederic B. Vogel and Benjamin A. Hodges (2006),The Commercial
Theater Institute Guide to Producing Plays and Musicals, Applause
Theatre & Cinema Books.
160
97. James Heilbrun and Charles M.Gray (1993), The Economics of Art and
Culture - An American Perspective, Cambridge University Press.
98. Jens Nielsen (2010),Cultural Industry: its role in the economy and a
suitable policy framework for its development at 3 levels (in the world,
in Europe and in Denmark particularly) - Công nghiệp văn hóa: Vai
trò trong nền kinh tế và khung chính sách phù hợp cho sự phát triển
ngành ở ba cấp độ (thế giới, châu Âu và Đan Mạch).
99. John Newbigin (2010), The Creative Economy: An Introductory Guide -
Kinh tế sáng tạo: - Giới thiệu chung, Creative and Cultural Economy. 1
(Tuyển tập Kinh tế Văn hóa và Sáng tạo số 1), The British Council,
London.
100. Kusakabe Kimihito (Nhật Bản), Culture industry theory (lý thuyết công
nghiệp văn hóa).
101. MichaelKaiser (1995), Strategic Planning in the Arts: A Practical
Guide, Engler Group.
102. NESTA /Tom Fleming Creative Consultancy (2004), Forward Thinking
- New Solutions to Old Problems: Investing in the Creative Industries
- www.nesta.org.uk.
103. Pop goes Korea: Behind the revolotion in movies, misic, and Internet
Culture/ Mark James Russell – Berkeley, California: Stone Bridge
Press, 2008.
104. Ralf Hussmanns, Farhad Mehran and Vijaya Varma (1990), Survey of
employment, underemployment and unemployment in the performing
arts, International Labour Organization.
105. Richard E. Caves (2000), Creative Industries: Contracts Between Art
and Commerce, Harvard University Press.
106. Ruth Towse (2010), A Textbook of Cultural Economics, Cambridge
University Press.
161
107. Ruth Towse (2011), A Handbook of Cultural Economics (Second
Edition), Edward Elgar.
108. Throsby, David and Glenn A. Withers (1979), The Economics of the
Performing Arts (edition 1993),Edward Arnold (Australia).
109. Throsby David (2001), Economics and Culture, Cambridge University Press.
110. Throsby, David and Victor A. Ginsburgh (2006), Handbook of the
Economics of Art and Culture (volume 2), North-Holland.
111. Throsby, David (2010), The Economics of Cultural Policy, Cambridge
University Press, Hoa Kỳ.
112. Throsby, David and Michael Hutter (2011), Beyond Price: Value in
Culture, Economics and the Arts, Cambridge University Press,
New York.
113. Tess Collins (2003), How Theater Managers Manage, Scarecrow Press.
114. UNDP, UNTCAD (2010), Creative Economy Report 2010 - Creative
Economy: A Fesasible Development Option - Báo cáo Kinh tế Sáng
tạo 2010 - Kinh tế Sáng tạo: Một lựa chọn phát triển khả thi.
115. UNESCO, GACD (2006), Understanding Creative Industries - Cultural
statistics for public-policy making - Hiểu về Công nghiệp sáng tạo -
Số
liệu văn hóa cho hoạch định chính sách công. Lấy
từ:http://portal.unesco.org/culture/en/ev.php-
116. UNSCO – Các ngành Công nghiệp văn hóa – Tâm điểm của văn hóa
trong tương lai. Website: http://portal.unesco.org/culture/en/ev.
Tài liệu trên Website
117. Công nghiệp văn hóa nên được coi là lĩnh vực thương mại,
http://toquoc.vn/sites/vi-vn/details/10/cua-so-van-hoa/80354/cong-
nghiep-van-hoa-nen-duoc-coi-la-linh-vuc-thuong-mai.aspx, [truy cập
ngày 18/8/2011].
162
118. Diện mạo sân khấu TP Hồ Chí Minh và những vấn đề đặt ra,
http://www.nhandan.com.vn/mobile/_mobile_vanhoa, [truy cập ngày
04/05/2015].
119. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực văn hóa để đáp ứng yêu
cầu yêu cầu hội nhập, http://tapchicongsan.org.vn/, [truy cập ngày
21/04/2015].
120. Để nghệ thuật biểu diễn phát triển: Cần sự vào cuộc mạnh hơn của các đơn
vị nhà nước, http://baotintuc.vn/doi-song-van-hoa/de-nghe-thuat-bieu-
dien-phat-trien-can-su-vao-cuoc-manh-hon-cua-cac-don-vi-nha-nuoc,
[truy cập ngày 01/10/2011].
121. Để nghệ thuật biểu diễn phát triển: Tư nhân không thể đọc diễn!, Báo
điện
tử
của Bộ Văn
hóa, Thể
thao
và Du
lịch,
http://www.toquoc.gov.vn, [truy cập ngày 19/04/2015].
122. Gần 40 nhạc
sĩ công kích Cục Nghệ
thuật biểu diễn,
http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/gioi-sao/trong-nuoc/gan-40-nhac-si-
cong-kich-cuc-nghe-thuat-bieu-dien, [truy cập ngày 17/2/2012].
123. Khẳng định mục
tiêu phát
triển công nghiệp văn hóa,
http://thethaovanhoa.vn/van-hoa-giai-tri/khang-dinh-muc-tieu-phat-
trien-cong-nghiep-van-hoa-n20150123071858153.htm, [truy cập ngày
23/01/2015].
124. Nguồn:http://baodientu.chinhphu.vn/Tin-noi-bat/Nghi-quyet-Hoi-nghi-
Trung-uong-9-khoa-XI/201435.vgp
125. Nguồn:http://tuoitre.vn/tin/chinh-tri-xa-hoi/20141217/dan-so-vn-dat-
904-trieu-nguoi-tphcm-co-795-trieu-dan/686193.html
126. Nghĩ về công nghiệp sáng tạo ở Việt Nam, http://www.tapchicongsan.org.vn,
[truy cập ngày 16/7/2014].
127. Phát
triển ngành
công nghiệp
văn hóa ở Việt Nam,
http://www.nhandan.com.vn/vanhoa/dong-chay/item/23313302-phat-
163
trien-nganh-cong-nghiep-van-hoa-o-viet-nam.html, [truy cập ngày
26/5/2014].
128. Quản lý hoạt động biểu diễn nghệ thuật: Còn nhiều bất cập,
http://www.nhandan.org.vn/vanhoa/dien-dan/item/12840402-.html
129. Thay đổi tư duy đầu tư cho nghệ thuật biểu diễn, http://www.nhandan.com.vn,
[truy cập ngày 30/11/2011].
130. Trung tâm Bảo vệ quyền tác giả âm nhạc Việt Nam – Chi nhánh phía
nam
tổ chức Họp mặt kỷ niệm 10 năm
thành
lập,
http://vcpmc.org/vcpmc/tintuc/chitiet/_877/Trung_tam_Bao_ve_quye
n_tac_gia_am_nhac_Viet_Nam__Chi_nhanh_phia_Nam_to_chuc_Ho
p_mat_ky_niem_10_nam_thanh_lap
131. Sáng tạo phải dựa vào chuẩn mực, http://www.anninhthudo.vn/giai-
tri/sang-tao-phai-dua-tren-chuan-muc/347905.antd
132. Vi phạm
tác quyền âm nhạc: Vẫn
là căn bệnh mãn
tính!
http://vcpmc.org/vcpmc/tintuc/chitiet/875/Vi pham tac quyen am nhac
Van la can benh man tinh.
133. Xã hội hóa biểu diễn tới đâu?http://maivang.nld.com.vn
134. Xây dựng và phát triển ngành công nghiệp văn hóa ở nước ta,
http://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tracuu/xay_dung_va_phat_trien_cnvh-
0.html
164
PHỤ LỤC LUẬN ÁN
PHỤ LỤC 1: PHIẾU KHẢO SÁT XÃ HỘI HỌC
165
PHỤ LỤC 2: BẢNG XỬ LÝ SỐ LIỆU KHẢO SÁT
188
PHỤ LỤC 3: CÂU HỎI VÀ NỘI DUNG PHỎNG VẤN
198
PHỤ LỤC 4: DANH SÁCH CÁC ĐƠN VỊ HOẠT ĐỘNG LĨNH VỰC
203
VĂN HÓA NGHỆ THUẬT – GIẢI TRÍ TẠI TP. HỒ CHÍ MINH
PHỤ LỤC 5: MỘT SỐ HÌNH ẢNH MINH HỌA
206
165
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC II
Mã số: 02
Mục đích khảo sát: Tìm hiểu đánh giá của khán giả về tình hình hoạt động của một số sân khấu ca nhạc tại Tp. HCM hiện nay. Đối tượng khảo sát: Khán giả tại một số sân khấu ca nhạc tại Tp. HCM
Khảo sát viên: ....................................................... Ngày khảo sát:………………………………. Địa điểm khảo sát: sân khấu………………………
Đề tài cần khảo sát: Công nghiệp văn hóa ở Tp. Hồ Chí Minh hiện nay (Qua khảo sát một số lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn)
PHỤ LỤC 1.1: BIỂU KHẢO SÁT XÃ HỘI HỌC Chúng tôi là nhóm nghiên cứu viên đến từ Học viện Chính trị khu vực II thực hiện đề tài này với mục đích nghiên cứu. Chúng tôi rất mong được sự giúp đỡ của quý vị trong quá trình thực hiện công trình này. Chúng tôi cam kết những thông tin mà quý vị cung cấp được bảo mật để phục vụ công tác nghiên cứu khoa học. Xin chân thành cảm ơn! Để hoàn thiện bảng hỏi, ông/bà vui lòng đánh dấu X vào ô tương ứng với ý kiến của ông/bà. Xin chân thành cảm ơn!
166
PHẦN I: THÔNG TIN CHUNG
2. Nữ
Câu 1: Ông /bà vui lòng cho biết một số thông tin chung sau: Giới tính: 1. Nam Tuổi: 12 – 18 tuổi
19 – 25 tuổi 26 – 35 tuổi
36 – 45 tuổi 46 – 55 tuổi trên 55 tuổi
Dân tộc: 1. Kinh
2. Chăm 3. Hoa
4. KhơMe 5. Khác
Trình độ học vấn: 1. Chưa bao giờ đi học 2. Cấp 1 3. Cấp 2 4. Cấp 3 5. Trung cấp, Cao đẳng 6. Đại học 7. Sau đại học
PHẦN II: KHẢO SÁT CHUYÊN SÂU
Câu 2: Ông /bà vui lòng cho biết đây là lần thứ mấy ông/bà đến xem biểu diễn ca nhạc tại sân khấu này:
1. Lần đầu 2. Lần thứ 2 3. Lần thứ 3 4. Trên 3 lần
Nếu trả lời một trong các ý 2, 3, 4, xin mời trả lời tiếp câu 3, Nếu trả lời ý 1, xin mời trả lời tiếp câu 4
Câu 3: Ông /bà vui lòng cho biết vì sao thường xuyên đến xem biểu diễn ca nhạc tại sân khấu này (có thể chọn nhiều ý trả lời):
Bài hát hay
Sân khấu đẹp
Các dịch vụ đi kèm tốt
Vị trí sân khấu gần nhà
Khác (vui lòng ghi rõ)
Hệ thống âm thanh, ánh sáng chuẩn
Câu 4: Ông /bà đánh giá như thế nào về chất lượng ca sĩ tại đây:
Phần lớn chất giọng và trình diễn tốt
Phần lớn chất giọng và trình diễn khá
Phần lớn chất giọng và trình diễn trung bình
Phần lớn chất giọng và trình diễn yếu
Câu 5: Mức độ hài lòng của Ông /bà đối với chất lượng chương trình ca nhạc tại sân khấu này:
Rất hài lòng với phần lớn chương trình ca nhạc
Tương đối hài lòng với phần lớn chương trình ca nhạc
Không hài lòng với phần lớn chương trình ca nhạc
167
Câu 6: Theo Ông /bà, giá vé tại sân khấu này như thế nào:
Rất cao
Tương đối cao
Phù hợp
Rẻ
Câu 7: Ông /bà vui lòng cho biết ý kiến về chất lượng hệ thống cơ sở vật chất tại sân khấu này:
Hệ thống âm thanh
Hệ thống ánh sáng
Ghế ngồi
Nhà vệ sinh
Tốt Khá TB Kém Tốt Khá TB Kém Tốt Khá TB Kém Tốt Khá TB Kém
Câu 8: Ông /bà vui lòng cho biết ý kiến về chất lượng một số hoạt động của sân khấu này:
Hoạt động bán vé
Dịch vụ giữ xe
Hoạt động quảng cáo
Công tác an ninh, trật tự
Dịch vụ ẩm thực (nếu có)
Tốt Khá TB kém Tốt Khá TB kém Tốt Khá TB kém Tốt Khá TB kém Tốt Khá TB kém
Câu 9: Ông /bà biết những thông tin về các chương trình ca nhạc ở sân khấu này qua các kênh truyền thông nào:
Báo in
Truyền miệng
Website của sân khấu
Biển quảng cáo trước sân khấu
Báo điện tử
Khác (vui lòng ghi rõ)
Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của ông/bà!
168
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC II
Mã số: 02
Mục đích khảo sát: Tìm hiểu đánh giá của khán giả về tình hình hoạt động của một số sân khấu kịch nói tại Tp. HCM hiện nay. Đối tượng khảo sát: Khán giả tại một số sân khấu kịch nói tại Tp. HCM
Khảo sát viên:…………………………….………. Ngày khảo sát:………………………………. Địa điểm khảo sát: sân khấu………………………
Đề tài cần khảo sát: Công nghiệp văn hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay (Qua khảo sát một số lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn)
PHỤ LỤC 1.2: BIỂU KHẢO SÁT XÃ HỘI HỌC Chúng tôi là nhóm nghiên cứu viên đến từ Học viện chính trị khu vực II thực hiện đề tài này với mục đích nghiên cứu. Chúng tôi rất mong được sự giúp đỡ của quý vị trong quá trình thực hiện công trình này. Chúng tôi cam kết những thông tin mà quý vị cung cấp được bảo mật để phục vụ công tác nghiên cứu khoa học. Xin chân thành cảm ơn! Để hoàn thiện bảng hỏi, ông/bà vui lòng đánh dấu X vào ô tương ứng với ý kiến của ông/bà. Xin chân thành cảm ơn!
169
PHẦN I: THÔNG TIN CHUNG
2. Nữ
19 – 25 tuổi 26 – 35 tuổi 36 – 45 tuổi
trên 55 tuổi
Câu 1: Ông /bà vui lòng cho biết một số thông tin chung sau: Giới tính: 1. Nam Tuổi: 12 – 18 tuổi 46 – 55 tuổi Dân tộc: 1. Kinh
2. Chăm 3. Hoa
4. KhơMe 5. Khác
Tôn giáo: 1. Phật
2. Thiên Chúa Giáo
4. Cao đài
5. Thờ Ông bà
3. Tin lành 6. Khác
Trình độ học vấn: 1. Chưa bao giờ đi học 2. Cấp 1 3. Cấp 2 4. Cấp 3 5. Trung cấp, Cao đẳng 6. Đại học 7. Sau đại học
PHẦN II: KHẢO SÁT CHUYÊN SÂU
Câu 2: Ông /bà vui lòng cho biết đây là lần thứ mấy ông/bà đến xem kịch tại sân khấu này:
1. Lần đầu 2. Lần thứ 2 3. Lần thứ 3 4. Trên 3 lần
Nếu trả lời một trong các ý 2, 3, 4, xin mời trả lời tiếp câu 3, nếu trả lời ý 1, xin mời trả lời tiếp câu 4
Câu 3: Ông /bà vui lòng cho biết vì sao thường xuyên đến xem kịch tại sân khấu này (có thể chọn nhiều ý trả lời):
Kịch hay
Sân khấu đẹp
Các dịch vụ đi kèm tốt
Vị trí sân khấu gần nhà
Khác (vui lòng ghi rõ)
Hệ thống âm thanh, ánh sáng chuẩn
Câu 4: Ông /bà đánh giá như thế nào về chất lượng diễn viên tại đây:
Phần lớn diễn xuất tốt
Phần lớn diễn xuất khá
Phần lớn diễn xuất yếu
Phần lớn diễn xuất tốt
Phần lớn diễn xuất trung bình
Phần lớn diễn xuất yếu
Phần lớn diễn xuất trung bình
Diễn viên chính
Diễn viên phụ Phần lớn diễn xuất khá
Câu 5: Mức độ hài lòng của Ông /bà đối với chất lượng nội dung các vở kịch tại sân khấu này:
Rất hài lòng với phần lớn vở kịch
Tương đối hài lòng với phần lớn vở kịch
Không hài lòng với phần lớn vở kịch
170
Câu 6: Theo Ông /bà, giá vé tại sân khấu này như thế nào:
Rất cao
Tương đối cao
Phù hợp
Rẻ
Câu 7: Ông /bà vui lòng cho biết ý kiến về chất lượng hệ thống cơ sở vật chất tại sân khấu này:
Hệ thống âm thanh Hệ thống ánh sáng
Ghế ngồi
Nhà vệ sinh
Tốt Khá TB kém Tốt Khá TB kém Tốt Khá TB kém Tốt Khá TB kém
Câu 8: Ông /bà vui lòng cho biết ý kiến về chất lượng một số hoạt động của sân khấu này:
Dịch vụ giữ xe
Hoạt động bán vé
Hoạt động quảng cáo
Công tác an ninh, trật tự
Dịch vụ ẩm thực (nếu có)
Tốt Khá TB kém Tốt Khá TB kém Tốt Khá TB kém Tốt Khá TB kém Tốt Khá TB kém
Câu 9: Ông /bà biết những thông tin về các vở kịch ở sân khấu này qua các kênh truyền thông nào:
Báo in
Truyền miệng
Website của sân khấu
Biển quảng cáo trước sân khấu
Báo điện tử
Khác (vui lòng ghi rõ)
Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của ông/bà!
171
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC II
Mã số: 02
Mục đích khảo sát: Tìm hiểu đánh giá của cán bộ/nhân viên về hoạt động của 1 số sân khấu ca nhạc tại Tp. HCM Đối tượng khảo sát: Cán bộ/nhân viên đang làm việc tại 1 số sân khấu ca nhạc tại Tp. HCM
Khảo sát viên: ....................................................... Ngày khảo sát:……………………………….
Địa điểm khảo sát: sân khấu………………………
Đề tài cần khảo sát: Công nghiệp văn hóa tại Tp. Hồ Chí Minh hiện nay (Qua khảo sát một số lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn)
PHỤ LỤC 1.3: BIỂU KHẢO SÁT XÃ HỘI HỌC Chúng tôi là nhóm nghiên cứu viên đến từ Học viện Chính trị khu vực II thực hiện đề tài này với mục đích nghiên cứu. Chúng tôi rất mong được sự giúp đỡ của quý vị trong quá trình thực hiện công trình này. Chúng tôi cam kết những thông tin mà quý vị cung cấp được bảo mật để phục vụ công tác nghiên cứu khoa học. Xin chân thành cảm ơn! Để hoàn thiện bảng hỏi, ông/bà vui lòng đánh dấu X hoặc chấm điểm ưu tiên theo hướng dẫn vào ô tương ứng với ý kiến của ông/bà. Xin chân thành cảm ơn!
172
PHẦN I: THÔNG TIN CHUNG
2. Nữ
26 – 35 tuổi 36 – 45 tuổi
Câu 1: Ông /bà vui lòng cho biết một số thông tin chung sau: Giới tính: 1. Nam Tuổi: 18 – 25 tuổi 46 – 55 tuổi trên 55 tuổi Dân tộc: 1. Kinh
2. Chăm 3. Hoa
4. KhơMe 5. Khác
Trình độ học vấn: 1. Cấp 1 2. Cấp 2 3. Cấp 3 4. TC, CĐ 5. Đại học 6. Sau đại học
Ông /bà vui lòng cho biết thời gian làm việc tại sân khấu này:
1. Dưới 1 năm 2. Năm thứ 2 3. Năm thứ 3 4. Trên 3 năm
7. NV hậu đài
9. NV ánh sáng 10. NV trang trí sân khấu (nếu có) 11. Đạo diễn
Ông /bà vui lòng cho biết công việc chuyên môn của mình tại sân khấu này: 1. NV bán vé 2. NV soát vé 8. NV âm thanh 3. NV vệ sinh 4. NV trật tự 5. NV truyền thông/quảng cáo/Marketing (nếu có) 6. NV hành chính tổng hợp 12. Ca sĩ 13. Khác (vui lòng ghi rõ):…………………………………………………….
PHẦN II: KHẢO SÁT CHUYÊN SÂU
Câu 2: Đối với thuật ngữ “Công nghiệp văn hóa”, ông /bà đã:
1.Chưa bao giờ nghe
3.Đã nghe nhưng không quan tâm
5.Đang tìm hiểu thuật ngữ này
2.Đã nghe nhưng không hiểu
4.Hiểu rõ về thuật ngữ này
Nếu trả lời ý 1, 2, 3, 5 xin mời trả lời tiếp câu 8; Nếu trả lời ý 4 thì xin mời trả lời tiếp câu 3 Câu 3: Theo ông/bà, công nghiệp văn hóa bao gồm những thành tố nào sau đây:
1. Khu vực sáng tạo nghệ thuật (nghệ sỹ, diễn viên) 2. Khu vực tổ chức biểu diễn 3. Khu vực quản trị nghệ thuật (bán vé, marketing) 4. Tất cả các thành tố trên
173
Câu 4: Ông/bà vui lòng sắp xếp thứ tự các nguyên nhân (Trong đó, 1 là nguyên nhân
quan trọng nhất) đang cản trở sự phát triển ngành công nghiệp văn hóa trong lĩnh
vực nghệ thuật biểu diễn ở Thành phố hiện nay:
1. Công tác quản
3. Thiếu hụt tài năng
4. Công tác tổ chức
lý nhà nước
nghệ thuật
biểu diễn
2. Công tác quản trị của doanh nghiệp
Câu 5: Ông/bà vui lòng sắp xếp thứ tự các chính sách mà Nhà nước cần ưu tiên để tạo
động lực cho công nghiệp văn hóa trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn Tp. HCM phát triển (Trong đó, 1 là ưu tiên nhất):
1. Chiến lược phát triển công nghiệp nghệ thuật biểu diễn
2. Chính sách thuế thu nhập
3. Chính sách ưu đãi vay vốn ngân hàng
4. Chính sách ưu đãi thuê mặt bằng
5. Chính sách đào tạo tài năng quản trị nghệ thuật
6. Chính sách đào tạo nghệ sĩ sáng tạo và biểu diễn
7. Chính sách trọng dụng nhân tài nghệ thuật
8. Chính sách xã hội hoạt động nghệ thuật
9. Chính sách đổi mới công nghệ kỹ thuật
10. Chính sách thu hút đầu tư quốc tế
Câu 6: Ông/bà vui lòng sắp xếp thứ tự các giải pháp cần ưu tiên thực hiện để công
nghiệp văn hóa trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn Tp. HCM phát triển (Trong đó, 1 là ưu tiên nhất):
1. Cần thay đổi nhận thức, tư duy về công nghiệp NTBD
2. Cần hoàn thiện các văn bản pháp luật về văn hóa, nghệ thuật
3. Quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật
4. Kịp thời cải tiến chế độ chính sách
5. Quan tâm đào tạo nguồn nhân lực
6. Đẩy mạnh xã hội hóa lĩnh vực NTBD
7. Nâng cao thị hiếu thẩm mỹ cho công chúng
174
Câu 7: Ông /bà vui lòng sắp xếp mức độ quan tâm của đơn vị mình đối với các thành tố sau (trong đó, 1 là ưu tiên nhất):
1. Khu vực sáng tạo nghệ thuật (nghệ sỹ, diễn viê
2. Khu vực tổ chức biểu diễn
3.Khu vực quản trị nghệ thuật
Câu 8: Ông /bà vui lòng sắp xếp mức độ ưu tiên về định hướng giá trị của đơn vị
mình (trong đó, 1 là ưu tiên nhất):
4. Đề cao tài năng nghệ thuật 5. Chăm lo cho nghệ sĩ 6. Bảo tồn nghệ thuật dân tộc 7. Tăng sức cạnh tranh
1. 1.Tăng lợi nhuận 2. 2. Thu hút khán giả 3. 3. Giữ thương hiệu 4. Đề cao tính thẩm mỹ
Câu 9: Mức độ tham gia biểu diễn của ông bà tại đơn vị mình là (câu này chỉ dành cho những người là diễn viên tham gia khảo sát):
1. Rất thường xuyên
2. Thường xuyên
3. Thỉnh thoảng
Câu 10: Ông /bà vui lòng cho biết ý kiến về chất lượng các chương trình ca nhạc tại đơn vị mình:
1.Cao
2. Trung bình
3. Thấp
4. Rất thấp
Câu 11: Ông /bà vui lòng cho ý kiến về chất lượng hệ thống cơ sở vật chất tại sân khấu này:
Hệ thống âm thanh
Hệ thống ánh sáng
Ghế ngồi
Nhà vệ sinh
Tốt Khá TB Kém Tốt Khá TB Kém Tốt Khá TB Kém Tốt Khá TB Kém
Câu 12: Ông /bà vui lòng cho biết hiện nay đơn vị mình đang áp dụng những hình thức truyền thông/quảng cáo/marketing nào: (có thể chọn nhiều ý trả lời)
1.Website
Khác (vui lòng ghi rõ)
2.Biển quảng cáo
3.Báo in
4.Báo điện tử
5.Truyền miệng
175
Câu 13: Ông /bà vui lòng đánh giá mức độ hiệu quả của các hình thức truyền thông/quảng cáo/marketing mà sân khấu mình đang dùng (trong đó, 1 là hiệu quả cao nhất):
1.Website
2.Biển quảng cáo
3.Báo in
4.Báo điện tử
5.Truyền miệng
Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của ông/bà!
176
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC II
Mã số: 02
Mục đích khảo sát: Tìm hiểu đánh giá của cán bộ/nhân viên về hoạt động của 1 số sân khấu kịch nói tại Tp. HCM Đối tượng khảo sát: Cán bộ/nhân viên đang làm việc tại 1 số sân khấu kịch nói tại Tp. HCM
Khảo sát viên: ....................................................... Ngày khảo sát:………………………………. Địa điểm khảo sát: sân khấu………………………
Đề tài cần khảo sát: Công nghiệp văn hóa tại Tp. Hồ Chí Minh hiện nay (Qua khảo sát một số lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn)
PHỤ LỤC 1.4: BIỂU KHẢO SÁT XÃ HỘI HỌC Chúng tôi là nhóm nghiên cứu viên đến từ Học viện Chính trị khu vực II thực hiện đề tài này với mục đích nghiên cứu. Chúng tôi rất mong được sự giúp đỡ của quý vị trong quá trình thực hiện công trình này. Chúng tôi cam kết những thông tin mà quý vị cung cấp được bảo mật để phục vụ công tác nghiên cứu khoa học. Xin chân thành cảm ơn! Để hoàn thiện bảng hỏi, ông/bà vui lòng đánh dấu X hoặc chấm điểm ưu tiên theo hướng dân vào ô tương ứng với ý kiến của ông/bà. Xin chân thành cảm ơn!
177
PHẦN I: THÔNG TIN CHUNG
2. Nữ
Câu 1: Ông /bà vui lòng cho biết một số thông tin chung sau: Giới tính: 1. Nam Tuổi: 18 – 25 tuổi
26 – 35 tuổi 36 – 45 tuổi
46 – 55 tuổi trên 55 tuổi
2. Chăm 3. Hoa
Dân tộc: 1. Kinh
4. KhơMe 5. Khác
Trình độ học vấn:
1. Cấp 1 2. Cấp 2 3. Cấp 3 4. TC, CĐ 5. Đại học 6. Sau đại học
Ông /bà vui lòng cho biết thời gian làm việc tại sân khấu này:
1. Dưới 1 năm 2. Năm thứ 2 3. Năm thứ 3 4. Trên 3 năm
8. NV âm thanh 9. NV ánh sáng 10. NV trang trí sân khấu (nếu có) 11. Đạo diễn 12. Nhà biên kịch 13. Diễn viên
Ông /bà vui lòng cho biết công việc chuyên môn của mình tại sân khấu này: 1. NV bán vé 2. NV soát vé 3. NV vệ sinh 4. NV trật tự 5. NV truyền thông/quảng cáo/Marketing (nếu có) 6. NV hành chính tổng hợp 7. NV hậu đài 14. Khác (vui lòng ghi rõ):…………………………………………………….
PHẦN II: KHẢO SÁT CHUYÊN SÂU
Câu 2: Đối với thuật ngữ “Công nghiệp văn hóa”, ông /bà đã:
1.Chưa bao giờ nghe
3.Đã nghe nhưng không quan tâm
4.Hiểu rõ về thuật ngữ này
5.Đang tìm hiểu thuật ngữ này
2.Đã nghe nhưng không hiểu
Nếu trả lời ý 1, 2, 3, 5 xin mời trả lời tiếp câu 8; Nếu trả lời ý 4 thì xin mời trả lời tiếp câu 3
178
Câu 3: Theo ông/bà, công nghiệp văn hóa trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn bao
gồm những thành tố nào sau đây:
1. Khu vực sáng tạo nghệ thuật (nghệ sỹ, diễn viên)
2. Khu vực tổ chức biểu diễn
3. Khu vực quản trị nghệ thuật (bán vé, marketing)
4.Tất cả các thành tố trên
Câu 4: Ông/bà vui lòng sắp xếp thứ tự các nguyên nhân (Trong đó, 1 là nguyên nhân
quan trọng nhất) đang cản trở sự phát triển ngành công nghiệp nghệ thuật biểu diễn
ở Thành phố hiện nay
1.Công tác
2.Công tác
3.Thiếu hụt tài
4.Công tác tổ chức
quản lý nhà
quản trị của
năng nghệ thuật
biểu diễn
nước
doanh nghiệp
Câu 5: Ông/bà vui lòng sắp xếp thứ tự các chính sách mà Nhà nước cần ưu tiên để để
tạo động lực cho công nghiệp văn hóa nghệ thuật biểu diễn Tp. HCM phát triển
(Trong đó, 1 là ưu tiên nhất):
1.Chiến lược phát triển công nghiệp nghệ thuật biểu diễn
2.Chính sách thuế thu nhập
3.Chính sách ưu đãi vay vốn ngân hàng
4.Chính sách ưu đãi thuê mặt bằng
5.Chính sách đào tạo tài năng quản trị nghệ thuật
6.Chính sách đào tạo nghệ sĩ sáng tạo và biểu diễn
7.Chính sách trọng dụng nhân tài nghệ thuật
8.Chính sách xã hội hoạt động nghệ thuật
9.Chính sách đổi mới công nghệ kỹ thuật
10. Chính sách thu hút đầu tư quốc tế
Câu 6: Ông/bà vui lòng sắp xếp thứ tự các giải pháp cần cần ưu tiên thực hiện để
công nghiệp văn hóa trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn Tp. HCM phát triển (Trong
đó, 1 là ưu tiên nhất):
1.Cần thay đổi nhận thức, tư duy về công nghiệp NTBD
2.Cần hoàn thiện các văn bản pháp luật về văn hóa, nghệ thuật
3. Quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật
4. Kịp thời cải tiến chế độ chính sách
5. Quan tâm đào tạo nguồn nhân lực
6. Đẩy mạnh xã hội hóa lĩnh vực NTBD
7. Nâng cao thị hiếu thẩm mỹ cho công chúng
179
Câu 7: Ông /bà vui lòng sắp xếp mức độ quan tâm của đơn vị mình đối với các thành tố sau (trong đó, 1 là ưu tiên nhất):
2. Khu vực tổ chức biểu diễn
1. Khu vực sáng tạo nghệ thuật (nghệ sỹ, diễn viên
3.Khu vực quản trị nghệ thuật
Câu 8: Ông /bà vui lòng sắp xếp mức độ ưu tiên về định hướng giá trị của đơn vị
mình (trong đó, 1 là ưu tiên nhất):
5. Đề cao tài năng nghệ thuật 6. Chăm lo cho nghệ sĩ 7. Bảo tồn nghệ thuật dân tộc 8. Tăng sức cạnh tranh
1. Tăng lợi nhuận 2. Thu hút khán giả 3. Giữ thương hiệu 4. Đề cao tính thẩm mỹ
Câu 9: Mức độ tham gia biểu diễn của ông bà tại đơn vị mình là (câu này chỉ dành cho những người là diễn viên tham gia khảo sát):
1. Rất thường xuyên
2. Thường xuyên
3. Thỉnh thoảng
Câu 10: Ông /bà vui lòng cho biết ý kiến về chất lượng các vở diễn tại đơn vị mình:
1.Cao
2. Trung bình
3. Thấp
4. Rất thấp
Câu 11: Ông /bà vui lòng cho ý kiến về chất lượng hệ thống cơ sở vật chất tại sân khấu này:
Hệ thống âm thanh
Hệ thống ánh sáng
Ghế ngồi
Nhà vệ sinh
Tốt Khá TB Kém Tốt Khá TB Kém Tốt Khá TB Kém Tốt Khá TB Kém
Câu 12: Ông /bà vui lòng cho biết hiện nay đơn vị mình đang áp dụng những hình thức truyền thông/quảng cáo/marketing nào: (có thể chọn nhiều ý trả lời)
1.Website
2.Biển quảng cáo
3.Báo in
4.Báo điện tử
5.Truyền miệng
Khác (vui lòng ghi rõ)
180
Câu 13: Ông /bà vui lòng đánh giá mức độ hiệu quả của các hình thức truyền thông/quảng cáo/marketing mà sân khấu mình đang dùng (trong đó, 1 là hiệu quả cao nhất):
1.Website
2.Biển quảng cáo
3.Báo in
4.Báo điện tử
5.Truyền miệng
Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của ông/bà!
181
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC II
Mã số: 04
Mục đích khảo sát: Tìm hiểu nhận thức của cán bộ/nhân viên ngành văn hóa về công nghiệp văn hóa nghệ thuật biểu diễn Đối tượng khảo sát: Cán bộ/nhân viên đang làm việc tại các cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa
Khảo sát viên: ....................................................... Ngày khảo sát:…………………………….
Địa điểm khảo sát: ………………………………………….
Đề tài cần khảo sát: Công nghiệp văn hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay (Qua khảo sát một số lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn)
PHỤ LỤC 1.5: BIỂU KHẢO SÁT XÃ HỘI HỌC Chúng tôi là nhóm nghiên cứu viên đến từ Học viện chính trị khu vực II thực hiện đề tài này với mục đích nghiên cứu. Chúng tôi rất mong được sự giúp đỡ của quý vị trong quá trình thực hiện công trình này. Chúng tôi cam kết những thông tin mà quý vị cung cấp được bảo mật để phục vụ công tác nghiên cứu khoa học. Xin chân thành cảm ơn! Để hoàn thiện bảng hỏi, ông/bà vui lòng đánh dấu X hoặc chấm điểm ưu tiên theo hướng dẫn vào ô tương ứng với ý kiến của ông/bà. Xin chân thành cảm ơn!
182
PHẦN I: THÔNG TIN CHUNG
2. Nữ
26 – 35 tuổi 36 – 45 tuổi
2. Chăm 3. Hoa
Câu 1: Ông /bà vui lòng cho biết một số thông tin chung sau: Giới tính: 1. Nam Tuổi: 18 – 25 tuổi 46 – 55 tuổi trên 55 tuổi Dân tộc: 1. Kinh 4. KhơMe 5. Khác
Trình độ học vấn:
1. Cấp 1 2. Cấp 2 3. Cấp 3 4. TC, CĐ 5. Đại học 6. Sau đại học
Ông /bà vui lòng cho biết thời gian làm việc tại cơ quan này: 1. Dưới 1 năm 2. Năm thứ 2 3. Năm thứ 3 4. Trên 3 năm
Ông /bà vui lòng cho biết vị trí công việc của mình: 1. Giám đốc 2. P.Giám đốc 3. Trưởng phòng 4. Phó phòng 5. NV văn phòng 6. NV kế toán, tài chính 7. Khác (vui lòng ghi rõ):…………………………………………………….
PHẦN II: KHẢO SÁT CHUYÊN SÂU
Câu 2: Đối với thuật ngữ “Công nghiệp văn hóa”, ông /bà đã: 1.Chưa bao giờ nghe
3.Đã nghe nhưng không quan tâm
2.Đã nghe nhưng không hiểu
4.Hiểu rõ về thuật ngữ này
5.Đang tìm hiểu thuật ngữ này
Nếu trả lời ý 1, 2, 3, xin mời trả lời tiếp câu 8; nếu trả lời ý 4, 5 thì xin mời trả lời tiếp câu 3 đến câu 11 Câu 3: Theo ông/bà, công nghiệp văn hóa trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn bao gồm những thành tố nào sau đây:
1. Khu vực sáng tạo nghệ thuật (nghệ sỹ, diễn viên)
2. Khu vực tổ chức biểu diễn
3. Khu vực quản trị nghệ thuật (bán vé, marketing)
4. Tất cả các thành tố trên
183
Câu 4: Ông/bà vui lòng sắp xếp thứ tự các nguyên nhân (Trong đó, 1 là nguyên nhân quan trọng nhất) đang cản trở sự phát triển ngành công nghiệp văn hóa nghệ thuật biểu diễn ở Thành phố hiện nay:
1. Công tác quản lý nhà nước
3. Thiếu hụt tài năng nghệ thuật
4. Công tác tổ chức biểu diễn
2. Công tác quản trị của doanh nghiệp
Câu 5: Ông/bà vui lòng sắp xếp thứ tự các chính sách mà Nhà nước cần ưu tiên để tạo động lực cho công nghiệp nghệ thuật biểu diễn Tp. HCM phát triển (Trong đó, 1 là ưu tiên nhất):
1.Chiến lược phát triển công nghiệp nghệ thuật biểu diễn
2.Chính sách thuế thu nhập
3. Chính sách ưu đãi vay vốn ngân hàng
4. Chính sách ưu đãi thuê mặt bằng
5. Chính sách đào tạo tài năng quản trị nghệ thuật
6. Chính sách đào tạo nghệ sĩ sáng tạo và biểu diễn
7. Chính sách trọng dụng nhân tài nghệ thuật
8. Chính sách xã hội hoạt động nghệ thuật
9. Chính sách đổi mới công nghệ kỹ thuật
10. Chính sách thu hút đầu tư quốc tế
Câu 6: Ông/bà vui lòng sắp xếp thứ tự các giải pháp cần ưu tiên thực hiện để công
nghiệp nghệ thuật biểu diễn Tp. HCM phát triển (Trong đó, 1 là ưu tiên nhất):
1. Cần thay đổi nhận thức, tư duy về công nghiệp NTBD
2. Cần hoàn thiện các văn bản pháp luật về văn hóa, nghệ thuật
3. Quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật
4. Kịp thời cải tiến chế độ chính sách
5. Quan tâm đào tạo nguồn nhân lực
6. Đẩy mạnh xã hội hóa lĩnh vực NTBD
7. Nâng cao thị hiếu thẩm mỹ cho công chúng
184
Câu 7: Ông /bà vui lòng cho biết để công nghiệp văn hóa- nghệ thuật biểu diễn phát triển cần quan tâm các thành tố sau đây như thế nào (trong đó, 1 là ưu tiên nhất):
2. Khu vực tổ chức biểu diễn
1. Khu vực sáng tạo nghệ thuật (nghệ sỹ, diễn viên)
3.Khu vực quản trị nghệ thuật
Câu 8: Ông /bà vui lòng sắp xếp mức độ ưu tiên về định hướng giá trị để công nghiệp
văn hóa- nghệ thuật biểu diễn phát triển (trong đó, 1 là ưu tiên nhất):
1. Tăng lợi nhuận 2. Thu hút khán giả 3. Giữ thương hiệu 4. Đề cao tính thẩm mỹ 5. Đề cao tài năng nghệ thuật 6. Chăm lo cho nghệ sĩ 7. Bảo tồn nghệ thuật dân tộc 8. Tăng sức cạnh tranh
Câu 9: Ông/bà vui lòng đánh giá về chất lượng/ số lượng đội ngũ nguồn nhân lực
phục vụ cho công nghiệp nghệ thuật biểu diễn tại Tp. Hồ Chí Minh hiện nay:
Tốt
Khá
Trung bình
Yếu
Câu 10: Theo ông/bà, những điều kiện/yếu tố/nhân tố nào tác động đến sự phát triển
công nghiệp nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí Minh hiện nay:
1. Điều kiện về tự nhiên, tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội của Thành phố
2. Đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển công nghiệp văn hóa
3. Xu thế toàn cầu hóa
4. Sự phát triển của khoa học – công nghệ
5. Tác động của kinh tế thị trường
6. Tất cả các nhân tố trên
185
Câu 11: Ông/bà vui lòng sắp xếp thứ tự đối với những vấn đề đặt ra sau đây của công nghiệp nghệ thuật biểu diễn Tp. HCM hiện nay (Trong đó, 1 là ưu tiên nhất):
1. Mâu thuẫn giữa nhu cầu hưởng thụ và khả năng đáp ứng
2. Mâu thuẫn giữa áp lực quốc tế và năng lực trong nước
3. Mâu thuẫn giữa trình độ quản lý và nhu cầu phát triển
4. Mâu thuẫn giữa nguồn nhân lực của CNVH
với tốc độ phát triển của khu vực và thế giới
Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của ông/bà!
186
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC II
Mục đích khảo sát: Tìm hiểu việc ứng dụng công nghệ
Mã số: 01
trong hoạt động biểu diễn sân khấu ca nhạc tại Tp.HCM Hình thức khảo sát: Thống kê số liệu từ 05 đơn vị biểu
diễn sân khấu ca nhạc tại Tp.HCM
Khảo sát viên: ....................................................... Ngày khảo sát: ……………………………….
Địa điểm khảo sát: ……………………………………
Đề tài cần khảo sát: Công nghiệp văn hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay (Qua khảo
sát một số lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn)
Kết quả cần đạt được: Thống kê cần thể hiện rõ sự thay đổi về yếu tố kỹ thuật – công nghệ
trong hoạt động biểu diễn sân khấu ca nhạc tại Tp. HCM trong quá khứ và hiện tại
187
PHỤ LỤC 1.6: BIỂU THỐNG KÊ
Chúng tôi là nhóm nghiên cứu viên đến từ trường Học viện Chính trị khu vực II thực hiện đề tài
này với mục đích nghiên cứu. Chúng tôi rất mong được sự giúp đỡ của quý vị trong quá trình thực hiện công trình này. Chúng tôi cam kết những thông tin mà quý vị cung cấp được bảo mật
để phục vụ công tác nghiên cứu khoa học. Xin chân thành cảm ơn!
Loại kỹ thuật – công nghệ trước đây Loại kỹ thuật – công nghệ hiện tại
Hệ thống ánh sáng
- Hệ thống bàn điều khiển bằng tín hiệu
- Hệ thống điều khiển tín hiệu DMX 512
DMX
chanel
Kỹ thuật – công nghệ chiếu sáng
- Đèn Par 64 - Đèn profile - Đèn Fresnell
- Đèn Par led - Đèn Moving head
Hệ thống âm thanh
- Bàn điều khiển kỹ thuật số Yamaha 48
- Bàn điều khiển cơ (Allen & heat)
chanel
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 20 tháng 12năm 2014 Cơ quan cung cấp số liệu xác nhận, đóng dấu
188
PHỤ LỤC 2
KẾT QUẢ XỬ LÝ SỐ LIỆU ĐỊNH LƯỢNG
1. Đặc trưng xã hội học của mẫu nghiên cứu định lượng
- Mẫu khán giả
+ Giới tính: 46.7% nữ, 53.3% nam.
+ Độ tuổi: từ 12 – 18: 5.9%; từ 19 – 25: 35.8%; từ 26 – 35: 36.4%; từ 36
– 45: 11.8%; từ 46 – 55: 8%; trên 55: 2.1%.
+ Dân tộc: 87.9% Kinh, 10.4% Hoa, 0.6% Chăm; 1.1 khác
+ Trình độ học vấn: 2.1% chưa bao giờ đi học; 4.2% cấp 2; 9.5% cấp 3;
31.2% TC, CĐ; 43.4% ĐH, 9.6% sau ĐH.
- Mẫu cán bộ
+ Giới tính: 60.2% nam, 39.8% nữ.
+ Độ tuổi: từ 18 – 25: 11.4%; từ 26 – 35: 35.4%; từ 36 – 45: 26.9%; từ
46 – 55: 16.5%; trên 55: 9.8%.
+ Dân tộc: 96.7% Kinh, 2.4% Hoa, Khơ me: 0.9%.
+ Trình độ học vấn: 1% cấp 1; 7% cấp 2; 30% cấp 3; 12% TC, CĐ; 42%
ĐH, 8% sau ĐH.
+ Thời gian làm việc: 6.5% dưới 1 năm; 11.7% năm thứ 2; 11.7% năm
thứ 3; 70.1% trên 3 năm.
2. Kết quả khảo sát định lượng
2.1. Đối tượng là khán giả
a.1. Đánh giá của khán giả sân khấu ca nhạc
Bảng 1: Mức độ xem biểu diễn ca nhạc tại sân khấu được khảo sát
Lần thứ 3
Trên 3 lần
39.7
34.3
Lần thứ 2 26.0
189
Bảng 2: Lý do thường xuyên đến xem biểu diễn ca nhạc tại sân khấu này
Sân khấu đẹp
Vị trí sân khấu gần nhà
Các chương trình có chất lượng nghệ thuật cao 36
41.3
Hệ thống âm thanh, ánh sáng chuẩn 44
Các dịch vụ đi kèm tốt 5.3
56
Bảng 3: Đánh giá về chất lượng ca sĩ
Phần lớn chất giọng và trình diễn khá
Phần lớn chất giọng vàtrình diễn yếu
Phần lớn chất giọng và trình diễn tốt
Phần lớn chất giọng và trình diễn trung bình
35.1
59.5
5.4
0
Bảng 4: Mức độ hài lòng của Ông /bà đối với chất lượng chương trình ca nhạc tại sân khấu
Rất hài lòng với phần lớn chương trình ca nhạc
Tương đối hài lòng với phần lớn chương trình ca nhạc
Không hài lòng với phần lớn chương trình ca nhạc
37.8
62.2
0
Bảng 5: Đánh giá về giá vé tại sân khấu
Rất cao
Tương đối cao
Phù hợp
Rẻ
1.3
4.0
57.3
37.3
Bảng 6: Ý kiến về chất lượng hệ thống cơ sở vật chất tại sân khấu
Tốt
kém
TB
Khá
Hệ thống âm thanh Hệ thống ánh sáng Ghế ngồi Nhà vệ sinh
59.5 60.3 18.9 1.4
00 00 00 16.2
5.4 5.5 14.9 47.3
35.1 34.2 66.2 35.1
Bảng 7: Ý kiến về chất lượng một số hoạt động của sân khấu
Hoạt động bán vé Hoạt động quảng cáo Công tác an ninh, trật tự Dịch vụ ẩm thực Dịch vụ giữ xe
Tốt 40.5 50 50.7 6.7 25.7
kém 1.3 00 00 3.3 00
TB 6.8 2.7 13.3 60 28.4
Khá 51.4 47.3 36 30 45.9
190
Bảng 8: thông tin về các chương trình ca nhạc ở sân khấu này qua các kênh truyền thông
Báo in
Báo điện tử
Truyền miệng
Website của sân khấu
Biển quảng cáo trước sân khấu
23.9
76
12
10.7
82.7
a.2. Đánh giá của khán giả sân khấu kịch
Bảng 1: Mức độ xem biểu diễn tại sân khấu
Lần thứ 2 30.1
Lần thứ 3 27.4
Trên 3 lần 42.5
Bảng 2: Lý do thường xuyên đến xem biểu diễn tại sân khấu này
Kịch hay
84
Sân khấu đẹp 24
Hệ thống âm thanh, ánh sáng chuẩn 25.3
Các dịch vụ đi kèm tốt 1.3
Vị trí sân khấu gần nhà 32
Bảng 3: Đánh giá về chất lượng diễn viên chính
Phần lớn diễn xuất tốt
Phần lớn diễn xuất khá
Phần lớn diễn xuất trung bình
Phần lớn diễn xuất yếu
71.2
28.8
00
00
Bảng 4: Đánh giá về chất lượng diễn viên phụ
Phần lớn diễn xuất tốt
Phần lớn diễn xuất khá
Phần lớn diễn xuất trung bình
Phần lớn diễn xuất yếu
54.7
39.1
6.2
0
Bảng 5: Mức độ hài lòng của ông /bà đối với chất lượng nội dung các vở diễn
Rất hài lòng với phần lớn vở kịch
Tương đối hài lòng với phần lớn vở kịch
Không hài lòng với phần lớn vở kịch
30.1
69.9
00
Bảng 6: Đánh giá về giá vé tại sân khấu
Rất cao
Tương đối cao
Phù hợp
Rẻ
54.9
43.7
1.4
00
191
Bảng 7: Ý kiến về chất lượng hệ thống cơ sở vật chất tại sân khấu
Tốt
TB
kém
Khá
Hệ thống âm thanh Hệ thống ánh sáng Ghế ngồi Nhà vệ sinh
42.5 44.6 15.2 8.2
12.3 12.0 35.1 38.4
00 00 00 00
45.2 43.2 52.7 53.4
Bảng 8: Ý kiến về chất lượng một số hoạt động của sân khấu
Tốt 27.4 34.8 28.2
TB 13.7 25.7 11.3
kém 1.4 2.9 00
Khá 57.5 34.8 60.6
Hoạt động bán vé Hoạt động quảng cáo Công tác an ninh, trật tự Dịch vụ ẩm thực Dịch vụ giữ xe
4.1 22.5
49 28.2
20.4 1.4
26.5 47.9
Bảng 9: thông tin về các vở diễn của sân khấu này qua các kênh truyền thông
Báo in
Báo điện tử
Truyền miệng
Website của sân khấu
Biển quảng cáo trước sân khấu
50.7
64
5.3
13.3
65.3
b. Đánh giá của cán bộ
b.1. Đánh giá của cán bộ quản lý nghề nghiệp (tại các đơn vị sân khấu)
Bảng 1: Đối với thuật ngữ CNVH ông/bà đã:
Đang tìm hiểu
Chưa bao giờ nghe 49.1
Đã nghe không hiểu 5.5
Đã nghe nhưng không quan tâm 40
Hiểu rỏ thuật ngữ này 0
5.4
Bảng 2: Công nghiệp biểu diễn bao gồm những thành tố:
Khu vực quản trị
Khu vực sáng tạo nghệ thuật
Khu vực tổ chức biểu diễn
Tất cả các thành tố trên
0
0
0
100
192
Bảng 3: Nguyên nhân cản trở sự phát triển của CNNTBD
Quan trọng 1 Quan trọng 2 Quan trọng 3
Quan trọng 4
Công tác quản lý nhà nước
96
0
4
0
0
100
0
0
Công tác quản trị doanh nghiệp
Thiếu hụt tài năng nghệ thuật
0
0
16.7
83.3
Công tác tổ chức biểu diễn
21.4
0
64.3
`4.3
Bảng 4: Chính sách nhà nước cần ưu tiên để tạo động lực phát triển CNNTBD
UT1 UT2 UT3 UT4 UT5 UT6 UT7 UT8 UT9 UT10
0
0
0
0
0
0
0
0
Chính sách thuế
CL PTCN NT biễu diễn 96.2 3.8 4
4
0
4
8
36
36
4
4
0
Ưu đãi vay vốn
0
0
33.3 12.5 12.5 37.5 0
4.2
0
0 CS ưu đãi thuê mặt bằng 0
4.2 33.3
0
0 12.5 8.3 41.7
0
0
CS ĐT tài năng QTNT
4.2 83.3 0
0
4.2
0
0
8.3
0
0
CS ĐT nghệ sĩ ST, BD
0
4.2 20.8 12.5 20.8 4.2 33.3
0
4.2
0
CS trọng dụng nhân tài
0
8.3 20.8 8.3 20.8 4.2 33.3 4.2
0
0
CS XHH hoạt động NT
0
25 16.7 29.2 8.3
0
4.2 8.3
8.3
0
CS đổi mới CNKT
0
0 29.2 12.5
0
16.7 0
4.2 37.5
0
CS thu hút đầu tư QT
0
4.2 4.2
0
4.2
0
0
0
0
87.5
Bảng 5: Giải pháp cần ưu tiên phát triển CN NTBD
UT 1 UT2 UT3 UT4 UT5 UT6 UT7
70.8
4.2
0
8.3
0
8.3
8.3
Thay đổi nhận thức, tư duy về CNNTBD
Hoàn thiện văn bản PL về VH, NT
0
0
54.5
4.5
22.7 18.2
0
Đầu tư xây dựng CSVC
8.7
43.5
8.7
13
13
13
0
Cải tiến chế độ chính sách
4.5
22.7
9.1
18.2
45.5
0
0
Đào tạo nguồn nhân lực
13.6
18.2
4.5
45.5
9.1
4.5
4.5
9.1
4.5
0
0
0
54.5
31.8
4.3
0
21.7
13
8.7
0
52.2
Đẩy mạnh xã hội hóa lĩnh vực NTBD Nâng cao thị hiếu thẩm mỹ của công chúng
193
Bảng 6: Mức độ quan tâm của đơn vị đối với các thành tố của CNNTBD
UT 1
UT2
UT3
Khu vực sáng tạo nghệ thuật
81.2
12.5
6.3
Khu vực tổ chức biểu diễn
40.9
45.5
13.6
Khu vực quản trị nghệ thuât
57.4
24.3
18.3
Bảng 7: Định hướng giá trị của đơn vị mình
UT 1 UT2 UT3 UT4 UT5 UT6 UT7 UT8
Tăng lợi nhuận
28.8
7.7
3.8
19.2
11.5
5.8
19.2
3.8
Thu hút khán giả
7.8
39.2
11.8
5.9
3.9
23.5
7.8
0
Giữ thương hiệu
6.4
10.6
38.3
8.5
6.4
17.8
0
0
Đề cao tính thẩm mỹ
4.2
6.2
20.8
37.5
25
6.3
0
0
Đề cao tài năng nghệ thuật
29.8
14.9
19.1
2.1
6.4
25.5
0
2.1
Chăm lo cho nghệ sỹ
10.2
20.4
44.9
8.2
8.2
4.1
4.1
0
Bảo tồn nghệ thuật dân tộc
31.4
11.8
7.8
17.6
16.6
7.8
0
2
Tăng sức cạnh tranh
0
0
4.3
8.5
6.4
80.9
0
0
Bảng 8: Mức độ tham gia biểu diễn của ông bà tại đơn vị mình
Rất thường xuyên
Thường xuyên
Thỉnh thoảng
63
29.6
7.4
Bảng 9 : Chất lượng các chương trình nghệ thuật
Cao
Trung binh
Thấp
Rất thấp
81.8
18.2
0
0
194
Bảng 10: Ý kiến về chất lượng hệ thống cơ sở vật chất tại sân khấu
Tốt
TB
kém
Khá
Hệ thống âm thanh
59.3
9.3
1.9
29.6
Hệ thống ánh sáng
55.6
14.8
1.8
27.8
Sân khấu
61.1
13
0
25.9
Ghế ngồi
49.1
32.1
0
18.9
Nhà vệ sinh
46.2
32.7
1.9
19.2
Bảng 11: Hình thức truyền thông/Quảng cáo/marketing
Website
Biển quảng cáo
Báo in
Báo điện tử
Truyền miệng
khác
85.7
85.7
50
66.1
69.6
12.5
Bảng 12: Đánh giá mức độ hiệu quả của các công cụ truyền thông
(Mức độ hiệu quả được sắp xếp theo thứ tự từ 1 đến 5, trong đó 1 là hiệu quả nhất)
Hiệu quả 1
Hiệu quả 2
Hiệu quả 3 Hiệu quả 4 Hiệu quả 5 8.2
8.2
Website
36.7
32.7
14.3
Biển quảng
57.1
28.6
2.4
4.8
7.1
cáo
Báo in
28.9
10.5
7.9
10.5
Báo điện tử
0
2,9
54.3
25.7
42.1 17.1
Truyền
5.1
20.5
30.8
41
2.6
miệng
b.2. Đánh giá của cán bộ quản lý nhà nước (Sở VH, TT & DL Tp. HCM)
Bảng 1: Đối với thuật ngữ CNNTBD, ông/bà đã
Đang tìm hiểu
Chưa bao giờ nghe
Đã nghe không hiểu
Đã nghe nhưng không quan tâm
Hiểu rõ thuật ngữ này
10.4
16.7
22.9
14.6
35.4
195
Bảng 2: CNNTBD bao gồm những thành tố
Khu vực quản trị
Khu vực sáng tạo nghệ thuật
Khu vực tổ chức biểu diễn
Tất cả các thành tố trên
3.4
1.7
3.4
91.3
Bảng 3: Mức độ quan trọng của các nguyên nhân cản trở sự phát triển của CNNTBD
Quan trọng
Quan trọng
Quan trọng
Quan trọng
1
2
3
4
Công tác quản lý nhà nước
69
3.4
10.3
17.2
Công
tác quản
trị doanh
13.8
41.4
27.6
17.2
nghiệp
Thiếu hụt tài năng nghệ thuật
12.9
19.4
25.8
41.9
Công tác tổ chức biểu diễn
10.3
37.9
37.9
13.8
Bảng 4: Các chính sách của Nhà nước cần ưu tiên để phát triển CNNTBD
UT 1
UT 2
UT 3
UT 4
UT 5
UT 6
UT 7
UT 8
UT 10
UT 9
3
6.1 15.2 15.2
0
0
0
3
0
CL PTCN NT biễu diễn 57.6
0
23.3 3.3
0
0
6.7
20
6.7
23.3
Chính sách thuế
16. 7
3.3
10
16.7
0
6.7
0
3.3
20
6.7
Ưu đãi vay vốn
23. 3
3.3
0
6.7 16.7 6.7
6.7
6.7 16.7
13.3
23. 3
CS ưu đãi thuê mặt bằng
8.8 20.6 23.5 17.6 17.6 2.9
2.9 2.9
0 0
0 0
5.9 CS ĐT tài năng QTNT CS ĐT nghệ sĩ ST, BD 23.5 17.6 5.9 11.8 11.8 23.5 2.9
6.1 18.2 27.3 9.1
9.1
6.1 21.2
0
0
3
CS trọng dụng nhân tài
3
3
3
18.2 21.2 12.1 6.1 27.3
3
3
CS XHH hoạt động NT
3.1
9.4
9.4
0
6.2
25
15.6 6.2
9.4
CS đổi mới CNKT
15. 6
CS thu hút đầu tư QT
3.3
0
13.3 3.3
3.3 13.3 13.3 13.3 10
26.7
196
Bảng 5: Giải pháp ưu tiên phát triển CNNTBD
UT 1 UT2 UT3 UT4 UT5 UT6 UT7
34.5
10.3
10.3
3.4
13.8 10.3
17.2
Thay đổi nhận thức, tư duy về CNNTBD
Hoàn thiện văn bản PL về VH, NT
23.3
13.3
13.3
10
10
23.3
6.7
Đầu tư xây dựng CSVC
9.7
29
19.4
9.7
19.4
6.5
6.5
Cải tiến chế độ chính sách
9.7
12.9
16.1 22.6
9.7
12.9
16.1
Đào tạo nguồn nhân lực
12.9
12.9
29
22.6
9.7
9.7
3.2
6.7
16.7
3.3
16.7 16.7
20
20
16.1
6.5
12.9 16.1 19.4
9.7
19.4
Đẩy mạnh xã hội hóa lĩnh vực NTBD Nâng cao thị hiếu thẩm mỹ của công chúng
Bảng 6: CNNTBD cần quan tâm đến các thành tố
UT 1
UT2
UT3
Khu vực sáng tạo nghệ thuật
66.7
23.8
9.5
Khu vực tổ chức biểu diễn
30.4
34.8
34.8
Khu vực quản trị nghệ thuât
30
30
40
Bảng 7: Định hướng giá trị để CNNTBD phát triển
UT 1 UT2 UT3 UT4 UT5 UT6 UT7 UT8
Tăng lợi nhuận
22.2
8.3
11.1
5.6
13.9 16.7
5.6
16.7
Thu hút khán giả
22.5
15
17.5
17.5
15
7.5
5
0
Giữ thương hiệu
5.9
8.8
11.8
17.6
2.9
17.6 17.6 17.6
Đề cao tính thẩm mỹ
12.8
25.6
17.9
10.3 10.3
2.6
10.3 10.3
Đề cao tài năng nghệ thuật
15
20
32.5
17.5
10
2.5
0
2.5
Chăm lo cho nghệ sỹ
21.6
5.4
8.1
13.5 24.3
8.1
10.8
8.1
Bảo tồn nghệ thuật dân tộc
18.9
13.5
2.7
13.5 13.5 16.2 78.4 94.6
Tăng sức cạnh tranh
81
5.4
2.7
5.4
13.5 21.6 18.9 24.3
197
Bảng 8: Đánh giá chất lượng nguồn nhân lực – đội ngũ nhân sự phục vụ cho sự phát
triển của CNNTBD thành phố
Tốt
Khá
Trung bình
Yếu
2.4
26.8
56.1
14.6
Bảng 9: Những nhân tố tác động đến sự phát triển của CNNTBD
ĐKTN, KT, VH. XH
Sự PT KHCN
Tác động của KT TT
Tất cả nhân tố trên
Đường lối, chủ trương của Đảng
Xu thế toàn cầu hóa
7.0
8.6
8.9
6.9
13.8
54.8
Bảng 10: Các vấn đề đặt ra hiện nay đối với sự phát triển của CNNTBD
VĐ 1 VĐ2 VĐ3 VĐ4
>< giữa nhu cầu hưởng thụ và khả năng đáp ứng
54.3
17.1 17.1 11.4
>< giữa áp lực quốc tế và năng lực trong nước
3.3
30
43.3 23.3
>< giữa trình độ quản lý và nhu cầu phát triển
43.8
40.6 15.6
0
>< giữa nguồn nhân lực của CNVH với tốc độ phát triển
20.7
10.3 17.2 51.8
của KV và TG
198
PHỤ LỤC 3
CÂU HỎI VÀ NỘI DUNG PHỎNG VẤN SÂU
1. Một số chú ý
- Nội dung cuộc phỏng vấn đã được tĩnh lược và biên tập cho phù hợp với đề
tài nghiên cứu và thể loại văn phong khoa học. Việc này được thực hiện trên cơ sở
sự đồng thuận và giám sát của các cá nhân tham gia phỏng vấn.
- Những nội dung được trích dẫn đảm bảo tính nguyên gốc của thông tin mà
phỏng vấn viên thu thập được.
- Thứ tự các câu hỏi trong bảng này không trùng khớp với số thứ tự câu hỏi
trên phỏng vấn thực địa.
2. Thông tin chung về các cuộc phỏng vấn
- Thời gian phỏng vấn: Từ tháng 10-12/2014
- Phỏng vấn viên: Nguyễn Thị Kim Liên, Nguyễn Hồ Phong (Giảng viên
trường Đại học Văn hoá Tp. Hồ Chí Minh)
- Địa điểm phỏng vấn: Tại cơ quan của các cá nhân tham gia trả lời phỏng vấn
- Lý lịch trích ngang của các cá nhân tham gia trả lời phỏng vấn
Chức vụ/ Đơn vị công tác
Stt 1 2 3
Họ và tên Huỳnh Anh Tuấn Ngô Đặng Hồng Vân Trương Tấn Đức
Năm sinh 1962 1966 1976
GĐ Sân khấu Idecaf GĐ Sân khấu kịch Hồng Vân Công ty du lịch Sài Gòn Tourist
3.Trích nội dung trả lời phỏng vấn
Phỏng vấn số 01: Ông Huỳnh Anh Tuấn – Giám đốc Sân khấu Idecaf
Câu 1: Thưa ông, ông nghĩ gì về khái niệm công nghiệp văn hoá? ở Tp. Hồ
Chí Minh hiện nay, lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn đã phát triển theo hướng công
nghiệp như thế nào?
Trả lời: Đây là một khái niệm chính xác. Ở nhiều nước trên thế giới, vui
chơi, giải trí đã trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, khái niệm CNVH cần thiết cho
Việt Nam lâu lắm rồi, nhưng hiện nay Luật biểu diễn ở Việt Nam vẫn chưa có để
cho ngành biểu diễn yên tâm phát triển. Ở những đơn vị tư nhân, dù vô tình hay cố
ý thì cũng phải quan tâm đến yếu tố công nghiệp. Tôi là người “ngoại đạo”, có cái
199
đầu “nóng” và “lạnh”, có nghĩa là vừa tỉnh táo trong thị trường, vừa đam mê trong
nghệ thuật. Đây là nghề “sản xuất cảm xúc”, tạo ra những sản phẩm nghệ thuật
mang lại cảm xúc cho khán giả nhưng đồng thời cũng phải tìm cách kéo khán giả
đến với mình thì mới có được doanh thu. Ở một số đơn vị khác, những người làm
quản lý chủ yếu chính là những văn, nghệ sĩ nên thiếu sự tính toán kinh doanh, làm
theo kiểu “nghệ sĩ”, chủ yếu là kinh nghiệm, nghề dạy nghề.
Câu 2: Theo ông, vì sao thời gian gần đây sân khấu kịch Tp. Hồ Chí Minh
chủ yếu khai thác phát triển hài kịch?
Trả lời:... Tp. Hồ Chí Minh là một thành phố công nghiệp rất năng động,
luôn hối hả và có phần căng thẳng. Vì vậy, nhu cầu“được cười” của công chúng rất
cao. Sau những ngày làm việc căng thẳng, họ không muốn gì hơn là những tiếng cười
sảng khoái để chuẩn bị cho một ngày làm việc mới. Vì lẽ đó, hiện nay, nhiều sân
khấu đầu tư phát triển hài kịch để thu hút khán giả.
Câu 3: Theo ông, liệu còn lý do nào khác khiến hài kịch đang phát triển rất
mạnh không?
Trả lời: …Vì dựng một vở hài kịch đơn giản hơn rất nhiều so với chính
kịch, nhất là khâu kịch bản, đầu tư cho hài kịch đỡ tốn kém hơn nhưng đời sống của
vở lâu hơn, lợi nhuận thu được lớn hơn. Vì vậy, các đơn vị đang chạy đua dựng hài
kịch để thu lợi nhuận.
Câu 4: Theo ông, khả năng mở rộng, phát triển thị trường quốc tế của lĩnh
vực nghệ thuật biểu diễn Tp. Hồ Chí Minh hiện nay như thế nào?
Trả lời: … Khán giả kiều bào thích xem những thể loại tấu hài, cải lương
nhẹ nhàng và những vở kịch mang nội dung tình tự quê hương. Tuy nhiên, những
thị hiếu đó không phải các ông bầu hải ngoại không nắm bắt được. Vì thế, nếu đưa
kịch Việt Nam ra nước ngoài phục vụ kiều bào sẽ vấp phải việc cạnh tranh mạnh
của các sân khấu hải ngoại.
Câu 5: Với Nhà hát múa rối nước Rồng Vàng, ông đã bằng cách nào để có
thể phát triển được như hôm nay?
Trả lời: Hiện nay, chúng tôi đã liên kết ít nhất 05 công ty du lịch trong
thành phố để đưa khách đến nhà hát của chúng tôi. Trong đó, đối tác lớn nhất của
200
chúng tôi là công ty du lịch Sài Gòn Tourist. Nhờ có sự kết hợp này mà Nhà hát chúng
tôi đã vượt qua được những giai đoạn khó khăn nhất. Đến hôm nay thì chúng tôi hoàn
toàn tin tưởng rằng, Nhà hát chúng tôi sẽ tiếp tục tồn tại và sẽ phát triển hơn nữa trong
tương lai.
Câu 6: Ông vui lòng cho biết suy nghĩ của mình về vấn đề bản quyền trong
sân khấu Kịch Thành phố hiện nay?
Trả lời:.. Ở nước ngoài, đạo diễn viết kịch bản xong thì đến Cục Sở hữu trí
tuệ để đăng ký bản quyền nhưng ở Việt Nam thì ít khi đăng ký. Chỉ khi nào ai sử
dụng mới trả tiền, có khi là độc quyền, có khi là đồng sở hữu, nhưng phải được
đồng ý của tác giả. Có thể hợp đồng sở hữu trong khoảng vài năm hoặc lâu hơn.
Phỏng vấn số 02: NSND Hồng Vân - GĐ Sân khấu kịch Hồng Vân
Câu 1: Theo chị, hiện nay doanh nghiệp mình có phải chịu sức ép nào của
khán giả trong quá trình sáng tạo nghệ thuật không?
Trả lời: … Khán giả ngày nay khác xưa rất nhiều. Họ có nhiều sự lựa chọn
hơn cho nhu cầu giải trí của mình. Chỉ tính riêng kịch nói, thành phố này đã có hàng
chục điểm diễn, nếu tính chung các loại hình giải trí khác thì nhiều vô số kể. Tất cả
những đơn vị đó đều có những biện pháp khác nhau nhằm thu hút khách hàng. Vì
vậy, nếu mình làm dịch vụ không tốt, giá cả không hợp lý thì dù kịch có hay đến
mấy công chúng cũng sẽ không đến với mình. Vì vậy, chúng tôi phải luôn suy nghĩ
tìm ra giải pháp tốt nhất để đảm bảo lợi ích của khách hàng, thoả mãn yêu cầu của
họ, từ đó giữ chân được khán giả trung thành, chinh phục được những phân khúc
khán giả mới, nhưng đồng thời cũng phải đảm bảo lợi ích kinh tế của chúng tôi…
Câu 2: Chị có thể nói rõ hơn khó khăn về cơ sở vật chất hiện nay của đơn vị mình?
Trả lời: ... Tiền để đầu tư hệ thống cơ sở vật chất hiện đại và hoàn chỉnh thì
chúng tôi có thể huy động được. Nhưng hiện nay, ngoài sân khấu Superbowl là tạm
yên tâm vì người ta cho thuê dài hạn, hai điểm diễn còn lại đều chỉ ký hợp đồng 2
năm một lần. Trong khi đó, tại sân khấu Phú Nhuận, chúng tôi có thể phải huỷ suất
diễn bất cứ khi nào nếu chính quyền cần hội trường. Thực trạng như vậy thì làm sao
chúng tôi có thể yên tâm để đầu tư cho chu đáo…
201
Câu 3: Với cương vị là người quản lý sân khấu kịch Hồng Vân, chị nghĩ sao
khi có ý kiến cho rằng các vở diễn của sân khấu Hồng Vân chủ yếu là kịch thị
trường, ít có vở diễn đạt đỉnh cao về nghệ thuật?
Trả lời: ... Công bằng mà nhìn nhận, thị trường kịch nói thành phố hiện
nay tồn tại quá nhiều hạn chế, khó khăn, yếu kém. Trong đó, việc phổ biến các tác
phẩm nghệ thuật mang tính giải trí tầm thường mà thiếu vắng những tác phẩm đạt
đỉnh cao về giá trị nghệ thuật, sâu sắc về giá trị nội dung là thực trạng đáng quan
tâm nhất. Nhưng đó là nhu cầu thị trường. Đối với sân khấu kịch Hồng Vân, trước
mắt, nhu cầu này tạm thời giúp chúng tôi vượt qua những khó khăn hiện tại, nhưng
về lâu dài, rõ ràng chúng sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của chúng tôi…
Nói thật, người làm nghệ thuật như chúng tôi, ai cũng muốn tạo ra những tác phẩm
có giá trị nghệ thuật cao. Tuy nhiên, vấn đề còn ở chỗ tài chính và nhu cầu của khán
giả. Bây giờ, chúng tôi hoạt động theo cơ chế thị trường nên không thể làm ngơ
trước thị hiếu của họ, bởi đó là nguồn sống của chúng tôi. Hiện nay có một thực tế
là vở diễn đạt giá trị nghệ thuật cao thì dường như không phù hợp với gu giải trí của
khán giả. Ngược lại, một vở diễn chỉ có tiếng cười thì lại được khán giả quan tâm
ủng hộ. Điều đó cho thấy một bộ phận lớn cư dân thành phố cần những tiếng cười
sảng khoái hơn là những suy nghĩ sâu xa, nặng về tư duy trừu tượng ... Tôi nghĩ xu
hướng này thể hiện nhu cầu của công chúng, cái nhu cầu có thực của người thưởng
thức, bởi vì mình nghĩ cuộc sống nó dồn dập mọi thứ đều áp lực, họ muốn giải toả,
giải trí là một chuyện còn giải toả nữa... Tôi rất muốn khai thác kịch văn học và
kịch tâm lý, nhưng khán giả có nhu cầu xem kịch kinh dị cao hơn hẳn các thể loại
còn lại. Để duy trì hoạt động sân khấu, chúng tôi buộc phải tập trung vào thế mạnh
này để có thể duy trì các thể loại hình kia... Bây giờ vẫn là kịch giải trí chiếm ưu
thế, kịch giải trí nuôi được tất cả những loại hình khác luôn...
Câu 4: Với tư cách là giám đốc, chị có thể cho ý kiến về năng lực quản lý
của Ban giám đốc sân khấu mình hiện nay như thế nào?
Trả lời: ... Mặc dù sân khấu chúng tôi là một doanh nghiệp kinh tế tư nhân,
nhưng bản thân tôi và anh Minh (tức nghệ sỹ Minh Nhí) chưa hề học qua một lớp
đào tạo chính quy về công tác quản lý, điều hành doanh nghiệp, ngoại trừ một vài
202
đợt tập huấn ngắn hạn mà Sở VH, TT & DL Thành phố tổ chức. Chúng tôi điều
hành đơn vị của mình hoàn toàn bằng đam mê và kinh nghiệm có được trong nhiều
năm đi diễn, rồi học từ bạn bè, đồng nghiệp. Sai đâu sửa đó.... Thật ra, cả tôi và anh
Minh (tức nghệ sỹ Minh Nhí) đều biết điểm yếu của chúng tôi cả. Và tất nhiên,
chúng tôi cũng muốn bổ túc những gì mình còn thiếu về lý thuyết. Chứ bấy lâu nay,
làm thì làm vậy thôi, chứ chúng tôi nào có hiểu đầy đủ bản chất của nền kinh tế thị
trường, ngay cả những từ ngữ như cạnh tranh, thị trường...chúng tôi cũng chỉ hiểu
theo cách nghệ sỹ... Làm quản lý mà không hiểu thấu đáo mấy vấn đề này thì tất
nhiên là khó khăn rồi. Nhưng nói thật, “lực bất tòng tâm”, một ngày chúng tôi làm
việc suốt từ sáng đến khuya, công việc thì ngổn ngang, trăm bề thì lấy đâu ra thời
gian để đi học. Đó là trăn trở thường trực trong lòng chúng tôi...
Câu 5: Mục tiêu nào khiến chị nhiều lần đưa đoàn đi lưu diễn?
Trả lời: Mục tiêu ban đầu của chuyến lưu diễn là chỉ để các diễn viên trẻ của
đoàn có cơ hội khẳng định tài năng của mình trong một môi trường mới chứ chưa
dám tính chuyện lợi nhuận.
Phỏng vấn số 03: Anh Trương Tấn Đức – hướng dẫn viên Công ty du lịch
Sài Gòn Tourist.
Câu 01: Theo anh, Công ty du lịch Sài Gòn Tourist đã làm gì để đa dạng
hoá sản phẩm phục vụ du khách?
Trả lời: Để đa dạng sản phẩm phục vụ du khách, nhất là khách nước ngoài,
chúng tôi đã hợp tác với Nhà hát Múa rối nước Rồng Vàng để đưa khách đến đây
giải trí. Tôi nghĩ, hướng hợp tác này là cần thiết, tuy nhiên, tại thành phố hiện nay
chưa có nhiều đơn vị nghệ thuật đủ điều kiện để chúng tôi hợp tác.
Câu 02: Vậy, theo anh, thái độ của du khách khi đến xem biểu diễn ở đây
như thế nào?
Trả lời: Tôi đã rất nhiều lần đưa khách đến đây, lần nào tôi cũng thấy khách
rất thích thú với các vở diễn, nhất là khách đến từ Nhật, Ý, Đức. Xem xong, họ đứng
vỗ tay rất lâu, có người còn đòi chụp hình chung với nghệ sỹ biểu diễn cho bằng
được. Lúc ra về, họ thường hỏi chúng tôi là “Các bạn còn loại hình nghệ thuật nào
thú vị như thế này nữa không?.
203
PHỤ LỤC 4
DANH SÁCH CÁC ĐƠN VỊ HOẠT ĐỘNG TRONG LĨNH VỰC VĂN HÓA
NGHỆ THUẬT – GIẢI TRÍ TẠI TP. HỒ CHÍ MINH
Stt Tên sân khấu
Địa chỉ
Các sân khấu kịch
1. SK. Kịch Idecaf
28 Lê Thánh Tôn, Quận 1
2. SK. Kịch Quận 1
7 Trần Cao Vân, Quận 1
3. SK. Kịch Sài Gòn
130 Cao Thắng, Quận 3
4. Nhà hát kịch Tp. HCM
30 Trần Hưng Đạo, Quận 1
5. Nhà hát kịch Sân khấu Nhỏ
5B Võ Văn Tần, Quận 3
6. SK. Kịch Nụ Cười Mới
643 Đi n Biên h , Quận 3
7. SK. Kịch Thế Giới Trẻ
125 Cống Quỳnh, Quận 1
8. SK. Kịch Lê Hay
142 Đinh Tiên Hoàng, Quận 1
9. SK. Kịch Hoàng Thái Thanh
139 Bắc H i, Quận 10
Các nhà hát, sân khấu ca nhạc
10. Nhà hát c i lương Trần Hữu Trang 515 – 517 Trần Hưng Đạo, Quận
Nhà hát Ngh thuật hát Bội Tp. Hồ
234 Lý Tự Trọng, Quận 1
11.
Chí Minh
Nhà hát Giao hưởng & Vũ kịch Tp.
12.
212 Nguyễn Trãi, Quận 1
Hồ Chí Minh
Nhà hát Ca múa nhạc dân tộc Bông
13.
108 Hai Bà Trưng, Quận 1
Sen
14. Nhà hát Thành phố
7 Công Trường Lam Sơn, Quận 1
15. Nhà hát Hòa Bình
240 Đường 3/2, Quận 10
16. Sân khấu ca nhạc Lan Anh
291 Cách Mạng Tháng 8, Quận 10
17. Sân khấu ca nhạc Trống Đồng
12B Cách Mạng Tháng Tám, Quận 1
18. Sân khấu Cầu Vòng 126
126 Cách Mạng Tháng Tám, Quận 3
204
Các phòng trà
19. hòng trà Điểm hẹn Sài Gòn
230 Đường 3/2, Quận 10
20. hòng trà Không Tên
112 Lê Thánh Tôn, Quận 1
21. hòng trà We
8 Lê Quý Đôn, Quận 3
22. hòng trà MTV
Lầu 1, 65 Võ Văn Tần, Quận 3
23. hòng trà Tiếng Xưa (Văn ngh )
442 Cao Thắng, Quận 10
24. hòng trà ATB
197/4 Nguyễn Văn Trỗi, Quận hú Nhuận
25. hòng trà M&Tôi
176 Đi n Biên h , Quận 3
26. hòng trà Ân Nam
52 Trương Định, Quận 3
27. hòng trà Đồng Dao
164 Pasteur, Quận 3
28. hòng trà Tình Ca
1A Phổ Quang, Quận Tân Bình
29. hòng trà Cest Môi – Làn Sóng Nhỏ
126 han Đăng Lưu, Quận hú Nhuận
30. hòng trà K&K
11 Nguyễn Văn Trỗi, Quận hú Nhuận
hòng trà ca nhạc M&Tôi – Nốt
31.
176 Đi n Biên h , Quận 3
trầm giữa Sài Gòn
Rạp chiếu phim
Tầng 7 - Hùng Vương laza, 126 Hùng
32. Megastar Cineplex Hùng Vương
Vương, Quận 5
33. Galaxy Cinema
116 Nguyễn Du, Quận 1
34. Thăng Long
19 Cao Thắng , Quận 3
35. Galaxy Nguyễn Trãi
230 Nguyễn Trãi, Quận 1
Tầng 13 Diamond Plaza, 34 Lê Duẩn,
36. Lotte Cinema Diamond
Quận 1
37. Toàn Thắng
102 Châu văn Liêm, Quận 3
38. Đống Đa
890 Trần Hưng Đạo, Quận 5
39. Vinh Quang
59 Pesteur, Quận 1
40. Văn Hoa
62 Trần Quang Kh i, Quận 1
41. Quốc Thái
157 – Đường 3/2, Quận 3
205
369 Lê văn Sĩ, Quận 3
42. Minh Châu
207 Đinh Tiên Hoàng, Quận 1
43. Cầu Bông
63-65 Châu văn Liêm, Quận 5
44. Đại Quang
186 Nguyễn văn Trỗi, Quận Tân Bình
45. Tân Sơn Nhất
22 Vĩnh Viễn, Quận 10
46. Vườn Lài
6 Thái văn Lung, Quận 1
47. Fafim VN
212 Lý Chiến Thắng, Quận 1
48. Cinema Box
Tầng 10, arkson laza, 60A, Trường
49. Megastar Parkson
Sơn, Quận Tân Bình
Tầng 5 tòa nhà Saigon aragon, 3 Nguyễn
50. Megastar Cineplex Saigon Paragon
Lương Bằng, Quận 7
Tầng 3, Lotte Mart 469 Nguyễn Hữu
51. Lotte Cinema Nam Sài Gòn
Quận 7
52. Lotte Cinema An Khánh
Xa Lộ Hà NôI, Quận 2
Lầu 4 siêu thị Maximart - Đường 3/2,
53. BHD Star cineplex
Quận 10
206
PHỤ LỤC 5 MỘT SỐ HÌNH ẢNH MINH HỌA
A. Các điểm diễn và cơ sở vật chất của sân khấu kịch Hồng Vân
Hình 1: Background sân khấu kịch Hồng Vân Nguồn: kichhongvan.vn
Hình 2: Sân khấu Phú Nhuận Nguồn: Nguyễn Hồ Phong
207
Hình 3: Sân khấu Superbowl Nguồn: kichhongvan.vn
Hình 4: Nội thất sân khấu Superbowl Nguồn: kichhongvan.vn
208
B. Một số hình thức truyền thông marketing của sân khấu Hồng Vân
và sân khấu Idecaf
Hình 5: Giao diện website của sân khấu Hồng Vân Nguồn: kichhongvan.vn
Hình 6: Vở Nước mắt người điên – Kịch kinh dị Nguồn: kichhongvan.vn
209
Hình 7: Vở Số đỏ – Kịch văn học Nguồn: kichhongvan.vn
Hình 8: Vở Làm… – Kịch văn học Nguồn: kichhongvan.vn
210
Hình 9: Vở Thay rể – Hài kịch Nguồn: kichhongvan.vn
Hình 10: Cảnh trong vở Hợp đồng mãnh thú diễn tại Mỹ Nguồn: Sân khấu kịch IDECAF
211
Hình 11: Đông kín khán giả kiều bào xem vở Hợp đồng mãnh thú tại San Jose – miền Bắc California - Mỹ Nguồn: Sân khấu kịch IDECAF
Hình 12: Một hình thức quảng cáo chương trình nghệ thuật “Chiều hạ vàng” Nguồn: saigongiaitri.net
212
C. Một số chương trình ca-múa-nhạc tại các sân khấu Tp. Hồ Chí Minh
Hình 13: Hồ Ngọc Hà hát trong đêm nhạc Giấc mơ mùa thu tại Sân khấu Trống đồng Nguồn: www.vietgiaitri.com
Hình 14: Ca sĩ Mỹ Tâm hát tại sân khấu Lan Anh Nguồn: giaitriviet.net
213
Hình 15: Ti t m c ca múa nhạc v kịch với trích đoạn đám cưới công chúa Hu ền Trân Nguồn: saigongiaitri.net
Hình 16: Khách đang xem múa rối ở Nhà hát Múa rối nước Rồng Vàng TPHCM Nguồn: www.sggp.org.vn