HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ KIM LIÊN

C¤NG NGHIÖP V¡N HãA ë

THµNH PHè Hå CHÝ MINH HIÖN NAY

(Qua khảo sát một số lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: VĂN HÓA HỌC

HÀ NỘI – 2015

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN THỊ KIM LIÊN

C¤NG NGHIÖP V¡N HãA ë

THµNH PHè Hå CHÝ MINH HIÖN NAY

(Qua khảo sát một số lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: VĂN HÓA HỌC

Mã số: 62 31 06 40

Người hướng dẫn khoa học:

PGS.TS. NGUYỄN THỊ HƯƠNG

PGS.TS. NGUYỄN TOÀN THẮNG

HÀ NỘI - 2015

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi.

Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn

gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.

Tác giả luận án

Nguyễn Thị Kim Liên

MỤC LỤC

Trang

1 8

MỞ ĐẦU Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN

ĐỀ TÀI

8

19

28

31

1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới 1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước 1.3. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu Chƣơng 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN TIẾP CẬN NGHIÊN CỨU CÔNG NGHIỆP VĂN HÓA VÀ NGHỆ THUẬT BIỂU DIỄN Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

31

42 53

2.1. Một số khái niệm công cụ 2.2. Đặc điểm và vai trò của nghệ thuật biểu diễn 2.3. Những nhân tố tác động đến nghệ thuật biểu diễn ở Thành phố Hồ

Chí Minh hiện nay

61

Chƣơng 3: THỰC TRẠNG LĨNH VỰC NGHỆ THUẬT BIỂU DIỄN Ở

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY

63

3.1. Thực trạng hoạt động sáng tạo/sản xuất nghệ thuật biểu diễn ở

Thành phố Hồ Chí Minh

76 83

92

118

3.2. Thực trạng công nghệ tổ chức biểu diễn và doanh thu 3.3. Thực trạng phân khúc thị trường và vấn đề bản quyền 3.4. Đánh giá chung Chƣơng 4: NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN NGHỆ THUẬT BIỂU DIỄN Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ

118

4.1. Những vấn đề đặt ra đối với lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn ở

Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay

128

4.2. Dự báo xu hướng vận động, phát triển công nghiệp văn hóa và nghệ thuật biểu diễn ở Việt Nam nói chung và Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng

133

4.3. Khuyến nghị về các giải pháp phát triển lĩnh vực nghệ thuật biểu

diễn ở Thành phố Hồ Chí Minh

146 150

151 164

KẾT LUẬN DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN

ASEAN

: Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á

CLB

: Câu lạc bộ

CNVH

: Công nghiệp văn hóa

FTA

: Hiệp định Thương mại tự do

: Giám đốc

NCS

: Nghiên cứu sinh

NTBD

: Nghệ thuật biểu diễn

NSND

: Nghệ sĩ nhân dân

NSUT

: Nghệ sĩ ưu tú

PGS.TS

: Phó Giáo sư, Tiến sĩ

TNHH

: Trách nhiệm hữu hạn

TPP

: Đối tác Xuyên Thái Bình Dương

TS

: Tiến sĩ

Tp

: Thành phố

UNESCO

: Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc

UNCTAD

: Diễn đàn Thương mại và Phát triển Liên Hiệp quốc

VH, TT & DL : Văn hóa, Thể thao và Du lịch

VCPMC

: Trung tâm Bảo vệ quyền tác phẩm âm nhạc Việt Nam

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

WTO

: Tổ chức Thương mại Thế giới

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Trang

81

81

Biểu đồ 3.1:Tỷ lệ tăng doanh thu của sân khấu Hồng Vân giai đoạn 2009 – 2013

82

83

86 96 97

98 98 99

106

107

120

122 123

126 144

Biểu đồ 3.2: So sánh tỷ lệ tăng doanh thu của sân khấu Hồng Vân và một số sân khấu khác trong giai đoạn 2009 – 2013

Biểu đồ 3.3: Tỷ lệ cơ cấu các yếu tố góp phần tăng doanh thu của sân khấu Hồng Vân giai đoạn 2009 – 2013 Biểu đồ 3.4: So sánh tỷ lệ đóng góp vào việc tăng doanh thu từ các dòng sản phẩm của sân khấu kịch Hồng Vân giai đoạn 2009 – 2013 Biểu 3.5: Đánh giá về giá vé tại sân khấu Biểu 3.6: Đánh giá về chất lượng ca sĩ Biểu 3.7: Mức độ hài lòng của khán giả đối với chất lượng chương trình Biểu 3.8: Đánh giá về chất lượng diễn viên chính Biểu 3.9: Đánh giá về chất lượng diễn viên phụ Biểu 3.10: Mức độ hài lòng của khán giả đối với chất lượng nội dung các vở diễn Biểu 3.11: Thông tin về các chương trình ca nhạc ở sân khấu này qua các kênh truyền thông Biểu 3.12: Thông tin về các vở diễn của các sân khấu qua các kênh truyền thông Biểu 4.1: Mức độ hài lòng của khán giả đối với chất lượng nội dung các vở diễn Biểu 4.2: Đánh giá của cán bộ quản lý sân khấu về thuật ngữ CNVH Biểu 4.3: Đánh giá của cán bộ quản lý nhà nước về thuật ngữ CNVH Biểu 4.4: Các vấn đề đặt ra hiện nay đối với sự phát triển của CNNTBD Biểu 4.5: Định hướng giá trị của các đơn vị nghệ thuật

DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang

139

143

Bảng 4.1: Chính sách nhà nước cần ưu tiên để tạo động lực phát triển CNVH

Bảng 4.2: Giải pháp cần ưu tiên phát triển công nghiệp văn hóa

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Hiện nay nhiều quốc gia trên thế giới, công nghiệp văn hóa (CNVH) đang

đóng vai trò là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của nền kinh tế tri thức, có

khả năng to lớn trong việc truyền bá, bảo vệ, phát huy bản sắc giá trị văn hóa dân

tộc. Ở Việt Nam, vào những năm 90 của thế kỷ XX, bắt đầu xuất hiện nhận thức

mới về lao động sáng tạo văn hóa – nghệ thuật, coi đó là một loại lao động đặc

biệt và tìm tòi nhiều phương thức nhằm phát triển văn hóa – nghệ thuật trong điều

kiện nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên cho đến nay, cả về lý luận và thực tiễn phát

triển công nghiệp văn hóa chỉ mới ở giai đoạn đầu, có nhiều vấn đề đang đặt ra cần

phải tiếp tục nghiên cứu.

Việt Nam đang ở thời kỳ phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã

hội chủ nghĩa (XHCN), phát triển công nghiệp văn hóa là tất yếu khách quan.

Trong định hướng phát triển văn hoá của Đảng và Chiến lược phát triển văn hóa

từ nay đến năm 2020, vấn đề phát triển công nghiệp văn hoá đã được đặt ra.

Điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng trong quá trình phát triển văn hóa nói

chung, phát triển công nghiệp văn hóa nói riêng. Có thể nói, Nghị quyết Hội

nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII (Nghị quyết

Trung ương 5 khóa VIII) được coi như Nghị quyết có ý nghĩa đột phá chỉ rõ vai

trò của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế: “Văn hóa là kết quả của kinh tế,

đồng thời là động lực của sự phát triển kinh tế. Các nhân tố văn hóa phải gắn kết

chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi phương diện chính trị, kinh

tế, xã hội, luật pháp, kỷ cương… biến thành nguồn lực nội sinh quan trọng nhất

của phát triển” [19, tr.55]. Trong phần giải pháp xây dựng và phát triển văn hóa,

chính sách kinh tế trong văn hóa đã được Đảng ta xác định là một trong những

chính sách quan trọng tạo điều kiện nhiều hơn để phát triển sự nghiệp văn hóa.

Trong Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020 (2009), lần đầu tiên ở Việt

Nam, khái niệm “công nghiệp văn hóa” đã xuất hiện và khẳng định: “Phát triển

2

“công nghiệp văn hoá” đang là xu thế lớn và quan trọng trong chính sách văn

hoá của các nước trên thế giới” [70, tr.11]. Nghị quyết số 23 của Bộ Chính trị

(2009) về phát triển văn học, nghệ thuật thời kỳ mới đã khẳng định về sự hình

thành một thị trường hàng hóa và dịch vụ các sản phẩm văn học, nghệ thuật.

Nghị quyết số 22-NQ/TW về Hội nhập quốc tế (2013), trong đó việc xây dựng

Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa được xem là một trong

những nhiệm vụ trọng tâm của Chính phủ. Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban

Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI (Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI)

(2014), đề ra nhiệm vụ xây dựng thị trường văn hóa lành mạnh, đẩy mạnh phát

triển công nghiệp văn hóa, tăng cường quảng bá văn hóa Việt Nam; phát triển

công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa.... Tuy

nhiên, cho đến nay, Việt Nam vẫn chưa ban hành được Chiến lược phát triển công

nghiệp văn hóa. Điều này sẽ hạn chế việc cụ thể hóa những quan điểm đổi mới của

Đảng về phát triển văn hóa, phát huy sức mạnh nội sinh của dân tộc trong giai đoạn

đổi mới, hội nhập hiện nay. Vì vậy, thực hiện đề tài nghiên cứu này sẽ góp phần

triển khai đường lối của Đảng về phát triển văn hóa nói chung và công nghiệp văn

hóa nói riêng.

Công nghiệp văn hóa bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó, nghệ

thuật biểu diễn là một trong những lĩnh vực quan trọng có tính đặc thù. Nghiên

cứu công nghiệp văn hóa trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí Minh

hiện nay là vấn đề hết sức bức thiết. Bởi lẽ, Tp. Hồ Chí Minh là một thành phố

công nghiệp trẻ, năng động và phát triển, có nhiều điểm giải trí về văn hóa nghệ

thuật nhất trong cả nước. Cùng với sự phát triển kinh tế, mức sống của người

dân được nâng cao, hoạt động vui chơi giải trí ngày càng được quan tâm hơn để

đáp ứng nhu cầu văn hoá tinh thần của xã hội. Sự phát triển về du lịch nảy sinh

yêu cầu phục vụ du khách cũng đã góp phần làm phong phú thêm lĩnh vực dịch

vụ này. Trong những năm đổi mới gần đây, do tác động của cơ chế thị trường và

ảnh hưởng của xu thế toàn cầu hóa, hoạt động nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí

Minh đã có những chuyển biến rõ rệt. Nhiều yếu tố của nghệ thuật biểu diễn

3

được các đơn vị chú trọng, như phát triển thị trường khán giả, phân đoạn thị

trường, chọn thị trường mục tiêu, đẩy mạnh tuyên truyền, quảng cáo, mở rộng

địa điểm biểu diễn, nâng cao chất lượng chương trình… Tuy nhiên, sự phát triển

lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn còn nhiều vấn đề đặt ra. Đó là hiện tượng sự phát

triển thị trường nghệ thuật còn mang tính tự phát, cạnh tranh không lành mạnh.

Nhiều mâu thuẫn xuất hiện như: mâu thuẫn giữa nhu cầu hưởng thụ nghệ thuật biểu

diễn và khả năng đáp ứng; mâu thuẫn giữa tính cấp bách phải phát triển lĩnh vực

nghệ thuật biểu diễn với nhận thức lạc hậu về tổ chức, quản lý tổ chức; mâu thuẫn

giữa bảo tồn và phát huy giá trị truyền thống của nghệ thuật biểu diễn với mở rộng

giao lưu, hợp tác quốc tế… chưa được giải quyết.

Từ những vấn đề lý luận và thực tiễn trên, nghiên cứu sinh lựa chọn đề

tài: Công nghiệp văn hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay (Qua khảo sát

một số lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn) để viết luận án tiến sĩ văn hóa học. Hy

vọng kết quả nghiên cứu của luận án sẽ góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực

tiễn của phát triển ngành công nghiệp văn hóa trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn ở

Việt Nam hiện nay.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu: Luận án góp phần làm rõ cơ sở lý luận nghiên cứu

công nghiệp văn hóa, lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí Minh; trên cơ

sở đó khảo sát thực trạng công nghiệp văn hoá qua một số lĩnh vực nghệ thuật

biểu diễn; khuyến nghị một số giải pháp phát triển lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn

ở Tp. Hồ Chí Minh thời gian tới.

Nhiệm vụ nghiên cứu:

1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài của luận án

2. Làm rõ cơ sở lý luận về phát triển công nghiệp văn hóa và lĩnh vực

nghệ thuật biểu diễn ở Việt Nam trong thời kỳ phát triển kinh tế thị trường và

hội nhập quốc tế.

3. Khảo sát, đánh giá thực trạng lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ

Chí Minh hiện nay.

4

4. Dự báo xu hướng vận động, phát triển của công nghiệp văn hóa ở Việt

Nam nói chung, nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí Minh nói riêng trong thời

gian tới; khuyến nghị một số giải pháp nhằm phát triển lĩnh vực nghệ thuật biểu

diễn ở Tp. Hồ Chí Minh trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập

quốc tế.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu: Nghệ thuật biểu diễn bao gồm nhiều lĩnh vực

khác nhau. Luận án chỉ tập trung nghiên cứu, khảo sát ba lĩnh vực: Âm nhạc,

Sân khấu Kịch nói và Múa ở một số đơn vị công lập và ngoài công lập trên địa

bàn Tp. Hồ Chí Minh.

Sở dĩ luận án chọn lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn tại Tp. Hồ Chí Minh vì

đây là lĩnh vực nghệ thuật khá nổi bật trong phát triển công nghiệp văn hóa cả

trên thế giới và trong nước. Khi bàn đến cơ cấu của công nghiệp văn hóa, các

nước châu Á, châu Âu, UNESCO cũng đều đề cập loại hình này trong cách phân

loại công nghiệp văn hóa. Trong loại hình nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí

Minh thì lĩnh vực kịch nói, ca - múa - nhạc phát triển khá sôi nổi.

3.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận án khảo sát từ năm 2010 đến 2015, vì đây

là khoảng thời gian các loại hình nghệ thuật biểu diễn như Kịch nói, Âm nhạc và

Múa ở Tp. Hồ Chí Minh phát triển khá rầm rộ, chứa đựng tính đại diện và điển

hình cho sự phát triển công nghiệp văn hóa thông qua các loại hình nghệ thuật

này ở Tp. Hồ Chí Minh.

4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

Công nghiệp văn hóa có thể được nghiên cứu từ nhiều ngành khoa học

chuyên biệt như kinh tế học, xã hội học, văn hóa học, lịch sử văn hóa…Tuy

nhiên, để phù hợp với mã số chuyên ngành văn hóa học, luận án chú trọng

phương pháp tiếp cận văn hóa học đối với nghệ thuật biểu diễn, đặc biệt chú ý

đến giá trị thẩm mỹ, nghệ thuật và ảnh hưởng của nghệ thuật biểu diễn, tiềm

năng phát triển của nó trong giao lưu và hội nhập quốc tế hiện nay. Với cách tiếp

cận như vậy, để giải quyết được mục tiêu và nhiệm vụ đặt ra, tác giả luận án chủ

yếu sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:

5

4.1. Cơ sở lý luận

Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận mác xít và quan

điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng và phát triển nền văn

hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, mối quan hệ giữa phát triển văn

hoá và kinh tế trong phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

+ Phương pháp lịch sử - logic: Phương pháp lịch sử - logic giúp tác giả

luận án đi sâu tìm hiểu quá trình vận động và phát triển của công nghiệp văn hóa

ở Tp. Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới gắn với quá trình phát triển nhận thức lý

luận cũng như quá trình đổi mới kinh tế - xã hội của thành phố. Đồng thời, giúp

cho tác giả luận án khái quát logic của sự vận động này theo những nội dung vấn

đề cần quan tâm nghiên cứu phục vụ cho triển khai thực hiện của luận án.

+ Phương pháp phân tích và tổng hợp: Luận án tập trung nghiên cứu phân

tích các tài liệu, các số liệu, các kết quả điều tra, các kết quả nghiên cứu đã có để

có thể khái quát hóa, tổng hợp hóa, đưa ra các nhận định khoa học của luận án,

đảm bảo tính khoa học của các nhận định về công nghiệp văn hóa ở Tp. Hồ Chí

Minh hiện nay.

+ Phương pháp nghiên cứu trường hợp: Phương pháp nghiên cứu trường

hợp hay còn gọi là phương pháp điển hình thực chất là sự phân tích một hay một

số trường hợp điển hình cụ thể nhằm mục đích nghiên cứu nào đó. Công nghiệp

văn hóa bao gồm rất nhiều các loại hình khác nhau, đó là: nghệ thuật biểu diễn,

thiết kế mỹ thuật, thời trang, mỹ thuật, nhiếp ảnh và galeres, bảo tàng, di sản văn

hóa, báo chí, in ấn – xuất bản, điện ảnh, phát thanh, truyền hình, phần mềm có

nội dung văn hóa, thủ công mỹ nghệ và các dịch vụ văn hóa sáng tạo... Tác giả

luận án chọn một số loại hình nghệ thuật biểu diễn để khảo sát, đánh giá dưới

góc nhìn công nghiệp văn hóa.

+ Phương pháp phân tích SWOT (Điểm mạnh - Điểm yếu - Cơ hội -

Thách thức): Phương pháp này giúp tác giả luận án chỉ ra điểm mạnh, điểm yếu,

thời cơ, thách thức, triển vọng để phát triển công nghiệp văn hóa ở Tp. Hồ Chí

Minh; từ đó đề xuất giải pháp để giải quyết những vấn đề đang được đặt ra.

6

+ Phương pháp điều tra xã hội học: Chúng tôi thực hiện phương pháp

này bằng quy trình sau:

Giai đoạn 1: Chọn mẫu. Chúng tôi chọn 200 khán giả của Sân khấu kịch

Idecaf, Sân khấu kịch Hồng Vân, Nhà hát Nhạc – Vũ kịch Tp. Hồ Chí Minh,

Nhà hát Kịch sân khấu nhỏ 5B, Sân khấu ca nhạc 126, Sân khấu ca nhạc Trống

Đồng, cách chọn mẫu thuận tiện – phi xác suất - nghĩa là chọn những khán giả

dễ tiếp cận nhất để khảo sát. Ngoài ra, khảo sát 100 cán bộ quản lý ở Sở Văn

hóa, Thể thao và Du lịch Tp. Hồ Chí Minh (Sở VH, TT & DL Tp. Hồ Chí Minh)

cán bộ/ nhân viên ở một số sân khấu kịch, ca nhạc nói trên.

Giai đoạn 2: Soạn câu hỏi khảo sát: dựa trên dữ liệu nghiên cứu của đề

tài; xây dựng bảng hỏi theo tiêu chí phát hiện: nhận thức, thái độ, hành vi của

các nhóm chủ thể khác nhau đối với lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí

Minh hiện nay; khảo sát thử và điều chỉnh để hoàn thiện bảng hỏi.

Giai đoạn 3: Xây dựng và tập huấn khảo sát viên (khảo sát viên là tác giả

luận án, đồng nghiệp và một số sinh viên).

Giai đoạn 4: Khảo sát đại trà khán giả tại các sân khấu và tại các cơ quan

quản lý nhà nước về văn hóa.

Giai đoạn 5: Xử lý kết quả khảo sát bằng phần mềm SPSS 16.0 và lên

bảng biểu, sơ đồ, rút ra kết luận sơ bộ.

Chúng tôi còn tiến hành phỏng vấn sâu một số nhà quản lý văn hóa, các

doanh nghiệp văn hóa, các công ty tổ chức sự kiện…tìm ra những thuận lợi, khó

khăn cũng như những thành tựu và hạn chế, những vấn đề đặt ra trong lĩnh vực

nghệ thuật biểu diễn trên địa bàn Tp. Hồ Chí Minh.

+ Phương pháp thống kê – so sánh: Luận án sử dụng các số liệu thống kê

để phân tích và so sánh, đánh giá thực trạng về công nghiệp văn hóa trong lĩnh

vực nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí Minh trong thời gian qua.

+ Phương pháp dự báo: Luận án kết hợp giữa phương pháp định tính và

phương pháp định lượng để dự báo về xu hướng phát triển của công nghiệp văn

hóa ở Tp. Hồ Chí Minh trong thời gian tới.

7

- Giả thuyết nghiên cứu

+ Công nghiệp văn hóa ở Tp. Hồ Chí Minh nói riêng đang phát triển bùng nổ

gắn với kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế có nhiều cơ hội và thách thức.

+ Công nghiệp văn hóa trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí

Minh đã có những đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội, đáp ứng nhu

cầu tinh thần phong phú, sôi động của người dân thành phố. Phát triển công

nghiệp văn hóa sẽ góp phần giải quyết hài hoà giá trị kinh tế và văn hoá trong

quá trình phát triển.

+ Công nghiệp văn hóa trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí

Minh cần có nhiều giải pháp đồng bộ và thiết thực để tạo động lực, tháo gỡ khó

khăn tiếp tục phát triển mạnh hơn nữa trong thời kỳ hội nhập quốc tế.

5. Đóng góp mới của luận án

- Góp phần làm rõ những vấn đề lý luận liên quan đến công nghiệp văn hóa và

lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn trên thế giới và ở Việt Nam hiện nay.

- Phân tích, đánh giá thực trạng lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ

Chí Minh trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) và

hội nhập quốc tế hiện nay. Từ đó dự báo xu hướng phát triển công nghiệp văn

hóa ở Việt Nam nói chung và ở Tp. Hồ Chí Minh nói riêng.

- Kết quả nghiên cứu của luận án là tài liệu tham khảo cho các trường đại

học, cao đẳng, các nhà nghiên cứu, cơ quan nghiên cứu và hoạch định chính sách

xây dựng và phát triển công nghiệp văn hóa ở Việt Nam.

6. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội

dung luận án kết cấu thành 4 chương, 13 tiết. Cụ thể:

Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Chương 2: Cơ sở lý luận tiếp cận nghiên cứu công nghiệp văn hoá và nghệ thuật

biểu diễn ở Thành phố Hồ Chí Minh

Chương 3: Thực trạng lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn ở Thành phố Hồ Chí Minh

hiện nay

Chương 4: Những vấn đề đặt ra đối với phát triển nghệ thuật biểu diễn ở

Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay và một số khuyến nghị

8

Chƣơng 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRÊN THẾ GIỚI

1.1.1. Những nghiên cứu lý thuyết về công nghiệp văn hóa và nghệ

thuật biểu diễn

Hiện nay, ngành công nghiệp văn hoá nói chung và nghệ thuật biểu diễn

nói riêng trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều quốc gia. Vì vậy, công

nghiệp văn hóa (CNVH) đã trở thành đối tượng quan tâm của các nhà khoa học

và quản lý. Có thể nêu ra những công trình nghiên cứu lý luận (về khái niệm,

phân loại, cấu trúc, đặc trưng, quy luật tác động… của công nghiệp văn hóa và

nghệ thuật biểu diễn) tiêu biểu sau:

Trong cuốn sách nổi tiếng Dialectic of Enlightenment (Biện chứng của

Khai sáng) xuất bản năm 1947 của Adorno và Horkheimer, lần đầu tiên cụm từ

công nghiệp văn hóa (cultural industry) đã được sử dụng.

Theodor Adorno trong cuốn sách khác: Culture Industry Reconsidered đã

dùng khái niệm công nghiệp văn hóa thay vì khái niệm văn hóa đại chúng để

diễn đạt thực trạng văn hóa bị biến thành hàng hóa trao đổi. Adorno còn cho

rằng trong hiện tượng công nghiệp văn hóa có một khía cạnh chính trị nhất định:

đảm bảo duy trì kéo dài sự phục tùng của đại chúng vào lợi ích thị trường

[Dẫn theo 67, tr.33].

Ở hướng nghiên cứu về kinh tế học văn hóa, giáo sư Throsby David - một

nhà kinh tế của nước Úc, trong tác phẩm: Economics and Culture -Kinh tế học

và Văn hóa (Cambridge University Press, 2001) đã phân tích khía cạnh kinh tế

của các hoạt động văn hóa, công nghiệp sáng tạo, các dịch vụ văn hóa và bối

cảnh văn hóa của kinh tế. Đồng thời, ông nhấn mạnh: Các sản phẩm văn hóa với

tư cách là một loại hàng hóa có giá trị cả về kinh tế và văn hóa: Sản phẩm văn

hóa có điểm giống với sản phẩm vật chất như có giá trị và giá trị trao đổi. Tuy

nhiên, bên cạnh đó, sản phẩm văn hóa còn mang các giá trị khác như giá trị thẩm

9

mỹ, tinh thần, xã hội, lịch sử, giá trị biểu tượng [109, tr.208]. Tác giả dành nhiều

trang viết để phân tích vai trò của văn hóa trong phát triển kinh tế, các ngành

công nghiệp văn hóa và chính sách văn hóa, giới thiệu các khái niệm về vốn văn

hóa với phát triển bền vững, xem xét mối quan hệ giữa kinh tế và bản sắc văn

hóa trong thế giới toàn cầu hóa. Ngoài ra, Throsby David còn quan tâm đến các vấn

đề: nghệ thuật biểu diễn, vai trò kinh tế của các nghệ sĩ, kinh tế và sự can thiệp trực

tiếp trên thị trường nghệ thuật, phát triển văn hóa, chính sách văn hóa, vấn đề di sản

và tính bền vững của quá trình văn hóa. Ông nhận định: bản thân mỗi loại hình

nghệ thuật đều có thể coi là một ngành công nghiệp văn hóa [109, tr.208].

Harold L. Vogel1 (2001), Entertainment Industry Economics - A Guide for

Financial Analysis- Hướng dẫn phân tích tài chính cho nền công nghiệp giải trí,

Cambridge University Press. Tác giả của công trình đã phân tích và chứng minh

ngành công nghiệp giải trí là một trong những ngành lớn nhất của nền kinh tế

Mỹ và trong thực tế đã trở thành một trong những ngành kinh tế nổi bậc nhất

trên phạm vi toàn cầu với các sản phẩm: phim, âm nhạc, chương trình truyền

hình, phát thanh, quảng cáo, nghệ thuật biểu diễn, thể thao... Bên cạnh đó, công

trình cũng là tài liệu tham khảo hữu ích về các vấn đề về kinh tế, tài chính, sản

xuất, tiếp thị và vui chơi giải trí ở Mỹ và nhiều nước khác trên thế giới đối với

các nhà đầu tư, quản trị kinh doanh, kế toán, luật sư, nhà quản lý nghệ thuật và

độc giả nói chung.

Throsby David and Glenn A. Withers: The Economics of the Performing

Arts - Kinh tế học về Nghệ thuật biểu diễn (edition 1993), Edward Arnold

(Australia). Ở công trình này, các tác giả đã đề cập đến các vấn đề chung về

nghệ thuật biểu diễn và hệ thống lý thuyết trong kinh tế của nghệ thuật biểu diễn.

Ngoài ra, một số nước châu Á như Trung Quốc, Hồng Kông, Nhật Bản,

Hàn Quốc, Ấn Độ... đã và đang đặt ra mục tiêu trở thành cường quốc về “công

nghiệp văn hóa”. Khái niệm công nghiệp văn hóa được dùng phổ biến.

Ở Hồng Kông, tư tưởng về công nghiệp văn hóa lần đầu tiên được nêu lên

do một số tổ chức phi chính phủ về văn hóa vào khoảng năm 1999 – 2000.

10

Trong bản báo cáo năm 2003, định nghĩa các ngành công nghiệp văn hóa được

nêu rõ: “một nhóm các hoạt động kinh tế khai thác và triển khai tính sáng tạo, kỹ

năng và tài sản trí tuệ để sản xuất và phân phối các sản phẩm và dịch vụ có ý

nghĩa văn hóa và xã hội, một hệ thống sản xuất thông qua đó tiềm năng tạo ra giàu

có và sáng tạo nghề nghiệp được thực hiện”. Danh sách các ngành công nghiệp

văn hóa được liệt kê bao gồm: quảng cáo, kiến trúc, nghệ thuật, cổ vật và đồ thủ

công, thiết kế, giải trí kỹ thuật số, phim và video, âm nhạc, nghệ thuật trình diễn,

xuất bản và in ấn, phần mềm và kỹ thuật máy tính, phát thanh truyền hình.

Hiện nay, Hàn Quốc là một trong năm nước có ngành công nghiệp văn

hóa mạnh nhất thế giới. Có được điều này là vì Chính phủ Hàn Quốc khẳng định

văn hóa là một lĩnh vực kinh tế năng động, đóng góp trực tiếp và gián tiếp vào

sự phát triển của nền kinh tế Hàn Quốc. Luật Phát triển Nghệ thuật và Văn hóa

của Hàn Quốc định nghĩa sản phẩm văn hóa, nghệ thuật và sáng tạo, được sản

xuất, biểu diễn, trưng bày, mua bán và phân phối sản phẩm của các ngành công

nghiệp văn hóa. Luật Xúc tiến công nghiệp văn hóa năm 1999, nêu rõ phạm vi

công nghiệp văn hóa bao gồm nghệ thuật nghe nhìn, game, âm nhạc, phát thanh

truyền hình, quảng cáo, xuất bản, thiết kế, nghề thủ công, phim đặc tả nhân vật,

mỹ thuật, video, phim, hoạt hình, các nội dung số hóa. Phòng Chính sách văn

hóa và du lịch Hàn Quốc cũng định nghĩa công nghiệp văn hóa là “công nghiệp

dịch vụ có liên quan đến phát triển, sản xuất, chế tác, phân phối và tiêu thụ các

nội dung văn hóa”. Các ngành công nghiệp đó có tính tri thức cao, dựa trên sự sử

dụng công nghệ văn hóa cho các mục đích thực tế.

Ở Trung Quốc, năm 2003, Bộ Văn hóa Trung Quốc đã coi công nghiệp

văn hóa là ngành nghề mang tính chất kinh doanh, sản xuất sản phẩm văn hóa và

cung cấp dịch vụ văn hóa. Công nghiệp văn hóa là khái niệm đối ứng với sự

nghiệp văn hóa. Hai khái niệm đó đều là bộ phận hợp thành quan trọng của xây

dựng văn hóa XHCN. CNVH là sản phẩm tất yếu của phát triển sức sản xuất xã

hội, là sản nghiệp mới trỗi dậy, được hoàn thiện dần cùng với nền kinh tế thị

trường và phát triển mạnh mẽ cùng với sự tiến bộ không ngừng của phương thức

11

sản xuất hiện đại. Về phạm vi công nghiệp văn hóa, Bộ Văn hóa Trung quốc đã

đưa ra 9 loại ngành nghề lớn như ngành trình diễn, ngành tivi điện ảnh, ngành

video, ngành vui chơi giải trí văn hóa, ngành du lịch văn hóa, ngành văn hóa

mạng, ngành báo chí xuất bản, ngành cổ vật và tác phẩm văn nghệ, ngành đào

tạo, bồi dưỡng nghệ thuật vào phạm vi quản lý của công nghiệp văn hóa [58,

tr.85-86]. Đại hội đại biểu lần thứ XVI của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đưa

ra khái niệm công nghiệp văn hóa và coi đó là sự đột phá quan trọng về lý luận

văn hóa của Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Nghiên cứu về công nghiệp văn hóa không thể không kể đến những quan

tâm nghiên cứu của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá Liên hợp quốc

(UNESCO). Cùng với những vấn đề nảy sinh trong phát triển xã hội đương đại,

với tư cách là một cơ quan văn hóa của Liên hợp quốc, UNESCO ngày càng có

những quan tâm đặc biệt đến vấn đề này, cả về phương diện lý luận lẫn phương

diện thực tiễn. Từ những nhận thức mới về vai trò của văn hóa đối với sự phát

triển của các quốc gia và nhân loại nói chung, UNESCO đã đề cập đến vai trò

của văn hóa trong những lĩnh vực cụ thể, trong đó có công nghiệp văn hóa.

Trong công trình: Các ngành công nghiệp văn hóa – Tâm điểm của văn

hóa trong tương lai [116], UNESCO đã định nghĩa: “Các ngành công nghiệp kết

hợp sự sáng tạo, sản xuất và khai thác các nội dung có bản chất phi vật thể và

văn hóa. Các nội dung này thường được bảo vệ bởi luật bản quyền và thể hiện

dưới dạng các sản phẩm hay dịch vụ”. Các ngành công nghiệp văn hóa bao gồm

ngành in ấn, xuất bản, đa phương tiện, nghe nhìn, ghi âm, điện ảnh, thủ công và

thiết kế. Đối với một số nước, các ngành công nghiệp văn hóa còn bao hàm kiến

trúc, nghệ thuật biểu diễn, nghệ thuật thị giác, thể thao, sản xuất nhạc cụ, quảng

cáo và du lịch văn hóa. Như vậy, phạm vi của các ngành công nghiệp văn hóa

khá rộng, từ những ngành mang tính truyền thống như văn hóa dân gian, thủ

công, lễ hội, văn học, nghệ thuật biểu diễn đến các ngành mang nặng tính công

nghệ như điện ảnh, truyền thông, phim hoạt hình kỹ thuật số, trò chơi điện tử và

các ngành thiên về dịch vụ như kiến trúc và quảng cáo.

12

Các ngành công nghiệp văn hóa có sự kết hợp chặt chẽ giữa văn hóa, nghệ

thuật, kinh tế và công nghệ. Các ngành này đều sáng tạo, sản xuất và phân phối

các sản phẩm và dịch vụ sử dụng nguồn lực trí tuệ của con người như những

nguyên liệu đầu vào then chốt.

Vai trò quan trọng của văn hóa đã được thể hiện qua bốn mục tiêu cuộc

vận động Thập kỷ thế giới phát triển văn hóa: (1) Với khẩu hiệu “Văn hóa vì

phát triển” đã khẳng định vị trí quan trọng của văn hóa trong phát triển, tìm mọi

phương thức có thể cho sự phù hợp giữa sản xuất và sáng tạo, để kinh tế có thể

bắt rễ trong văn hóa; (2) Tôn trọng tất cả các nền văn hóa của các dân tộc, tuân

thủ nguyên tắc bình đẳng và khuyến khích sự tự khẳng định, tự làm phong phú

bản sắc văn hóa dân tộc trong sự thống nhất với tinh hoa văn hóa và văn minh

nhân loại; (3) Đảm bảo sự tham gia của mọi lực lượng vào đời sống văn hóa, tạo

ra càng nhiều cơ hội và điều kiện để từng cá nhân và mỗi cộng đồng tự do hưởng

thụ và sáng tạo văn hóa; (4) Đẩy mạnh hợp tác văn hóa quốc tế với luận điểm

quan trọng: “Nhận thức về vị trí và vai trò của văn hóa trong phát triển, chúng ta

cần vượt lên cách tiếp cận kinh tế học thuần túy và tìm ra hàng trăm phương

thức có thể được để cho tính công nghiệp và tính sáng tạo có thể gắn bó, móc nối

với nhau và để cho kinh tế có thể bắt rễ trong văn hóa”.

Theo UNESCO, sản phẩm văn hóa là kết quả của hoạt động sáng tạo, sản

xuất, khai thác giá trị văn hóa trong ngành công nghiệp văn hóa. Sản phẩm văn

hóa được lưu thông, buôn bán trên thị trường nên còn được gọi là hàng hóa văn

hóa. UNESCO cho rằng: hàng hóa văn hóa là “các sản phẩm tiêu dùng chứa

đựng ý tưởng, biểu tượng và lối sống. Chúng có chức năng thông báo hoặc giải

trí, đóng góp cho việc xây dựng bản sắc văn hóa cộng đồng và ảnh hưởng đến

các tập quán văn hóa”. Sản phẩm văn hóa mang tính phi vật thể. Điều này có thể

thấy rõ trong các sản phẩm văn hóa nghệ thuật thuộc loại hình nghệ thuật biểu

diễn. Các sản phẩm văn hóa khác như tác phẩm hội họa, điêu khắc, trưng bày

sắp đặt tuy có vỏ vật chất để biểu hiện nhưng phần quan trọng vẫn là nội dung, ý

tưởng sáng tạo, hình tượng nghệ thuật mang tính biểu cảm và phi vật thể.

13

1.1.2. Những nghiên cứu về thực tiễn công nghiệp văn hóa và nghệ

thuật biểu diễn

Ngoài nghiên cứu về lý luận, các nhà khoa học còn quan tâm đến thực

tiễn. Đó là chính sách phát triển, thực tiễn phát triển, kinh nghiệm quản lý, giải

pháp phát triển CNVH và nghệ thuật biểu diễn… Có thể kể ra một số công trình

tiêu biểu sau:

James Heilbrun and Charles M.Gray (1993), The Economics of Art and

Culture - An American Perspective - Kinh tế học về Nghệ thuật và Văn hóa –

Một triển vọng ở Mỹ, Cambridge University Press. Các vấn đề được bàn đến

trong công trình này là: Vấn đề tài chính, kinh tế của mỹ thuật và nghệ thuật biểu

diễn ở Hoa Kỳ; chính sách công và vai trò của nó đối với các loại hình văn hóa

nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật biểu diễn; một số khái niệm, lý thuyết liên quan

đến hoạt động biểu diễn nghệ thuật; vấn đề sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm nghệ

thuật biểu diễn; vấn đề tài chính và thị trường nghệ thuật trong xã hội đương đại; dự

báo tương lai phát triển nghệ thuật biểu diễn tại Hoa Kỳ.

Throsby David and Glenn A. Withers: The Economics of the Performing

Arts - Kinh tế học về Nghệ thuật biểu diễn (edition 1993), Edward Arnold

(Australia). Ở công trình này, ngoài nghiên cứu về lý luận kể trên, các tác giả

còn phân tích một số kinh nghiệm về chính sách công của nghệ thuật biểu diễn

và các quan điểm về chính sách công. Phát triển các lý thuyết cơ bản về hành vi của

các tổ chức nghệ thuật, người tiêu dùng và khách hàng trung thành; kiểm chứng

tính đúng đắn của những lý thuyết này với thực tiễn. Công trình đã trở thành một

trong những tài liệu tham khảo quan trọng trong lĩnh vực kinh tế văn hóa.

Cùng với Throsby David, giáo sư Victor A. Ginsburgh - một nhà kinh tế

học người Bỉ, gốc Áo, chuyên nghiên cứu các lý thuyết về kinh tế vi mô, văn hóa

kinh tế đã cho ra đời tác phẩm: Handbook of the Economics of Art and Culture -

Sổ tay Kinh tế học Văn hóa và Nghệ thuật. Công trình gồm 05 phần với các nội

dung chuyên sâu như: Giá trị và việc xác định giá trị trong nghệ thuật và văn

hóa; cung, cầu; tiêu dùng và đầu tư; đổi mới và thay đổi công nghệ, thương mại,

phát triển đa dạng văn hóa và các vấn đề văn hóa rộng hơn.

14

Ruth Towse là giáo sư đầu ngành của lĩnh vực kinh tế và công nghiệp văn

hóa, bà đã tham gia giảng dạy ở rất nhiều trường đại học nổi tiếng ở trên thế giới

về những lĩnh vực này vừa xuất bản cuốn sách: A Handbook of Cultural

Economic: Sổ tay kinh tế học văn hóa (2011). Ở công trình này, giáo sư đã tập

trung phân tích những thay đổi trong lĩnh vực kinh tế văn hóa trong xã hội

đương đại; Phân tích những tác động của công nghệ mới đối với ngành công

nghiệp sáng tạo. Bên cạnh đó, tác giả còn phân tích những tính chất kinh tế của

hoạt động văn hóa, nghệ thuật như: vấn đề đấu giá sản phẩm, thị trường tiêu thụ

sản phẩm văn hóa nghệ thuật, giá cả, thị trường lao động của các nghệ sĩ, sáng

tạo và sáng tạo kinh tế, giá trị văn hóa, toàn cầu hóa và thương mại quốc tế,

internet, phương tiện truyền thông kinh tế, bảo tàng, các tổ chức phi lợi nhuận,

biểu diễn nghệ thuật, xuất bản, kinh tế phúc lợi. Đây là cuốn sách thực sự có giá

trị đối với những người nghiên cứu về lĩnh vực công nghiệp văn hóa và những

vấn đề liên quan đến kinh tế văn hóa.

Harry Hillman, Joni M.Cherbo2 and Margaret J. Wyszomirski3 (2000) The

Public Life of the Arts in America - Đời sống công cộng của nghệ thuật ở Mỹ,

(Nxb Rutgers University Press, New York). Công trình gồm 2 phần: Phần

I:“Exploring a changing landscape”, Phần II: “The public and the arts”.Công

trình này đã có những đóng góp quan trọng trong hệ thống tài liệu về nghệ thuật

ở Mỹ. Công trình đã cung cấp nhiều thông tin khoa học có giá trị như: 96% người

dân Mỹ liên quan đến hoạt động nghệ thuật dưới nhiều hình thức trực tiếp hay

gián tiếp: là khán giả, là những người có sở thích, hoặc thông qua truyền hình, ghi

âm, video, Internet... Công trình cũng cho thấy nền công nghiệp văn hóa đã đóng

góp quan trọng vào sự phát triển của nền kinh tế Mỹ. Bên cạnh đó, nền công

nghiệp văn hóa Mỹ cũng đang tìm cách để ngày càng phục vụ những lợi ích

công ngày càng tốt hơn. Các tác giả công trình cũng cho rằng các chính sách

công của chính phủ sẽ tác động đến nghệ thuật và văn hóa Mỹ. Vì vậy, theo họ,

Mỹ nên tiếp tục hỗ trợ nghệ thuật để lĩnh vực này không ngừng phát triển. Điều

này hỗ trợ góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của cộng đồng, duy trì sự

15

sáng tạo của các nghệ sĩ và các tổ chức nghệ thuật ở Mỹ. Công trình đã khẳng

định: một ngành công nghiệp liên quan đến hai yếu tố cơ bản là bên cung (sản

xuất) và bên cầu (tiêu thụ) trong cán cân kinh tế. Các ngành công nghiệp được

tạo nên do nhu cầu của xã hội và cung ứng cho thị trường sản phẩm, dịch vụ để

đáp ứng nhu cầu đó. Tương tự như vậy, ngành công nghiệp văn hóa ra đời do

nhu cầu văn hóa, tinh thần của xã hội.

Với cách tiếp cận văn hóa là một ngành công nghiệp, Richard E. Caves -

chuyên gia đầu ngành của Đại học Harvard về lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn

hóa, công nghiệp văn hóa đã xuất bản cuốn sách: Creative Industries: Contracts

Between Art and Commerce, Ngành công nghiệp sáng tạo: khế ước giữa nghệ

thuật và thương mại, Harvard University Press (2000). Nghiên cứu này phân tích

vấn đề tổ chức của các ngành công nghiệp sáng tạo bao gồm nghệ thuật thị giác và

biểu diễn, phim, nhà hát, xuất bản sách... Ông cho rằng, việc tổ chức kinh doanh

của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp sáng tạo cũng được

thực hiện theo một logic, quy trình giống như các lĩnh vực kinh doanh khác.

Công trình cung cấp một cách toàn diện các vấn đề cốt lõi trong quản lý

nghệ thuật biểu diễn là: Theatre Management: Producing and Managing the

Performing Arts - Quản lý Nhà hát: Sản xuất và quản lý nghệ thuật biểu diễn của David M. Conte4and Stephen Langley, xuất bản năm 2007. Theo các tác giả này,

vấn đề cốt lõi trong quản lý nghệ thuật biểu diễn là sản xuất giới thiệu các sản

phẩm nghệ thuật đáp ứng nhu cầu của khách hàng và phù hợp với tiềm lực của

đơn vị nghệ thuật; vấn đề tìm kiếm và phát triển thị trường khán giả, tài chính,

ngân sách, quan hệ công chúng, tính sáng tạo và xây dựng đội ngũ nguồn nhân lực

của đơn vị nghệ thuật; những nhiệm vụ, tổ chức và cơ cấu pháp lý, địa điểm thực

hiện những dự án nghệ thuật biểu diễn, phòng vé và công tác bán vé; vấn đề gây

quỹ, tiếp thị, quảng cáo… Trong việc cập nhật một cách cẩn thận, kỹ lưỡng những

thông tin từ các nhà quản lý nhà hát, quản lý nghệ thuật biểu diễn tại Mỹ, công

trình giải quyết nhu cầu và mối quan tâm đối đầu với các nhà quản lý nghệ thuật

trong thế kỷ XXI. Đây là một tài liệu tham khảo không thể thiếu cho tất cả các nhà

quản lý nghệ thuật và việc phát triển công nghiệp nghệ thuật biểu diễn.

16

Một công trình khác nghiên cứu về thị trường và chiến lược phát triển

khán giả: “Who is my maket? Aguide to researching audience and visitors in the

ats” (Ai là thị trường của tôi? Hướng dẫn nghiên cứu tác giả và du khách trong

các tổ chức nghệ thuật) của Helen Close và Robert Dovovan, xuất bản năm

1998. Đây là công trình đầu tiên về nghiên cứu thị trường khán giả tại các tổ

chức văn hóa nghệ thuật. Công trình này gồm 4 phần. Ở phần đầu, các tác giả

đưa ra khái niệm phát triển khán giả và phân tích sự cần thiết nghiên cứu phát

triển thị trường khán giả. Trong phần hai, các tác giả trình bày các nguyên tắc cơ

bản của quá trình nghiên cứu thị trường như: phương pháp và loại hình nghiên

cứu, cách xây dựng, thiết kế bảng hỏi nghiên cứu định lượng, phân tích các dữ

liệu thu thập được và trình bày kết quả nghiên cứu. Phần tiếp theo là một số vấn

đề trong quá trình thực hiện nghiên cứu thị trường; nghiên cứu lợi thế cạnh

tranh, gây quỹ và tài trợ, lập hồ sơ dữ liệu khách hành và các yếu tố ảnh hưởng

đến quyết định mua hàng của khán giả ở Australia…

Ngoài ra, các nhà nghiên cứu còn đề cập đến một số quan điểm và chính

sách văn hóa liên quan đến công nghiệp văn hóa và dịch vụ văn hóa của một số

nước trên thế giới. Tiêu biểu như ở nước Anh – một trong những quốc gia đi đầu

trong phát triển các ngành công nghiệp sáng tạo và văn hóa trên thế giới. Chính

phủ Anh đã có nhiều chính sách hỗ trợ tích cực cho phát triển các ngành công

nghiệp sáng tạo, điều tra nhu cầu, khảo sát hiện trạng, từ đó hoạch định chính

sách và phối hợp giữa nhiều ngành, nhiều lực lượng xã hội trong đầu tư, hỗ trợ

các doanh nghiệp ở tầm vĩ mô của Nhà nước. Bên cạnh đó, còn khuyến khích sự

năng động, chủ động của các doanh nghiệp và tạo điều kiện cho các doanh

nghiệp hình thành và hoạt động một cách tự chủ và linh hoạt. Ở Pháp, chính phủ

Pháp đã phát huy tích cực vai trò của nhà nước trong phát triển các ngành công

nghiệp văn hóa. Với các chính sách về tài chính như chính sách thuế, chính sách

đầu tư cho văn hóa, các ngành công nghiệp văn hóa Pháp có thêm nhiều nguồn

lực để phát triển. Tuy nhiên, Pháp luôn nhấn mạnh bản chất đặc biệt của sản

phẩm văn hóa và có chủ trương đối xử với sản phẩm văn hóa như một loại văn

17

hóa đặc biệt khác với các hàng hóa thông thường. Khác với Pháp, Mỹ quan niệm

văn hóa là một loại sản phẩm hàng hóa, tập trung đầu tư phát triển công nghiệp

văn hóa, đặc biệt là điện ảnh và âm nhạc. Mỹ không có chính sách văn hóa giống

như các nước Châu Âu. Tổng thống hay Quốc hội, chính quyền Trung ương

không trực tiếp can thiệp vào chính sách văn hóa cụ thể. Nhà nước chỉ thông qua

Luật công pháp quy định thành lập Quỹ quốc gia về văn hóa và nhân văn, hỗ trợ

vật chất, tạo môi trường khuyến khích tự do trong sáng tạo... Hay như ở Hàn

Quốc, đặc điểm nổi bật nhất hiện nay trong chính sách văn hóa của Hàn Quốc là

sự dịch chuyển từ chỗ quá trình hoạch định chính sách văn hóa hoàn toàn tập

trung trong tay cơ quan quản lý nhà nước trung ương sang phân cấp, phân quyền

cho các chính quyền địa phương với sự tham gia tích cực của xã hội dân sự, bao

gồm các đơn vị, tổ chức văn hóa – nghệ thuật, các nhà nghiên cứu văn hóa, các

tổ chức phi chính phủ và giới văn nghệ sĩ trong quá trình nghiên cứu, hình thành,

xây dựng và triển khai thực hiện chính sách văn hóa.

Đánh giá chung:

Có thể thấy, cho đến nay, các nhà khoa học trên thế giới đã có khá nhiều

các công trình nghiên cứu về công nghiệp văn hóa cũng như nghệ thuật biểu

diễn. Các vấn đề được các học giả nghiên cứu tập trung ở một số mặt:

Về nghiên cứu lý thuyết: Xuất phát từ các góc độ tiếp cận cũng như điều

kiện lịch sử, địa lý, kinh tế, văn hóa khác nhau nên các nhà nghiên cứu về công

nghiệp văn hóa đều đưa ra những cách hiểu khác nhau về quan niệm cũng như

cách phân loại lĩnh vực này. Vẫn còn nhiều tranh luận xoay quanh tên gọi: công

nghiệp văn hóa, công nghiệp sáng tạo, công nghiệp văn hóa và sáng tạo, công

nghiệp nghệ thuật, công nghiệp bản quyền, công nghiệp giải trí... Mặc dầu tên

gọi khác nhau nhưng tất cả các quốc gia đều nhìn nhận công nghiệp văn hóa là

một ngành công nghiệp. Nghĩa là, công nghiệp văn hóa cũng bao gồm các hoạt

động sản xuất, khai thác, phân phối và tiêu thụ sản phẩm như các ngành công

nghiệp khác. Chỉ khác là đối tượng của quá trình sáng tạo, sản xuất và khai thác

ở đây không phải là sản phẩm vật chất thông thường mà là sản phẩm văn hóa.

18

Sở dĩ, UNESCO và các nước như Phần Lan, Tây Ban Nha, Đức, Hàn

Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc... sử dụng khái niệm “các ngành công nghiệp văn

hóa” (Cultural Industries) vì quan niệm đây là ngành công nghiệp kết hợp sự

sáng tạo, sản xuất và khai thác các nội dung có bản chất phi vật thể và văn hóa;

những sản phẩm và dịch vụ này có ý nghĩa văn hóa xã hội cao. Anh, Australia,

NewZealand, Singapore sử dụng khái niệm “các ngành công nghiệp sáng tạo”

(Creative Industries) bởi họ quan niệm đây là những hoạt động bắt nguồn từ sự

sáng tạo, kỹ năng và năng khiếu của cá nhân, có tiềm năng tạo ra của cải qua quá

trình khai thác quyền sở hữu trí tuệ nên gọi là “công nghiệp sáng tạo”. Ngoài ra,

các nước này còn sử dụng khái niệm “công nghiệp văn hóa và sáng tạo”

(Cultural and Creative Industries), “nền kinh tế sáng tạo và văn hóa” để nhằm

nhấn mạnh yếu tố sáng tạo trong sản xuất văn hóa, nghệ thuật. Một số nhà

nghiên cứu Mỹ và Canađa thì dùng khái niệm "công nghiệp nghệ thuật” (Arts

Industries) vì cho rằng đây là ngành sử dụng và tạo ra sản phẩm nghệ thuật; sáng

tạo, sản xuất và sử dụng các sản phẩm nghệ thuật nhằm mục đích phục vụ giải trí

cao. Công nghiệp nghệ thuật có thể coi là bộ phận trung tâm của công nghiệp

văn hóa. Với cách tiếp cận ở góc độ sở hữu trí tuệ, trong đó nhấn mạnh trọng

tâm là các nội dung bản quyền – kiểu mẫu – nhãn hiệu thương mại - thiết kế...

Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới và Hồng Kông lại quan niệm đây là “ngành

công nghiệp bản quyền” (Copyright Industries). Theo quan điểm này, các ngành

công nghiệp bản quyền được hiểu là tất cả các ngành công nghiệp sáng tạo ra sản

phẩm bản quyền hoặc sản phẩm liên quan như những sản phẩm cơ bản, cốt lõi

của ngành. Quan điểm này cũng phù hợp với quan điểm của UNESCO: khi đề

cập đến công nghiệp văn hóa không thể không nói đến luật bản quyền trong sử

dụng và bảo hộ các sản phẩm văn hóa.

Ngoài những tác phẩm đề cập đến khái niệm khác nhau liên quan đến công

nghiệp văn hóa, các học giả còn khẳng định vai trò của ngành công nghiệp văn hóa

và phân loại các ngành công nghiệp văn hóa. Với tư cách là một cơ quan văn hóa

của Liên Hợp Quốc, UNESCO đã đưa ra những quan điểm, chủ trương, chính sách

cũng như khẳng định tầm quan trọng của việc phát triển công nghiệp văn hóa.

19

Riêng về khái niệm công nghiệp nghệ thuật biểu diễn, cho đến nay chưa

thấy đề cập ở công trình nghiên cứu nào. Tuy nhiên, tiếp cận ở quy trình hoạt

động loại hình nghệ thuật biểu diễn như các ngành công nghiệp văn hóa cụ thể

thì đã có rất nhiều tác giả đề cập tới. Cũng như các nhà nghiên cứu đã bàn nhiều

đến những vấn đề chung của nghệ thuật biểu diễn và hệ thống lý thuyết trong

kinh tế của nghệ thuật biểu diễn; vai trò của nghệ thuật biểu diễn.

Về nghiên cứu thực tiễn: Các công trình nghiên cứu đã phân tích chính

sách công của chính phủ trong việc tác động đến lĩnh vực công nghiệp văn hóa,

lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn nhằm đáp ứng các nhu cầu văn hóa, tinh thần của

người dân trong xã hội, nhấn mạnh khía cạnh kinh tế của các hoạt động văn hóa,

mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa, tính đặc thù của các sản phẩm hàng hoá

văn hóa, thị trường văn hoá phẩm. Vấn đề chi phí, ngân sách, thị trường, tổ chức

hoạt động, xây dựng thương hiệu, tiếp thị và phát triển khán giả…trong công

nghiệp văn hóa, đặc biệt là lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn đều được các tác giả

quan tâm. Ngoài ra, các nhà khoa học còn phân tích các quan điểm về chính sách

công, về thực tiễn phát triển, quản lý phát triển hoạt động nghệ thuật biểu diễn

và một số kinh nghiệm ở các nước về lĩnh vực này.

1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƢỚC

Ở Việt Nam, công nghiệp văn hóa và nghệ thuật biểu diễn nhìn nhận dưới

góc độ công nghiệp văn hóa đến nay vẫn chưa được quan tâm nghiên cứu nhiều.

Để có cách nhìn hệ thống, tác giả luận án bước đầu tổng quan về những công

trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề lý thuyết và những vấn đề thực tiễn về

công nghiệp văn hóa và nghệ thuật biểu diễn trong thời gian qua.

1.2.1. Những nghiên cứu lý thuyết về công nghiệp văn hóa và nghệ

thuật biểu diễn

Có khá nhiều nghiên cứu góp phần làm rõ hơn khái niệm, đặc trưng, cấu

trúc và vai trò... của công nghiệp văn hóa và nghệ thuật biểu diễn gắn với đặc thù

của Việt Nam, như: đề tài khoa học, sách, hội thảo khoa học và các bài viết:

20

Đề tài khoa học: “Nghiên cứu xây dựng và phát triển công nghiệp văn hóa

ở Thủ đô Hà Nội trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa” (Sở Văn hóa

Thông tin Hà Nội 01X-12/01-2006-3 do PGS,TS. Phạm Duy Đức làm chủ

nhiệm). Đề tài đã làm rõ nhận thức lý luận về công nghiệp văn hóa: quan niệm,

cơ cấu, vai trò và những vấn đề đặt ra đối với việc xây dựng và phát triển công

nghiệp văn hóa ở Hà Nội; đánh giá thực trạng công nghiệp văn hóa của Thủ đô

từ 1990 đến nay qua một số lĩnh vực cơ bản: công nghiệp báo chí, công nghiệp

phát thanh truyền hình, công nghiệp xuất bản, công nghiệp băng đĩa, công

nghiệp sản xuất đồ chơi và các phương tiện phục vụ khu vui chơi giải trí ở Hà

Nội hiện nay. Từ đó công trình đưa ra những phương hướng và giải pháp tạo

động lực cho việc xây dựng và phát triển ngành công nghiệp văn hóa nhằm bảo

tồn và phát huy các giá trị văn hóa của Thủ đô.

Đề tài khoa học cấp Bộ (2009): Phát triển công nghiệp văn hóa ở Việt

Nam hiện nay. Thực trạng và giải pháp do PGS,TS. Nguyễn Thị Hương, Viện

Văn hóa và Phát triển, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh

làm chủ nhiệm. Ở đề tài này, tác giả đã tổng hợp các kết quả nghiên cứu về công

nghiệp văn hóa từ các góc độ khác nhau, khái quát quan niệm, bản chất, cấu trúc

của công nghiệp văn hóa, từ đó đưa ra quan niệm công nghiệp văn hóa và làm rõ

vai trò của công nghiệp văn hóa đối với phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng

nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đồng thời đề tài khảo sát, đánh

giá thực trạng phát triển công nghiệp văn hóa ở nước ta hiện nay trên một số lĩnh

vực cơ bản, dự báo xu hướng và đề xuất phương hướng và những giải pháp

nhằm phát triển lĩnh vực này.

Đề tài khoa học cấp Nhà nước (chưa nghiệm thu): Định hướng phát triển

công nghiệp văn hóa dưới góc nhìn văn hóa và tác động của nó đến thế hệ trẻ

Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa và hội nhập quốc tế do

PGS,TS Nguyễn Ngọc Hà, Học viện Chính trị khu vực I làm chủ nhiệm. Ở đề tài

này, các tác giả đã làm rõ một số khái niệm liên quan đến CNVH ở trên thế giới

và ở Việt Nam; cơ cấu, vai trò, chức năng của CNVH; vấn đề thị trường hàng

21

hóa và CNVH. Điểm mới của đề tài này là đã nêu lên được những tác động của

CNVH đối với thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay – nhìn từ góc độ văn hóa. Những

tác động theo phương thức: trực tiếp, gián tiếp; theo ý nghĩa: tích cực, tiêu cực

và đặc biệt theo lĩnh vực: tư tưởng, đạo đức, lối sống, thẩm mỹ... Qua đó, nghiên

cứu sinh (NCS) hiểu rõ hơn về tác động của CNVH đối với xã hội, nhất là giới

trẻ dưới góc nhìn văn hóa học.

Cuốn sách: Văn hóa, tiếp cận lý luận và thực tiễn của tác giả Nguyễn Tri

Nguyên xuất bản năm 2006. Trong công trình này, tác giả cho rằng công nghiệp

văn hóa là một trong những vấn đề của văn hóa đương đại, gắn liền với quyền sở

hữu trí tuệ.

Giáo trình các ngành công nghiệp văn hóa (giáo trình dành cho sinh viên

và cao đẳng các trường văn hóa – nghệ thuật) (2009) của tác giả Phạm Bích

Huyền, Đặng Hoài Thu (Trường Đại học Văn hóa Hà Nội). Trong cuốn giáo

trình này, các tác giả đã trình bày những kiến thức và kỹ năng cơ bản về ngành

công nghiệp văn hóa như khái niệm, quy trình sáng tạo – phân phối của công

nghiệp văn hóa, đặc điểm, vai trò của các ngành này đối với sự phát triển kinh tế

- xã hội. Ngoài ra, giáo trình còn nêu lên bối cảnh, xu hướng phát triển của công

nghiệp văn hóa và chính sách phát triển các ngành công nghiệp văn hóa của một

số nước.

Cuốn sách: Quan hệ giữa xây dựng văn hóa và phát triển kinh tế ở nước

ta hiện nay (2011) của tác giả Mai Hải Oanh đã dành hẳn một phần để nói về

kinh tế văn hóa và việc xây dựng ngành công nghiệp văn hóa ở nước ta. Trong

đó, tác giả đã đưa ra khái niệm công nghiệp văn hóa và cơ cấu công nghiệp văn

hóa; phân tích những đặc trưng của công nghiệp văn hóa và những yếu tố thúc

đẩy việc hình thành các loại hình công nghiệp văn hóa ở nước ta; nguyên tắc cơ

bản và tư tưởng đối sách của phát triển công nghiệp văn hóa. Cũng trong cuốn

sách này, tác giả đã nêu lên những cơ hội và thách thức phát triển công nghiệp

văn hóa cũng như những tồn tại và bất cập của công nghiệp văn hóa ở nước ta

hiện nay.

22

Cuốn sách: Văn hóa học – những bài giảng do A.A.Radughin làm chủ

biên (Viện Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2004) đã có một phần phân tích văn hóa

tinh hoa và văn hóa đại chúng; những tiền đề kinh tế và chức năng xã hội, cơ sở

triết học của văn hóa đại chúng. Mặc dầu tác giả chưa nêu ra khái niệm công

nghiệp văn hóa nhưng qua công trình này, người đọc có thể hiểu hơn về đặc

điểm của công nghiệp văn hóa.

Hội thảo về: Công nghiệp văn hóa Việt Nam - Thực trạng và giải pháp do

Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (Bộ VH,

TT & DL) tổ chức ngày 30/8/2010 ở Hà Nội. Tại hội thảo, các đại biểu đã tranh

luận sôi nổi và tỏ ra rất hào hứng với lĩnh vực khá mới mẻ này. Bài tham luận:

“Một vài nét về công nghiệp văn hóa ở Việt Nam” của TS. Nguyễn Danh Ngà

(Vụ Kế hoạch- Tài chính, Bộ VH, TT & DL) đã nhấn mạnh tầm quan trọng của

việc phát triển công nghiệp văn hóa ở nước ta và khẳng định phát triển công

nghiệp văn hóa là yêu cầu cấp thiết trong sự nghiệp xây dựng và phát triển văn

hóa hiện nay. Tác giả bài viết đã đưa ra khái niệm công nghiệp văn hóa và các

lĩnh vực của công nghiệp văn hóa: "CNVH là việc sản xuất, tái sản xuất và

truyền bá các dịch vụ văn hóa và sản phẩm văn hóa được tạo ra bằng phương

thức công nghiệp hóa, tin học hóa, thương phẩm hóa lấy sự thỏa mãn của người

dân làm mục tiêu". Nó bao gồm một số lĩnh vực như: báo chí, xuất bản, phim

ảnh, nghệ thuật biểu diễn, mỹ thuật, nhiếp ảnh...". Về lĩnh vực nghệ thuật biểu

diễn tác giả Nguyễn Danh Ngà chủ yếu đề cập đến những vấn đề đặt ra hiện nay

đó là: Một số đơn vị còn mang tính thương mại tạo ra những tác phẩm nghệ

thuật thiếu chất lượng. Đội ngũ tác giả, đạo diễn, nhạc sĩ, biên đạo, nghệ sĩ tài

năng trẻ đang trong tình trạng đáng báo động. Đội ngũ quản lý các đơn vị nghệ

thuật vừa thiếu, vừa yếu. Còn thiếu những cơ chế, chế độ chính sách đặc thù để

tạo hành lang pháp lý, khuyến khích các mặt tích cực và ngăn chặn các mặt tiêu

cực trong việc quản lý hoạt động nghệ thuật biểu diễn như hiện nay. Đồng thời,

tác giả cũng đã nêu lên một số kinh nghiệm của các nước trên thế giới, từ đó rút ra

bài học kinh nghiệm cho Việt Nam và những giải pháp nhằm phát triển một nền

công nghiệp văn hóa Việt Nam.

23

Tham luận “Ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam: Thực trạng và một số

vấn đề đặt ra đối với lĩnh vực âm nhạc” của TS. Phạm Việt Long (Tạp chí Văn

hiến) đã nêu bật thực trạng của ngành công nghiệp văn hóa trên lĩnh vực âm

nhạc. Theo tác giả, trong thời gian qua, ở Việt Nam lĩnh vực này chúng ta đã đạt

được một số thành công bước đầu đó là thực hiện xã hội hóa khá mạnh mẽ để

sản xuất ra các sản phẩm phục vụ xã hội. Sản phẩm công nghệ âm nhạc phong

phú, đa dạng, số lượng nhiều. Các đơn vị ngoài quốc doanh trên lĩnh vực này

vươn lên nhanh chóng. Tuy nhiên, tác giả dành nhiều số trang đánh giá những

hạn chế, bất cập của công nghiệp âm nhạc thời gian qua. Từ đó, tác giả đề cập

đến những vấn đề đặt ra trong sản xuất, kinh doanh cũng như quản lý thị trường

âm nhạc hiện nay ở nước ta. Ở một công trình khác khi bàn đến khái niệm

CNVH, tác giả này cho rằng: "Nói đến công nghiệp văn hoá thì người ta sợ rằng

nó trở thành kỹ nghệ, công nghệ đơn thuần. Nhưng thực sự thì nó không phải

vậy. Điều cốt lõi của công nghiệp văn hoá là hình thành một hệ thống giúp cho

sự sáng tạo và những người chuyển tải sự sáng tạo đó đến với công chúng mang

tính chuyên nghiệp, chứ không manh mún như hiện nay".

Hội thảo khoa học: Công nghiệp văn hóa: vai trò trong nền kinh tế và

khung chính sách phù hợp với phát triển công nghiệp văn hóa tại Việt Nam ngày

13/5/2013 tại Hà Nội đã được các chuyên gia trong và ngoài nước am hiểu về

lĩnh vực này trao đổi sôi nổi về vai trò, giá trị của công nghiệp văn hóa và những

kinh nghiệm trên thế giới để xây dựng, phát triển ngành công nghiệp văn hóa ở

Việt Nam.

Dưới góc nhìn lịch sử, tác giả Nguyễn Ngọc Hà trong bài viết: “Tiếp tục

đổi mới tư duy, định hình quan niệm về phát triển các ngành công nghiệp văn

hóa ở Việt Nam” đăng trên Tạp chí Khoa học – Công nghệ đã hệ thống lại

những quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước trong suốt quá trình từ đổi

mới đến nay liên quan đến vai trò của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã

hội; thị trường văn hóa và các chính sách văn hóa. Từ Nghị quyết Trung ương 5

24

khoá VIII (1998), Hội nghị Trung ương 10, khoá IX (2004), Nghị quyết số 23-

NQTW của Bộ Chính trị (6-2008) "Về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học,

nghệ thuật trong thời kỳ mới", Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020

(2009) đến Hội nghị Trung ương 9 khóa XI (tháng 5-2014) ra Nghị quyết về xây

dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền

vững đất nước. Lần đầu tiên trong văn kiện Đảng xuất hiện khái niệm "công

nghiệp văn hóa". Một trong 5 mục tiêu cụ thể của Nghị quyết là: Xây dựng thị

trường văn hóa lành mạnh, đẩy mạnh phát triển công nghiệp văn hóa, tăng cường

quảng bá văn hóa Việt Nam. Một trong những nhiệm vụ quan trọng, được Nghị

quyết nhấn mạnh là Phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn

thiện thị trường văn hóa. Tác giả bài viết cho rằng: chủ trương phát triển công

nghiệp văn hóa ở Việt Nam là kết quả một quá trình đổi mới tư duy của Đảng về

văn hoá gắn với đổi mới tư duy kinh tế và xây dựng nền kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa.

Ngoài ra còn có một số bài viết đăng trên tạp chí như: “Xây dựng và phát

triển ngành công nghiệp văn hóa ở nước ta” của tác giả Tô Huy Rứa, Tạp chí

Cộng sản số 1/2006; “Xây dựng ngành công nghiệp văn hóa ở nước ta” của tác

giả Mai Hải Oanh, Tạp chí Văn hóa – Nghệ thuật, số 6/2006; "Công nghiệp văn

hóa” đăng trên Tạp chí Lý luận Chính trị số 12/2014 của tác giả Đoàn Minh

Huấn và Nguyễn Ngọc Hà. Gần đây có bài viết: “Công nghiệp sáng tạo và văn

hóa” của tác giả Trần Nho Thìn, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 2 (158)/2015 đã

phân tích khái niệm công nghiệp văn hóa và công nghiệp sáng tạo, làm rõ đặc

điểm và vai trò của công nghiệp văn hóa đối với sự phát triển bền vững xã hội;

khẳng định công nghiệp văn hóa – công nghiệp sáng tạo là một hiện tượng mới

của kỷ nguyên toàn cầu hóa và phát triển vũ bão của công nghệ...

1.2.2. Những công trình nghiên cứu về thực tiễn công nghiệp văn

hóa và nghệ thuật biểu diễn

Cuốn sách: Chính sách phát triển văn hóa trên thế giới và việc hoàn thiện

chính sách văn hóa ở Việt Nam (2009), tác giả Nguyễn Văn Tình đã đề cập đến

25

chính sách phát triển công nghiệp văn hóa của một số nước như Nhật Bản, Hàn

Quốc, Trung Quốc, khẳng định phát triển công nghiệp văn hóa đang là xu thế

lớn và quan trọng trong chính sách văn hóa của các nước trên thế giới.

Ở cuốn sách khác: Văn học, nghệ thuật trong cơ chế thị trường và hội

nhập của Hội đồng lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương xuất bản

năm 2009 đã đề cập đến những vấn đề vừa cơ bản, vừa cấp bách trong đời sống

văn học, nghệ thuật nước ta hiện nay, cho thấy rõ những bước tiến, những thành

tựu đã đạt được, những thách thức, trăn trở, những việc cần phải làm, phải rút

kinh nghiệm… để văn học, nghệ thuật phát triển xứng đáng với dân tộc và thời

đại. Trong cuốn sách này có một số bài viết của những nhà lý luận cũng như các

nhà hoạt động thực tiễn về lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn. Trong đó, phải kể đến

bài viết của nghệ sĩ nhân dân (NSND). Chu Thúy Quỳnh (Chủ tịch Hội Nghệ sĩ

múa Việt Nam) về: “Nghệ thuật biểu diễn trong cơ chế thị trường và hội nhập”.

Ở bài viết này, tác giả đã đề cập đến yêu cầu văn hóa, nghệ thuật phục vụ xã hội,

nhu cầu hưởng thụ ngày càng nhiều, làm thế nào để nghệ thuật biểu diễn đi vào

nền kinh tế thị trường được phát huy. Theo tác giả, cần phải xã hội hóa các bộ

môn nghệ thuật về lâu dài trong kinh tế thị trường, đây là điều rất nên và có tính

khả thi. Ngoài ra, tác giả còn lưu ý đến vấn đề hội nhập và cho rằng đây là một

sách lược đúng đắn để học tập, tự khẳng định nghệ thuật nước nhà trước xu thế

toàn cầu hóa và hội nhập mạnh mẽ hiện nay. Một số bài viết khác như: “Sân

khấu Việt Nam đương đại - bức tranh nhiều màu nhưng không đậm nét” của

NSUT. Lê Chức (Phó Chủ tịch Thường trực Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam),

“Về tình hình âm nhạc hiện nay và những vấn đề bức xúc đang tồn tại” của

Nhạc sĩ Đỗ Hồng Quân (Chủ tịch Hội nhạc sĩ Việt Nam)… đã góp phần vẽ lên

bức tranh về thực trạng nghệ thuật biểu diễn ở nước ta hiện nay. Đây quả là

những căn cứ đáng lưu tâm khi thực hiện luận án này.

Trong cuộc hội thảo khoa học: Công nghiệp văn hóa: vai trò trong nền

kinh tế và khung chính sách phù hợp với phát triển công nghiệp văn hóa tại Việt

Nam ngày 13/5/2013 tại Hà Nội, bà Almuth Meyer Zollitsch, Viện trưởng Viện

26

Goethe nêu rõ: Việt Nam cần có một đánh giá về tiềm năng các ngành công

nghiệp văn hóa, ở đó xác định được nhu cầu thị trường, người tiêu dùng và chính

sách nhà nước, từ đó xác định được loại hình mũi nhọn ưu tiên cho ngành công

nghiệp văn hóa. Các nhà khoa học Việt Nam trong buổi hội thảo cũng trăn trở

làm sao có được các sản phẩm văn hóa chất lượng, vừa đưa lại nguồn thu, vừa là

sứ giả quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam.

Hội thảo về Văn học nghệ thuật 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương

5 (khóa VIII): Phấn đấu sáng tạo nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị

tư tưởng và nghệ thuật cao - Thực trạng và giải pháp của Hội đồng Lý luận, phê

bình văn học, nghệ thuật Trung ương tổ chức tại Hà Nội tháng 11/2013 đã có

khá nhiều những bài viết của những người nghiên cứu chuyên sâu về văn học,

nghệ thuật. Bài tham luận: “Cần thể chế hóa chủ trương chính sách của Đảng,

Nhà nước để thúc đẩy nghệ thuật sân khấu tạo nên những tác phẩm có giá trị tư

tưởng và nghệ thuật cao” của NSND Lê Tiến Thọ (Chủ tịch Hội Nghệ sĩ Sân

khấu Việt Nam) đã nhận định: văn học nghệ thuật nói chung, nghệ thuật sân

khấu nói riêng là bộ phận quan trọng góp phần làm nên bản sắc văn hóa của mỗi

dân tộc. Tác giả bài viết đã đánh giá về sáng tác và biểu diễn trên lĩnh vực sân

khấu trong thời gian qua, tìm ra nguyên nhân của thực trạng còn ít những tác

phẩm sân khấu có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao (theo tác giả, có 5 nguyên

nhân: từ đội ngũ văn nghệ sĩ; từ hoạt động lý luận phê bình sân khấu; từ quản lý

Nhà nước; từ tác động của cơ chế thị trường; từ tác động giao lưu, hội nhập văn

hóa). Từ đó tác giả đề xuất những chính sách nhằm thúc đẩy nghệ thuật sân khấu

sáng tạo nhiều tác phẩm có giá trị tư tưởng nghệ thuật cao, kiến nghị các giải

pháp khả thi để xây dựng toàn diện nền văn học, nghệ thuật nước nhà phát triển.

Đề tài khoa học của Bộ Văn hóa - Thông tin (2004) về: Khảo sát thực

trạng hoạt động marketing trong nghệ thuật biểu diễn tại Nhà hát Tuổi trẻ Hà

Nội và Sân khấu IDECAF Thành phố Hồ Chí Minh do tác giả Trương Nhuận (Phó

Giám đốc Nhà hát Tuổi trẻ) làm chủ nhiệm. Ở công trình này, nhóm tác giả đã nêu

rõ đặc điểm và vai trò của nghệ thuật biểu diễn; đánh giá thực trạng marketinh trong

27

hoạt động biểu diễn nghệ thuật của Nhà hát Tuổi trẻ và Sân khấu Idecaf Tp. Hồ Chí

Minh; từ đó đề xuất phương hướng và giải pháp đẩy mạnh công tác marketing biểu

diễn nghệ thuật...

công nghiệp văn hóa dưới góc nhìn văn hóa và tác động của nó đến thế hệ trẻ

Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa và hội nhập quốc tế (đề cập

Ở góc độ thực tiễn, đề tài khoa học cấp nhà nước: Định hướng phát triển

ở trên) đã đưa ra một số kinh nghiệm của các nước, tổ chức quốc tế về phát triển

CNVH và định hướng tác động của CNVH đối với thế hệ trẻ; đánh giá thực trạng

CNVH ở Việt Nam về quy mô, cơ cấu và trình độ. Tuy nhiên, do phạm vi nghiên

cứu của đề tài là cả nước và tất cả các lĩnh vực thuộc CNVH nên lĩnh vực nghệ

thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí Minh dưới góc độ CNVH chưa được khảo sát sâu.

Đánh giá chung:

Đóng góp của các nghiên cứu về lĩnh vực công nghiệp văn hóa trong đó

có nghệ thuật biểu diễn ở Việt Nam:

Về nghiên cứu lý thuyết:

- Các nghiên cứu đã làm rõ tính tất yếu khách quan và đặc thù của phát

triển công nghiệp văn hóa trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

và hội nhập của Việt Nam.

- Lý luận phát triển công nghiệp văn hóa như: quan niệm công nghiệp văn

hóa, cấu trúc của công nghiệp văn hóa trên thế giới và ở nước ta ngày càng được

nhận thức sâu sắc, toàn diện hơn.

- Bước đầu nghiên cứu vai trò, ý nghĩa của phát triển công nghiệp văn hóa

nói chung và lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn nói riêng đối với việc xây dựng và

phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và phát triển

kinh tế. Phân tích những vấn đề đặt ra trong việc xây dựng, phát triển công

nghiệp văn hóa ở nước ta.

Về nghiên cứu thực tiễn:

Bước đầu đã có một số công trình khảo sát đánh giá về thực trạng hoạt

động của một số lĩnh vực công nghiệp văn hóa, trong đó có nghệ thuật biểu diễn

28

ở một số địa phương như Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh và đã đưa ra khuyến nghị

cần thiết hữu ích cho phát triển lĩnh vực này. Ngoài ra, các công trình đã đề cập

đến kinh nghiệm quản lý, phát triển lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn trong nền kinh

tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay.

1.3. NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU

Thời gian gần đây, xây dựng và phát triển công nghiệp văn hóa là vấn đề

thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học và nhà quản lý. Tuy nhiên, cho đến

nay vẫn chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu chuyên sâu về sự phát

triển công nghiệp văn hóa trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí

Minh. Công nghiệp văn hóa nói chung và đặc biệt là lĩnh vực nghệ thuật biểu

diễn ở Tp. Hồ Chí Minh những năm gần đây đã phát triển khá mạnh, nhưng quá

trình nghiên cứu thực tiễn, phát triển lý luận về lĩnh vực này vẫn còn nhiều hạn

chế. Khoảng trống về lý luận công nghiệp văn hóa nói chung, lĩnh vực nghệ

thuật biểu diễn nói riêng đã làm hạn chế đến việc cung cấp luận cứ khoa học cho

can thiệp chính sách cũng như thiếu định hướng để phát triển lĩnh vực còn khá

mới mẻ này.

Trên cơ sở kế thừa và chọn lọc những kết quả nghiên cứu đã công bố,

luận án tiếp tục giải quyết những vấn đề cụ thể sau:

Một là, về mặt lý luận, luận án góp phần làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm,

cấu trúc, vai trò của công nghiệp văn hóa và loại hình nghệ thuật biểu diễn (tiếp cận

nghệ thuật biểu diễn như một bộ phận quan trọng của công nghiệp văn hóa).

Hai là, về mặt thực tiễn, luận án tập trung vào các vấn đề sau:

- Phân tích những yếu tố chủ quan và khách quan tác động đến lĩnh vực

nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí Minh.

- Khảo sát, đánh giá thực trạng hoạt động của một số loại hình nghệ thuật biểu

diễn (dưới góc nhìn công nghiệp văn hóa) ở Tp. Hồ Chí Minh trong những năm qua.

- Chỉ ra những mặt tích cực, hạn chế của công nghiệp văn hóa trong lĩnh

vực nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí Minh hiện nay, tìm ra nguyên nhân.

29

Ba là, luận án dự báo xu hướng vận động, phát triển của công nghiệp văn

hóa nói chung, nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí Minh nói riêng trong thời gian

tới, từ đó đưa ra một số khuyến nghị nhằm phát triển lĩnh vực biểu diễn ở Tp. Hồ

Chí Minh trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.

Tiểu kết

Như vậy, trên thế giới, quan niệm, cơ cấu, chức năng, vai trò của công

nghiệp văn hóa đã được bàn đến khá nhiều. UNESCO đã đưa ra những quan

điểm, chủ trương, chính sách phát triển công nghiệp văn hóa, khẳng định tầm

quan trọng của công nghiệp văn hóa. Các học giả quốc tế tập trung khẳng định

vai trò của công nghiệp văn hóa và nhấn mạnh đến khía cạnh kinh tế của các

hoạt động văn hóa, mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa, tính đặc thù của các sản

phẩm văn hóa. Lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn cũng được bàn đến dưới góc độ là

một thành tố của ngành công nghiệp văn hóa; nhấn mạnh những quan điểm về

chính sách công trong quản lý và phát triển hoạt động nghệ thuật biểu diễn, phân

tích phương pháp ứng dụng các lý thuyết và phương pháp kinh tế để phát triển lĩnh

vực nghệ thuật biểu diễn. Những vấn đề mới trong công tác quản lý nghệ thuật như:

xây dựng thương hiệu, tiếp thị và phát triển khán giả; những mâu thuẫn về giá trị

kinh tế với giá trị văn hóa, nghệ thuật; phân tích những tác động của công nghệ đối

với ngành công nghiệp văn hóa cũng được giới nghiên cứu chú ý.

Ở trong nước, thời gian gần đây công nghiệp văn hóa đã được bàn đến

khá sôi nổi. Những nội dung được đưa bàn thảo chủ yếu về quan niệm, vai trò, ý

nghĩa của công nghiệp văn hóa và sự tác động của xu thế toàn cầu hóa, hội nhập

cũng như kinh tế thị trường đối với lĩnh vực này. Đến nay vẫn chưa có công

trình nào nghiên cứu về công nghiệp nghệ thuật biểu diễn mà chỉ dừng lại ở những bài viết chuyên sâu về từng loại hình nghệ thuật đơn lẻ, chưa có sự kết nối

giữa các nhân tố sáng tạo, sản xuất, quảng bá, tiếp nhận như một hệ thống thống

nhất của công nghiệp nghệ thuật biểu diễn.

Những quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về xây

dựng và phát triển văn hóa trong cơ chế thị trường định hướng XHCN có liên

30

quan đến phát triển công nghiệp văn hóa trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4

khóa VII; Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII; Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ

VIII, IX, X, XI; Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020 do Thủ tướng Chính

phủ phê duyệt, Dự thảo Chiến lược phát triển ngành công nghiệp văn hóa Việt

Nam đến năm 2020, tầm nhìn năm 2030; Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI…

chính là cơ sở quan trọng làm tiền đề cho Việt Nam phát triển ngành công nghiệp

văn hóa.

Khái niệm “công nghiệp văn hóa” còn khá mới mẻ ở Việt Nam. Nghiên

cứu xây dựng và phát triển công nghiệp văn hóa nói chung, lĩnh vực nghệ thuật

biểu diễn ở Tp. Hồ Chí Minh nói riêng có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận

lẫn thực tiễn. Kế thừa và vận dụng những thành tựu lý luận và thực tiễn đã đạt

được, luận án đi sâu khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng một số lĩnh vực

nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí Minh trong thời gian vừa qua, từ đó có thể

phát hiện ra những vấn đề đang đặt ra cần giải quyết trong thời gian tới.

31

Chƣơng 2

CƠ SỞ LÝ LUẬN TIẾP CẬN NGHIÊN CỨU CÔNG NGHIỆP

VĂN HÓA VÀ NGHỆ THUẬT BIỂU DIỄN Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

2.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CÔNG CỤ

2.1.1. Khái niệm, cơ cấu và đặc trƣng của công nghiệp văn hóa

2.1.1.1. Khái niệm công nghiệp văn hoá

Vào giữa thế kỷ XX, thuật ngữ công nghiệp văn hóa (cultural industry) đã

được thế giới đề cập đến rất nhiều và nhanh chóng trở thành loại hình công

nghiệp phát triển rầm rộ ở các quốc gia khác nhau. Loại hình đó là sự kết hợp

giữa kỹ thuật cao với sáng tạo văn hóa, thể hiện xu thế kinh tế và văn hóa thấm

sâu vào nhau. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ đã được áp dụng

để phát triển văn hóa. Đó là những thành tựu về kỹ thuật xuất bản, băng ghi âm,

ghi hình, sắp chữ điện tử, mạng lưới truyền thông và kỹ thuật số được ứng dụng

rộng rãi tạo nên một khối lượng lớn các sản phẩm văn hóa nghệ thuật và đồng

thời tạo nên một thị trường văn hóa rộng lớn. Những thành tựu và hiệu quả đạt

được ngày càng nhiều từ lĩnh vực này đã khiến nó trở thành đề tài nghiên cứu

của rất nhiều công trình khoa học trên thế giới. Vậy, quan niệm của thế giới cũng

như ở Việt Nam về công nghiệp văn hóa như thế nào?

Công nghiệp văn hóa xuất hiện gắn với văn hóa đại chúng. Văn hóa đại

chúng (mass culture) là loại sản phẩm văn hóa được sản xuất hàng ngày với khối

lượng lớn. Những đặc điểm về sản xuất và tiêu thụ các giá trị văn hóa là cơ sở để

các nhà khoa học đưa ra khái niệm văn hóa đại chúng và văn hóa tinh hoa.

Những điều kiện tạo nên văn hóa đại chúng đó là sự gia tăng về số lượng người

lao động cùng với quá trình tập trung dân cư do quá trình đô thị hóa; sự phát

triển của quá trình sản xuất, tiêu thụ lớn trong cơ chế thị trường; khát vọng muốn

thấy hàng hóa trong hoạt động sản xuất tinh thần kết hợp với sự phát triển mạnh

mẽ của các phương tiện truyền thông đại chúng... Đối tượng tiêu thụ văn hóa đại

chúng là tất cả mọi người, không phụ thuộc vào đặc điểm và đất nước sinh sống

được phổ cập, truyền bá thông qua các phương tiện thông tin đại chúng.

32

Theodor Adorno (1902 – 1969) và Max Horkheimer (1895 - 1973) – là

những người đề xuất khái niệm công nghiệp văn hóa (cultural industry) trong

cuốn sách nổi tiếng Dialectic of Enlightenment (Biện chứng của Khai sáng) năm

1947. Không lâu sau đó, khái niệm công nghiệp văn hóa đã có sức lan toả mạnh

mẽ đối với các quốc gia khác trên thế giới. Tuy nhiên, quan niệm, cách nhìn

cũng như tầm quan trọng của lĩnh vực này vẫn được đưa ra bàn luận sôi nổi. Đã

có nhiều nhận thức khác nhau, thậm chí là trái ngược nhau về quan niệm cũng

như vai trò của nó.

Với cách hiểu công nghiệp văn hóa xuất hiện gắn với văn hóa đại chúng

nên một số học giả đã quan niệm rằng đây là một bước thụt lùi của sáng tạo văn

hóa. Họ cho rằng: nói đến văn hóa là nói đến sự sáng tạo, nói đến sự thể hiện

năng lực người. Vì vậy, những sáng tạo văn hóa bao giờ cũng xuất hiện từ những

cá nhân cụ thể, tạo ra những sản phẩm văn hóa mang dấu ấn cá nhân, thể hiện

tính độc đáo, tính đơn nhất của nó, nên khác với những sản phẩm văn hóa được

sản xuất hàng loạt bởi công nghiệp. Công nghiệp văn hóa làm ra văn hóa đại

chúng, văn hóa đại chúng giống như một nhà máy sản xuất hàng loạt các sản

phẩm văn hóa theo những tiêu chuẩn nhất định để lôi kéo quần chúng vào hưởng

thụ một cách bị động. Quần chúng hưởng thụ những sản phẩm văn hóa cùng

loại, sản xuất hàng loạt, ồ ạt. Nhu cầu được thưởng thức những giá trị văn hóa

nghệ thuật chân chính, mang tính sáng tạo, đặc sắc của mỗi cá nhân sẽ bị hạn

chế. Do đó, những người theo quan niệm này cho rằng, chính nền công nghiệp

văn hóa đã kích thích những nhu cầu sai lầm, những thứ được tạo ra và thoả mãn

giá trị kinh tế đã làm hạn chế sự sáng tạo của con người.

Quan niệm của một số học giả phương Tây khác thì cho rằng, công

nghiệp văn hóa xuất hiện là tất yếu khách quan khi khoa học, kỹ thuật phát triển.

Hàng loạt những sản phẩm giống nhau được sản xuất để đáp ứng những nhu cầu

giống nhau. Chính điều này đã làm cho người tiêu dùng không có sự lựa chọn.

Sức mạnh của kỹ thuật hiện đại đã chi phối mạnh mẽ sự sản xuất hàng loạt sản

phẩm văn hóa và trên thực tế sức mạnh đó là của những kẻ có thế lực về kinh tế.

33

Các học giả còn cho rằng, sự xuất hiện của công nghiệp văn hóa đã làm cho văn

hóa có sự trộn lẫn ở những trình độ cao thấp với nhau. Tính nghiêm túc của loại

hình nghệ thuật cao cấp bị tiêu diệt bởi những tính toán nhằm mục đích lợi

nhuận của các nhà kinh doanh...

Thực ra, những ý kiến đó không hẳn là không có lý, nhất là trong nền kinh

tế thị trường, hoạt động sản xuất, kinh doanh các sản phẩm văn hóa đều hướng

tới mục đích kinh tế. Song, thực tế đã chứng minh rằng, ngành công nghiệp văn

hóa có khả năng tác động mạnh mẽ vào đời sống của đại chúng, đáp ứng nhu cầu

văn hóa đa dạng và phức tạp của xã hội. Sự phát triển của ngành công nghiệp

văn hóa góp phần tạo nên quá trình đa dạng hóa và dân chủ hóa về tri thức cho

xã hội. Nó có khả năng cung cấp và truyền bá sâu rộng trong đời sống xã hội

hàng loạt những thông tin về các lĩnh vực văn hóa khác nhau, đáp ứng nhu cầu

tinh thần của xã hội.

Chính vì vậy, thuật ngữ công nghiệp văn hóa đã được gần 200 quốc gia

thông qua từ năm 1998 trong Hội nghị Thượng đỉnh về văn hóa được tổ chức tại

Stockholm (Thuỵ Điển). Mặc dầu còn có nhiều quan niệm khác nhau nhưng

chung quy lại khi nói đến công nghiệp văn hóa là sự tập hợp các ngành kinh tế

khai thác và sử dụng hiệu quả tính sáng tạo, kỹ năng, sở hữu trí tuệ, sản xuất các

sản phẩm và dịch vụ có ý nghĩa văn hóa xã hội; nhấn mạnh đến hai yếu tố: công

nghiệp và sáng tạo. Sự kết hợp giữa hai yếu tố công nghiệp và sáng tạo đã tạo

nên đặc trưng của ngành công nghiệp này. Hay nói cách khác, năng lực sáng tạo

của cá nhân thông qua các phương tiện công nghệ hiện đại tạo nên một ngành

kinh doanh hùng mạnh, giàu tiềm năng, chứa đựng cả giá trị kinh tế lẫn văn hóa.

Quan niệm có tính phổ biến hiện nay cho rằng, Công nghiệp văn hóa là

các ngành sản xuất, tái sản xuất và truyền bá các dịch vụ văn hóa và sản phẩm

văn hóa được tạo ra bằng phương thức công nghiệp hóa, tin học hóa và thương

phẩm hóa; là ngành nghề sản xuất sản phẩm văn hóa và cung cấp dịch vụ văn

hóa. Công nghiệp văn hóa lấy sự thoả mãn nhu cầu văn hóa của mọi người làm

mục tiêu chủ yếu. Đó là sản phẩm kết hợp chặt chẽ giữa kỹ thuật cao với sự

nghiệp văn hóa, thể hiện xu thế kinh tế và văn hóa thấm sâu vào nhau.

34

Ở Việt Nam, công nghiệp văn hóa đang còn là một khái niệm khá mới mẻ.

Thậm chí, có ý kiến cho rằng, ở Việt Nam đến nay vẫn chưa có ngành công

nghiệp văn hóa. Khái niệm và vai trò của công nghiệp văn hóa mới được bàn đến

ở một số công trình nghiên cứu và một số cuộc hội thảo. Nhóm tác giả nghiên

cứu đề tài: “Phát triển công nghiệp văn hóa ở Việt Nam - Thực trạng và giải

pháp” (PGS, TS. Nguyễn Thị Hương làm chủ nhiệm) đã đưa ra khái niệm về

công nghiệp văn hóa như sau:

Công nghiệp văn hóa là ngành công nghiệp sáng tạo, sản xuất, tái sản

xuất, phổ biến tiêu dùng các sản phẩm và các dịch vụ văn hóa bằng

phương thức công nghiệp hóa, tin học hóa, thương phẩm hóa, nhằm

đáp ứng nhu cầu văn hóa đa dạng của xã hội, các hoạt động đó được

bảo vệ bởi bản quyền [40, tr.17].

Đây là một trong những định nghĩa đã nêu được những đặc trưng cơ bản

của ngành công nghiệp văn hoá. Công nghiệp văn hoá được thể hiện ở những

sản phẩm tạo ra có sự kết hợp chặt chẽ giữa kỹ thuật cao với các giá trị văn hoá,

giá trị kinh tế, các sản phẩm đó phải hướng tới phục vụ số đông. Tính chất của

hệ thống ngành công nghiệp văn hóa bao giờ cũng gắn với những mô hình sản

xuất nhất định. Đây cũng là định nghĩa để xem xét các tiêu chí của ngành công

nghiệp văn hóa trong một lĩnh vực cụ thể, đó là:

- Sản xuất ra các sản phẩm văn hoá dựa trên thành tựu khoa học kỹ thuật

và công nghệ hiện đại.

- Các sản phẩm công nghiệp văn hoá là hàng hoá nhưng không phải là

hàng hoá thuần tuý, hướng tới phục vụ cho số đông, phải đảm bảo hài hoà giữa

giá trị kinh tế và văn hoá.

- Các hoạt động của công nghiệp văn hóa được bảo vệ bởi bản quyền.

Công nghiệp văn hoá vì thế vừa là ngành công nghiệp nhưng mang tính

đặc thù so với các ngành khác.

2.1.1.2. Cơ cấu của ngành công nghiệp văn hoá

Về cơ cấu của ngành công nghiệp văn hóa cho đến nay vẫn có nhiều ý

kiến khác nhau. Trước đây, theo quan niệm phổ biến trên thế giới, lĩnh vực công

35

nghiệp văn hóa gồm: quảng cáo, kiến trúc, thị trường đồ cổ và nghệ thuật, thủ

công nghiệp, thiết kế, thời trang, điện ảnh, video và nhiếp ảnh, âm nhạc, nghệ

thuật biểu diễn và thị giác, xuất bản, phần mềm, trò chơi máy tính và xuất bản

điện tử, truyền hình và đài phát thanh. Các nước châu Âu đưa ra 11 lĩnh vực

thuộc ngành công nghiệp văn hóa, đó là: Quảng cáo kiến trúc, giải trí kỹ thuật

số, mỹ thuật, đồ cổ và thủ công mỹ nghệ, thiết kế mỹ thuật, điện ảnh và video, in

ấn xuất bản, âm nhạc, nghệ thuật biểu diễn, phát thanh truyền hình và phần

mềm vi tính… Trong khi một số nước châu Á thì chỉ đề cập đến 7 lĩnh vực, đó là:

điện ảnh, phát thanh truyền hình, báo chí, xuất bản, in và sản xuất băng đĩa,

quảng cáo và dịch vụ giải trí, nghệ thuật biểu diễn.

Năm 1997, Chính phủ Anh đã xác định danh mục các ngành công nghiệp

sáng tạo gồm 13 ngành là: quảng cáo, kiến trúc, thị trường nghệ thuật và đồ cổ,

thủ công, thiết kế, thiết kế thời trang, điện ảnh và video, phần mềm giải trí tương

tác, âm nhạc, nghệ thuật biểu diễn, xuất bản, phần mềm và các dịch vụ máy tính,

truyền hình và phát thanh. Mười năm sau (2007), các ngành này được xác định

lại, bao gồm 11 lĩnh vực: 1) Quảng cáo, 2) Kiến trúc, 3) Thị trường nghệ thuật

và đồ cổ, 4) Thủ công, 5) Thiết kế, 6) Thiết kế thời trang, 7) Phim, video và

nhiếp ảnh, 8) Âm nhạc, nghệ thuật thị giác và nghệ thuật biểu diễn, 9) Xuất bản,

10) Phần mềm, các trò chơi máy tính và xuất bản điện tử, 11) Truyền hình và

phát thanh. Theo định nghĩa mới đây của Hội đồng Anh, công nghiệp văn hóa

bao gồm 7 lĩnh vực chủ chốt: truyền thông, thiết kế thời trang, sản phẩm tương

tác, nghệ thuật biểu diễn, xuất bản, phim ảnh và nghệ thuật thị giác [69, tr.15].

Như vậy, theo quan niệm của các nước châu Âu, châu Á, Hội đồng Anh về

các ngành công nghiệp văn hóa thì đều đề cập đến lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn.

Ở Việt Nam, tác giả Tô Huy Rứa trong bài viết Xây dựng và phát triển

ngành công nghiệp văn hóa ở nước ta và một số tác giả khác quan niệm, cơ cấu

của công nghiệp văn hóa nếu xét theo phạm vi ngành nghề, bao gồm: ngành

sáng tạo và biểu diễn nghệ thuật, dịch vụ tin tức, vui chơi giải trí, đào tạo văn

nghệ sĩ và kinh doanh tác phẩm nghệ thuật, ngành phát hành, xuất bản, ngành

phát thanh truyền hình, điện ảnh, video, quảng cáo.

36

Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Tình cho rằng: Các nước trên thế giới phân

loại các ngành công nghiệp văn hóa - sáng tạo khác nhau, nhưng tựu trung bao

gồm: nghệ thuật biểu diễn (trong đó có âm nhạc, múa, kịch, múa rối, các loại hình

dân ca…), thiết kế mỹ thuật, thời trang, mỹ thuật, nhiếp ảnh và galeries, bảo tàng,

di sản văn hóa, báo chí, in ấn - xuất bản, điện ảnh, phát thanh, truyền hình, phần

mềm có nội dung văn hóa, thủ công mỹ nghệ và các dịch vụ văn hóa sáng tạo.

PGS,TS Lương Hồng Quang – Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt

Nam trong bài báo cáo “Thực trạng các ngành công nghiệp văn hóa tại Việt

Nam và các định hướng phát triển từ 2011 đến 2020, tầm nhìn đến 2030” tại hội

thảo: Khung kế hoạch chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa tại

Việt Nam đã khẳng định Nghệ thuật biểu diễn là một trong ba lĩnh vực nổi bật

phát triển công nghiệp văn hóa bên cạnh điện ảnh, mỹ thuật và nhiếp ảnh. Đồng

thời khẳng định đây là những ngành công nghiệp văn hóa đã tương đối định hình

ở Việt Nam.

Như vậy, ở Việt Nam hiện nay, các nhà nghiên cứu cho rằng cơ cấu của

ngành công nghiệp văn hóa bao gồm các lĩnh vực chủ yếu sau:

Công nghiệp truyền thông đại chúng (công nghiệp của báo chí, xuất

bản, in ấn, phát hành, quảng cáo, triển lãm, thông tin cổ động…);

Công nghiệp âm nhạc (công nghiệp phục vụ hoạt động ca múa nhạc

và các sản phẩm âm nhạc từ băng, đĩa); Công nghiệp điện ảnh (công

nghiệp xây dựng phim, hậu kỳ phim và phát hành phổ biến phim);

Công nghiệp nghệ thuật biểu diễn (công nghệ tham gia vào các khâu:

sáng tạo, quảng bá, biểu diễn...); Công nghiệp mỹ thuật (công nghệ

hoá sinh trong sáng tạo và bảo quản và công nghiệp tham gia vào

khâu phát hành); Công nghiệp dịch vụ vui chơi, giải trí (công nghiệp

về các sản phẩm vui chơi trực tiếp và sản phẩm game từ phần mềm);

Hoạt động kinh doanh thương mại các vật tư chuyên ngành văn hóa

và các hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ văn hóa [40, tr.21].

37

2.1.1.3. Đặc trưng của công nghiệp văn hóa

Công nghiệp văn hóa có một số đặc trưng sau:

Thứ nhất, công nghiệp văn hóa là thành tựu của cuộc cách mạng khoa

học - công nghệ

Công nghiệp văn hóa xuất hiện đã tạo ra sự kết nối giữa các khu vực sáng

tạo và đặc biệt là sự sáng tạo trong văn hóa nghệ thuật; gắn kết với thành tựu

khoa học công nghệ, nhất là công nghệ truyền thông, công nghệ thông tin và

hướng tới phát triển thị trường, phục vụ cho xã hội đại chúng. Điều này kéo theo

tất cả các hoạt động vào phục vụ cho sự năng động và đa dạng của xã hội hiện

đại. Vượt qua những rào cản của biên giới quốc gia để có xu hướng hội nhập

toàn cầu, CNVH không chỉ phục vụ cho nhu cầu thẩm mỹ, nghệ thuật mà còn

phục vụ cho nhu cầu giải trí, nhu cầu tiêu dùng và là nguồn phát triển kinh tế

đem lại lợi nhuận cao. Chính vì vậy, phát triển CNVH là cuộc chạy đua giữa các

quốc gia khác nhau. CNVH không chỉ là sản phẩm của xã hội tư bản mà là sản

phẩm của văn minh nhân loại.

Thứ hai, công nghiệp văn hóa hoạt động theo cơ chế thị trường, chịu sự

tác động của quy luật thị trường

Công nghiệp văn hóa là một ngành công nghiệp phát triển trong nền kinh

tế thị trường. Vì vậy, các sản phẩm công nghiệp văn hóa trở thành hàng hóa

được sản xuất theo cơ chế công nghiệp và được giao dịch theo cơ chế thị

trường; chịu sự tác động của quy luật thị trường nhưng là thị trường đặc biệt.

Nghĩa là những sản phẩm hàng hóa văn hóa này mang tính đặc thù: giá trị kinh

tế được tạo ra trên cơ sở giá trị văn hóa, giá trị tư tưởng và giá trị thẩm mỹ để

công chúng tiếp nhận và tiêu thụ. Vai trò của chủ thể doanh nghiệp, chủ thể

sáng tạo, chính sách nhà nước và công chúng hết sức quan trọng để phát triển

lĩnh vực này.

Thứ ba, công nghiệp văn hóa phải được bảo vệ bởi bản quyền

Ngành công nghiệp văn hóa dựa trên sự sản xuất, khai thác, phân phối và

tiêu thụ các giá trị văn hóa – giá trị sáng tạo. Sản phẩm sáng tạo đóng vai trò cốt

38

lõi của các ngành công nghiệp văn hóa. Chính vì vậy, cần phải thực thi nghiêm

túc Luật bản quyền, nếu không sẽ ảnh hưởng đến lợi ích của người sáng tạo và

sự phát triển lành mạnh của lĩnh vực này. Hơn nữa, công nghiệp văn hóa là

ngành kinh tế, hoạt động theo luật doanh nghiệp và những quy định liên quan

đến an ninh văn hóa, tư tưởng… nên bảo vệ bởi luật bản quyền cần được đặt lên

trên hết.

Thứ tư, công nghiệp văn hóa vượt ra ngoài giới hạn của quan niệm truyền

thống phân biệt văn hóa tinh hoa, văn hóa bác học với văn hóa bình dân, văn

hóa đại chúng

Trước đây, một số quan niệm cho rằng: CNVH là sản phẩm của văn hóa

đại chúng, chỉ phục vụ số đông với chất lượng thấp. Nhưng thực ra thì không

phải vậy. Sản phẩm CNVH không chỉ đáp ứng nhu cầu sôi động của xã hội, mà

còn phục vụ cho nhiều đối tượng chuyên biệt khác nhau qua nhiều kênh chuyển

tải khác nhau với chất lượng nghệ thuật cao, đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng

của xã hội.

Ngoài ra, phát triển được CNVH cần phải vượt ra khỏi suy nghĩ cho rằng

văn hóa chỉ đáp ứng nhu cầu tinh thần, tình cảm, hoàn toàn mang tính chất tinh

thần thuần túy, không có giá trị kinh tế và không thể mua bán được bằng tiền.

Thời gian gần đây, nhân loại đã nhận thức lại về vai trò, ý nghĩa của văn hóa và

khẳng định văn hóa chính là động lực, là mục tiêu của sự phát triển kinh tế và bền

vững xã hội. Việc khai thác giá trị, tiềm lực văn hóa chính là động lực để phát triển

kinh tế. Vai trò nguồn lực của kinh tế đã được phát huy.

Phát triển CNVH cần vượt qua định kiến về vấn đề tôn giáo, dân tộc, giai

cấp, tuyệt đối hóa sự khác biệt về dân tộc, tôn giáo, giai cấp dẫn đến xung đột

văn hóa. Phát triển CNVH góp phần giao lưu, hợp tác quốc tế, đối thoại, trao đổi

vượt lên định kiến trên để tạo nên thái độ bao dung văn hóa, chia sẻ và hỗ trợ lẫn

nhau vì hòa bình và tiến bộ chung của loài người. Tất nhiên, mỗi dân tộc đều có

lợi ích riêng và chung, ở đây cần giải quyết mối quan hệ giữa cái chung và cái

riêng, cái phổ biến và cái đặc thù, xuất phát từ lợi ích của dân tộc trong mối

39

tương quan với quốc tế. Nói tóm lại, phát triển CNVH là một trong những nguồn

lực, khẳng định sức mạnh quốc gia, là “sức mạnh mềm” của văn hóa quốc gia để

giao lưu, quảng bá với bạn bè trên thế giới.

2.1.2. Khái niệm và cơ cấu của nghệ thuật biểu diễn

2.1.2.1. Khái niệm nghệ thuật biểu diễn

Nghệ thuật biểu diễn là một trong những lĩnh vực quan trọng có tính đặc

thù của công nghiệp văn hoá. Sản phẩm của nghệ thuật biểu diễn trước hết liên

quan đến sáng tạo giá trị văn hoá nghệ thuật - giá trị mà không một hình thái ý

thức nào có thể thay thế được trong việc tác động đến tư tưởng, tình cảm, lý tưởng

thẩm mỹ, góp phần phát triển hoàn thiện nhân cách con người.

Tính đặc thù của nghệ thuật biểu diễn xét ở góc độ khái quát nhất là hình

thái ý thức xã hội đặc thù, phản ánh hiện thực bằng hình tượng sinh động cụ thể,

gợi cảm nhằm thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ của con người. Nghệ thuật là sản

phẩm hoạt động sáng tạo của con người, gắn liền với tâm tư, tình cảm của con

người. Bằng những phương tiện biểu hiện đặc thù riêng của mình, nghệ thuật

phản ánh thế giới và cải tạo thế giới. Nghệ thuật giúp con người nhận thức

những giá trị chân, thiện, mỹ, là phương tiện tác động vào thế giới nội tâm của

con người, làm cho con người gắn bó với cộng đồng: “Hơn bất cứ lĩnh vực nào

trong quan hệ thẩm mỹ giữa con người và hiện thực, nghệ thuật mang ý nghĩa xã

hội sâu sắc. Nó không chỉ phản ánh các điều kiện sinh hoạt thông thường của xã

hội mà còn thể hiện chiều sâu của tâm lý” [43, tr.318].

Nghệ thuật chân chính bao giờ cũng tạo nên một sức mạnh to lớn tác động

đến cuộc sống con người. Sức mạnh đó được thể hiện ở nhiều lĩnh vực khác

nhau: nghệ thuật ngôn từ, nghệ thuật tạo hình, nghệ thuật biểu diễn… Nghệ thuật

ngôn từ dùng ngôn ngữ để diễn đạt tình cảm, tư tưởng, tâm hồn của con người

theo quy luật của cái đẹp. Nghệ thuật tạo hình chủ yếu sử dụng hình khối đường

nét và các gam màu để thể hiện vật thể dưới dạng tác phẩm mỹ thuật, kiến trúc,

điêu khắc, hội hoạ, đồ thủ công mỹ nghệ. Nghệ thuật biểu biễn là lĩnh vực nghệ

thuật được diễn xuất bằng hành động, bằng cử chỉ của người nghệ sĩ.

40

Nhà sưu tầm, nghiên cứu múa dân tộc NSND - GS,TS. Lê Ngọc Canh

quan niệm:

Nghệ thuật biểu diễn bao hàm những loại hình nghệ thuật có chung

tính chất, đặc điểm, môi trường, không gian, thời gian trình diễn với

sự sáng tạo của nhiều thế hệ trong tiến trình lịch sử hình thành, phát

triển văn hóa của các tộc người, của xã hội trong mọi thời đại, thông

qua các loại hình nghệ thuật biểu diễn như ca, múa, nhạc, tuồng, chèo,

diễn xướng... Chúng chuyển động trong mọi không gian, thời gian

trình diễn khác nhau. Sự chuyển động trình diễn ấy do các nghệ nhân,

các nghệ sĩ thực hiện thông qua những âm thanh, hình thể, điệu bộ,

hình dáng của cơ thể con người và cảm xúc, tâm hồn. Những nghệ

nhân, nghệ sĩ ấy lại tái tạo, bổ sung, hoàn thiện những bài bản đã có,

đã tồn tại trong đời sống văn hóa cộng đồng.

Nghệ thuật biểu diễn là loại hình nghệ thuật chuyển động đa loại, đa

dạng, đa hình, đa âm. Có nhà nghiên cứu còn gọi là nghệ thuật động

giàu tính thẩm mỹ trực quan, đem lại cho người tiếp cận bằng thị giác,

thính giác (nghe, nhìn), tiếp cận dưới góc độ thẩm mỹ [15, tr.193-194].

Những quan niệm trên đây cho thấy: Nghệ thuật biểu diễn là hình thức

nghệ thuật mang tính tổng hợp, tính tổng thể rất cao; là sự sáng tạo lần thứ hai

trên cơ sở gắn với thân thể, năng lực cảm thụ, trình diễn của người nghệ sĩ;

thông qua tác phẩm sân khấu để nhằm giáo dục tư tưởng, tình cảm, đạo đức, lối

sống, nâng cao dân trí, thẩm mỹ đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa tinh thần

của nhân dân. Nghệ thuật biểu diễn phát triển đúng hướng sẽ góp phần xây dựng,

phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Theo quan điểm của NCS, nếu quan niệm công nghiệp văn hóa là sự ứng

dụng của tiến bộ khoa học công nghệ và kỹ năng kinh doanh, sử dụng năng lực

sáng tạo, vốn văn hóa để tạo ra sản phẩm và dịch vụ văn hóa đáp ứng nhu cầu

tiêu dùng và hưởng thụ văn hóa của người dân, thì nghệ thuật biểu diễn là ngành

công nghiệp đặc thù, quan trọng của công nghiệp văn hoá. Một số lĩnh vực nghệ

41

thuật biểu diễn ở nước ta hiện nay cũng đã được sáng tạo, sản xuất, phân phối và

tiêu dùng theo quy trình của một ngành công nghiệp. Nhưng khác với một số

thành tố khác trong đời sống văn hóa nghệ thuật, nghệ thuật biểu diễn được thể

hiện thông qua hệ thống các phương tiện (sân khấu, âm thanh, ánh sáng, trang

phục, đạo cụ…), tập trung ở nhà hát, sân khấu, rạp xiếc, múa rối, nhà chiếu

phim, vũ trường… (những đặc điểm sẽ được trình bày ở phần tiếp theo).

2.1.2.2. Cơ cấu của nghệ thuật biểu diễn

Ở Việt Nam, theo Nghị định của Chính phủ (tháng 10/2012), quy định về

biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang; thi người đẹp và người mẫu; lưu

hành, kinh doanh bản ghi âm, ghi hình ca múa nhạc, sân khấu về Nghệ thuật biểu

diễn, bao gồm các loại hình: Tuồng, Chèo, Cải lương, Xiếc, Múa rối, Kịch nói,

Kịch múa, Kịch hát, Kịch câm, Dân ca kịch, Nhạc kịch, các loại hình nghệ thuật

Ca-Múa-Nhạc, Ngâm thơ, Tấu hài, Tạp kỹ và các loại hình nghệ thuật khác được

thể hiện trên sân khấu thông qua diễn xuất của diễn viên chuyên nghiệp. Có thể

chia thành hai khối chính như quan niệm của các nhà khoa học trong đề tài

khoa học cấp Bộ về “Phát triển công nghiệp văn hóa ở Việt Nam, thực trạng và

giải pháp”:

- Khối sân khấu: gồm các loại hình nghệ thuật Tuồng, Chèo, Cải lương,

Xiếc, Múa rối, Kịch nói, Kịch câm, Dân ca kịch, sản phẩm gọi là vở diễn.

- Khối ca múa nhạc: Gồm các loại hình nghệ thuật Ca - Múa - Nhạc,

Ngâm thơ, Kịch hát, Tấu hài, sản phẩm của nó gọi là chương trình.

Thực tế cũng có sự pha trộn giữa hai khối trên hoặc với cả loại hình biểu

diễn khác, tạo ra một chương trình tổng hợp, ví dụ biểu diễn ca nhạc kết hợp

xiếc, tấu hài, biểu diễn thời trang, thể thao... [40, tr.66-67].

Trong một Báo cáo của UNCTAD (Diễn đàn Thương mại và Phát triển Liên

Hiệp quốc), khẳng định: nghệ thuật biểu diễn bao gồm mọi loại hình nghệ thuật sân

khấu, biểu diễn bởi nghệ sĩ và dành cho khán giả thưởng thức [114, tr.141]. Quan

niệm này là cơ sở để NCS xem xét đặc trưng của lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn - là

ngành công nghiệp văn hoá gắn với sàn diễn và công chúng.

42

Trong các loại hình nghệ thuật, nghệ thuật biểu diễn có thể là những sáng

tạo cá nhân, hay một nhóm nhỏ các cá nhân hoặc là kết quả của một tập thể đông

người, song xét về tổng thể, nghệ thuật biểu diễn là một ngành nghệ thuật mang

tính tập thể, mỗi một tác phẩm sân khấu, âm nhạc, múa... đều là kết quả của sự

sáng tạo cá nhân (biên đạo, nhạc sĩ, kịch tác gia...) và tập thể (đạo diễn, âm

thanh, ánh sáng...), với sự kết hợp chặt chẽ của 3 thành phần: sáng tạo (nghệ sĩ,

diễn viên), tổ chức biểu diễn (âm thanh, ánh sáng), quản trị (bán vé, marketing,

PR...), do đó, đây là một ngành đòi hỏi phải có sự quan tâm bởi 3 bình diện: nghệ

thuật, tổ chức biểu diễn và quản trị. Chính 3 bình diện này tạo nên ngành nghệ

thuật biểu diễn, vượt qua khái niệm thông thường khi chỉ coi ngành này đơn thuần

là nghệ thuật.

Công nghiệp văn hóa trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn được thể hiện ở

rất nhiều khâu, nhiều công đoạn: đội ngũ diễn viên, xây dựng kịch bản, dàn dựng

và biểu diễn (bao gồm cả phần thiết kế và thực hiện trang phục, đạo cụ và phông

cảnh); cung cấp dịch vụ kỹ thuật (bao gồm: âm thanh, ánh sáng, màn hình, sân

khấu, khán đài, phương tiện vận chuyển, các thiết bị kỹ thuật) của các loại hình

nghệ thuật ca, múa, nhạc, sân khấu và các loại hình nghệ thuật khác.

2.2. ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÕ CỦA NGHỆ THUẬT BIỂU DIỄN

2.2.1. Đặc điểm của nghệ thuật biểu diễn

Mỗi ngành công nghiệp văn hóa được hình thành do nhu cầu xã hội và có

thị trường riêng cho sản phẩm của ngành. Sản phẩm của mỗi ngành công nghiệp

văn hóa đều có đặc điểm riêng, mang tính đặc thù, bởi do phương thức sáng tạo,

tổ chức sản xuất và kinh doanh của các ngành công nghiệp văn hóa là không

giống nhau. Tuy nhiên, nhìn một cách tổng thể, các ngành công nghiệp văn hóa

đều có hoạt động chính như hình thành và phát triển ý tưởng về sản phẩm, sáng

tác/ sản xuất sản phẩm, phân phối, tiêu thụ và bảo quản sản phẩm. Các sản phẩm

này tạo thành quy trình/chu trình sáng tạo và phân phối sản phẩm của tất cả các

ngành công nghiệp trong lĩnh vực văn hóa.

43

Nghệ thuật biểu diễn cũng trải qua quy trình sản xuất, phân phối, tiêu

dùng và bảo quản như hệ thống sản xuất vật chất. Nhưng đối với loại hình nghệ

thuật biểu diễn tạo ra sản phẩm là hoạt động và dịch vụ thì quá trình sản xuất là

một chuỗi hoạt động không gián đoạn, thậm chí khâu sản xuất, phân phối và tiêu

thụ diễn ra đồng thời. Các công đoạn có thể gắn kết chặt chẽ, liên tục, không

tách rời. Ví dụ: với sản phẩm là vở kịch, múa, chương trình ca nhạc biểu diễn

trực tiếp thì quá trình sáng tạo, biểu diễn của nghệ sĩ diễn ra đồng thời với việc

tiêu thụ, thưởng thức nghệ thuật của khán giả. Khác với quá trình sản xuất vật

chất dựa vào các nguyên liệu đầu vào mang tính vật chất, vật thể như nguyên

liệu thô, nhiên liệu… thì ở các ngành công nghiệp văn hóa nói chung, nghệ thuật

biểu diễn nói riêng quá trình sản xuất phụ thuộc chủ yếu vào nguyên liệu mang

tính phi vật thể như sự sáng tạo, tài năng và kỹ năng của người sáng tạo/sản xuất.

Là ngành công nghiệp văn hóa mà các hoạt động thể hiện sự sáng tạo mang tính

tổng hợp, gắn quá trình sản xuất với các dịch vụ, sàn diễn, loại hình nghệ thuật

biểu diễn có những đặc điểm chung và đặc thù sau:

2.2.1.1. Sản phẩm của nghệ thuật biểu diễn là kết quả của quá trình

sáng tạo, sản xuất mang tính tổng hợp và liên kết

Thường thì kịch bản của các vở kịch, chèo, tuồng, ba lê, opera… được

sáng tác trước. Sau đó, qua quá trình dàn dựng, biểu diễn của đội ngũ diễn viên

và kỹ thuật viên, chương trình biểu diễn được hình thành và chuyển tải đến công

chúng. Để sản xuất chương trình nghệ thuật biểu diễn cần phòng tập và sân khấu

cùng với các trang thiết bị đi kèm như hệ thống âm thanh, ánh sáng, trang phục,

đạo cụ… Trong nghệ thuật biểu diễn, các nhà tổ chức sản xuất như nhà hát, đoàn

nghệ thuật… có vai trò xem xét chất lượng nghệ thuật, khả năng chiếm lĩnh thị

trường của chương trình biểu diễn, sau đó đầu tư vào biên tập, dàn dựng và quản lý

quá trình sản xuất. Nhà sản xuất có vai trò phối hợp các nguồn nhân lực, cơ sở vật chất

và tài chính để dàn dựng và tổ chức biểu diễn chương trình nghệ thuật. Họ cũng

thường đảm nhiệm các hoạt động pháp lý liên quan như ký hợp đồng tác quyền với tác

giả hoặc tổ chức thu phí bản quyền và xin giấy phép biểu diễn [Dẫn theo 69, tr.29].

44

2.2.1.2. Quá trình phân phối, tiêu thụ các sản phẩm nghệ thuật biểu

diễn diễn ra đồng thời

Quá trình diễn viên, nghệ sĩ biểu diễn trên sân khấu và quá trình đưa sản

phẩm nghệ thuật đó đến với công chúng xảy ra song song. Ở đây không có sự

tách biệt giữa quá trình sản xuất tác phẩm và phân phối tác phẩm. Để các tác

phẩm nghệ thuật biểu diễn đến được với người xem một cách rộng rãi, phổ biến,

hoạt động này thường diễn ra trên sân khấu, trong nhà hát, hội trường, không

gian công cộng… hoặc đi lưu diễn trong và ngoài nước.

Ngoài ra, trong thời đại khoa học – công nghệ phát triển như vũ bão, với

việc áp dụng thành tựu công nghệ mới, bên cạnh hoạt động biểu diễn nghệ thuật

trực tiếp, nhiều sản phẩm chương trình biểu diễn nghệ thuật còn được ghi âm,

ghi hình và lưu trữ bằng băng từ, đĩa CD, VCD. Như vậy, tác phẩm nghệ thuật

biểu diễn có thể được sao lưu, nhân bản và phổ biến rộng rãi tới đông đảo công

chúng. Trong trường hợp sử dụng công nghệ ghi âm, ghi hình như vậy, quá trình

sản xuất chương trình biểu diễn nghệ thuật và phân phối tới người sử dụng cũng

có sự tách biệt.

2.2.1.3. Đặc thù trong bảo quản các sản phẩm hàng hoá văn hoá cho

lần khai thác tiếp theo

Sản phẩm, sau khi được chuyển đến người tiêu dùng sẽ được tiêu thụ và

cũng cần phải được bảo quản cho lần khai thác tiếp theo.

Mỗi ngành công nghiệp văn hóa đều có người tiêu thụ hoặc chủ thể tiêu

dùng khác nhau. Nếu như ngành mỹ thuật: khách tham quan là người xem, người

thưởng thức tác phẩm mỹ thuật; nhà sưu tập, bảo tàng…là người mua tác phẩm

thì với ngành nghệ thuật biểu diễn, người tiêu thụ cuối cùng là khán giả. Các nhà

hát cũng có thể coi là người tiêu thụ khi họ quyết định ký hợp đồng biểu diễn với

một đoàn nghệ thuật để biểu diễn chương trình/ tác phẩm nghệ thuật đó.

Khác với tiêu thụ sản phẩm vật chất thông thường, sản phẩm văn hóa nói

chung và sản phẩm nghệ thuật biểu diễn nói riêng không bị hao mòn về giá trị

tiêu thụ. Nghĩa là, sản phẩm văn hóa nghệ thuật nếu đã được sử dụng rồi thì vẫn

45

có thể sử dụng lại. Những trải nghiệm tinh thần mà người xem thưởng thức được

sẽ có giá trị trường tồn với thời gian. Những giá trị nghệ thuật đó sẽ không bị

hao mòn với thời gian mà người khác vẫn có thưởng thức và cảm nhận nếu như

nó vẫn được biểu diễn.

Khâu bảo quản trong ngành nghệ thuật biểu diễn có những đặc điểm

riêng, khác với các ngành công nghiệp văn hóa khác. Đó là ngành biểu diễn

trực tiếp nên sau khi kết thúc chương trình biểu diễn thì sản phẩm cũng không

còn tồn tại, do đó, không thể lưu trữ được. Cách bảo quản các sản phẩm trong

ngành nghệ thuật biểu diễn tốt nhất là nên tiếp tục biểu diễn chúng, làm cho

chúng sống trên sân khấu cùng với thời gian. Do đó, việc truyền nghề của nghệ

nhân cho thế hệ trẻ trong nghệ thuật biểu diễn, đặc biệt là nghệ thuật biểu diễn

truyền thống của dân tộc là điều kiện cơ bản để bảo tồn và phát triển các loại

hình nghệ thuật này.

2.2.1.4. Nghệ thuật biểu diễn hoạt động theo luật doanh nghiệp nói

chung cùng với sự quản lý của cơ quan chức năng văn hoá

Trước hết đó là những hoạt động biểu diễn nghệ thuật được thực hiện bởi

những doanh nghiệp (đơn vị, công ty) trên lĩnh vực này (cả khu vực nhà nước và

tư nhân). Các doanh nghiệp này là những đơn vị kinh tế có tư cách pháp nhân,

quy tụ các phương tiện tài chính, vật chất và con người nhằm thực hiện các

hoạt động sản xuất, cung ứng, tiêu thụ sản phẩm hoặc dịch vụ văn hoá, trên cơ

sở tối đa hóa lợi ích của người tiêu dùng, thông qua đó tối đa hóa lợi ích của

chủ sở hữu, đồng thời kết hợp một cách hợp lý, hài hoà giữa các mục tiêu xã

hội và văn hoá.

Cơ quan chức năng quản lý trực tiếp các doanh nghiệp này đó là Cục

Nghệ thuật biểu diễn - tổ chức thuộc Bộ VH, TT & DL. Cục có chức năng tham

mưu giúp Bộ trưởng thực hiện quản lý nhà nước về hoạt động biểu diễn nghệ thuật

theo chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nhà

nước quản lý doanh nghiệp văn hoá bằng hệ thống thể chế. Hoạt động của các

46

ngành công nghiệp văn hoá nghệ thuật biểu diễn phải tuân thủ các Luật, như Luật

bản quyền, Luật Sở hữu trí tuệ, các Công ước quốc tế liên quan.

Các ngành công nghiệp văn hóa dựa trên sự sản xuất, khai thác, phân phối

và tiêu thụ các giá trị văn hóa đồng thời là các giá trị sáng tạo. Sản phẩm sáng

tạo là sản phẩm cốt lõi của các ngành công nghiệp văn hóa, chính vì vậy, ngành

công nghiệp văn hóa được xây dựng trên nền móng của Luật bản quyền. Luật

bản quyền và các hình thức khác của quyền sử dụng trí tuệ nhằm bảo vệ, đồng

thời thúc đẩy sự sáng tạo của con người. Nếu không có Luật bản quyền, những

sáng tạo của các tác giả sẽ bị mọi người sử dụng một cách tự do. Các cá nhân,

doanh nghiệp trong ngành công nghiệp phải đầu tư tài chính, thời gian và công

sức để có được sản phẩm, nếu sản phẩm này bị sử dụng phi pháp thì cá nhân và

doanh nghiệp đó sẽ không thu được tiền và sẽ không thể tồn tại, phát triển.

Ở lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn, tác quyền âm nhạc đã được đề cập nhiều

trong thời gian vừa qua. Trung tâm Bảo vệ Quyền tác giả Âm nhạc Việt Nam,

thành lập năm 2003 là cơ quan có nhiệm vụ bảo vệ quyền tác giả trong lĩnh vực

âm nhạc ở nước ta. Trung tâm có nhiệm vụ thu phí và phân phối cho các tác giả

nhằm đảm bảo nhạc sĩ được trả tiền bản quyền từ mọi hình thức sử dụng tác phẩm

của họ. Các hiệp hội thu phí đầu tiên được tạo ra trong lĩnh vực âm nhạc và sân

khấu nhưng hiện nay có mặt trong nhiều lĩnh vực khác như điện ảnh, nghe nhìn…

Trong vòng mười năm lại nay, Việt Nam đã tham gia khá nhiều các công

ước quốc tế để thực thi Luật Bản quyền, đó là: Công ước Berne về bảo hộ các

tác phẩm văn học nghệ thuật (năm 2004), Công ước Genevơ về bảo hộ nhà sản

xuất các sản phẩm ghi âm (năm 2005), Công ước Brussels về bảo vệ quyền lợi

của các tổ chức phát sóng đối với tín hiệu mang chương trình đã được mã hóa

truyền qua vệ tinh (năm 2006), Công ước Rome bảo hộ người biểu diễn, nhà sản

xuất ghi âm, tổ chức truyền thông (năm 2007)… Những công ước quốc tế về quyền

tác giả và các quyền liên quan được kí kết chứng tỏ Việt Nam đã thực sự bước vào

sân chơi quốc tế trong quá trình giao lưu và hội nhập ngày càng sâu rộng.

47

2.2.1.5. Khả năng đánh giá và điều chỉnh hoạt động của nghệ thuật

biểu diễn phụ thuộc chặt chẽ vào khán giả

Đây là yếu tố rất quan trọng trong quá trình phát triển ngành công nghiệp

văn hóa nói chung và lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn nói riêng. Khác với vấn đề

tiêu thụ trong lĩnh vực sản xuất hàng hóa vật chất, nhà sản xuất có thể dễ dàng

xác định khách hàng cần gì ở sản phẩm của mình vì những yêu cầu này thường

gắn với chức năng của sản phẩm. Trong khi đó, ở các ngành công nghiệp văn hóa

trong đó có nghệ thuật biểu diễn, quá trình tiêu thụ sản phẩm phụ thuộc chặt chẽ

về yếu tố tâm lý, thị hiếu, nhu cầu, sở thích và quan niệm về giá trị của khán giả.

Đây là những yếu tố khó đoán định và thường xuyên biến động. Trong

lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn, một tác phẩm được giới thiệu ra thị trường liệu có

được khán giả đón nhận hay không còn phụ thuộc rất nhiều các yếu tố khách

quan và chủ quan khác nhau. Liệu các nhà phê bình, giới truyền thông sẽ đánh

giá và bình luận tác phẩm này ra sao? Công chúng có nhìn nhận đây thực sự là

sản phẩm có giá trị đối với họ hay không? Có xứng đáng với đồng tiền họ bỏ ra

để thưởng thức, đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần của họ hay không?... Tất cả

những điều này đều phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố chủ quan của họ (người tiêu

dùng). Cái khó hơn là trình độ dân trí của chúng ta hiện nay không đồng đều,

tiêu chuẩn và kỳ vọng về giá trị tác phẩm ở mỗi khán giả đều không giống nhau.

Điều này đòi hỏi những nhà tổ chức quản lý phải hết sức nhanh nhạy thì mới có

thể thành công được.

Trong lĩnh vực sân khấu và âm nhạc hiện nay, để tồn tại và cạnh tranh

trên thị trường, các đoàn nghệ thuật và nghệ sĩ phải tìm đối tượng khán giả riêng

của mình, phân khúc thị trường và chọn thị trường mục tiêu. Nghĩa là, phải xác

định cho được đối tượng khán giả riêng của mình, sân khấu nào thì khán giả đó.

Sau khi đã phân luồng khán giả, nắm được tâm lý, đặc điểm và nhu cầu của họ

thì mới xây dựng những kịch bản hoặc mời những nghệ sĩ, chọn những ca khúc

phù hợp để đáp ứng nhu cầu của đối tượng khán giả đó. Có thể nhận thấy, theo

quy luật của kinh tế thị trường, sức cạnh tranh là thước đo quan trọng để xác

48

định mức độ phát triển ngành công nghiệp văn hóa. Sức cạnh tranh được thể

hiện chủ yếu bằng sự năng động của các đơn vị kinh doanh, sự phong phú các

loại sản phẩm và sức đào thải của thị trường với những sản phẩm không đạt chất

lượng. Thị trường, theo nghĩa thông thường đó là nơi người bán, người mua trao

đổi hàng hóa, dịch vụ. Khái niệm thị trường của lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn ở

đây có nghĩa là khách hàng, là những người mua và tiêu dùng sản phẩm, dịch vụ.

Thị trường cũng có nghĩa là một cơ chế, trong đó người mua và người bán có thể

xác định giá cả và trao đổi hàng hóa, dịch vụ. Trong nền kinh tế thị trường, thị

trường là nhân tố trung tâm, có ý nghĩa quyết định. Nó thể hiện bản chất mối

quan hệ giữa những người sản xuất và giữa người sản xuất với người tiêu dùng.

Những phân tích trên đây cho thấy đặc điểm chung của công nghiệp văn hóa

trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn đó là sự kết hợp giữa sự sáng tạo, sản xuất và

kinh doanh khai thác các nội dung có bản chất phi vật thể, tạo thành các sản phẩm

hay dịch vụ văn hóa, được bảo vệ bởi luật bản quyền. Các sản phẩm và dịch vụ này

vừa mang giá trị nghệ thuật vừa mang giá trị kinh tế, được vận hành theo những quy

luật của nền kinh tế hàng hóa và có sự hỗ trợ mạnh mẽ của các yếu tố công nghệ.

2.2.2. Vai trò của nghệ thuật biểu diễn

2.2.2.1. Nghệ thuật biểu diễn đáp ứng nhu cầu giải trí của xã hội

Giải trí là một hoạt động cơ bản của con người, đáp ứng những nhu cầu

phát triển về các mặt thể chất, trí tuệ và thẩm mỹ. Giải trí không chỉ là nhu cầu

của từng cá nhân, mà còn là nhu cầu của đời sống cộng đồng, xã hội.

Nhu cầu vui chơi, giải trí là nhu cầu văn hóa cơ bản của cá nhân và cộng

đồng, nhằm thỏa mãn những căng thẳng, mệt mỏi do lao động đưa lại, bù đắp

những thiếu hụt và mất mát về sức khỏe và tinh thần sau những giờ lao động mệt

nhọc, tạo điều kiện để cho con người phát triển toàn diện về thể lực, trí lực, tình cảm

thẩm mỹ, thỏa mãn nhu cầu tinh thần ngày càng cao của con người.

Nắm bắt được nhu cầu đó, những chủ thể của nghệ thuật biểu diễn đã

nhanh chóng sáng tạo, sản xuất ra những sản phẩm nghệ thuật để đáp ứng nhu

cầu của khán giả, nhất là khán giả trẻ. Xã hội công nghiệp với nhịp sống năng

49

động, con người luôn tất bật, căng thẳng với công việc, sau những giờ lao động

mệt nhọc đó, họ cần phải lấy lại tinh thần, cần nghỉ ngơi, thư giãn để tái sản

xuất sức lao động cho ngày sau. Hơn bất cứ loại hình nghệ thuật nào khác,

nghệ thuật biểu diễn có khả năng đáp ứng cao nhất nhu cầu đó. Những chương

trình ca nhạc sôi động hoặc sâu lắng đã giúp cho người thưởng thức được thư

thái. Những vở hài kịch nhẹ nhàng, dí dỏm đã mang lại tiếng cười sảng khoái

cho khán giả. Hay có khi chỉ là những điệu nhảy trẻ trung, sôi động của những

vũ đoàn cũng đủ góp phần làm cho sân khấu thêm nhiều màu sắc đáp ứng nhu

cầu giải trí của người dân.

Ngày nay, lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn đã trở thành một ngành công

nghiệp văn hóa, công nghiệp giải trí. Vì vậy, các sản phẩm của lĩnh vực này đã

và đang trở thành những sản phẩm hàng hóa đặc biệt, vừa có giá trị nghệ thuật

vừa có giá trị kinh tế. Vấn đề ở đây là phải làm sao vừa đáp ứng được nhu cầu

giải trí của khán giả, vừa phải “không ngừng nâng cao thị hiếu thẩm mỹ và trình

độ thưởng thức nghệ thuật của công chúng, đặc biệt là tầng lớp thanh niên, thiếu

niên, nhi đồng” [19, tr.62] như định hướng của Đảng ta đã đặt ra trong Nghị

quyết Trung ương 5 khóa VIII.

2.2.2.2. Sản phẩm nghệ thuật biểu diễn chất lượng có tác dụng giáo dục

thẩm mỹ, hoàn thiện nhân cách con người

Nghệ thuật biểu diễn có vai trò hết sức to lớn trong đời sống văn hóa nói

chung và trong nghệ thuật nói riêng. Đặc biệt trong xã hội hiện nay, khi đời sống

vật chất của con người ngày càng khá lên, nhu cầu thưởng thức nghệ thuật vì thế

cũng tăng lên gấp bội, đòi hỏi nhiều những tác phẩm nghệ thuật có giá trị để thoả

mãn đời sống tinh thần.

Trước hết, xét về cấu trúc của văn hóa nghệ thuật thì đội ngũ nghệ sĩ sáng

tạo và hoạt động biểu diễn nghệ thuật đóng vai trò quyết định nền văn hóa nghệ

thuật. Họ là những người đưa tác phẩm nghệ thuật đến với công chúng, giúp

công chúng tìm ra cái hay, cái đẹp, cái cao cả trong cuộc sống. Nói cách khác,

nghệ thuật biểu diễn là chiếc cầu nối giữa tác phẩm nghệ thuật với công chúng,

50

trực tiếp đưa các giá trị nghệ thuật đến với chủ thể thưởng thức nghệ thuật một

cách sinh động, cụ thể và truyền cảm. Trong Bản thảo Kinh tế - Triết học, Mác

đã chỉ ra rằng, dấu hiệu cơ bản để phân biệt hoạt động của con vật với hoạt động

con người là ở chỗ con người biết nhào nặn hiện thực theo quy luật cái đẹp.

Trong lịch sử phát triển của con người, cái đẹp là khát vọng, là khả năng vươn

tới, khả năng làm chủ của con người. Và ở bất cứ lĩnh vực nào, con người cũng

có khát vọng vươn tới cái đẹp. Có thể nói, cái đẹp giữ vị trí trung tâm điều tiết

cuộc sống, nó là nhu cầu sống, nó đã “cứu rỗi” nhân loại thoát khỏi cái xấu,

không có nó thì không có văn hóa, hạnh phúc, ước mơ. Vì thế, trong nghệ thuật,

cái đẹp là linh hồn của nghệ thuật. Vì cái đẹp mà nghệ thuật mới tồn tại. Không có

cái đẹp thì nghệ thuật không có công chúng. Công chúng đến với nghệ thuật để

nghệ thuật mách bảo con đường chiếm lĩnh cái đẹp. Cảm xúc thẩm mỹ, tức khả

năng biết rung động trước cái đẹp, ở một mức độ nào đó, tạo nên phẩm chất đạo

đức của con người.

Macxim Gooky đã có lý khi cho rằng: Mỹ học là đạo đức học của tương

lai. Điều này, nhà tư tưởng lớn Biêlinxki của nước Nga thế kỷ XIX đã nói rõ:

Cảm xúc của cái đẹp là một điều kiện làm nên phẩm giá của con

người. Phải có nó con người mới có được trí tuệ, phải có nó, nhà bác

học mới cất mình lên bởi những tư tưởng tầm cỡ thế giới, mới hiểu

được phẩm chất và các hiện tượng trong tính thống nhất của chúng…

Phải có nó người ta mới có thể không quỵ ngã dưới sức nặng trĩu của cuộc

đời và làm nên những chiến công… Thiếu nó, thiếu đi cái cảm xúc ấy thì

không có thiên tài, không có tài năng, không có trí thông minh mà chỉ còn

lại cái thứ đầu óc tỉnh táo một cách ti tiện cần thiết cho sinh hoạt thường

ngày trong nhà, cho những tính toán nhỏ nhen, ích kỷ [Dẫn theo 21].

Xét về phương diện ngành công nghiệp văn hoá, nghệ thuật biểu diễn là

cầu nối để tác phẩm đến với công chúng, đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ của công

chúng. Nghệ thuật biểu diễn là một bộ phận nhạy cảm của văn hóa nghệ thuật, là

thành tố trọng yếu của văn hóa thẩm mỹ. Nghệ thuật biểu diễn giữ vai trò hết sức

51

to lớn trong việc giáo dục thẩm mỹ, hình thành nhân cách con người. Nghệ thuật

biểu diễn giúp con người biết rung động sâu sắc về tình cảm, trước những sự

kiện, những con người, những biến cố của lịch sử xã hội và tự nhiên; trước

những điều lành và tội ác, hèn hạ và cao cả, vui sướng và đau khổ, đẹp đẽ và xấu

xa… Con người được trải nghiệm qua những phút giây vui, buồn, sung sướng, lo

âu, đau khổ, căm giận, ngưỡng mộ, yêu thương… Những tác phẩm nghệ thuật

biểu diễn chân chính sẽ thức tỉnh lòng người, sẽ làm cho cuộc sống có ý nghĩa

hơn, sẽ giúp cho chúng ta ngày một tiến lên, hướng về phía tuyệt mỹ chứ không

phải lui dần vào chỗ tầm thường, thô thiển, nông cạn.

2.2.2.3. Phát triển lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn góp phần giải quyết

mối quan hệ biện chứng giữa văn hóa và kinh tế

Trong Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, Đảng ta đã nhấn mạnh đến vai

trò của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Mối quan hệ giữa kinh tế và

văn hóa là mối quan hệ biện chứng. Kinh tế là điều kiện, là cơ sở để phát triển

văn hóa, đồng thời văn hóa là mục tiêu, động lực để phát triển kinh tế - xã hội.

Văn hóa không chỉ là nguồn cung cấp sản phẩm hàng hóa cho kinh tế thị trường

mà còn giữ vai trò định hướng giá trị cho hoạt động của kinh tế thị trường. Hoạt

động kinh tế thị trường càng hướng tới mục tiêu văn hóa càng mang tính xã hội

chủ nghĩa vì sự phát triển của con người, của xã hội. Sản phẩm văn hóa trở thành

hàng hóa nhưng không phải bất cứ sản phẩm nào cũng trở thành hàng hóa trong

nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sản phẩm văn hóa không

thuần tuý về lợi nhuận kinh tế mà trước hết vì lợi ích tinh thần, thoả mãn nhu cầu

nâng cao năng lực tinh thần của con người. Như vậy, mối quan hệ giữa văn hóa

và kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ

thúc đẩy nền kinh tế thị trường phát triển về lượng (giá trị kinh tế) mà cả về chất

(giá trị tinh thần cao đẹp). Phát triển trên cơ sở kết hợp hài hoà kinh tế và văn

hóa là sự phát triển năng động có hiệu quả và vững chắc nhất.

Công nghiệp văn hóa, trong đó có lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn phát triển

sẽ tạo ra một thị trường lớn về tiêu thụ các sản phẩm văn hóa ngay chính trên đất

52

nước ta. Một cuộc biểu diễn ca nhạc, thời trang, tạp kỹ… nếu có một sân khấu

lớn, một hệ thống màn hình rộng, hệ thống âm thanh tốt… thì có thể giúp cho

hàng vạn người thưởng thức. Thị trường sản phẩm khoa học công nghệ phục vụ

cho tiêu dùng văn hóa như máy nghe nhìn, máy ghi âm, ghi hình, photo, sản xuất

băng đĩa… ngày càng phong phú. Mặt khác, ngành công nghiệp này phát triển

cũng sẽ thúc đẩy, hỗ trợ các ngành kinh tế khác phát triển như công nghiệp máy

móc, công nghiệp sản xuất trang thiết bị, ngành thủ công mỹ nghệ, trang trí và các

dịch vụ ăn uống, du lịch…

2.2.2.4. Phát triển nghệ thuật biểu diễn theo hướng công nghiệp là con

đường để hiện đại hoá nền văn hoá dân tộc và hội nhập quốc tế

Trong xu thế toàn cầu hóa, mở cửa, giao lưu hội nhập mạnh mẽ hiện nay,

văn hóa ngày càng trở thành “quyền lực mềm” có vai trò không thể thiếu trong

các bộ phận hợp thành sức mạnh tổng hợp của mọi quốc gia. Phát triển công

nghiệp văn hóa sẽ giúp cho chúng ta dễ dàng tiếp thu, tiếp biến những tinh hoa

văn hóa, văn minh nhân loại. Đó là những thành tựu về khoa học, công nghệ:

phương tiện vật chất, kỹ thuật, máy móc, thiết bị…, nâng cao năng lực sáng tạo,

sản xuất các sản phẩm văn hóa. Chúng ta tiếp nhận các phương thức sáng tạo

mới như kỹ năng, phương thức biểu diễn, thông qua công nghiệp văn hóa, cơ chế

sản xuất, phân phối, trao đổi sản phẩm văn hóa của thị trường để thúc đẩy văn

hóa dân tộc phát triển.

Mặt khác, phát triển công nghiệp văn hóa sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam

tiếp nhận được những sản phẩm nghệ thuật biểu diễn có chất lượng cao ở trên

thế giới, đáp ứng nhu cầu thưởng thức và giao lưu của đông đảo công chúng.

Hơn nữa, trong bối cảnh cần giữ chủ quyền và tính độc lập của văn hóa, thì Việt

Nam muốn chống lại những ảnh hưởng của văn hóa ngoại lai, nhất là những xâm

thực của các hiện tượng phản văn hóa thì cần phải nhanh chóng phát triển công

nghiệp văn hóa để phát huy tối đa sức mạnh văn hóa dân tộc, từng bước chiếm

lĩnh thị phần văn hóa quốc tế, góp phần bảo vệ chủ quyền và an ninh văn hóa của

đất nước, thúc đẩy sự tiến bộ và phồn vinh của văn hóa dân tộc.

53

2.3. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN NGHỆ THUẬT BIỂU DIỄN Ở

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY

Các ngành công nghiệp văn hóa xuất hiện gắn với nền văn hóa đại chúng

và sự phát triển đô thị. Văn hóa đại chúng được hình thành trên những điều kiện

mà xã hội gắn với quá trình đô thị hoá và tập trung dân cư; sự phát triển của quá

trình sản xuất, tiêu thụ lớn theo cơ chế thị trường; sự phát triển của giao thông và

truyền thông toàn cầu; sự mở rộng giao lưu quốc tế về văn hoá. Quá trình phát

triển nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí Minh đang chịu nhiều nhân tố tác động.

Những nhân tố này vừa là thời cơ, vừa là thách thức ảnh hưởng rất lớn đến sự

phát triển lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn nơi đây. Những nhân tố đó là:

2.3.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội và lịch sử - văn hoá đô thị

Tp. Hồ Chí Minh hiện là đô thị lớn nhất Việt Nam, một trung tâm kinh tế,

văn hóa, khoa học - công nghệ, đầu mối giao lưu quốc tế, có vị trí chính trị quan

trọng của cả nước.

Về địa lý tự nhiên, Thành phố là vùng tiếp nối giữa Đông Nam Bộ và Tây

Nam Bộ. Phía Bắc giáp tỉnh Bình Dương, Tây Bắc giáp tỉnh Tây Ninh, Đông và

Đông Bắc giáp tỉnh Đồng Nai, Đông Nam giáp tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và một

phần giáp biển Đông, Tây và Tây Nam giáp tỉnh Long An và Tiền Giang. Với vị

trí này, Tp. Hồ Chí Minh trở thành điểm giao lưu quốc tế giữa các con đường

hàng hải từ Bắc xuống Nam, từ Tây sang Đông, là tâm điểm của khu vực Đông

Nam Á, cửa ngõ ra thế giới cả về đường bộ và đường hàng không.

Thành phố hiện có 24 đơn vị hành chính trực thuộc (19 quận và 5 huyện),

với diện tích đất tự nhiên 2.095,01 km2, trong đó các quận nội thành chiếm

6,7%, 5 quận mới chiếm 14,3%, còn lại các huyện chiếm 79% diện tích. Theo số

liệu của Cục Thống kê, dân số Tp. Hồ Chí Minh đến ngày 01/4/2014 đã đạt tới

7.955 triệu người [125]. Nhưng nhiều nhà nghiên cứu còn cho rằng, dân số Tp.

Hồ Chí Minh hiện nay xấp xỉ 10 triệu người. Là một Thành phố trẻ, có mức độ

tập trung dân cư đông đúc và đứng vào tốp 15 Thành phố có quy mô dân số

đông nhất thế giới.

54

Về kinh tế, với vị trí và vai trò là hạt nhân của vùng kinh tế trọng điểm

phía Nam, kinh tế trên địa bàn Thành phố có tốc độ tăng trưởng cao và liên tục

trong nhiều thập niên. Trong năm năm qua, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của

Tp. Hồ Chí Minh tăng bình quân 9,6%/ năm, gấp 1,66 lần mức tăng bình quân cả

nước (Theo: Báo cáo của UBND Tp. Hồ Chí Minh trong Đại hội Thi đua yêu

nước lần thứ VI giai đoạn 2010 - 2015).

Thành phố Hồ Chí Minh tập trung rất nhiều trường đại học, viện nghiên

cứu lớn với hàng ngàn nhà khoa học, nhà nghiên cứu. Các hội văn học, nghệ

thuật trên địa bàn Thành phố quy tụ nhiều tài năng của nhiều lĩnh vực nghệ

thuật. Nơi đây cũng tập trung nhiều khu vui chơi giải trí lớn, thu hút không chỉ

nhân dân Thành phố mà còn các tỉnh lân cận.

Nghị quyết số 20 - NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX) nêu rõ: ”Xây dựng

Thành phố Hồ Chí Minh trở thành một Thành phố xã hội chủ nghĩa, văn minh,

hiện đại; một trong những Thành phố phát triển nhanh và năng động của khu

vực Đông Nam Á và Châu Á - Thái Bình Dương”. Đó là một Thành phố có kinh

tế phát triển cao dựa trên nền tảng dịch vụ và công nghiệp phát triển, nơi hội tụ

của giới kinh doanh, thu hút các tập đoàn kinh tế lớn trong và ngoài nước, một

trung tâm công nghiệp, tài chính và thương mại của Đông Nam Á. Chân dung của

Thành phố sẽ là một siêu đô thị đa trung tâm với điểm nhấn là khu vực trung tâm

hiện hành, khu đô thị mới Thủ Thiêm và đô thị mới dọc sông Sài Gòn; hình thành

chuỗi đô thị nối tiếp đô thị khác trong vùng theo mô hình tập trung đa cực, một

Thành phố xanh và sạch, một đô thị sông nước với quy mô dân số 10 triệu dân.

Đó cũng là một trung tâm khoa học – công nghệ lớn, trung tâm về giáo dục - đào

tạo chất lượng cao và y tế kỹ thuật cao của cả nước và khu vực Đông Nam Á.

Sự giao thoa tiếp biến văn hoá trong lịch sử cũng như hiện tại của Thành

phố đã tạo nên một vùng văn hóa mở có nhiều tố chất sáng tạo, hướng ngoại. Hiện

nay, các cộng đồng người nước ngoài cư trú tại Thành phố có số lượng khá đông

như: Hàn Quốc, Đài Loan, Xingapo, Nhật Bản, Trung Quốc, Anh, Pháp, Đức, Mỹ...

đặc biệt là sự gia tăng các du học sinh nước ngoài, những Việt kiều quay về quê

55

hương sinh sống ngày càng đông. Họ vừa mang văn hóa của dân tộc họ đến cùng

hòa chung với văn hóa Việt, làm phong phú đời sống văn hóa Thành phố.

Tính hội tụ và lan toả của văn hóa nghệ thuật Tp. Hồ Chí Minh còn thể

hiện ở sức thu hút những nghệ sĩ tài năng, những doanh nhân thành đạt, những

bậc anh tài... đến nơi đây để tìm những cơ hội bộc lộ tài năng của mình. Chủ

nhân của nền văn hóa nghệ thuật Tp. Hồ Chí Minh hiện nay không chỉ là những

người được sinh ra lớn lên trên mảnh đất này mà còn là những con người của

mọi miền Tổ quốc, mọi phương trời hội tụ về đây cùng lao động sáng tạo nghệ

thuật. Có thể nói, Tp. Hồ Chí Minh là trung tâm văn hóa nghệ thuật của cả khu

vực phía Nam và ảnh hưởng sâu rộng đến cả nước.

2.3.2. Tác động của khoa học công nghệ, kinh tế tri thức

Khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin phát triển đã làm

thay đổi quan niệm về không gian, thời gian; tạo ra một xã hội số hóa, một xa lộ

thông tin, làm thay đổi thời gian, tốc độ của quá trình sáng tạo, bảo quản, tiêu

dùng các giá trị văn hoá; rút ngắn khoảng cách giao lưu, quy mô và hình thức

giao lưu văn hóa. Khác với nền văn minh nông nghiệp, nền văn minh tin học với

công nghệ thông tin và truyền thông hiện đại đã làm cho môi trường văn hoá

mới trở nên phức tạp, bất định và thường xuyên biến đổi, buộc con người phải tự

biến đổi để thích nghi và sáng tạo.

Phát triển công nghiệp văn hoá trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn của

Việt Nam nói chung và Tp. Hồ Chí Minh nói riêng đang diễn ra trong bối cảnh

mở cửa hội nhập quốc tế toàn diện là xu thế chủ đạo. Các xu hướng đang diễn ra

và làm thay đổi thế giới: toàn cầu hoá kinh tế, khả năng liên kết toàn cầu, tính

minh bạch trong giao dịch và sự thích nghi xã hội, hiện đại hoá nền văn hoá mỗi

dân tộc. Phát triển công nghiệp văn hoá phải gắn với hội nhập khu vực và quốc tế.

Truyền thông toàn cầu đang làm gia tăng vai trò của các phương tiện

thông tin đại chúng (xuất bản, truyền hình và đặc biệt là Internet...) đối với phát

triển ngành công nghiệp văn hoá. Một trong những tác động đó là đẩy nhanh tốc

độ xuất nhập khẩu văn hóa phẩm có quy mô quốc tế, đặc biệt là các sản phẩm về

56

nghệ thuật, giải trí (thể thao, các trò chơi, thời trang, sản phẩm làm đẹp…). Thế

mạnh đang thuộc về những nước có nền công nghiệp văn hóa phát triển, sản phẩm

văn hóa của các quốc gia này ngày càng tràn ngập thị trường thế giới. Công

nghiệp văn hóa phát triển càng làm tăng trưởng của thương mại toàn cầu về các

sản phẩm văn hoá, thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá của thị trường văn hoá phẩm.

Những thống kê của tổ chức UNESCO cho thấy thương mại toàn cầu về

các sản phẩm văn hoá là một trong những ngành năng động nhất trong thương

mại thế giới. Trao đổi sản phẩm văn hoá (điện ảnh, radio và tivi, in ấn, văn học

và âm nhạc) đã tăng trưởng liên tục trong 20 năm vừa qua với một mức tăng

trưởng cao, ổn định. Một số chuyên gia nhận định rằng ngành công nghiệp văn

hoá đóng góp khoảng 7% vào GDP toàn cầu và 3% ở các nước đang phát triển.

Trước tiên phải kể đến những đóng góp không nhỏ của ngành công nghiệp

truyền thông và quảng cáo trong việc kích thích, khuyến khích sự tiêu dùng các

sản phẩm văn hoá trên phạm vi toàn cầu [40, tr.114].

Thực tế cho thấy Tp. Hồ Chí Minh cũng đang chịu sự tác động của nhiều

làn sóng các sản phẩm văn hóa, nghệ thuật đa dạng, phức tạp. Những tư tưởng cá

nhân cực đoan, lối sống thực dụng, gấp gáp, kích động bạo lực, tuyệt đối hóa

đồng tiền... được ẩn trong những yếu tố phản văn hóa đã trở thành mối lo của

toàn xã hội. Thị trường văn hóa nghệ thuật ở Thành phố đang ở tình trạng đáng

báo động khi thị hiếu của lớp trẻ đang bị dẫn dắt bởi những sản phẩm không phù

hợp với thuần phong mỹ tục của dân tộc.

2.3.3. Toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế và phát triển công nghiệp văn hoá

Toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế đã đẩy nhanh sự tác động của các yếu tố

về chính trị, kinh tế và khoa học, công nghệ thông tin đến quá trình phát triển,

giao lưu hội nhập văn hoá của các quốc gia và khu vực. Đặc biệt, toàn cầu hóa

tác động, thúc đẩy giao lưu giữa các nền văn hóa với phạm vi rộng lớn và quy mô,

cường độ mạnh mẽ chưa từng có. Đây là giai đoạn phát triển văn hoá dân tộc, hội

nhập khu vực và quốc tế có sự khác về cơ bản so với các giai đoạn trước đây.

Hơn bao giờ hết, phát triển ngành công nghiệp văn hóa được chú ý khai

thác là nguồn lực đặc biệt, "sức mạnh mềm văn hoá" để phát triển kinh tế quốc

57

dân. Đặc điểm nổi bật, bao trùm đó là các sản phẩm do ngành công nghiệp văn

hóa đưa lại, được kết hợp một cách tinh vi giữa nghệ thuật, công nghệ và trong

sản xuất, kinh doanh. Các sản phẩm đó được tung ra khắp thị trường thế giới,

đem lại lợi nhuận khổng lồ cho nhiều nước, nhất là những nước có nền công

nghiệp văn hóa phát triển. Không một quốc gia nào có thể phát triển trong sự

biệt lập với thế giới bên ngoài, mà ngược lại, sự tùy thuộc lẫn nhau ngày càng

gia tăng. Trong bối cảnh đó, phát triển ngành công nghiệp văn hoá nói chung,

nghệ thuật biểu diễn của Việt Nam cũng như các quốc gia khác, phải hướng đến

những tiêu chuẩn chung trong đánh giá về giá trị và bản quyền.

Với sự ra đời và hoàn thiện của các công ước quốc tế, phát triển công

nghiệp văn hoá, nghệ thuật biểu diễn của Việt Nam hướng đến chấp nhận những

giá trị chung, như tiêu chuẩn hoá và hiện đại hoá hệ thống toàn cầu về phân công

lao động xã hội và hàng hoá văn hoá trong cơ chế thị trường, sở hữu trí tuệ, quyền

con người, đa dạng văn hóa, thống nhất văn hoá, bảo vệ di sản văn hóa... Sự tác

động này đòi hỏi Việt Nam cũng như các quốc gia phải thay đổi nhận thức và hành

động thực tiễn trong phát triển công nghiệp văn hoá, lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn:

- Tìm những lợi thế của mình để cạnh tranh (vốn, nguồn nhân lực, vốn

văn hóa, tài nguyên thiên nhiên…) để phát triển công nghiệp văn hoá.

- Coi trọng sự liên kết khu vực dựa trên những điểm tương đồng, để tạo

sức cạnh tranh trong hàng hoá văn hoá, thị trường văn hoá phẩm.

- Những sáng tạo trong công nghiệp văn hoá của Việt Nam phải vừa mang

bản sắc, vừa phải hướng đến những giá trị chung của nhân loại, phát huy thời cơ

và hạn chế thách thức.

2.3.4. Chủ trƣơng, chính sách phát triển công nghiệp văn hoá ở Việt Nam

Nhận thức được tính tất yếu của phát triển văn hóa trong giai đoạn mới,

Đảng và Nhà nước đã có những chủ trương và chính sách định hướng phát triển

kinh tế gắn với phát triển văn hóa, xã hội. Sự định hướng cùng với một hệ thống

chính sách kinh tế trong văn hóa đã tạo nền tảng bước đầu cho ngành công

nghiệp văn hóa nước ta phát triển, trong đó có lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn.

58

Điều đó cho thấy đã có sự thay đổi cơ bản trong quá trình nhận thức của Đảng ta,

hoạt động văn hóa không chỉ mang tính chất sự nghiệp mà còn mang tính “kinh

doanh”. Thừa nhận có thị trường văn hóa phẩm và công nhận một bộ phận sản

phẩm văn hóa như là hàng hóa được lưu thông trên thị trường; tạo điều kiện cho

thị trường văn hóa phẩm lưu hành trong đời sống kinh tế - xã hội của đất nước

bằng chính sách kinh tế trong văn hóa và chính sách văn hóa trong kinh tế.

Chính sách kinh tế trong văn hóa đã coi hoạt động của một số cơ quan văn hóa,

một số thiết chế văn hóa như hoạt động của các doanh nhiệp sản xuất kinh

doanh, từ đó có chế độ ưu đãi về thuế (thuế đất, thuế vốn)… Có quy định cụ thể

chế độ cho các doanh nghiệp đặc thù của ngành văn hóa thông tin được hưởng

mức thuế ưu đãi trong hoạt động kinh doanh, khuyến khích xuất khẩu sách, báo,

văn hóa phẩm…

Chủ trương và chính sách của Đảng, Nhà nước bước đầu đã tạo điều kiện

mở rộng quyền tự chủ cho các đơn vị trong sản xuất, kinh doanh hàng hóa văn

hóa, cơ sở pháp lý cho các doanh nghiệp văn hoá, doanh nghiệp nghệ thuật biểu

diễn. Nhà nước đẩy mạnh phân cấp quản lý, khuyến khích, hỗ trợ để đổi mới kỹ

thuật và công nghệ, tạo điều kiện để các cơ sở tiếp cận thông tin, mở rộng quan hệ

đối ngoại, nâng cao tầm nhìn và năng lực sáng tạo, từng bước thích ứng với yêu cầu

của quá trình phát triển đất nước trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Việc chủ trương

chuyển các đơn vị sản xuất, kinh doanh dịch vụ văn hóa sang hoạt động theo cơ chế

thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động văn

hóa, nghệ thuật đã được thực hiện nhất quán và tạo ra được sự phát triển năng động,

sáng tạo nhất định của các đơn vị doanh nghiệp trên lĩnh vực này.

Ngoài ra, ở Tp. Hồ Chí Minh, trong bản “Quy hoạch tổng thể phát triển

kinh tế - xã hội Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025”

đã xác định:

…Phát triển văn hóa theo hướng văn minh, hiện đại phát huy bản sắc

văn hóa dân tộc và các giá trị tinh thần mang nét đặc trưng của Việt

59

Nam và của nhân dân Thành phố, đảm bảo tính đa dạng về văn hóa.

Phát triển văn hóa đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần của nhân dân

Thành phố, tạo điều kiện giao lưu văn hóa giữa Tp. Hồ Chí Minh với cả

nước và thế giới. Tiếp thu có chọn lọc văn hóa của thời đại, để nâng cao

mức độ hưởng thụ của nhân dân. Thông qua việc tổ chức các loại hình

văn hóa, mở rộng việc tham gia của nhân dân vào các tổ chức hiệp hội

chuyên môn, đào tạo kỹ năng hưởng thụ văn hóa và tổ chức các hội thi

quần chúng, sáng tạo nghệ thuật.

Kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa. Phát

triển hệ thống cơ sở vật chất ngành văn hóa đáp ứng nhu cầu hưởng

thụ văn hóa của nhân dân Thành phố, phục vụ du lịch trong nước và

quốc tế... Phát triển các khu vui chơi giải trí, ngành công nghiệp giải

trí ngang tầm các nước trong khu vực; Đảm bảo 100% người dân

thường xuyên tiếp cận với dịch vụ văn hóa. Đầu tư một số công trình

văn hóa cho tương xứng với tầm vóc của một trung tâm văn hóa lớn

phía Nam [71].

Tiểu kết

Như vậy, khái niệm công nghiệp văn hóa xuất hiện đầu tiên ở Đức, sau đó

được nêu ra đầy đủ và hoàn thiện hơn trong luận điểm của các học giả phương

Tây. Những thập niên cuối thế kỷ XX, khi nền văn hóa đại chúng xuất hiện ở

nhiều nước trên thế giới thì công nghiệp văn hóa được nhìn nhận ngày càng đầy

đủ hơn trên cả phương diện lý luận và thực tiễn. Từ năm 1998, thuật ngữ công

nghiệp văn hóa đã được gần 200 quốc gia thông qua trong Hội nghị Thượng đỉnh

về văn hóa được tổ chức tại Stockholm (Thụy Điển). Mặc dầu vậy, cho đến nay

vẫn đang tồn tại nhiều tranh luận trong quan niệm về ngành công nghiệp văn hóa

cũng như cách phân loại các lĩnh vực thuộc ngành công nghiệp này. Ở Việt

Nam, khái niệm công nghiệp văn hóa mới được biết đến gần đây- trong quá trình

hình thành nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Đây là một khái niệm khá

mới đối với xã hội. Chính vì vậy, có nhiều người còn cho rằng Việt Nam vẫn

60

chưa có một ngành công nghiệp văn hóa đúng nghĩa. Việc nghiên cứu công

nghiệp văn hóa mới chỉ ở những bước đi ban đầu, chưa có tính hệ thống và đầy

đủ. Vài năm gần đây, các cuộc hội thảo quốc tế và trong nước liên tiếp bàn đến

khái niệm, vai trò cũng như định hướng phát triển cho ngành công nghiệp văn

hóa ở Việt Nam. Cũng có nhiều định nghĩa về công nghiệp văn hóa được đề cập,

có thể sử dụng khái niệm công nghiệp văn hóa, cách phân loại các ngành công

nghiệp văn hóa trong bản dự thảo Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp

văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 của Bộ Văn hóa, Thể

thao và Du lịch vừa trình lên Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Trong đó, bản dự

thảo đã xác định nghệ thuật biểu diễn là 1 trong 12 ngành có tầm quan trọng then

chốt ở Việt Nam hiện nay.

Về đặc điểm của nghệ thuật biểu diễn: Nghệ thuật biểu diễn là một loại

hình của công nghiệp văn hóa nên cũng không nằm ngoài quy trình của ngành

công nghiệp văn hóa. Nghĩa là cũng trải qua quá trình sản xuất, phân phối, tiêu

dùng và bảo quản sản phẩm. Tuy nhiên, nghệ thuật biểu diễn có những đặc điểm

riêng, mang tính đặc thù. Vai trò của ngành công nghiệp văn hóa cũng như nghệ

thuật biểu diễn ngày càng được khẳng định. Phát triển nghệ thuật biểu diễn theo

hướng công nghiệp sẽ đáp ứng nhu cầu giải trí ngày càng đa dạng của nhân dân,

qua đó giáo dục thẩm mỹ, góp phần hình thành nhân cách con người. Phát triển

công nghiệp văn hóa nói chung, nghệ thuật biểu diễn nói riêng chính là giải quyết

mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế trong phát triển nền kinh tế thị trường định

hướng XHCN. Đồng thời, đây cũng là con đường để thúc đẩy sự tiến bộ và phồn

vinh của văn hóa dân tộc, để văn hóa Việt Nam tham gia vào thị trường quốc tế.

Trên cơ sở hệ thống hóa những vấn đề lý luận về công nghiệp văn hóa và

nghệ thuật biểu diễn, luận án sẽ tiếp tục đánh giá thực trạng công nghiệp văn hóa

trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí Minh trong chương 3.

61

Chƣơng 3

THỰC TRẠNG LĨNH VỰC NGHỆ THUẬT BIỂU DIỄN

Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY

Thành phố Hồ Chí Minh hiện có 08 đơn vị nghệ thuật công lập đó là: Nhà

hát Kịch Tp. Hồ Chí Minh, Nhà hát Cải lương Trần Hữu Trang, Nhà hát Nghệ

thuật hát Bội, Nhà hát Giao hưởng – Nhạc - Vũ kịch, Nhà hát Ca múa nhạc dân

tộc Bông Sen, Đoàn Nghệ thuật Múa rối Thành phố, Đoàn Xiếc Thành phố,

Trung tâm Ca Nhạc nhẹ. Các đơn vị nghệ thuật này được Ủy ban nhân dân Tp.

Hồ Chí Minh ủy nhiệm cho Sở VH, TT & DL Tp. Hồ Chí Minh (nay là Sở VH,

TT Tp. Hồ Chí Minh) quản lý trực tiếp. Ngoài ra, Thành phố còn có 01 Trung tâm

Tổ chức biểu diễn và Điện ảnh và trên 700 doanh nghiệp có đăng ký chức năng tổ

chức biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp, trong đó có khoảng 100 đơn vị hoạt

động thường xuyên.

Những đơn vị đã có quá trình hoạt động lâu dài như: Nhà hát Kịch Sân

khấu nhỏ 5B, Công ty TNHH Sân khấu - Nghệ thuật Thái Dương (Sân khấu

Idecaf), Công ty Cổ phần Đầu tư Giải trí Phước Sang (Sân khấu Kịch Sài Gòn),

Công ty TNHH Sân khấu - Điện ảnh Vân Tuấn (Sân khấu Kịch Hồng Vân và Sân

khấu Superbowl), Công ty TTHH Nụ Cười Mới… Trong khi những đơn vị này

đã định hình được phong cách và có công chúng riêng của mình thì một số các

đơn vị tư nhân khác ra đời sau cũng đang dò dẫm tìm kiếm những lối đi riêng

như Sân khấu Kịch Thế giới trẻ, Sân khấu Kịch Lê Hay, Sân khấu Kịch Hoàng

Thái Thanh… Các đơn vị tư nhân này với sự năng động, nhạy bén của mình, chú

trọng đến công tác tiếp thị, xây dựng chương trình, vở diễn với tiêu chí hướng đến

công chúng trên cơ sở nắm bắt thị hiếu và đáp ứng kịp thời nhu cầu của khán giả,

đang từng bước hoạt động ổn định và có chiều hướng phát triển.

Ở lĩnh vực âm nhạc, Tp. Hồ Chí Minh là một thành phố đầy tiềm năng với

lực lượng sáng tác và biểu diễn hết sức hùng hậu, đồng thời là một thị trường âm

nhạc lớn nhất cả nước. Có thể nói, hoạt động ca nhạc trên địa bàn Thành phố rất

62

phong phú, đa dạng. Hiện nay, toàn Thành phố có 03 đơn vị biểu diễn nghệ thuật

công lập hoạt động trên lĩnh vực ca múa nhạc: Nhà hát Ca múa nhạc Dân tộc

Bông Sen, Trung tâm Ca Nhạc nhẹ, Nhà hát Giao hưởng - Nhạc - Vũ Kịch và

khoảng 100 đơn vị thường xuyên tổ chức biểu diễn nghệ thuật tại các tụ điểm ca

nhạc, sân khấu, cơ sở lưu trú du khách, nhà hàng, phòng trà ca nhạc,… mang

tính chuyên nghiệp. Các tụ điểm sân khấu ca nhạc như: Sân khấu Lan Anh,

Phòng trà ca nhạc M và tôi, Đồng dao, Câu lạc bộ ATB, Sân khấu 126, Sân khấu

Trống Đồng… là những điểm hẹn của đông đảo khán giả yêu thích ca nhạc,

đồng thời cũng là nơi các ca sĩ trẻ khẳng định mình. Các live show ca nhạc được

tổ chức hoành tráng với sự tham gia tài trợ của các doanh nghiệp, các mạnh

thường quân cũng là một nét mới trong đời sống âm nhạc Thành phố.

Cùng với sân khấu kịch, âm nhạc, hoạt động múa ở Tp. Hồ Chí Minh thời

gian qua diễn ra sôi động, thường xuyên và rộng rãi. Có trên 200 đơn vị tổ chức

biểu diễn nghệ thuật thường xuyên thực hiện các chương trình biểu diễn ca múa

nhạc thời trang. Nhiều quán bar, phòng trà lớn tổ chức biểu diễn nghệ thuật hàng

đêm. Có 5 đến 6 khách sạn liên doanh (xếp hạng 4-5 sao) tổ chức cho các ban

nhạc với khoảng hơn 30 nghệ sĩ người nước ngoài, thường xuyên hoạt động tại

Thành phố. Có 50 vũ đoàn hoạt động trên địa bàn rộng khắp Thành phố, với

hàng trăm điểm diễn... [36, tr.279].

Như vậy, hoạt động nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ chí Minh hiện nay phát

triển vô cùng sôi động. Tuy nhiên, luận án chỉ khảo sát thực trạng lĩnh vực Âm

nhạc, Sân khấu Kịch nói và Múa ở một số đơn vị nghệ thuật công lập và ngoài

công lập, đó là: Nhà hát Giao hưởng - Nhạc - Vũ kịch Tp. Hồ Chí Minh, Nhà hát

Kịch Tp. Hồ Chí Minh, Nhà hát Kịch Sân khấu nhỏ 5B, Nhà hát Ca múa nhạc dân

tộc Bông Sen, Sân khấu Idecaf, Sân khấu Kịch Hồng Vân và Sân khấu Superbowl,

Sân khấu ca nhạc 126, Sân khấu ca nhạc Trống Đồng. Vì đây là những đơn vị nghệ

thuật đang hoạt động khá sôi nổi tại Tp. Hồ Chí Minh. Nội dung khảo sát, đánh giá

bao gồm những khía cạnh sau: hoạt động sáng tạo/sản xuất; hoạt động tổ chức biểu

diễn và doanh thu; hoạt động phân khúc thị trường và vấn đề bản quyền.

63

3.1. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG SÁNG TẠO/SẢN XUẤT NGHỆ THUẬT

BIỂU DIỄN Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

3.1.1. Về đội ngũ sáng tạo/sản xuất

* Đối với lĩnh vực Âm nhạc

Về hệ thống cơ sở đào tạo nguồn nhân lực âm nhạc. Hiện nay, nếu theo

hệ thống đào tạo chính quy, Tp. Hồ Chí Minh có 03 cơ sở đào tạo chính là: Nhạc

viện, khoa Âm nhạc của trường Đại học Sài Gòn và chuyên ngành Quản lý âm

nhạc thuộc khoa Quản lý văn hóa của trường Đại học Văn hóa. Bên cạnh hệ

thống đào tạo chính quy, Thành phố còn có khoảng 50 công ty, trung tâm chuyên

mở các lớp đào tạo ca sỹ theo chương trình ngắn hạn từ 06 tháng đến 01 năm.

Mặc dù chất lượng đào tạo từ các trung tâm này chưa đáp ứng nhu cầu

ngày càng cao của khán giả. Nhưng trước sự phát triển không ngừng của thị

trường âm nhạc Thành phố, nguồn nhân lực từ các trung tâm này là cần thiết.

Ngoài ra, để có thể trụ vững lâu dài trên thị trường âm nhạc vốn có sự cạnh tranh

rất gay gắt này, cá nhân những ca sỹ như Lam Trường, Mỹ Tâm, Đoan Trang,

Thu Minh, Đức Tuấn... đã thực hiện những chuyến du học ngắn hạn tại những

nước có thị trường âm nhạc phát triển như Hàn Quốc, Mỹ, Hồng Kông… Chất

lượng đào tạo cũng là nguyên nhân để một số ca sĩ Việt Nam được biết đến trong

khu vực với những giải thưởng danh giá như ca sĩ Thu Minh, ca sĩ Mỹ Tâm với

giải thưởng âm nhạc MV Châu Á.

Về nguồn nhân lực của thị trường sáng tạo nghệ thuật, có thể thấy Tp. Hồ

Chí Minh là nơi tập trung lượng ca sỹ, nhạc sỹ, nhóm – ban nhạc đông đảo nhất

so với cả nước. Theo thống kê chưa đầy đủ, Thành phố hiện có khoảng 1.000 ca

sỹ, 30 nhạc sỹ, 25 nhóm nhạc, 15 công ty chuyên tổ chức các sự kiện âm nhạc

[62]. Bên cạnh đó, thị trường này còn thu hút nhiều ca sỹ, nhóm – ban nhạc

trong nước, ca sỹ hải ngoại và đặc biệt là các ca sỹ, nhóm nhạc nổi tiếng trên thế

giới, như: nhóm JYJ, Biuret của Hàn Quốc, nhóm Ari Roland, Backstreet Boys

của Mỹ, nhóm 183 Club của Đài Loan, nhóm Blues của Pháp...

64

Chính điều này đã góp phần tạo thành một thị trường âm nhạc có sự cạnh

tranh sôi động với quy luật đào thải gay gắt trong quá trình phát triển ngành công

nghiệp văn hoá của Thành phố. Những ca sỹ, nhóm nhạc, công ty nào thiếu thực

tài và không xây dựng một chiến lược phát triển bền vững thì khó có thể trụ

vững trên thị trường. Điều này được chứng minh bởi hàng năm, thị trường được

bổ sung hàng chục ca sỹ, nhạc sỹ, nhóm – ban nhạc mới từ các trung tâm đào

tạo, các cuộc thi âm nhạc trên cả nước, nhưng hàng năm, cũng có một số lượng

không nhỏ bị đào thải.

Sự phát triển mạnh lực lượng nhạc sỹ trẻ ở lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn

cũng là một biểu hiện của công nghiệp văn hóa của Thành phố. Các nhạc sĩ trẻ

khá năng động, sản phẩm âm nhạc của họ phần nào đã đáp ứng được nhu cầu

của thị trường. Điển hình cho lứa nhạc sỹ trẻ này là những tên tuổi đã có vị trí

nhất định trên thị trường âm nhạc hiện nay như Vũ Quốc Việt, Nguyễn Hải

Phong, Nguyễn Hồng Thuận, Nguyễn Văn Chung, Quốc An, Hoài An, Nguyễn

Đức Cường... Các ca khúc của các nhạc sĩ trẻ, có tài kéo theo các giọng hát trẻ

giàu nét sáng tạo, cá tính. Các ca sĩ này với những ca khúc mới đã tạo được một

sự vượt lên về nghệ thuật biểu diễn, bước đầu đã thoát khỏi sự chi phối của đồng

tiền và đã tạo nên được một đồ hình sáng sủa hơn.

Một số nhạc sĩ trẻ của miền Bắc có nhạc phẩm đang dần chiếm lĩnh thị

phần âm nhạc này, như Quốc Trung, Lê Minh Sơn, Anh Quân, Đỗ Bảo, Giáng

Son, Huy Tuấn, Nguyễn Vĩnh Tiến, Tường Văn, Hồ Hoài Anh, Duy Hùng, Lưu

Thiên Hương, Mạnh Quân... Điều này làm cho thị trường âm nhạc ở Tp. Hồ Chí

Minh thêm màu sắc.

*Đối với lĩnh vực sân khấu Kịch nói

Hiện tại, Tp. Hồ Chí Minh có 03 cơ sở đào tạo chính quy nguồn nhân lực

cho nghệ thuật sân khấu là trường Đại học Sân khấu - Điện ảnh, Đại học Văn

hóa và trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật. Ngoài ra, nguồn nhân lực sân khấu

còn được cung cấp bởi chính các sân khấu theo hình thức truyền nghề trực tiếp.

Xét về chất lượng của cả hai hình thức đào tạo trên vẫn còn nhiều hạn chế. Tuy

65

nhiên, những sinh viên tốt nghiệp từ những trường này đã góp phần bổ sung lực

lượng diễn viên, đạo diễn, nhà biên kịch, nhà quản lý….

Trong cuộc thi Tài năng trẻ đạo diễn sân khấu toàn quốc 2007, sân khấu

Tp. Hồ Chí Minh đã cho thấy dấu hiệu kế thừa hết sức xứng đáng của một thế hệ

đạo diễn trẻ. Họ đã bắt nhịp được bước tiến của xã hội, nhu cầu giải trí phóng

khoáng nhưng đầy trách nhiệm của công chúng và khát vọng muốn làm nghề của

một đội ngũ diễn viên giàu tâm huyết. Chính vì thế, họ lao tới, thể nghiệm và

chịu khó học hỏi những thế hệ diễn viên, đạo diễn thành danh đi trước để tạo vị

trí cho mình. Những vở diễn: 270gram, Nhân danh công lý, Người cáo, Người

vợ ma, Về đâu... đã tạo được ấn tượng rất tốt trong lòng khán giả. Những đạo

diễn trẻ như Lý Khắc Luyn, Đức Thịnh, Thái Hòa, Lê Nguyên Đạt, Hoàng Duẩn,

Chánh Trực... thật sự là niềm kỳ vọng lớn cho thị trường sân khấu kịch tương lai

của Thành phố.

Là một doanh nghiệp khá thành công trong lĩnh vực kịch nói, Sân khấu

kịch Hồng Vân đặc biệt quan tâm đến việc đầu tư để có được một đội ngũ diễn

viên chất lượng cao. Hiện nay, doanh nghiệp này có khoảng 60 diễn viên, trong

đó 20 diễn viên cơ hữu, 40 diễn viên hợp đồng thời vụ; 68% diễn viên thuộc

hạng A; 70% tốt nghiệp các chuyên ngành liên quan đến nghệ thuật sân khấu từ

các trường Cao đẳng, Đại học trên phạm vi cả nước; 20% ra đời từ các khóa đào

tạo của chính sân khấu kịch Hồng Vân và 10% là các diễn viên vốn xuất thân từ

lĩnh vực âm nhạc, thời trang, điện ảnh.

Ngoài ra, sân khấu kịch Hồng Vân còn có một đội ngũ đạo diễn, tác giả

khá hùng hậu với khoảng 20 người; trong đó lực lượng cơ hữu chiếm 55%;

100% được đào tạo chính quy từ những cơ sở đào tạo uy tín trong và ngoài nước.

Những đạo diễn, tác giả nổi tiếng như đạo diễn Hồng Vân, Minh Nhí, Lê Quốc

Nam, Diệp Tiên, Mạnh Phúc, Trần Kim Khôi; tác giả Thái Sơn, Phạm Tân, Tuấn

Anh, Cao Bằng, Ngô Lê, Chu Thơm… Bên cạnh đó, doanh nghiệp này còn sở

hữu 30 nhân viên kỹ thuật âm thanh, ánh sáng, văn phòng, hậu đài… trong đó,

60% có vị trị làm việc đúng chuyên ngành được đào tạo [Nguồn: Công ty Cổ

phần Sân khấu & Điện ảnh Vân Tuấn].

66

* Đối với lĩnh vực nghệ thuật Múa

Theo nhận định của các nhà quản lý, nhà nghiên cứu và một số nghệ sỹ,

Tp. Hồ Chí Minh là địa phương đứng đầu cả nước về sự phát triển của thị trường

nghệ thuật múa cả về số lượng và chất lượng.

Hiện Thành phố có khoảng 50 đoàn múa với hàng trăm diễn viên; trong

đó có khoảng 46 vũ đoàn tư nhân và 04 đoàn thuộc quốc doanh là: Nhà hát Giao

hưởng và Vũ kịch Thành phố, Nhà hát Bông Sen, Đoàn Nghệ thuật Quân khu 7

và Trường Múa Thành phố. Điều đó cho thấy việc xã hội hóa nghệ thuật múa đã

phát huy hiệu quả tích cực, góp phần làm cho thị trường múa tại Thành phố phát

triển sôi nổi hơn. Tuy nhiên, tính cạnh tranh chỉ diễn ra mạnh mẽ đối với dòng

múa không chính thống mà hoạt động của các vũ đoàn đang là hiện tượng chiếm

lĩnh thị trường múa.

Về đào tạo nguồn nhân lực cho ngành Múa: Trường Trung cấp múa Tp.

Hồ Chí Minh là một trong hai cơ sở đứng đầu về đào tạo nguồn nhân lực cho

ngành múa trong cả nước. Hiện tại, trường có khoảng 400 học sinh đang theo

học. Hàng năm, trường cung cấp cho thị trường Thành phố khoảng 70 sinh viên

tốt nghiệp. Về cơ bản, chất lượng của các diễn viên này đảm bảo đáp ứng nhu

cầu của xã hội, và thực tế họ hoạt động khá sôi nổi trên thị trường múa hiện nay.

Bên cạnh đó, Thành phố cũng gửi một số diễn viên có tài đi đào tạo tại các trung

tâm nổi tiếng của thế giới như: Trường múa Hàn lâm Vaganova - Leningrad

(Nga), Đại học Ballet cổ điển (Nga), trường múa Bắc Kinh - Trung Quốc…

Thực tế cho thấy so với một số lĩnh vực ngành công nghiệp văn hoá của

Thành phố, thì ngành Múa còn khá khiêm tốn. Dù vậy, số lượng sinh viên tốt

nghiệp đã bổ sung một lượng lớn diễn viên múa cho các vũ đoàn. Đã có những

tài năng cá nhân ngang tầm khu vực, nhiều nghệ sĩ, tài năng trẻ đoạt giải cao tại

các cuộc thi khu vực và quốc tế, như Cao Chí Thành, Đặng Linh Nga, Tạ Thùy

Chi... Một số đơn vị nghệ thuật của ngành múa cũng đang tiếp cận trình độ

chuyên nghiệp ngang hàng với nhiều nước trong khu vực. Đây chính là những cơ

sở quan trọng để phát triển ngành công nghiệp lĩnh vực này trong tương lai.

67

Hiện nay, Thành phố còn có 02 đoàn múa rối lớn là: Đoàn nghệ thuật múa

rối Tp. Hồ Chí Minh - trực thuộc Sở VH, TT Thành phố và Nhà hát Múa rối

nước Rồng Vàng của ông Huỳnh Anh Tuấn– Giám đốc sân khấu Idecaf, đồng

thời là Giám đốc Nhà hát Múa rối này. Ngoài ra còn có một số đội rối cạn của

Nhà thiếu nhi Thành phố và một số Trung tâm văn hóa thuộc các quận nội thành

với tổng số lượng diễn viên (cả rối nước và rối cạn) khoảng 100 người.

3.1.2. Về cách thức kết hợp sáng tạo/ sản xuất

* Đối với lĩnh vực Âm nhạc

Một hình thức mới chuyên nghiệp và hiệu quả hơn nhằm hướng tới sự

hoàn thiện trong sáng tạo âm nhạc xuất hiện đó chính là sự kết hợp của ca sĩ –

nhạc sĩ, tạo nên những cặp đôi ưng ý. Trước đây, sự kết hợp này đã mang lại

những thành công nhất định. Nhưng do công nghệ lăng xê ca sĩ xuất hiện và hoạt

động sôi nổi nên sự kết hợp này đã lắng xuống. Hiện nay, công nghệ lăng xê tỏ

ra yếu kém và không hiệu quả thì sự kết hợp này đang tạo ra một sắc thái mới,

chứng tỏ được sự chuyên nghiệp của làng showbiz Việt đang làm mưa làm gió

tại thị trường âm nhạc Tp. Hồ Chí Minh. Tiêu biểu cho sự kết hợp này đó là

nhạc sĩ Lê Minh Sơn với ca sĩ Thanh Lam, nhạc sĩ Anh Quân với ca sĩ Mỹ Linh,

nhạc sĩ Quốc Trung với ca sĩ Hồng Nhung, nhạc sĩ Nguyễn Thiện Thanh với ca

sĩ Đoan Trang…

Sự chuyển biến rõ nhận thấy nhất hiện nay trên thị trường âm nhạc Thành

phố là chuyện làm “liveshow” của các ca sĩ. Từ sau phát biểu của nam ca sĩ Đàm

Vĩnh Hưng rằng sẽ chuyển hướng phát triển, tiếp cận khán giả bằng các buổi

biểu diễn nhỏ ở các phòng trà hoặc tụ điểm ca nhạc, đến tuyên bố công khai trên

các báo chí của “ông bầu” Hoàng Tuấn và ca sĩ Đan Trường là sẽ tạm thời không

làm chương trình lớn thì trong giới “showbiz” Thành phố đã phát triển xu hướng

chuyển từ những dự án làm chương trình lớn sang các chương trình biểu diễn

vừa và nhỏ ở các tụ điểm ca nhạc, phòng trà, nhà hàng, khách sạn cao cấp…

Cách làm này tuy cũ nhưng thực tế hơn, dễ tiếp cận khán giả. Xu hướng này

chứng tỏ các ca sỹ, nhà tổ chức đã rất nhạy cảm với sự biến động của thị trường

âm nhạc trong thời buổi kinh tế đang ngày càng khó khăn.

68

Xu hướng tiếp theo của thị trường âm nhạc Thành phố là nhiều ca sỹ nổi

tiếng hiện nay đã quay ngược ra Bắc mua bài hát của một số nhạc sỹ Hà Nội. Xu

hướng này chứng tỏ các ca sỹ muốn tìm một nguồn cảm xúc mới cho việc thể

hiện ca khúc. Hơn nữa, đó cũng là cách để họ thể hiện thái độ rõ ràng với việc

không thể chấp nhận tình trạng kiểu nhạc ngoại, lời nội, bằng cách sao chép nhạt

nhòa đã thao túng thị trường âm nhạc Thành phố bấy lâu nay.

Thêm một minh chứng cho sự phát triển của công nghiệp văn hóa trong

lĩnh vực biểu diễn âm nhạc là các ca sỹ, nhạc sỹ, nhóm-ban nhạc đã nhận thức

được rằng dù thị trường nhạc “mì ăn liền” phục vụ giới trẻ vẫn còn nhiều tiềm

năng để khai thác. Thế nhưng, nếu cứ tiếp tục sản xuất, biểu diễn những tác

phẩm thiếu giá trị nghệ thuật để thỏa mãn nhu cầu đơn thuần giải trí này thì vô

tình họ đã đánh mất vai trò quan trọng của âm nhạc là khơi gợi trong con người

những tình cảm thẫm mỹ tốt đẹp. Vì vậy, từ cuối năm 2010 đến nay, số lượng

các ca khúc dạng này đã giảm hẳn trên thị trường. Các ca sỹ đã ý thức hơn trong

việc chọn bài hát để thể hiện và phát hành album ngày càng có chất lượng. Đây

là một tín hiệu vui về một sự đổi mới toàn diện của thị trường âm nhạc Thành

phố trong việc đáp ứng nhu cầu của công chúng.

*Đối với lĩnh vực sân khấu Kịch nói

Cũng như thị trường của một số lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn khác, chất

lượng sản phẩm gắn với thương hiệu và diễn viên ngôi sao... là yếu tố hàng đầu

trước sự cạnh tranh ngày càng gay gắt của thị trường nghệ thuật hiện nay. Các

diễn viên muốn trụ lại trên sàn diễn phải không ngừng học tập, làm mới mình để

khẳng định tài năng với khán giả. Như vậy, sức cạnh tranh trên thị trường kịch

nói đang diễn ra rất sôi động. Sự cạnh tranh này, xét ở góc độ nào đó thì hơi

khắc nghiệt bởi nó dễ tạo một bầu không khí căng thẳng trên thị trường sân

khấu, tuy nhiên đây là điều cần thiết khi chúng ta đang từng bước phát triển toàn

diện nền công nghiệp văn hóa nước nhà. Đối với lĩnh vực sân khấu Kịch nói, đó

là sự cạnh tranh trong sáng tạo thể loại, sự chuyển thể tác phẩm nghệ thuật, sự

kết hợp giữa một số loại hình nghệ thuật...

69

Sáng tạo trong thể loại với xu hướng phát triển hài kịch

Bên cạnh các sân khấu chuyên về kịch hài, hiện nay, do nhu cầu giải trí

của khán giả ngày càng cao nên hầu hết các sân khấu kịch tại Thành phố đều đầu

tư dựng hài kịch. Nhận định về vấn đề này, ông Huỳnh Anh Tuấn – Giám đốc

sân khấu Idecaf cho biết:

Thành phố Hồ Chí Minh là một thành phố công nghiệp rất năng động,

luôn hối hả và có phần căng thẳng. Vì vậy, nhu cầu “được cười” của

công chúng rất cao. Sau những ngày làm việc căng thẳng, họ không

muốn gì hơn là những tiếng cười sảng khoái để chuẩn bị cho một ngày

làm việc mới. Vì lẽ đó, hiện nay, nhiều sân khấu đầu tư phát triển hài

kịch để thu hút khán giả.

Khi được hỏi “Liệu còn lý do nào khác khiến hài kịch đang phát triển rất

mạnh không? Ông Tuấn cho biết thêm “Vì dựng một vở hài kịch đơn giản hơn

rất nhiều so với chính kịch, nhất là khâu kịch bản, đầu tư cho hài kịch đỡ tốn

kém hơn nhưng đời sống của vở lâu hơn, lợi nhuận thu được lớn hơn. Vì vậy,

các đơn vị đang chạy đua dựng hài kịch để thu lợi nhuận” [Phụ lục 3].

Chính vì kinh doanh hài kịch lợi nhuận cao nên sân khấu hài đã thu hút một

lực lượng lớn các tác giả, đạo diễn và diễn viên. Hiện nay, ước tính có đến 2/3

diễn viên kịch chạy theo diễn hài. Thành phố hiện có khoảng 50 nhóm hài hoạt

động thường xuyên với tổng số diễn viên khoảng 170 người. Trung bình mỗi năm,

thị trường Thành phố được bổ sung khoảng 100 tiểu phẩm hài. Một thị trường đa

dạng sản phẩm kịch hài đã tạo điều kiện cho những người yêu kịch có thêm sự lựa

chọn để đáp ứng nhu cầu giải trí của mình.

Xu hướng chuyển thể tác phẩm văn học sang kịch bản sân khấu

Xu hướng này ra đời trong bối cảnh số lượng kịch bản sân khấu có chất

lượng chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Hơn nữa, việc chuyển thể

những tác phẩm từng nổi tiếng một thời còn để tận dụng lượng đọc giả đã từng

đam mê những tác phẩm văn học này.

Đi đầu trong việc chuyển thể này là sân khấu Hồng Vân. Một loạt vở kịch

được sân khấu này xây dựng từ các tác phẩm thuộc dòng văn học hiện thực phê

70

phán của thế kỷ XX như “Số đỏ” - tiểu thuyết cùng tên của Vũ Trọng Phụng,

“Chị Dậu” - chuyển thể từ truyện“Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, “Làm đĩ”- chuyển

thể từ tiểu thuyết “Bỉ vỏ”của Nguyên Hồng.

Kế đến là sân khấu Idecaf với vở “Hãy khóc đi em”- chuyển thể từ truyện

ngắn “Trăng nơi đáy giếng” của Trần Thuỳ Mai; sân khấu nhỏ 5B với vở“Người

đàn ông của trời” - chuyển thể từ truyện ngắn “Làn môi đồng trinh” của Võ Thị

Hảo; Nhà hát Kịch Thành phố phối hợp Nhạc viện Thành phố dựng vở“Cánh

đồng bất tận”và“Hiu hiu gió bấc” từ hai truyện ngắn cùng tên của Nguyễn

Ngọc Tư. Ngoài ra, tác giả Hoàng Linh Hương cũng chuyển thể một số tiểu

thuyết của cố nhà văn, nhà viết kịch Ngọc Linh thành kịch bản sân khấu.

Dù hiệu quả của các vở kịch chuyển thể này vẫn còn một khoảng cách so

với tác phẩm văn học, nhưng phần nào đã thu hút được khán giả vì họ có thể

được nhìn thấy những nhân vật bằng xương, bằng thịt mà họ đã đọc qua các

trang sách. Hơn nữa, đây cũng là cách để tạm thời về kịch bản cho sân khấu kịch

nói Thành phố.

Xu hướng kết hợp yếu tố điện ảnh với kịch nói

Xu hướng này mới được sân khấu Kịch Sài Gòn và Nhà hát kịch Thành

phố áp dụng đầu tiên. Trong vở “Người thi hành án tử” – của Nhà hát Kịch Tp.

Hồ Chí Minh, đến cảnh nhân vật nói chuyện với những linh hồn trong nghĩa

trang, ngoài giọng nói phát ra từ nghĩa trang – do một người từ sau cánh gà nói,

trên màn hình máy chiếu của sân khấu còn xuất hiện những cái tên chớp sáng từ

một bản danh sách các liệt sĩ. Không cụ thể hóa ra hình người, nhưng khán giả

ngồi xem ai cũng hiểu mỗi cái tên là một linh hồn tham gia cuộc nói chuyện, lại

còn được "cường độ giác cảm" của những linh hồn trong từng nhịp chớp sáng.

Đây là một vở kịch thành công tiêu biểu trong việc đưa các yếu tố điện ảnh vào

kịch trên thị trường kịch nói hiện nay. Đạo diễn Đức Thịnh cho biết “Khi nói

đến việc lấy yếu tố điện ảnh để đưa vào kịch là muốn nói đến việc sử dụng các

thủ pháp nghệ thuật của điện ảnh chứ không có nghĩa là sử dụng sản phẩm của

điện ảnh”. Dù việc sử dụng các yếu tố điện ảnh vào kịch nói chỉ mới dừng lại ở

71

những thử nghiệm bước đầu và còn nhiều hạn chế, tuy nhiên đây là một bước

phát triển mới của nền công nghiệp biểu diễn của nghệ thuật kịch nói Thành phố.

Sự kết hợp này đã mang đến cho khán giả những cảm xúc mới mẻ và thú vị.

Trong tương lai, nếu có một định hướng tốt thì xu hướng này sẽ tạo nên những

điều mới mẻ trong kịch mục.

Sự hình thành những tổ chế tác kịch bản là biểu hiện rõ nét nhất sự phát

triển ngày càng toàn diện, chuyên nghiệp hơn nền công nghiệp biểu diễn của sân

khấu kịch Thành phố. Sự ra đời của bộ phận này góp phần làm giảm tình trạng

khan hiếm nguồn kịch bản sân khấu như hiện nay. Nó cũng hạn chế sự mâu

thuẫn giữa tác giả kịch bản và đạo diễn, bởi nguyên tắc hoạt động của tổ chế tác

là phải có sự thống nhất trước khi kịch bản được đưa lên sàn tập. Tác giả Nguyễn

Thị Minh Ngọc nói: “Việc hình thành tổ chế tác kịch bản là một bước phát triển

đáng mừng của sân khấu kịch. Các nước có công nghệ điện ảnh, sân khấu tiên tiến

đều đã làm theo cách này”. Nghệ sĩ Phước Sang cho biết thêm “Tổ chế tác phải

tuân theo nguyên tắc: không đem ý tưởng của tổ kể cho bất cứ một tác giả nào nghe

vì chỉ cần nghe ý tưởng là tác giả có thể tự viết thành kịch bản”.

Công việc của tổ chế tác kịch bản là đi tìm ý tưởng, dựng kịch bản, đặc

biệt là lên chiến lược dàn dựng, tiếp thị để thu hút khán giả, dự đoán sức hút trên

thị trường. Một yếu tố quan trọng nữa là tổ chế tác biết “ đo ni đóng giày” cho

từng nghệ sĩ. Vì tác giả thường trực nên họ biết được ưu điểm của từng người.

Đây là mô hình hoạt động mới mà tiên phong là công ty chuyên cung cấp ý

tưởng kịch bản Cánh đồng gió do nghệ sĩ Đức Thịnh và Thanh Thúy thành lập.

Tiếp đó, một số công ty cung cấp ý tưởng khác cũng được khai trương như Lúa

mới, Mặt trời bé con, Huyền thoại…Việc thành lập công ty cung cấp ý tưởng cho

sân khấu kịch là một bước tiến đáng kể. Về mặt kinh tế, để đảm bảo các thành

viên của tổ chế tác yên tâm sáng tạo, ngoài mức lương cứng, tổ chế tác còn nhận

tiền tác quyền 6.0% trên tổng doanh thu mỗi suất hoặc lãnh từ 10 đến 15 triệu

đồng trọn gói. Thực tế sôi động trên thị trường sân khấu kịch nói trong những

năm gần đây đã chứng tỏ tính hiệu quả của các tổ chế tác.

72

*Đối với lĩnh vực Múa

Mối quan hệ giữa diễn viên múa - vũ đoàn - ca sỹ và các công ty tổ chức

sự kiện là một mắt xích vô cùng chặt chẽ. Các vũ đoàn muốn tồn tại và phát

triển, ngoài việc luôn có những sản phẩm đáp ứng được yêu cầu còn phải thiết

lập mối quan hệ thật tốt với các ca sỹ, công ty tổ chức sự kiện. Ngược lại, các ca

sỹ, công ty tổ chức sự kiện muốn có một chương trình hoành tráng, toàn diện thì

cũng không thể thiếu sự có mặt của các vũ đoàn. Những điệu nhảy trẻ trung, sôi

động của họ sẽ làm sân khấu thêm nhiều màu sắc. Chính vì vậy, việc ca sỹ hát

kèm theo nhóm múa minh họa đang là một mốt trong đời sống “showbiz” Thành

phố hiện nay. Thậm chí có một vài ca sỹ có tên tuổi còn thuê hẳn cả vũ đoàn

riêng cho mình như Đan Trường, Mỹ Tâm, Hồ Ngọc Hà...

3.1.3. Đầu tƣ cơ sở vật chất, khoa học, công nghệ trong sáng tạo/sản xuất

Cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động biểu diễn nghệ thuật

*Đối với lĩnh vực sân khấu Kịch nói: Hiện nay, có trên 12 sân khấu kịch

đang hoạt động tại địa bàn Tp. Hồ Chí Minh. Đang chiếm lĩnh thị trường kịch

nói Thành phố là: sân khấu Idecaf của Công ty TNHH Sân khấu Nghệ thuật Thái

Dương, sân khấu Hồng Vân của Công ty cổ phần Sân khấu Điện ảnh VTTM, sân

khấu Kịch Sài Gòn của công ty Văn hóa Giải trí Phước Sang, sân khấu Nụ Cười

Mới của Công ty TNHH Nụ Cười Mới, Nhà hát Kịch sân khấu nhỏ 5B của Hội

Nghệ sỹ Thành phố, Sân khấu Thế Giới Trẻ của Công ty Sài Gòn Phẳng, Nhà

hát kịch Thành phố Hồ Chí Minh trực thuộc Nhà nước… Ngoài ra, thị trường

kịch Thành phố còn có sự góp sức của hàng chục nhóm kịch, diễn viên tự do.

Trong số các cơ sở kể trên thì sân khấu kịch Hồng Vân là đơn vị kinh

doanh sở hữu nhiều điểm biểu diễn nhất Thành phố hiện nay. Cụ thể:

+ Cơ sở 1: Sân khấu Phú Nhuận tại số 70 – 72, đường Nguyễn Văn Trỗi,

Quận Phú Nhuận với sức chứa khoảng 400 khán giả;

+ Cơ sở 02: Sân khấu Superbowl tại lầu 1, TTTM Superbowl, số 43A,

đường Trường Sơn, Quận Tân Bình với sức chứa khoảng 300 khán giả;

73

+ Cơ sở 3: Sân khấu VM tại lầu 1, TTTM Superbowl, số 43A, đường

Trường Sơn, Quận Tân Bình với sức chứa khoảng 70 khán giả.

Tất cả các cơ sở trên đều được đầu tư hệ thống ghế ngồi, âm thanh, ánh

sáng, sân khấu cùng các trang thiết bị chuyên dụng chất lượng đủ để

đám bảo phục vụ tốt nhất cho các đêm diễn. Riêng tại cơ sở 2 còn được

đầu tư không gian chờ, không gian ẩm thực nhẹ và không gian triển

lãm, trưng bày hình ảnh của các nghệ sỹ sân khấu kịch qua nhiều thời

kỳ, cùng với đó là những bức ảnh liên quan đến các hoạt động của nghệ

thuật sân khấu Thành phố nói chung và sân khấu kịch Hồng Vân nói

riêng. Đặc biệt, hệ thống ghế ngồi tại cơ sở này rất hiện đại và tiện

dụng. Có thể nói, sân khấu Superbowl là điểm diễn kịch nói duy nhất tại

Tp. Hồ Chí Minh hiện nay xây dựng được một không gian nghệ thuật

hoàn thiện, thẩm mỹ và phù hợp với xu thế xây dựng sân khấu, nhà hát

của các nước tiên tiến trên thế giới. Chính nhờ sở hữu một hệ thống cơ

sở vật chất khá hoàn thiện đã góp phần nâng tầm thương hiệu kịch Hồng

Vân so với các đối thủ trên phạm vi Tp. Hồ Chí Minh [59, tr.42].

* Đối với lĩnh vực Âm nhạc: Tp. Hồ Chí Minh hiện có khoảng 20 địa

điểm có thể phục vụ biểu diễn nghệ thuật. Nhà hát Hòa Bình - Nhà hát hiện đại

nhất Việt Nam với sức chứa 2.400 chỗ. Nhà hát Bến Thành, sức chứa khoảng

1.046 chỗ. Nhà hát Thành phố là địa điểm lý tưởng cho các chương trình nghệ

thuật hàn lâm. Có lẽ, trên địa bàn Thành phố hiện nay, sân khấu Lan Anh được

xem là địa điểm biểu diễn lý tưởng nhất với sức chứa khoảng 2.500 chỗ cùng hệ

thống âm thanh, ánh sáng tương đối tốt. Nhà hát Giao hưởng và Vũ kịch Tp. Hồ

Chí Minh, Sân khấu ca nhạc Trống Đồng, Sân khấu ca nhạc Cầu Vòng 126, Nhà

hát Đại Đồng, CLB Phan Đình Phùng, Nhà thi đấu Nguyễn Du và sân vận động

Quân khu 7 cũng là địa điểm biểu diễn thường xuyên của hầu hết các nghệ sỹ

trong lĩnh vực âm nhạc.

Riêng lĩnh vực nghệ thuật Múa cho đến nay vẫn chưa có một sân khấu hay

địa điểm nào dành riêng cho lĩnh vực này. Các chương trình biểu diễn nghệ thuật

Múa đều phải thuê địa điểm hoặc biểu diễn cùng với các chương trình ca nhạc.

74

Nguồn nhân lực sử dụng các công nghệ, kỹ thuật hiện đại

Trong tất cả các hoạt động về sân khấu (ca nhạc, kịch...) âm thanh, ánh

sáng là những lĩnh vực không thể thiếu được, nó hòa nhập vào chương trình như

xương sống và kịch bản là linh hồn của buổi biểu diễn. Đổi mới khoa học, kỹ

thuật và công nghệ là một trong hai hướng cơ bản để phát triển công nghiệp văn

hóa bên cạnh sự mở rộng, chiếm lĩnh thị trường.

Để đổi mới khoa học công nghệ, trước hết, phải là việc đầu tư đào tạo đội

ngũ kỹ thuật viên kỹ thuật âm thanh, ánh sáng, hậu đài, hóa trang, phục trang...

Hiện nay có một số cơ sở đào tạo đội ngũ này, đó là Khoa Kỹ thuật âm thanh,

ánh sáng của trường Đại học Hoa Sen, Đại học Mỹ thuật, Đại học Hồng Bàng và

Đại học Sân khấu – Điện ảnh Tp. Hồ Chí Minh. Ngoài ra, còn có một số công ty

tư nhân mở đào tạo các lớp chuyên về sử dụng công nghệ, kỹ thuật cao trong sân

khấu kịch. Tiêu biểu là Công ty Cổ phần đào tạo nghề và kỹ thuật thiết bị âm

thanh ánh sáng Đông Dương Tp. Hồ Chí Minh. Các cơ sở đào tạo này đã giúp

sinh viên hiểu rõ lý thuyết về âm thanh, ánh sáng, giải mã công nghệ, thiết bị âm

thanh, ánh sáng hiện đại trên thế giới để khai thác các tính năng của thiết bị.

Những sinh viên này sau khi ra trường đã trở thành những kỹ thuật viên chuyên

nghiệp sử dụng các công nghệ kỹ thuật hiện đại phục vụ cho các sân khấu.

Hiện tại, trừ một số đơn vị nghệ thuật Trung ương, mặc dầu Nhà nước có

chính sách đầu tư, nhưng các đơn vị nghệ thuật công lập vẫn thường xuyên phải

đối phó với tình trạng thiết bị âm thanh thiếu thốn, lạc hậu. Trong khi đó, các

đơn vị ngoài công lập đã tự đầu tư trang thiết bị và sử dụng các trang thiết bị kỹ

thuật cho biểu diễn nghệ thuật tương đối hiện đại. Ngoài ra, ở Tp. Hồ Chí Minh

hiện nay có những công ty chuyên cho thuê công nghệ tổ chức sân khấu. Những

thiết bị nâng cấp mau chóng đáp ứng nhu cầu thưởng thức của công chúng.

Hiện nay, để một ca sĩ biểu diễn trên sân khấu đạt được hiệu quả cao thì

phải nhờ đến sự can thiệp kỹ thuật công nghệ hiện đại. Đó là: Các thiết bị thu âm

(Microphon), trong đó Model Shure thông dụng nhất là SM 58 để thu giọng hát

trung thực và không bị tạp âm; các thiết bị Pre – ampli (tiền khuyếch đại); các

75

thiết bị kỹ xảo (effect) biến chất âm thanh làm tăng hiệu quả tới người nghe. Đó là

thiết bị Echo, Delay, thiết bị này là thành phần chính, không thể thiếu được trong

âm thanh sân khấu. Từ một âm thanh (voive) đơn giản, nó có thể tạo thêm Echo

(tiếng vọng) Delay (lập lại), Reverb (vang ra), Chorus (đồng ca) và hàng trăm thứ

tiếng khác (Multi effeet).

Ngoài ra, còn sử dụng bàn Mixer kiểm soát tín hiệu âm thanh: Amplifer

công suất lớn (Peavey, crown...). Đèn sân khấu Led par RGBW 54+3W, Moving

head Led, Moving head beam, màn hình Led P8.928, P6.67, P3.906, âm thanh

công suất lớn, ánh sáng công suất lớn, bảng Led tạo hiệu ứng hào quang, biểu

tượng chuyển động, Led Matrix...

Trong quá trình khảo sát thực tế, NCS đã tìm hiểu về việc ứng dụng công

nghệ trong hoạt động biểu diễn sân khấu tại Tp. Hồ Chí Minh. Khi được hỏi về

sử dụng loại kỹ thuật - công nghệ trước đây và loại kỹ thuật - công nghệ hiện tại,

chúng tôi đã nhận thấy sự thay đổi khá rõ. Đó là, nếu như trước đây hệ thống ánh

sáng bằng bàn điều khiển tín hiệu DMX thì nay sử dụng hệ thống điều khiển ánh

sáng bằng tín hiệu DMX 512chanel; kỹ thuật - công nghệ chiếu sáng trước đây

sử dụng đèn Par 64, đèn Profile và đèn Fresnell thì hiện nay chủ yếu sử dụng lại

đèn Parled, đèn Moving head; về hệ thống âm thanh, trước đây sử dụng bàn điều

khiển cơ (Allen heat) nay đã được thay thế bằng bàn điều khiển kỹ thuật số

Yamaha 48 chanel hiện đại hơn nhiều [Phụ lục 1.6]. Với tiến bộ của công nghệ

thông tin, cái nhìn được đẩy đến giới hạn của cái thật và ảo. Nhờ công nghệ số

và máy điện toán mà người ta có thể mô phỏng được mọi loại âm sắc, mọi loại

nhịp điệu...và hòa quyện chúng để sáng tạo ra nhiều loại âm nhạc.

Xu hướng số hóa, tích hợp công nghệ ngay trong chính các tác phẩm nghệ

thuật, làm nhòe ranh giới các loại hình nghệ thuật bởi công nghệ đòi hỏi ngành

nghệ thuật biểu diễn phải thay đổi với sự thay đổi về tư duy sáng tạo, đầu tư áp

dụng công nghệ, đầu tư thay đổi quy trình sản xuất tác phẩm, sản phẩm. Việc áp

dụng những thành tựu công nghệ mới sẽ hỗ trợ tích cực cho việc ghi âm, ghi

hình và lưu trữ bằng băng từ, đĩa CD, VCD chương trình biểu diễn nghệ thuật.

76

Các tác phẩm nghệ thuật biểu diễn có thể được sao lưu, nhân bản và phổ biến

rộng rãi tới đông đảo quần chúng. Nhưng đây cũng chính là những thách thức

đối với hoạt động biểu diễn nghệ thuật trực tiếp, nếu không nổ lực cố gắng đổi

mới, phát triển thì khó có thể tồn tại.

3.2. THỰC TRẠNG CÔNG NGHỆ TỔ CHỨC BIỂU DIỄN VÀ DOANH THU

3.2.1. Về công nghệ tổ chức biểu diễn

*Đối với lĩnh vực Âm nhạc

Hiện nay, Tp. Hồ Chí Minh là địa phương có công nghệ tổ chức các sự

kiện âm nhạc phát triển mạnh nhất so với cả nước. Các công ty có thương hiệu

trong việc tổ chức các sự kiện âm nhạc đều tập trung ở Thành phố này. Ngoài ra,

Thành phố còn sở hữu một lực lượng lớn các đạo diễn chương trình âm nhạc có

thực tài, nhờ đó, những ý đồ nghệ thuật của ca sỹ, nhóm nhạc được thực hiện

một cách dễ dàng, đồng bộ và mang lại hiệu quả đáng tin cậy.

Không những thế, nơi đây còn có sự gắn kết hết sức chặt chẽ giữa: ca sỹ-

nhóm/ban nhạc - nhạc sỹ - công ty tổ chức sự kiện và giới truyền thông trong

việc quảng bá hình ảnh. Truyền thông đã dựa vào sức hút rất mạnh của các sản

phẩm âm nhạc với khán thính giả - nhất là khán giả trẻ để phát triển. Hiện đã có

rất nhiều kênh phát thanh và truyền hình dành riêng cho âm nhạc ở địa bàn

Thành phố. Ngược lại các ca sỹ, nhóm - ban nhạc, nhạc sỹ, các công ty tổ chức

muốn tồn tại và phát triển cũng không thể không cần đến sự quan tâm của giới

truyền thông - một công cụ thông tin có sức lan tỏa rất mạnh đối với thị trường.

Nắm bắt được sức mạnh của truyền thông, hầu hết các ca sỹ khi phát hành an-

bum đều phát hành cả đĩa hình, đĩa tiếng và chủ động mời đạo diễn ghi hình một

hoặc nhiều bài hát để quảng bá hình ảnh trên truyền hình. Đây là mối quan hệ

hữu cơ không thể tách rời, một dây chuyền khép kín, mang tính tất yếu trong bối

cảnh cạnh tranh trên thị trường hiện nay, là minh chứng thiết thực cho sự phát

triển vượt bậc của tính công nghiệp trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn âm nhạc.

Ở một số chương trình ca nhạc do tư nhân tổ chức hoặc có tài trợ tại một

số sân khấu Tp. Hồ Chí Minh đã gây được tiếng vang đối với lượng khán giả trẻ.

77

Có được những thành công này là nhờ một phần không nhỏ của các yếu tố kỹ

thuật công nghệ. Đối với khán giả ngày nay, nhất là khán giả trẻ, họ đi xem biểu

diễn nhiều hơn là nghe biểu diễn. Một màn hình khổng lồ làm phông hậu, ánh

sáng lúc thì sáng rực toàn bộ dàn nhạc, lúc thì chỉ đặc tả một nhạc công đang

solo, màu sắc biến đổi đa dạng… sẽ làm cho người thưởng thức cảm thụ tốt hơn.

Vì vậy, yếu tố kỹ thuật công nghệ âm thanh, ánh sáng, trang phục, hóa trang…

hệ thống trang thiết bị hiện đại đóng vai trò không thể thiếu đối với một chương

trình biểu diễn nghệ thuật.

Sự phát triển của công nghệ tổ chức và biểu diễn trong lĩnh vực âm nhạc

còn được góp sức bởi một lực lượng lớn phóng viên, nhiếp ảnh của các kênh

truyền thông, báo chí có trình độ tác nghiệp cao; sự phát triển dây chuyền tiếp thị -

PR chuyên nghiệp của nhà tổ chức, một hệ thống nhà hát, sân khấu lớn cùng hạ

tầng cơ sở kỹ thuật, đặc biệt đây còn là Thành phố sở hữu một thị trường tiêu thụ

khoảng 10 triệu dân mà đa phần là những người trẻ, có đời sống kinh tế tương

đối cao. Với những điều kiện thuận lợi như trên, không những các sự kiện âm

nhạc mà hầu hết các ca sỹ, nhóm - ban nhạc, nhạc sỹ, công ty tổ chức sự kiện âm

nhạc luôn chọn Tp. Hồ Chí Minh là ưu tiên hàng đầu để phát triển thị trường.

*Đối với lĩnh vực sân khấu Kịch nói

Trong ngành nghệ thuật biểu diễn, do đặc điểm của hoạt động biểu diễn

trực tiếp nên quá trình diễn viên, nghệ sỹ biểu diễn trên sân khấu và quá trình

đưa sản phẩm nghệ thuật đó đến với công chúng xảy ra song song. Để những tác

phẩm nghệ thuật đến được với người tiêu dùng một cách rộng rãi, nhiều đơn vị

sân khấu đã tổ chức lưu diễn.

Trong vài năm trở lại đây, sân khấu kịch không chỉ phát triển tại thị

trường Thành phố mà nhiều đơn vị đã mạnh dạn đầu tư cho những chuyến lưu

diễn trong khắp cả nước. Tiên phong cho hoạt động này là sân khấu Hồng Vân, họ

đã mang vở “Người vợ ma” đi lưu diễn 10 tỉnh phía Nam. Nghệ sỹ Hồng Vân -

Giám đốc sân khấu này chia sẻ về chuyến lưu diễn này: “Mục tiêu ban đầu của

chuyến lưu diễn là chỉ để các diễn viên trẻ của đoàn có cơ hội khẳng định tài

78

năng của mình trong một môi trường mới chứ chưa dám tính chuyện lợi nhuận”

[Phụ lục 3]. Tuy nhiên, thực tế chuyến lưu diễn trên đã thành công ngoài mong

đợi, đến mức nghệ sỹ Hồng Vân đã quyết định đưa vở kịch trên đi lưu diễn lần

thứ hai và vẫn được đông đảo khán giả ủng hộ.

Học hỏi kinh nghiệm từ chuyến lưu diễn của nghệ sỹ Hồng Vân, Nhà hát

Kịch Thành phố đưa vở “Niềm tin bị đánh cắp” và hai vở kịch thiếu nhi đến các

tỉnh miền Trung và Tây Nguyên biểu diễn. Đạo diễn Hoàng Duẩn cho biết: “Tất

cả suất diễn đều “cháy vé”. Tại mỗi địa phương, đoàn thường diễn hai ngày

nhưng ngay trong ngày đầu, vé của ngày sau đã bán hết”. Sự ủng hộ của khán giả

các tỉnh thành đã tiếp thêm sức mạnh cho Hoàng Duẩn, giống như bà bầu Hồng Vân,

quyết định đưa “Niềm tin bị đánh cắp” lưu diễn lần hai đến các tỉnh miền Tây.

Vừa qua, sân khấu kịch Idecaf đã có chuyến lưu diễn tại Mỹ với vở “Hợp

đồng mãnh thú” (tháng 4/2015) và tháng 7 tới tiếp tục sang Mỹ để diễn thêm 3

suất nữa. Ngoài ra sân khấu này còn dự định một năm hai lần đưa các vở kịch và

múa rối nước sang diễn tại Mỹ. Từ đây mở ra một triển vọng sẽ có thêm nhiều

vở kịch trong nước diễn bán vé ở nước ngoài.

Việc đưa các vở kịch lưu diễn là dấu hiệu đáng mừng cho đời sống sân

khấu hiện nay. Bởi sự sôi động như thế, không những mang lại những giá trị văn

hóa tinh thần cho người dân mà còn góp phần tạo nên tên tuổi của nhiều diễn

viên, đạo diễn trẻ cho sân khấu kịch.

*Đối với lĩnh vực Múa

Ở lĩnh vực Múa, trong khi cả nước đang gặp lúng túng trong phát triển

lĩnh vực này thì ở Tp. Hồ Chí Minh đã tìm được hướng đi riêng. Các diễn viên múa (chủ yếu là múa minh họa) không còn hoạt động độc lập như trước

mà thường tập hợp nhau thành nhóm. Sau một thời gian lớn mạnh, nhóm này

phát triển thành những vũ đoàn chuyên nghiệp. Thậm chí hiện nay, một số vũ

đoàn lớn đã lập công ty riêng để dễ dàng trong khâu tổ chức trọn gói kiêm

luôn vai trò đào tạo các diễn viên cho vũ đoàn như vũ đoàn Phương Việt,

ABC, Rạng Đông...

79

3.2.2. Doanh thu

Khi nhìn nhận nghệ thuật biểu diễn dưới góc nhìn của một ngành công

nghiệp văn hóa thì không thể không bàn đến vấn đề doanh thu của các đơn vị

nghệ thuật. Đây là mục đích đầu tiên của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh

trong ngành công nghiệp không khói này.

Tuy nhiên, đối với Việt Nam nói chung, Tp. Hồ Chí Minh nói riêng, đây

là vấn đề không đơn giản. Bởi chúng ta chưa phát triển ngành công nghiệp văn

hoá theo đúng nghĩa, hơn nữa bài toán đặt ra vẫn phải giải quyết hài hoà mối

quan hệ giữa văn hoá và kinh tế trong phát triển kinh tế thị trường hiện nay. Lâu

nay, không ít bài báo đã nói đến cuộc đối đầu giữa nghệ thuật và doanh thu của

các doanh nghiệp văn hoá trong cơ chế kinh tế thị trường ở nước ta.

Sân khấu Kịch Tp. Hồ Chí Minh vốn năng động nhất cả nước với nhiều

điểm diễn do tư nhân bỏ vốn đầu tư luôn sáng đèn mỗi đêm nhưng cũng là nơi

thấy rõ nhất khoảng cách giữa nghệ thuật và doanh thu. Mặc dầu những người

làm sân khấu luôn mang trong mình nhiều tâm huyết.

Trong ngành công nghiệp văn hóa, trong đó có lĩnh vực nghệ thuật biểu

diễn, quá trình tiêu thụ sản phẩm phụ thuộc chặt chẽ vào yếu tố tâm lý, thị hiếu,

nhu cầu, sở thích và quan niệm về giá trị của khán giả. Chính vì vậy, có những

tác phẩm nghệ thuật được đầu tư nghiêm túc nhưng khi đưa ra thị trường thì lại

không được công chúng đón nhận. Chẳng hạn, vở nhạc kịch lịch sử Ngàn năm

tình sử của sân khấu kịch Idecaf phải bỏ ra 600 triệu đồng để dựng vở nhưng

phải diễn cả trăm suất mới có thể thu hồi được khoảng một phần ba vốn. Hay vở

Người thi hành án, Tả quân Lê Văn Duyệt được Nhà hát Kịch Tp. Hồ Chí Minh

dựng rất hoành tráng, đạt tính nghệ thuật cao nhưng khi công diễn thì không thu

hồi được vốn chứ chưa nói đến lợi nhuận. Vì vậy, để có thể có nhiều doanh thu

giữ chân các nghệ sĩ nhà hát phải dựng thêm những vở kịch mang tính giải trí.

Nhà hát Kịch Sân khấu nhỏ 5B Võ Văn Tần luôn được đánh giá là nơi có

nhiều vở kịch tử tế mang tính định hướng, không chạy theo thị hiếu dễ dãi và

cũng chính vì vậy mà mức doanh thu ở đây cũng khá khiêm tốn. Những vở được

80

dựng với mục đích thử nghiệm ở đây luôn được giới chuyên môn đánh giá cao

với nhiều sáng tạo, khám phá nhưng không phù hợp với thị hiếu của công chúng

đại trà nên thường diễn năm ba buổi là nghỉ. Những người làm sân khấu tâm

huyết bao giờ cũng muốn đưa hai khái niệm nghệ thuật và doanh thu về gần bên

nhau. Phải làm sao vừa đạt tới đỉnh cao của nghề vừa sống được bằng nghề, vừa

được giới chuyên môn nhìn nhận vừa được công chúng ái mộ, đó là mong ước

của những người tâm huyết với nghề. Thế nhưng, trong lĩnh vực nghệ thuật nói

chung và sân khấu nói riêng, giá trị nghệ thuật và hiệu quả doanh thu không phải

lúc nào cũng tỉ lệ thuận.

Trước cơn lốc của thị trường, các Nhà hát kịch ở phía Bắc có lẽ chìm hơn

so với các nhà hát, sân khấu kịch Tp. Hồ Chí Minh. Nhà hát Tuổi trẻ là đơn vị

duy nhất năng động, bên cạnh việc thỉnh thoảng dựng vài vở kịch kinh điển từ

tiền tài trợ của Nhà nước. Những năm gần đây, các nghệ sĩ của nhà hát đều phải

tìm “giải pháp tình thế” bằng các tiểu phẩm trong chương trình Đời cười để kiếm

doanh thu.

Câu chuyện doanh thu trong nền kinh tế thị trường hiện nay cũng là câu

chuyện sống còn của các nhà hát, nhất là sân khấu kịch tư nhân. Chính vì vậy

nên sân khấu Kịch Hồng Vân đã chọn cho mình con đường ở giữa, nghĩa là

không quá nghiêng về tính định hướng như Nhà hát 5B nhưng cũng không sa

vào tiếng cười dễ dãi như một số sân khấu khác. Sân khấu Hồng Vân muốn khai

thác nhiều thể loại đề tài, dàn dựng nhiều phong cách, đa dạng hóa vở diễn để

đáp ứng được nhiều đối tượng khán giả khác nhau nhưng vẫn phải đặt bài toán

lời lỗ lên trên hết. Chính vì vậy, trong khoảng 5 năm trở lại đây, Sân khấu kịch

Hồng Vân đã thu được nguồn doanh thu đáng kể.

Kết quả thống kê từ năm 2009 đến 2013 cho thấy doanh thu của Sân khấu

kịch Hồng Vân luôn tăng ở mức trung bình 13.9%/năm. Đây là mức tăng mà rất ít

sân khấu kịch nói tại Tp. Hồ Chí Minh đạt được trong bối cảnh khủng hoảng kinh

tế đã và đang có tác động một cách toàn diện và sâu sắc đến đời sống xã hội.

81

Biểu đồ 3.1:Tỷ lệ tăng doanh thu của Sân khấu kịch Hồng Vân giai đoạn 2009 – 2013

Nguồn: Công ty Cổ phần Sân khấu và Điện ảnh Vân Tuấn

So sánh tỷ lệ doanh thu tăng trung bình trong giai đoạn 2009 – 2013 của

sân khấu kịch Hồng Vân với một số sân khấu kịch cho kết quả như sau:

Biểu đồ 3.2: So sánh tỷ lệ tăng doanh thu của Sân khấu kịch Hồng Vân và một số sân khấu khác giai đoạn 2009 – 2013

82

Biểu đồ cho thấy tỷ lệ tăng doanh thu trung bình trong giai đoạn 2009 –

2013 của sân khấu kịch Hồng Vân gấp Idecaf 1,5 lần, gấp sân khấu Nhỏ 4.2 lần

và gấp sân khấu Hoàng Thái Thanh 2.8 lần [59, tr.70]

Biểu đồ 3.3: Tỷ lệ cơ cấu các yếu tố góp phần tăng doanh thu của Sân khấu kịch Hồng Vân giai đoạn 2009 – 2013 Biểu đồ cho thấy việc doanh thu của sân khấu Hồng Vân tăng qua các

năm chủ yếu là do tăng tỷ lệ ghế bán trong từng suất diễn (chiếm 41,2%) và tăng

suất diễn (chiếm 37,9%); trong khi đó việc tăng giá vé chỉ góp 12% và việc đưa

sân khấu Superbowl vào khai thác chỉ góp 8.9% vào tỷ lệ tăng doanh thu chung

của sân khấu Hồng Vân trong giai đoạn 2009 – 2013 [59, tr.72].

Bên cạnh đó, khi phân tích sâu về cơ cấu doanh thu giai đoạn 2009 – 2013

còn cho thấy kịch kinh dị và hài kịch đóng góp trung bình đến 72.7%/năm vào

việc doanh thu của sân khấu tăng, trong khi các dòng sản phẩm khác chỉ chiếm

27.3% [59, tr.72].

83

Biểu đồ 3.4: So sánh tỷ lệ đóng góp vào việc tăng doanh thu từ các dòng sản phẩm của Sân khấu kịch Hồng Vân giai đoạn 2009 – 2013

Đối với Sân khấu Kịch Ideaf, gần 20 năm hoạt động, đến nay sân khấu

này đã tạo được chỗ đứng và thương hiệu trong lòng khán giả. Với nguyên tắc

làm việc nghiêm túc và tâm huyết với nghề, quan niệm đặt nghệ thuật đi trước,

kinh tế theo sau, quan tâm giữ gìn thương hiệu và chăm sóc khách hàng… của

Giám đốc Huỳnh Anh Tuấn, càng ngày khán giả đến với sân khấu này càng đông

hơn. Chính vì vậy, trong những năm gần đây, doanh thu của Sân khấu kịch Ideaf

liên tục tăng trưởng. Cụ thể: Doanh thu năm 2011: 13.504.768.194 đồng, năm

2012: 56.873.325.648 đồng, năm 2013: 36.968.580.395 đồng, năm 2014:

53.653.805.137 đồng [Nguồn: Chi cục Thuế Thành phố].

Hay một số các chương trình nghệ thuật đạt được doanh thu khá cao như

chương trình “Cầm tay mùa hè” của nhạc sĩ Quốc Trung, bán vé tới 1,8 triệu

đồng, tổng thu hai đêm là 1,6 tỷ đồng [120].

3.3. THỰC TRẠNG PHÂN KHÖC THỊ TRƢỜNG VÀ VẤN ĐỀ BẢN QUYỀN

3.3.1. Thực trạng phân khúc thị trƣờng nghệ thuật biểu diễn

*Đối với lĩnh vực Âm nhạc

Trước hết, thị trường tiếp nhận/tiêu thụ của nghệ thuật biểu diễn thể hiện

ở việc phân khúc thị trường, nhất là trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay

gắt như hiện nay.

84

Năng lực của mỗi cá nhân, tổ chức biểu diễn có hạn, không thể đáp ứng

được nhu cầu của tất cả các phân đoạn thị trường là mang tính khách quan. Để

có thể cạnh tranh được, mỗi ca sỹ, nhạc sỹ, nhóm - ban nhạc và nhà tổ chức đều

quan tâm đến việc xác định được phân khúc thị trường của riêng mình. Từ đó

các đơn vị ít nhiều đã có chiến lược đầu tư hiệu quả, bền vững và tạo ra sản

phẩm đáp ứng được yêu cầu cơ bản của phân đoạn thị trường đó. Thời gian qua,

sự phát triển của thị trường âm nhạc Thành phố cho thấy những phân khúc thị

trường đã có sự chuyển biến mạnh mẽ nhờ các cá nhân, tổ chức nắm được đặc

trưng và nhu cầu của khán giả. Theo kết quả nghiên cứu cho thấy, nếu căn cứ vào

độ tuổi và trình độ thưởng thức âm nhạc thì Thành phố đang tồn tại các phân khúc

thị trường cơ bản sau:

+ Thị trường nhạc nhẹ: có phân khúc thị trường mục tiêu là những người trẻ

có độ tuổi từ 15 đến 25;

+ Thị trường nhạc dân gian đương đại, nhạc cổ điển – thính phòng: có phân

khúc thị trường mục tiêu là những người có trình độ thưởng thức âm nhạc;

+ Thị trường nhạc tiền chiến, nhạc cách mạng: có phân khúc thị trường mục

tiêu là những người lớn tuổi;

+ Thị trường nhạc hải ngoại: có phân khúc thị trường mục tiêu là những

người trong độ tuổi trung niên.

Tuy nhiên, nếu căn cứ vào mức thu nhập của người dân thì thị trường âm

nhạc Thành phố đang tồn tại hai phân khúc thị trường cơ bản là:

+ Phân khúc những người có thu nhập trên trung bình – đây là phân khúc có

biên độ hẹp hơn so với phân khúc còn lại;

+ Phân khúc những người có thu nhập thấp và trung bình – đây là phân khúc

có biên độ rất lớn.

Đối với một Thành phố vốn có nhịp sống rất năng động, một bộ phận lớn

là những người trẻ tuổi luôn tất bật, căng thẳng với công việc. Vì vậy, họ rất cần

những sản phẩm âm nhạc đơn thuần chỉ để giải trí, họ dễ dàng chấp nhận những

tác phẩm ít được trau chuốt về nghệ thuật, dễ thuộc, dễ hát. Hiệu quả nhiều khi

85

phải nhờ vào phần lớn hiệu ứng kỹ thuật phòng thu hiện đại và sự “đánh giá”

nhẹ nhàng hơn của giới truyền thông. Chính vì thế, với giới ca sĩ, nhạc sĩ trẻ, Tp.

Hồ Chí Minh được xem là nơi có thể giúp họ thực hiện được những điều mình

mong ước. Các phòng thu âm ở Tp. Hồ Chí Minh gần như hoạt động liên tục. Từ

khoảng năm 2000 trở lại đây, hàng loạt các sản phẩm âm nhạc với một lực lượng

ca sỹ “nhạc trẻ” hùng hậu ra đời và phát triển rất nhanh chóng. Hiện nay, dòng

“nhạc trẻ” cùng những sản phẩm của nó đang chi phối, chiếm lĩnh thị trường âm

nhạc Thành phố.

Đối với sự phát triển của các phân khúc thị trường chia theo mức thu

nhập, thị trường âm nhạc Thành phố trong thời gian qua cũng có nhiều ví dụ

điển hình. Tiêu biểu là các chương trình “liveshow” của một số ca sỹ nổi tiếng

như: “Vì ta cần nhau” của cặp ca sỹ Hồng Nhung - Quang Dũng với giá vé đến

3,000,000vnđ/vé. Hay như “Chuyện tình yêu” của ca sỹ Quang Dũng, “Dạ tiệc

trắng” của Đàm Vĩnh Hưng, chương trình biểu diễn của các ca sỹ Tuấn Ngọc,

Phạm Duy….đều chọn đối tượng phục vụ là những người có thu nhập cao vì giá

vé các chương trình này đều trên 1,000,000vnđ/vé. Phân khúc thị trường kiểu

này cũng được áp dụng đối với các buổi biểu diễn của các ca sỹ nổi tiếng tại một

số phòng trà trên địa bàn Thành phố hiện nay.

Ngược lại với lựa chọn phân đoạn thị trường này, các ca sỹ: Mỹ Lệ, Hồ

Ngọc Hà, Đoan Trang, Thanh Thảo, Đan Trường, Quang Vinh… hoặc các ca sỹ

hải ngoại: Phi Nhung, Hương Lan, Giao Linh... thường tổ chức những chương

trình nhỏ tại các sân khấu tụ điểm như sân khấu Trống Đồng, sân khấu 126 với

giá vé không quá 100.000vnđ/vé cho những khán giả có thu nhập thấp và trung

bình. Do giá vé hợp lý, trong khi phân khúc này có biên độ rất lớn nên những

chương trình thường đạt doanh thu khá cao, nhà tổ chức thu được lãi trong khi

khán giả Thành phố vẫn thỏa mãn được nhu cầu thưởng thức âm nhạc của mình.

Trong tương lai, khuynh hướng phân khúc theo thu nhập sẽ tiếp tục phát triển

mạnh mẽ hơn, góp phần làm cho đời sống âm nhạc Thành phố thêm sôi động.

Theo kết quả điều tra khán giả đến xem ca nhạc tại sân khấu Trống Đồng

và sân khấu 126, khi được hỏi: Theo ông/bà, giá vé tại sân khấu này như thế nào?

86

(trong khoảng 100.000đ/vé) thì 57.3% khán giả tham gia khảo sát cho rằng giá

vé phù hợp; 37.3% cho ý kiến giá vé rẻ; trong khi chỉ có 1.3% ý kiến cho rằng

rất cao và 4% cho rằng tương đối cao [Bảng 5, a.1, phụ lục 2]. Điều này cho

thấy, giá vé đã tạo nên lợi thế cạnh tranh của các đơn vị này so với các đối thủ

khác trên thị trường văn hóa nghệ thuật Thành phố. Giá vé là một trong những

công cụ marketing quan trọng nhất của mỗi đơn vị kinh doanh nghệ thuật biểu

diễn trong ngành công nghiệp văn hóa. Giá vé cùng với chất lượng sản phẩm sẽ

tạo nên một lợi thế cạnh tranh rất lớn cho các doanh nghiệp này.

Biểu 3.5: Đánh giá về giá vé tại sân khấu

Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án

*Đối với lĩnh vực sân khấu Kịch nói

Chính sức cạnh tranh của thị trường, để tồn tại, các sân khấu buộc phải đi

tìm đối tượng khán giả riêng của mình. Thị trường sân khấu Thành phố vì thế

được phân khúc khá rạch ròi. Sân khấu nào thì khán giả đó. Xét một cách tương

đối, những sản phẩm của sân khấu Idecaf dành cho khán giả trẻ cá tính, những

người làm văn phòng và các em thiếu nhi. Sân khấu Hồng Vân lại nhắm vào đối

tượng khán giả gốc Bắc ở quận Phú Nhuận, Gò Vấp. Trong khi đó, sân khấu nhỏ

87

5B thì hướng đến khán giả là tầng lớp trí thức và những người lớn tuổi. Sân khấu

Kịch Sài Gòn lại chọn đối tượng khán giả là giới bình dân, tiểu thương, bà con

gốc Hoa để phục vụ. Sân khấu Nụ Cười Mới lại chủ yếu khai thác lượng khán

giả hâm mộ danh hài Hoài Linh, Chí Tài và những người cần những tác phẩm

giải trí thuần túy. Nhà hát Kịch Thành phố phục vụ khán giả ngoại thành, vùng

sâu vùng xa, đơn vị bộ đội, các trường cai nghiện... Nếu phân khúc theo độ tuổi

thì nói chung các sân khấu kịch Tp. Hồ Chí Minh đều tập trung vào khai thác đối

tượng khán giả trẻ tuổi và người trưởng thành để phục vụ. Khán giả trong độ tuổi

vị thành niên, học sinh, thiếu nhi – một trong những phân khúc rất giàu tiềm

năng bởi biên độ phát triển của phân khúc này còn rất rộng thì chưa được quan

tâm đúng mức.

Mỗi phân đoạn thị trường có những đặc trưng khác nhau, vì vậy các sân

khấu phải xây dựng những kịch bản phù hợp nhu cầu các phân khúc thị trường

của riêng mình. Đối với sân khấu nhỏ 5B đó chính là những vở bi kịch, chính

kịch; trong khi đó, Nhà hát Kịch Thành phố với tư cách là một sân khấu quốc

doanh, chủ yếu dựng những vở mang tính thể nghiệm và phục vụ nhiệm vụ

chính trị. Còn thương hiệu của sân khấu Idecaf là những vở chính kịch và kịch

dành cho thiếu nhi. Sân khấu Hồng Vân lại chuyên dựng những vở kịch mang

phong cách văn hóa miền Bắc. Kịch Sài Gòn chủ yếu dàn dựng những vở hài kịch

phục vụ nhu cầu "muốn được cười"của khán giả. Dù ra đời sau, nhưng sân khấu Nụ

Cười Mới nhanh chóng xây dựng được thương hiệu từ các vở diễn thiên về hài, các

chương trình biểu diễn do các danh hài như Thúy Nga, Chí Tài, Hoài Linh.

Việc các sân khấu kịch đã biết phân đoạn thị trường, chọn thị trường mục

tiêu để đáp ứng nhu cầu sao cho phù hợp với nhu cầu của khán giả là vô cùng

quan trọng. Thế nhưng, trong bối cảnh cạnh tranh như hiện nay thì giá vé cũng là

điều kiện quan trọng không kém để thu hút khán giả của các sân khấu kịch. Khi

chúng tôi khảo sát ý kiến của khán giả đến xem kịch ở một số sân khấu về giá vé

thì kết quả như sau: 54.9% khán giả cho rằng giá vé rất cao; 43.7% cho biết giá

88

vé tương đối cao; chỉ có 1.4% khán giả cho rằng giá vé phù hợp (giá vé tại các

sân khấu Hồng Vân, sân khấu Nhỏ 5B, sân khấu Idecaf đều ngang nhau:

150.000đ/vé) [Bảng 6, a.2, phụ lục 2]. Như vậy, kết quả khảo sát ở các sân khấu

kịch cho thấy nếu phần lớn khán giả ca nhạc cho rằng giá vé xem ca nhạc rẻ và

hợp lý thì có đến 98.6% khán giả sân khấu kịch tham gia khảo sát cho ý kiến giá

vé tương đối cao và rất cao; trong khi chỉ có 1.4% cho rằng phù hợp. Trong thời

buổi kinh tế khó khăn, việc giá vé cao sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến nhu cầu tiêu

thụ sản phẩm nghệ thuật của khán giả và đồng thời giảm lợi thế cạnh tranh của

các đơn vị sân khấu. Nếu so sánh với một số cơ sở kinh doanh giải trí khác trên

địa bàn như: giá vé của rạp chiếu phim Galaxy Nguyễn Du và Galaxy Nguyễn

Trãi loại film 2D thấp hơn từ 47% đến 70%; loại fiml 3D thấp hơn 23%; giá vé

sân khấu ca nhạc Trống Đồng thấp hơn từ 20% đến 60%; sân khấu ca nhạc 126

có giá vé thấp hơn từ 33% đến 66% [59, tr.57] thì đây chính là cơ sở quan trọng

để các cơ sở kinh doanh kịch đưa ra các chiến lược để giữ chân khán giả.

*Đối với lĩnh vực Múa

Đối với thực trạng phân khúc thị trường của lĩnh vực Múa, qua quá trình

đi khảo sát, tác giả luận án nhận thấy loại hình Múa rối nước đang phát triển khá

mạnh ở Tp. Hồ Chí Minh theo hướng công nghiệp. Các nhà hát múa rối đã biết

chọn thị trường mục tiêu để khai thác và phục vụ khán giả. Tiêu biểu là Nhà hát

múa rối Rồng Vàng do ông Huỳnh Anh Tuấn làm giám đốc.

Sự phát triển của nghệ thuật biểu diễn múa rối tại Thành phố được thể

hiện chủ yếu trong việc gắn kết giữa du lịch với loại hình nghệ thuật này. Trong

bối cảnh người dân Thành phố ngày càng xa rời các loại hình nghệ thuật truyền

thống, trong đó có nghệ thuật múa rối thì sự định hướng thị trường là khách du

lịch - nhất là khách quốc tế là một định hướng đúng, đây là một cách để duy trì

và phát triển loại hình nghệ thuật độc đáo này. Hiện có khoảng 05 công ty du

lịch - lữ hành trên địa bàn Thành phố đã đưa nội dung phục vụ đi xem múa rối

vào lịch trình tham quan của du khách. Ông Huỳnh Anh Tuấn - Giám đốc Nhà

hát múa rối nước Rồng vàng cho biết:

89

Hiện nay, chúng tôi đã liên kết ít nhất 05 công ty du lịch trong Thành phố

để đưa khách đến nhà hát của chúng tôi. Trong đó, đối tác lớn nhất của chúng tôi

là công ty du lịch Sài Gòn Tourist. Nhờ có sự kết hợp này mà Nhà hát chúng tôi

đã vượt qua được những giai đoạn khó khăn nhất. Đến hôm nay thì chúng tôi hoàn

toàn tin tưởng rằng, Nhà hát chúng tôi sẽ tiếp tục tồn tại và sẽ phát triển hơn nữa

trong tương lai [Phụ lục 3].

Ông Tuấn cũng cho biết thêm“Ngoài 2 suất diễn cố định lúc 18h30 và

20h, chúng tôi cũng thường xuyên biểu diễn tăng cường theo yêu cầu của đối

tác”. Hiện nay, Nhà hát múa rối nước Rồng Vàng đã tạo dựng được uy tín với

nhiều công ty du lịch - lữ hành, là một thương hiệu của nghệ thuật biểu diễn rối

nước tại Thành phố. Một hướng dẫn viên của công ty du lịch Sài Gòn Tourist

cho biết“Để đa dạng sản phẩm phục vụ du khách, nhất là khách nước ngoài,

chúng tôi đã hợp tác với Nhà hát Múa rối nước Rồng Vàng để đưa khách đến

đây giải trí. Tôi nghĩ, hướng hợp tác này là cần thiết, tuy nhiên, tại Thành phố

hiện nay chưa có nhiều đơn vị nghệ thuật đủ điều kiện để chúng tôi hợp tác”.

Khi được hỏi về thái độ của du khách khi đến xem biểu diễn, hướng dẫn viên

này chia sẻ tiếp“Tôi đã rất nhiều lần đưa khách đến đây, lần nào tôi cũng thấy

khách rất thích thú với các vở diễn, nhất là khách đến từ Nhật, Ý, Đức. Xem xong,

họ đứng vỗ tay rất lâu, có người còn đòi chụp hình chung với nghệ sỹ biểu diễn

cho bằng được. Lúc ra về, họ thường hỏi chúng tôi là “Các bạn còn loại hình

nghệ thuật nào thú vị như thế này nữa không?” [Phụ lục 3].

Như vậy, nếu phân tích ở góc độ phân khúc thị trường của Nhà hát Múa rối

nước Rồng Vàng thì Nhà hát này đã chọn đúng thị trường mục tiêu chính là đối

tượng khán giả khách du lịch, nhất là khách du lịch quốc tế. Ngoài ra, Múa rối còn

nhắm vào đối tượng khán giả là các em thiếu nhi, học sinh. Sự phân khúc này

cũng thấy rõ ở Nhà hát Múa rối nước Thăng Long, Hà Nội.

3.3.2. Vấn đề bản quyền trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn

Công nghiệp văn hoá là một ngành kinh tế, các doanh nghiệp văn hoá

hoạt động theo quá trình sản xuất, khai thác, phân phối và tiêu thụ các giá trị văn

90

hóa. Cũng như các lĩnh vực khác của ngành công nghiệp văn hoá, các hoạt động

của nghệ thuật biểu diễn cũng phải được bảo vệ bởi bản quyền.

Dù chưa phát triển hoàn chỉnh với tư cách của một ngành công nghiệp văn

hoá, nhưng các cá nhân và tổ chức, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực âm

nhạc, sân khấu kịch nói và múa ở Tp. Hồ Chí Minh, họ phải đầu tư tài chính,

thời gian và công sức để có được sản phẩm. Các sản phẩm này phải được bảo vệ

bởi luật bản quyền, nếu sử dụng phi pháp thì cá nhân và doanh nghiệp văn hóa sẽ

không thu được tiền để trang trải chi phí, tái sản xuất dẫn đến không thể tiếp tục

và phát triển. Bên cạnh quyền lợi của người thưởng thức thì phải có quyền lợi

của người sản xuất, sáng tạo; có bao nhiêu công sức bỏ ra thì phải có bấy nhiêu

quyền lợi.

Về kịch nói, nhìn chung, các doanh nghiệp sân khấu kịch ở Tp. Hồ Chí

Minh chấp hành nghiêm túc Luật Bản quyền và Sở hữu trí tuệ. Khi sử dụng kịch

bản, các doanh nghiệp đều trả tiền cho tác giả. Có thể có nhiều hướng: hoặc thỏa

thuận giữa đôi bên, hoặc theo quy định của Cục Sở hữu trí tuệ. Theo ông Huỳnh

Anh Tuấn – Giám đốc Sân khấu Idecaf:

Ở nước ngoài, đạo diễn viết kịch bản xong thì đến Cục Sở hữu trí tuệ

để đăng ký bản quyền nhưng ở Việt Nam thì ít khi đăng ký. Chỉ khi

nào ai sử dụng mới trả tiền, có khi là độc quyền, có khi là đồng sở

hữu, nhưng phải được đồng ý của tác giả. Có thể hợp đồng sở hữu

trong khoảng vài năm hoặc lâu hơn [Phụ lục 3].

Hiện nay ở Việt Nam đã có sàn giao dịch thương mại điện tử cho lĩnh vực

nghệ thuật biểu diễn, đó là Chợ kịch bản. Sự ra đời của chuyên trang điện tử này

đem lại lợi ích cho hai phía, các tác giả kịch bản có cơ hội đăng tải, giới thiệu

kịch bản để các đơn vị nghệ thuật tìm kiếm, tham khảo, lựa chọn dàn dựng, biểu

diễn. Các đơn vị nghệ thuật có thêm nhiều cơ hội lựa chọn kịch bản để dàn dựng

hoặc phục dựng lại trong bối cảnh khan hiếm như hiện nay. Có nhiều kịch bản

viết xong nhưng tác giả không biết quảng bá, giới thiệu bằng cách nào, dẫn đến

tình trạng lãng phí chất xám, công sức, tâm huyết… Chợ kịch bản là một biểu

91

hiện rõ nét của công nghiệp văn hóa trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn, đảm

bảo tốt quyền tác giả. Ở Tp. Hồ Chí Minh hiện nay có Công ty Đức Thịnh –

Thanh Thúy chuyên cung cấp kịch bản, hoạt động khá sôi nổi.

Mặc dầu, ngày 01/07/2002 Hội Nhạc sĩ Việt Nam đã ra Quyết định số

39/2002/QĐ-NS về việc thành lập Trung tâm Bảo vệ quyền tác phẩm âm nhạc

Việt Nam (VCPMC) – chi nhánh phía Nam và quy định chức năng nhiệm vụ của

Trung tâm, tháng 04/2004 đã đi vào hoạt động. Trong suốt 10 năm hoạt động,

Trung tâm đã đạt được những kết quả đáng trân trọng để phục vụ lợi ích cộng

đồng. Cụ thể: Số lượng nhạc sĩ, tác giả thành viên tin tưởng và ký hợp đồng ủy

thác cho Trung tâm ngày càng tăng theo từng năm. Năm 2004 có 148 thành viên;

năm 2010 có 979 thành viên và đến năm 2014 có 1.963 thành viên. Số tiền thù

lao sử dụng quyền tác giả âm nhạc mà Trung tâm đã thu cho các nhạc sĩ, tác giả

thành viên tăng từ con số 497 triệu đồng (năm 2004) đến hơn 20 tỷ đồng (năm

2010) và 39 tỷ đồng (năm 2014). Tổng số tiền thu được cho các nhạc sĩ 10 năm

qua đã lên đến hơn 180 tỷ đồng [130].

Tuy vậy, hiện nay lĩnh vực âm nhạc ở Việt Nam nói chung, Tp. Hồ Chí

Minh nói riêng, việc vi phạm bản quyền vẫn diễn ra khá phức tạp. Từ khi âm

nhạc có thể được kinh doanh và làm ra lợi nhuận thì bản quyền rất quan trọng.

Một nhạc sĩ khi hòa âm một bài hát, họ có bản quyền chất xám trên bản

hòa âm đó. Nếu một nghệ sĩ muốn dùng bản hòa âm đó để viết nhạc thì phải

mua, hoặc phải có sự đồng ý của tác giả cho dù họ có thay đổi giai điệu hay

không. Nhưng luật hiện nay không quy định một khái niệm thành văn cố định,

toàn diện thế nào là đạo nhạc. Các vấn đề về beat nhạc và người sản xuất beat

vẫn còn đang bỏ ngõ ở Việt Nam. Dù có như vậy thì những hành vi vay mượn

không xin phép, không công bố là không thể cho qua mà không lên án, chấn

chỉnh. Xây dựng một nền công nghiệp âm nhạc là phải xây dựng những mối

quan hệ văn minh, lành mạnh dựa trên luật pháp.

Vào thời điểm giữa năm 2004, báo chí và công luận đều quan tâm đến vụ

“đạo nhạc” trong sáng tác bài hát Tình thôi xót xa của nhạc sỹ Bảo Chấn. Bài hát

92

này giống tới 50% bài hát Frontier của Nhật và giống tới 99% bài hát I’ve never

been to me của Charlene 9 (Mỹ). Sau đó, chính nhạc sĩ Bảo Chấn đã phải xin lỗi

công luận và xin thôi không sử dụng bài hát Tình thôi xót xa.

Thời gian gần đây, nghi án đạo nhạc trong bài hát Chắc ai đó sẽ về của ca

sỹ Sơn Tùng M-TP (giống ca khúc Because I miss you do Jung Yong Hva - Hàn

quốc sáng tác) rộ lên, dư luận xôn xao, tốn biết bao thời gian, giấy mực, công

sức không phải của chỉ riêng báo giới mà còn huy động được rất nhiều cơ quan

quản lý. Chưa bao giờ vấn đề về bản quyền lại được quan tâm đến như vậy, các

báo đài đều đưa tin hàng ngày, các cơ quan quản lý vào cuộc, nhiều hội đồng

thẩm định được thành lập để phân tích, thẩm định.

Ngoài ra, hiện nay còn có hiện tượng các ca sĩ mua quyền nhân thân,

nghĩa là mua ý tưởng từ khi tác phẩm mới manh nha hình thành. Khi tác phẩm

âm nhạc ra đời thì người nhạc sĩ đó không được lấy tên của mình mà phải để tên

của ca sĩ đó.

3.4. ĐÁNH GIÁ CHUNG

Trong quá trình đổi mới, hội nhập phát triển của đất nước, Đảng ta đã có

định hướng quan trọng về đảm bảo sự gắn kết giữa phát triển kinh tế và văn hóa.

Cùng với chính sách xã hội hóa, đẩy mạnh các hoạt động sản xuất, kinh doanh

sản phẩm văn hóa trong cơ chế kinh tế thị trường, bước đầu đã tạo điều kiện cho

các chủ thể và một số lĩnh vực văn hóa hoạt động theo hướng phát triển của ngành

công nghiệp.

Tp. Hồ Chí Minh là một trong những đơn vị đi đầu cả nước về phát triển thị

trường hàng hoá văn hoá. Công nghiệp văn hóa trong lĩnh vực nghệ thuật biểu

diễn ở Thành phố đang trong giai đoạn đầu của sự phát triển, tuy non trẻ, nhưng

đã khẳng định được vị trí và từng bước phát triển theo hướng công nghiệp giải

trí, công nghiệp văn hóa. Các chủ thể tham gia vào quá trình sáng tạo/sản xuất, tổ

chức biểu diễn cũng như quản lý trong lĩnh vực này đang ngày càng mang tính

chuyên nghiệp hơn. Khảo sát thực trạng lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn ở Thành

phố cho thấy:

93

3.4.1. Lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn đã có những bƣớc đi ban đầu

hƣớng đến phát triển ngành công nghiệp văn hoá

Trước hết, đó là vấn đề đầu tư cho đội ngũ sáng tạo/sản xuất. Là trung tâm

kinh tế - văn hoá - khoa học hàng đầu của khu vực và cả nước, Tp. Hồ Chí Minh

quan tâm đến đào tạo và nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật.

Với 7 trường đào tạo, 1 Trung tâm và 1 Viện nghiên cứu chuyên sâu về các lĩnh

vực văn hoá nghệ thuật, qui mô đào tạo lớn, tập trung của Tp. Hồ Chí Minh hiện

chỉ đứng sau thủ đô Hà Nội. Hoạt động nghiên cứu và đào tạo về văn hoá nghệ

thuật của Thành phố có sự liên kết với các đơn vị đào tạo liên quan, với các đơn

vị nghệ thuật.

Đội ngũ sáng tạo/sản xuất được đào tạo ngày càng chuyên nghiệp, có sự

chủ động tìm tòi, sáng tạo để có nhiều các sản phẩm nghệ thuật có chất lượng

cao. Đội ngũ nghệ sĩ trẻ khá năng động, được đào tạo, có khả năng đón nhận,

hòa nhập nhanh chóng với các trào lưu, sản phẩm văn hóa mới của thế giới và

cũng có khả năng sáng tạo tốt. Sự phát triển của đội ngũ nghệ sĩ (bao gồm: đạo

diễn, tác giả, biên đạo, nhạc sĩ, ca sĩ, diễn viên…) còn có nguyên nhân từ việc,

ngày càng có nhiều các công ty, các trung tâm đào tạo, quản lý chuyên nghiệp ra

đời và phát triển. Đây cũng chính là dấu hiệu đánh dấu sự hình thành của một

ngành công nghiệp biểu diễn ở Tp. Hồ Chí Minh. Ngoài ra, việc quan tâm tìm

kiếm, đầu tư, bồi dưỡng cho đội ngũ nghệ sĩ, diễn viên, tác giả tài năng của các

cơ quan thông tin đại chúng (báo, đài) thông qua các chương trình truyền hình

(Duyên dáng Việt Nam…), các cuộc thi (Sao Mai điểm hẹn, Bài hát Việt, Gala

cười,…) cũng là một động lực thúc đẩy sự phát triển lớn mạnh của đội ngũ nghệ

sĩ cũng như các hoạt động biểu diễn nghệ thuật ở Tp. Hồ Chí Minh.

Thứ hai, đầu tư đổi mới kỹ thuật - công nghệ phục vụ cho lĩnh vực nghệ thuật

biểu diễn. Đổi mới khoa học, kỹ thuật và công nghệ là một trong hai hướng cơ

bản để phát triển công nghiệp văn hóa bên cạnh sự mở rộng, chiếm lĩnh thị

trường. Vì vậy, thời gian qua, các đơn vị nghệ thuật tại Tp. Hồ Chí Minh đã tìm

cách đổi mới khoa học công nghệ. Trước hết, đó là việc đầu tư đào tạo đội ngũ

94

kỹ thuật viên kỹ thuật âm thanh, ánh sáng, hậu đài, hóa trang, phục trang....Các

đơn vị nghệ thuật này đã tuyển dụng hoặc đưa đội ngũ nhân lực của mình đi đào

tạo trong lĩnh vực này. Ngoài ra, còn có một số công ty tư nhân mở đào tạo các

lớp chuyên về sử dụng công nghệ, kỹ thuật cao trong sân khấu kịch. Tiêu biểu là

Công ty Cổ phần đào tạo nghề và kỹ thuật thiết bị âm thanh ánh sáng Đông

Dương Tp. Hồ Chí Minh. Các cơ sở đào tạo này đã giúp sinh viên hiểu rõ lý

thuyết về âm thanh, ánh sáng, giải mã công nghệ, thiết bị âm thanh, ánh sáng

hiện đại trên thế giới để khai thác các tính năng của thiết bị. Những sinh viên này

sau khi ra trường đã trở thành những kỹ thuật viên chuyên nghiệp sử dụng các

công nghệ kỹ thuật hiện đại phục vụ cho các sân khấu.

Các đơn vị ngoài công lập đã tự đầu tư trang thiết bị và sử dụng các trang

thiết bị kỹ thuật cho biểu diễn nghệ thuật tương đối hiện đại. Ngoài ra, ở Tp. Hồ

Chí Minh hiện nay có những công ty chuyên cho thuê công nghệ tổ chức sân

khấu. Những thiết bị nâng cấp mau chóng đáp ứng nhu cầu thưởng thức của

công chúng.

Thứ ba, về năng lực cạnh tranh trong phân khúc thị trường. Trong môi

trường cạnh tranh khốc liệt của nền kinh tế thị trường, các loại hình nghệ thuật

biểu diễn muốn tồn tại và phát triển thì phải tạo ra được những sản phẩm đáp

ứng được nhu cầu của thị trường. Mà thị trường thì vô cùng rộng lớn với nhiều

đối thủ cạnh tranh ác liệt, trong khi đó năng lực của tổ chức biểu diễn nghệ

thuật lại có hạn. Vì vậy, loại hình nghệ thuật: Âm nhạc, Kịch nói và Múa đã

phải phân đoạn thị trường, từ đó chọn thị trường mục tiêu – phân đoạn thị

trường có khả năng phát triển nhất để tiếp cận và chiếm lĩnh. Sức cạnh tranh

được thể hiện chủ yếu bằng sự năng động của các đơn vị kinh doanh, sự phong

phú các loại sản phẩm và sức đào thải của thị trường với những sản phẩm

không đạt chất lượng.

Bên cạnh đó, các loại hình nghệ thuật này cũng đã sử dụng các công cụ

marketing như là một biện pháp hữu hiệu nhất trong giai đoạn hiện nay để tồn tại

và phát triển.

95

Nhìn chung, thực tế hiện nay cho thấy, ở Tp. Hồ Chí Minh, các đơn vị

ngoài công lập có bộ phận tổ chức biểu diễn tốt hơn các đơn vị công lập. Các

đơn vị công lập vẫn nặng tư duy bao cấp, thiếu tính chủ động, lại bị vướng nhiều

cơ chế tài chính không cho phép chi tiêu vượt định mức hiện hành, trong khi đó,

các định mức này luôn lạc hậu so với mặt bằng giá thị trường. Trong kinh tế thị

trường, đơn vị ngoài công lập được chủ động hơn về chi tiêu tài chính, về tuyển

dụng và sa thải nhân viên, về tạo quan hệ với các đối tác. Họ còn chủ động đưa

nhân viên đi đào tạo nước ngoài. Tất cả những điều đó tạo cho họ ưu thế hơn hẳn

so với các đơn vị công lập.

Thứ tư, lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn của Thành phố đã phần nào giải

quyết được mối quan hệ giữa văn hoá và kinh tế trong cơ chế thị trường, đáp ứng

nhu cầu đời sống văn hóa tinh thần của người dân.

Số lượng các tác phẩm ở tất cả các loại hình nghệ thuật biểu diễn đều có

sự gia tăng đáng kể, nhất là ở hai loại hình âm nhạc và sân khấu kịch. Nhiều tác

phẩm có chất lượng thu hút được sự quan tâm, yêu thích của khán giả và tạo nên

diện mạo mới cho đời sống nghệ thuật của Thành phố. Nhiều tác phẩm cũ cũng

được làm mới theo những phong cách khác nhau và cũng đã được khán giả đón

nhận. Khâu dàn dựng vở diễn ở những sân khấu khác nhau cũng ngày càng công

phu và hiện đại hơn trước bởi sự sáng tạo của các đạo diễn, diễn viên trẻ và sự

hỗ trợ của khoa học - công nghệ. Quá trình tổ chức biểu diễn và biểu diễn có

những bước phát triển mạnh, cơ sở vật chất cũng được quan tâm đầu tư, đặc biệt

là những khâu quảng cáo, tiếp thị sản phẩm ngày càng được xem trọng, đã tạo

nên một thị trường cung - cầu nghệ thuật có sự cạnh tranh rõ nét. Có nhiều địa

điểm sân khấu chuyên nghiệp được tổ chức biểu diễn hàng đêm, nhiều chương

trình được đầu tư với chi phí cao, chất lượng nghệ thuật được quan tâm, dàn

dựng công phu, thu hút đông đảo người xem. Do tính chất đặc thù của từng đơn

vị nên chương trình biểu diễn, đối tượng khán giả của mỗi đơn vị cũng khác

nhau, trong quá trình xây dựng kế hoạch, các đơn vị luôn hướng đến công

chúng, không ngừng nâng cao thị hiếu thẩm mỹ và trình độ thưởng thức nghệ

96

thuật của công chúng, đặc biệt công chúng trẻ; luôn tìm tòi, thể nghiệm để có

nhiều tác phẩm nghệ thuật có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao, kết hợp hài hòa

tính dân tộc và tính hiện đại, bảo tồn và phát huy các giá trị của văn hóa dân tộc.

Kết quả khảo sát của đề tài khi lấy ý kiến của khán giả về đánh giá chất

lượng ca sĩ, diễn viên và mức độ hài lòng của họ đối với chất lượng chương trình

ca nhạc và vở diễn đã phần nào phản ánh được khả năng đáp ứng nhu của nghệ

thuật biểu diễn của Thành phố. Khi được hỏi: Ông/bà đánh giá như thế nào về

chất lượng ca sĩ tại đây? (sân khấu ca nhạc Trống Đồng) thì có đến 94.6% khán

giả cho biết phần lớn ca sỹ tại các sân khấu được khảo sát có chất giọng và trình

diễn từ khá trở lên; trong khi chỉ có 5.4 % khán giả tham gia khảo sát cho rằng ca

sỹ tại đây có chất giọng và trình diễn ở mức trung bình [Bảng 3, a.1, phụ lục 2].

Biểu 3.6: Đánh giá về chất lƣợng ca sĩ Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án

Khi được hỏi mức độ hài lòng của ông/bà đối với chất lượng chương

trình ca nhạc tại sân khấu thì kết quả khảo sát cho thấy tỷ lệ khán giả rất hài

lòng và hài lòng về chất lượng các chương trình ca nhạc chiếm 100% tỷ lệ khán

giả được khảo sát; không có khán giả nào không hài lòng đối với phần lớn các

chương trình ca nhạc tại các sân khấu được khảo sát [Bảng 4, a.1, phụ lục 2].

97

Biểu 3.7: Mức độ hài lòng của khán giả đối với chất lƣợng chƣơng trình ca nhạc tại sân khấu Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án

Như vậy, mặc dầu kết quả khảo sát cho thấy khán giả chưa rất hài lòng về

chất lượng ca sĩ và chất lượng các chương trình ca nhạc tại các sân khấu Thành

phố (chỉ chiếm 35.1%) nhưng nhìn chung đã đáp ứng được yêu cầu của khán giả

đến thưởng thức các chương trình ca nhạc tại đây.

Về sân khấu kịch nói, khi được hỏi: Ông/bà đánh giá như thế nào về chất

lượng diễn viên tại đây, kết quả cho thấy cả diễn viên chính và diễn viên phụ đều

nhận được sự đánh giá rất tích cực từ chính khán giả [Bảng 3,4, a.2, phụ lục 2].

Điều đó cho thấy các sân khấu này có một đội ngũ nhân sự chất lượng đảm bảo,

góp phần thu hút khán giả đến với sân khấu mình. Chất lượng diễn viên là một

lợi thế cạnh tranh lớn của các sân khấu kịch nói được khảo sát.

98

Biểu 3.8: Đánh giá về chất lƣợng diễn viên chính Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án

Biểu 3.9: Đánh giá về chất lƣợng diễn viên phụ Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án

Khi được hỏi mức độ hài lòng của ông/bà đối với chất lượng nội dung các

vở diễn thì có 30.1% tỷ lệ khán giả được khảo sát rất hài lòng; 69.9% khán giả

tương đối hài lòng với phần lớn các vở kịch; không có khán giả nào không hài

lòng về chất lượng các vở kịch [Bảng 5,a.2, phụ lục 2]. Những con số này cũng

99

phần nào cho thấy mức độ hài lòng của khán giả khi thưởng thức loại hình nghệ

thuật này tại Tp. Hồ Chí Minh.

Biểu 3.10: Mức độ hài lòng của khán giả đối với chất lƣợng nội dung các vở diễn Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án

Tuy nhiên, ngành công nghiệp nước ta còn mang tính tự phát, manh mún,

mới chỉ là sự khởi đầu. Các hoạt động sản xuất, kinh doanh còn nhằm mục đích

chạy đua theo lợi nhuận, bất chấp hậu quả xấu của nó. Nhiều thủ pháp trong sản

xuất, kinh doanh không phù hợp với sự phát triển văn hóa.

3.4.2. Những hạn chế so với yêu cầu phát triển ngành công nghiệp văn

hoá ở lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn

3.4.2.1. Sản phẩm nghệ thuật biểu diễn còn chiều theo thị hiếu tầm

thường, tẻ nhạt. Thị trường nghệ thuật biểu diễn thiếu những sản phẩm có

chất lượng cao đáp ứng nhu cầu của công chúng

Thực trạng này diễn ra ở hầu hết các loại hình nghệ thuật biểu diễn của

Thành phố. Cụ thể:

- Nghệ thuật Kịch nói

Tiếng cười không chỉ là liệu pháp tinh thần mang lại niềm vui cho con

người, mà đó còn là vũ khí độc đáo của người nghệ sĩ để chuyển tải những nội

100

dung sâu sắc, góp phần xây dựng đời sống văn hóa, xã hội văn minh. Vì vậy, gây

cười là quan trọng, nhưng không thể xem tiếng cười là mục đích cuối cùng của

hài kịch. Thế nhưng, theo đánh giá của các nhà quản lý, đạo diễn sân khấu, các

vở hài của sân khấu kịch vẫn chủ yếu dừng ở mức “vui là chính”. Các lời thoại,

tình huống hài xen lẫn chỉ tạo ra những tiếng cười gượng ép, lạc lõng với mạch

kịch. Như trong vở “Trinh nữ” của Sân khấu Kịch Sài Gòn, để tạo tiếng cười

cho khán giả, đạo diễn đã xen vào một phân đoạn hài trên cái nền những cảm

xúc bi kịch của nhân vật chính. Tiếng cười trở nên vô tâm khi những bác sĩ cười

cợt trên nỗi đau của một người muốn chuyển đổi giới tính; hay như khi một

người con gái lấy chuyện trinh tiết ra làm trò đùa; đó còn là những lời tư vấn vô

tâm đến tàn nhẫn của bác sĩ. Những lời thoại, cử chỉ hài hước chen ngang vào

tình huống không dành cho tiếng cười chỉ khiến cảm xúc của khán giả dành cho

những khoảnh khắc nội tâm của nhân vật bị tắc nghẽn giữa chừng. Và như vậy,

tiếng cười đã không tạo ra những hiệu ứng tâm lý tích cực.

Cũng với mục đích kéo công chúng đến rạp, hầu hết các sân khấu kịch

trên địa bàn Thành phố còn khai thác yếu tố sexy. Có thể kể một số tác phẩm

tiêu biểu như khi vở “Trinh nữ”của Sân khấu Kịch Sài Gòn, “Nhà trọ tình yêu”,

“Cõi tình” của Nhà hát sân khấu nhỏ 5B, “Sát thủ hai mảnh” của sân khấu

Idecaf, “Nước mắt người điên” của sân khấu kịch Phú Nhuận… đều khiến khán

giả ngỡ ngàng bởi những hành vi lẽ ra chỉ nên có ở chốn phòng the bỗng nhiên

xuất hiện công khai trên sàn gỗ nghệ thuật. Yếu tố sexy của sân khấu kịch phát

triển đến mức Cục Nghệ thuật Biểu diễn phải có công văn đề nghị Thành phố

(và các địa phương khác) theo dõi và chấn chỉnh kịp thời những tác phẩm nghệ

thuật khai thác quá đậm tình huống riêng tư trên sân khấu.

Cùng với đề tài sexy, sân khấu kịch nói còn khai thác triệt để yếu tố kinh

dị. Dù dòng kịch này đã được sân khấu Idecaf tiên phong khai thác với vở

“Hạnh phúc trên đồi hoa máu” cách đây khoảng 6 năm. Nhưng phải đến sự ra

đời chùm tác phẩm “Người vợ ma” của Sân khấu kịch Phú Nhuận thì phong trào

dựng kịch kinh dị trên thị trường kịch Thành phố mới thật sự trỗi dậy. Sau

101

“Người vợ ma”, một loạt các tác phẩm nhanh chóng ra đời như “Quỷ”, “Hồn

ma báo oán” của Sân khấu Kịch Sài Gòn, "Ma rừng" và "Hồn trinh nữ" của sân

khấu Thế Giới Trẻ, “Tử thi không đầu” của sân khấu Sài Gòn Phẳng, “Ngôi nhà

số 13” của sân khấu Idecaf, “Oan gia”, “Căn hộ 404”, “Trăng máu”, “Quả tim

máu”của Sân khấu kịch Phú Nhuận… làm cho thị trường kịch kinh dị Thành

phố trở nên sôi động hơn bao giờ hết. Trên thực tế, hiện nay, dòng kịch này vẫn

có một sức hút rất mãnh liệt đối với khán giả Thành phố. Chính nghệ sỹ Hồng

Vân – người chuyên dựng kịch kinh dị từng chia sẽ trên báo chí “Khán giả

Thành phố lạ lắm. Chúng tôi cũng dựng và diễn nhiều thể loại kịch khác nhau.

Nhưng chỉ cần kịch kinh dị công diễn là sẽ đánh bạt tất cả các dòng kịch này”.

Vẫn biết, sân khấu kịch cần phải tồn tại và phát triển trên cơ sở thỏa mãn

nhu cầu của thị trường nhưng nếu người nghệ sỹ mải chạy theo những nhu cầu

giải trí thông thường, tận dụng khai thác những yếu tố dễ gây tò mò cho khán giả

như hiện nay, thì đó là dấu hiệu chứng minh sự xuống dốc của một nền sân khấu

kịch đúng nghĩa. Thực tế lịch sử phát triển sân khấu trên thế giới và trong nước

đã chứng minh, một nền sân khấu khỏe là một nền sân khấu có thể tạo ra những

tác phẩm mà sức lan tỏa đủ mạnh để hình thành những giá trị thẩm mỹ tốt đẹp

trong lòng người yêu kịch.

- Nghệ thuật Múa rối

Thị trường múa rối chưa được hình thành đúng nghĩa. Thành phố có

khoảng gần 10 triệu dân, nhưng chỉ hai đơn vị biểu diễn, dẫn đến thị trường

thiếu tính cạnh tranh. Điều này đã tạo ra sức ỳ rất lớn cho các đơn vị biểu diễn

múa rối trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm để phục vụ khán giả. Với rối

nước, hiện nay có khoảng 17 trò, rối cạn khoảng 15 trò; 90.0% trong số này là

những trò lẻ, mô phỏng những tích cũ vốn đã trở nên quá quen thuộc với khán

giả trong hàng chục năm qua. Không chỉ thiếu những tiết mục mới, mà sự tinh tế

trong biểu diễn các tiết mục cũng chưa cao. Không những thiếu những tiết mục

được dàn dựng công phu, mà nhiều vở diễn đạt đỉnh cao về nghệ thuật còn biến

mất hẳn hoặc bị biến thể theo những tư duy dàn dựng mới, thiếu chuyên nghiệp

102

và thiếu cả điểm nhấn thời đại. Tất cả những điều này đã tạo nên cảm giác nhàm

chán đối với người dân Thành phố.

- Nghệ thuật Múa

Hiện nay, dù Tp. Hồ Chí Minh được xem là nơi có thị trường nghệ thuật

múa phát triển mạnh nhất so với cả nước. Trung bình hàng năm, Thành phố có

khoảng 300 vở diễn thuộc các thể loại được dàn dựng mới. Thế nhưng, chất

lượng sản phẩm của loại hình nghệ thuật này vẫn chưa thể cạnh tranh với các

hình thức giải trí khác. Nhiều tác phẩm nghệ thuật múa thiếu tính thuyết phục về

nghệ thuật, chưa thật đầy đủ những yếu tố kỹ thuật và chưa tạo được sự hấp dẫn

với công chúng. Nhiều tác giả còn lúng túng trong việc chuyển hóa những chất

liệu múa dân gian thành ngôn ngữ kịch múa đích thực, có sức biểu hiện sâu sắc.

Việc kế thừa, phát huy giá trị của kho tàng nghệ thuật truyền thống để sáng tạo

nên những hình tượng nghệ thuật độc đáo, đậm đà màu sắc dân tộc chưa thật

hiệu quả. Nghệ thuật múa cổ điển, múa dân gian... được giảng dạy từ các

trường múa chính quy ít xuất hiện trên thị trường nghệ thuật biểu diễn Thành

phố. Thay vào đó là những tác phẩm được dàn dựng gấp gáp, thiếu sự đầu tư để

minh họa cho các loại hình nghệ thuật khác lại đang rất phát triển, đặc biệt là

loại hình múa minh họa cho sân khấu ca - múa - nhạc tổng hợp.

- Nghệ thuật Âm nhạc

Hiện nay, dòng Nhạc trẻ với những ca khúc kém chất lượng; ca từ dễ dãi,

nội dung ca khúc nghèo nàn, đơn điệu, giai điệu âm nhạc thiếu sáng tạo đang

chiếm lĩnh và chi phối thị trường âm nhạc Thành phố. Từ các kênh truyền hình,

truyền thanh, trang nhạc online trên internet, báo chí… đều dành những ưu ái

đặc biệt cho dòng nhạc này. Trong khi đó, nhạc truyền thống dân tộc và giao

hưởng - thính phòng chưa bắt kịp với mặt bằng chung của xã hội. Thực trạng

này đang phát triển mạnh và vượt ra khỏi tầm kiểm soát của các cơ quan chức năng. Hậu quả là nhiều “thảm hoạ”5 âm nhạc trên thị trường Thành phố ra đời.

Tiêu biểu nhất trong thời gian gần đây là trường hợp của người mẫu Phi Thanh

Vân với chùm tác phẩm “Da nâu 1, 2, 3”. Có thể nói, chưa bao giờ các diễn đàn

103

âm nhạc trên Internet lại có nhiều ý kiến phản ứng mãnh liệt như trường hợp

này. Theo khảo sát trên 10 diễn đàn âm nhạc từ ngày 20/8/2011 đến ngày

27/8/2011, có đến 97.7% ý kiến dùng những lời lẽ chê bai nặng nề nhất cho ca

sỹ này cùng với những tác phẩm mà cô thể hiện.

Thêm một thực trạng khác của thị trường âm nhạc Thành phố là sự xuất hiện của những ca khúc dân gian đương đại6 kém chất lượng. Trong một lần trả

lời trên báo chí, nhạc sỹ Minh Châu cho rằng:

Việc khai thác chất liệu dân gian dường như có 2 khuynh hướng: đậm

đặc và nhạt nhòa. Ở khuynh hướng “đậm đặc” sự khai thác có thể quá

tập trung vào một thể loại, tác phẩm được xây dựng nặng tính học

thuật, đôi khi cầu kỳ hóa, khó thẩm thấu. Ở khuynh hướng “nhạt

nhòa”, ngôn ngữ âm nhạc quá giản đơn, nội dung tác phẩm nghèo nàn,

thiếu chiều sâu và thậm chí có phần tầm thường. Theo tôi, cả hai

nhánh này dường như vẫn chưa vào đúng mạch của âm nhạc dân gian,

đó là sự dân dã, bình dị nhưng sâu sắc, thâm thúy [130].

Âm nhạc dân gian đương đại chính là sự kết hợp của các yếu tố hiện đại

trên cơ sở những giá trị văn hóa truyền thống. Đây chính là xu hướng phát triển

tất yếu trong thời đại ngày nay của nền âm nhạc của mỗi quốc gia. Vì vậy, trước

những biểu hiện tiêu cực trên, các cơ quan cần thiết có những điều chỉnh hợp lý

và kịp thời.

Nguyên nhân của những hạn chế trên một phần là do biểu hiện thiếu bản

lĩnh nghệ thuật của các nhạc sĩ, đạo diễn…chỉ chạy theo vuốt ve những thị hiếu

tầm thường của thị trường. Việc đầu tư, sáng tạo để có những đứa con tinh thần

thật sự có chất lượng của người nghệ sĩ hiện nay đang bị những thị hiếu tầm

thường của nền kinh tế thị trường chi phối.

Nguyên nhân nữa là do đội ngũ làm công tác lý luận phê bình văn hóa

nghệ thuật còn nhiều hạn chế. Với tư cách là một khoa học, lý luận phê bình có

chức năng hướng dẫn và định hướng sáng tác sao cho phù hợp với văn hóa dân

tộc và sự phát triển của văn hóa nhân loại. Thực tiễn đã chứng minh, khoa học lý

104

luận, phê bình phát triển mạnh sẽ tạo dựng một nền công nghiệp nghệ thuật biểu

diễn phát triển bền vững. Muốn có một nền phê bình vững mạnh thì cần có một

lực lượng con người đủ mạnh về số lượng và chất lượng; sự dũng cảm - dám nói

thật, nói thẳng của nhà phê bình trên cơ sở một hệ quy chiếu khoa học, hợp thời

đại. Thế nhưng hiện nay, không chỉ riêng Tp. Hồ Chí Minh mà cả Việt Nam, ba

yếu tố này đều thiếu và yếu. Nhà lý luận phê bình thiếu một hệ quy chiếu cụ thể,

ổn định trên cơ sở những chuẩn mực về thẩm mỹ nghệ thuật để hoạt động

chuyên môn. Vì vậy, dẫn đến tình trạng, cùng một vở diễn nhưng nhiều ý kiến

khen - chê trái chiều, thậm chí là mâu thuẫn kịch liệt. Nhiều nhà phê bình còn áp

đặt lối tư duy lỗi thời, lạc hậu khi nhìn nhận, xem xét tác phẩm nghệ thuật. Một

số khác lại chạy theo xu hướng nghiệp dư hóa sân khấu, cổ xúy cho những giá trị

thiếu tính thẩm mỹ nghệ thuật. Điều này góp phần làm cho hoạt động biểu diễn

nghệ thuật thiếu tính định hướng. Nhưng có lẽ điều đáng ngạc nhiên nhất hiện

nay là hoạt động của giới lý luận phê bình sân khấu Thành phố dường như tách

khỏi hoạt động thực tiễn của sân khấu. Các nhà phê bình, lý luận sân khấu không

được tạo điều kiện thuận lợi để xem những vở diễn mới. Thậm chí, trong các

cuộc liên hoan, hội diễn hội tụ đủ các thành phần tiêu biểu của giới sân khấu

nhưng lại vắng bóng những nhà lý luận phê bình có tài, có tâm.

3.4.2.2. Tình trạng phát triển manh mún, không có sự liên minh, liên

kết giữa các lĩnh vực với nhau

Nhìn một cách tổng thể, thị trường nghệ thuật biểu diễn Tp. Hồ Chí Minh

phát triển nhỏ lẽ, manh mún và kém bền vững. Sức cạnh tranh của một số sản

phẩm nghệ thuật biểu diễn còn yếu so với các loại hình giải trí khác, thị trường

phát sinh nhiều vấn đề phức tạp và dần vượt khỏi tầm kiểm soát của cơ quan

quản lý Nhà nước. Cụ thể:

Thiếu sự hợp tác hiệu quả trong các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp có liên

quan trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn. Các doanh nghiệp văn hóa và các

mạng lưới doanh nghiệp sáng tạo đang bắt đầu tự tổ chức và hình thành nên các

mạng lưới, nhưng nhìn chung các mạng lưới này còn mỏng và chưa gắn kết với

105

các cơ hội chính sách mang tính chiến lược như các chương trình giáo dục,

chương trình hỗ trợ doanh nghiệp (thuế, thủ tục, vay vốn) hoặc các quy hoạch

xây dựng cơ sở vật chất phục vụ cho nghệ thuật biểu diễn ở đô thị.

Thiếu sự định hướng mang tính chiến lược từ các cơ quan nhà nước, thiếu

bàn tay của quy hoạch cũng chính là nguyên nhân của sự phát triển manh mún,

tự phát. Khi chúng tôi lấy ý kiến của cán bộ tham gia khảo sát về chính sách nhà

nước cần ưu tiên để tạo động lực phát triển CNVH thì có đến 96.2% ý kiến cho

rằng chiến lược phát triển chính là nội dung đầu tiên mà nhà nước cần dành

nhiều sự quan tâm nhất để có thể phát triển lĩnh vực này [Bảng 4, b.1, phụ lục 2].

Khả năng mở rộng, phát triển thị trường quốc tế của lĩnh vực nghệ thuật

biểu diễn Thành phố còn nhiều hạn chế:

Hiện nay, nếu nhìn bề nổi, có lẽ xiếc là lĩnh vực có nhiều thành công nhất

trong việc mở rộng thị trường ra ngoài biên giới. Bên cạnh xiếc, những nghệ sỹ

hoạt động trong lĩnh vực âm nhạc cũng có nhiều cố gắng trong việc phát triển thị

trường quốc tế. Hiện nay, việc lưu diễn nước ngoài của ca sỹ rất thường xuyên,

nhất là những ca sỹ nổi tiếng. Nhưng trên thực tế, phần lớn hoạt động này hoàn

toàn tự phát, nhỏ lẽ theo kiểu “mạnh ai nấy làm”. Vì vậy, tại Tp. Hồ Chí Minh,

không ít ca sỹ từng ra nước ngoài để tìm kiếm một thị trường lớn hơn. Họ cũng

xây dựng những kế hoạch, dự án rất nghiêm túc nhưng cho đến nay, vẫn chỉ là

những bước dò tìm ban đầu, chưa có bất kỳ một dự án, kế hoạch mở rộng thị

trường thực hiện và thành công, khó có một ca sỹ nào chiếm lĩnh thị trường âm

nhạc thế giới và có chỗ đứng vững chãi trong lòng người yêu nhạc quốc tế.

Tác giả Lê Duy Hạnh từng đưa ra một tầm nhìn:“Trong thời kỳ hội nhập

và phát triển, sân khấu chúng ta không thể nào cứ mãi quanh quẩn trong nước

mà đòi hỏi phải vươn mình ra thế giới”. Thế nhưng, thực tế cho thấy, việc đưa

công nghệ nghệ thuật biểu diễn “xuất khẩu” ra thị trường thế giới còn rất nhiều

khó khăn, thử thách lớn. Những khó khăn này có nhiều nguyên nhân, song

nguyên nhân lớn nhất là chúng ta vẫn chưa có những tác phẩm đủ chất lượng để

cạnh tranh với các đối thủ khác. Hơn nữa, Thành phố cũng không có bất kỳ một

106

đơn vị tổ chức nào chịu trách nhiệm trong việc hoạch định chiến lược để nghệ

thuật biểu diễn Thành phố đủ sức có thể khai thác thị trường thế giới một cách

hiệu quả. Chúng ta đã và đang hội nhập quốc tế về mọi mặt, trong đó có văn hóa.

Vì vậy, thiết nghĩ “xuất khẩu” nghệ thuật biểu diễn là một việc làm cần thiết và

có nhiều ý nghĩa quan trọng.

3.4.2.3. Thiếu định hướng chiến lược phát triển bền vững

Việc thiếu định hướng chiến lược phát triển bền vững thể hiện ở một số

phương diện sau:

Một là, chưa sử dụng hiệu quả công cụ marketing

Marketing trở thành một công cụ không thể thiếu trong bối cảnh kinh tế

thị trường. Vì vậy, trước sự cạnh tranh giữa các loại hình giải trí trên địa bàn

Thành phố ngày càng gay gắt, để tồn tại và phát triển, các đơn vị kinh doanh

trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn phải tăng cường công tác marketing. Tuy

nhiên, kết quả khảo sát cho thấy, hiện nay, công tác này ở các đơn vị còn nhiều

hạn chế.

Biểu 3.11: Thông tin về các chƣơng trình ca nhạc ở sân khấu này qua các kênh truyền thông

Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án

107

Truyền thông là một công cụ không thể thiếu trong bối cảnh thông tin hóa

như hiện nay. Ngày nay, đơn vị kinh doanh nghệ thuật biểu diễn nào biết khai

thác những ưu thế truyền tin vượt trội của các kênh thông tin đại chúng thì cơ

hội thành công trong kinh doanh sẽ đến. Tuy nhiên, tại các sân khấu ca nhạc

được khảo sát cho thấy chỉ có 10.7% khán giả được hỏi cho biết mình biết thông

tin về các chương trình của sân khấu này thông qua báo điện tử; 12% qua báo in

và 23.9% qua website của sân khấu; trong khi đó có đến 76% ý kiến cho biết mình

biết qua biển quảng cáo và 82.7% qua truyền miệng [Bảng 8, a.1, phụ lục 2].

Nhiều đơn vị, nhà sản xuất đã biết cách lập những trang Web riêng để giới thiệu

về đơn vị mình, hoặc quảng cáo cho tác phẩm. Nhưng đa số các trang web đều

rất “nghèo nàn”, đơn điệu và thiếu thông tin. Thậm chí có trang web còn không

đăng tải lịch diễn của đơn vị. Rất ít các trang web được đầu tư về cả nội dung và

hình thức; thiếu vắng hẳn các mục phê bình hay giao lưu, liên lạc với khán giả;

thiếu cả việc quản lý, liên kết, tổ chức các “fan” hâm mộ… Như vậy, các đơn vị

sân khấu ca nhạc được khảo sát chưa khai thác hiệu quả của các phương tiện

truyền thông hiện đại.

Biểu 3.12: Thông tin về các vở diễn của các sân khấu qua các kênh truyền thông Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án

108

Đối với các công cụ truyền thông, nếu so với các sân khấu ca nhạc được

khảo sát sẽ thấy, các sân khấu kịch khai thác có hiệu quả hơn các công cụ truyền

thông hiện đại, đặt biệt là website điện tử. Điều này được thể hiện khi có đến 50.7%

khán giả kịch cho biết mình biết các vở kịch thông qua website của sân khấu. Tuy,

các hình thức truyền thông truyền thống là biển quảng cáo và truyền miệng vẫn là

kênh thông tin quan trọng nhất mà khán giả biết đến các sân khấu này.

Việc xây dựng chiến lược marketing - quảng bá thương hiệu cho hoạt

động của các đơn vị nghệ thuật biểu diễn trên địa bàn Thành phố vẫn chưa được

những cá nhân, tổ chức có liên quan nhận thức một cách đúng đắn, đầy đủ. Kết

quả khảo sát cho thấy, 100.0% các đơn vị biểu diễn nghệ thuật tại Tp. Hồ Chí

Minh - cả đơn vị công lập và tư nhân không có bộ phận chuyên trách công tác

marketing. Kinh phí dành cho hoạt động này chủ yếu được hiểu là “Khoản tiền

dành cho hoạt động quảng cáo, tiếp thị khi có sản phẩm mới ra đời”. Đặc biệt

đối với các đơn vị công lập, trong số kinh phí từ ngân sách nhà nước, không có

khoản nào dành cho hoạt động marketing. Thực trạng này khiến ông Gerald Lidstone7, trong một lần tổ chức tập huấn về marketing văn hóa nghệ thuật cho

các cán bộ, công nhân viên tại Việt Nam vào năm 2010 phải ngỡ ngàng “Tôi

không hiểu làm thế nào để khán giả biết đến các chương trình nghệ thuật của

họ. Nhân sự của các nhà hát cũng không hề được đào tạo về marketing, kể cả

các lãnh đạo. Trong nhận thức của họ cũng không coi marketing là quan trọng.

Đây quả là một vấn đề lớn”. Ở nhiều nước trên thế giới, các đoàn nghệ thuật

thường có khoản kinh phí độc lập cho hoạt động này, nó chiếm khoảng từ 15 đến

20% tổng vốn đầu tư cho một dự án nghệ thuật. Và khoảng 50 nghệ sỹ thì có

một nhóm nhân viên chuyên làm công tác tiếp cận, quảng bá hoạt động nghệ

thuật đến công chúng. Thế nhưng, tại Việt Nam nói chung, Tp. Hồ Chí Minh nói

riêng, việc marketing văn hóa nghệ thuật vẫn là một công việc mới mẻ. Điều này

cản trở rất lớn để ngành công nghiệp văn hóa của Thành phố có thể phát triển.

Hai là, chưa quan tâm giải quyết mối quan hệ giữa nghệ thuật biểu diễn

với phát triển du lịch

109

Hoạt động du lịch không chỉ mang tính chất kinh doanh mà đó còn là

những hoạt động văn hóa. Người đi du lịch không chỉ muốn thưởng thức những

thắng cảnh đẹp, lạ mà còn muốn khám phá những giá trị văn hóa phi vật thể của

con người. Do vậy, cần phải khơi dậy tiềm năng, các nguồn lực văn hóa để phát

triển du lịch theo hướng đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch,

đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp phát triển một cách bền vững. Đặc biệt đối với

Tp. Hồ Chí Minh - điểm đến của nhiều du khách quốc tế, việc tạo ra sản phẩm

du lịch để tăng mức chi tiêu, giữ chân và sự quay trở lại của du khách là vấn đề

quan trọng mà ngành Văn hóa cần quan tâm. Việc khai thác những giá trị của

nghệ thuật biểu diễn để thu hút khách du lịch, nhiều nước trên thế giới đã làm rất

thành công. Tiêu biểu như Trung Quốc với sân khấu Kinh kịch cổ điển. Thái Lan

với các chương trình biểu diễn nghệ thuật hoành tráng đầy màu sắc và đậm nét

văn hóa truyền thống. Hay đảo quốc Singapore với những chương trình biểu

diễn nghệ thuật được quốc gia này đầu tư dàn dựng quanh năm. Nhật Bản với

kịch Kabuki và kịch Noh đậm nét văn hóa Nhật....

Tại Tp. Hồ Chí Minh, việc đưa nghệ thuật biểu diễn vào phục vụ du khách

cũng đã được triển khai những năm gần đây với dự án “Sân khấu du lịch”. Chủ

trương hoàn toàn đúng đắn và được nhiều đơn vị du lịch, nghệ thuật biểu diễn

tích cực hưởng ứng. Nhiều đơn vị nghệ thuật đầu tư dàn dựng các chương trình

sân khấu phục vụ du khách như Nhà hát Ca Múa Nhạc dân tộc Bông Sen cho ra

mắt chương trình nghệ thuật chủ đề “Đêm Tứ Bình”; Công ty Tổ chức biểu diễn

Thành phố với chương trình Ca múa nhạc “Bức tranh quê hương”; sân khấu

kịch Hồng Vân với dự án “Kịch tiếng Anh”… Tuy nhiên, nhiều vấn đề nan giải

chưa được giải quyết như kinh phí, nội dung, nguồn nhân lực... Vì vậy, nhiều

chương trình vẫn còn nằm trên giấy. Các Đoàn Nghệ thuật chờ đợi các đơn vị lữ

hành du lịch đưa du khách đến xem một cách bị động; ngược lại, phía Công ty

Du lịch thì không tự tin để dẫn khách đi xem do chất lượng của các chương trình

không đảm bảo.

Kết quả khảo sát cho thấy, hiện nay, 90.0% Công ty Du lịch, lữ hành

không đưa nội dung phục vụ du khách xem biểu diễn nghệ thuật vào chương

110

trình phục vụ của mình; bên cạnh đó, có đến 95.0% đơn vị nghệ thuật biểu diễn

của Thành phố không có một sự liên kết chặt chẽ giữa hoạt động biểu diễn của

đơn vị mình với hoạt động du lịch. Mối quan hệ giữa du lịch và nghệ thuật là

mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau và giúp nhau phát triển, tồn

tại. Du lịch góp phần bảo tồn, phát huy nghệ thuật. Nghệ thuật góp phần đa dạng

hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch. Tuy nhiên, cả hai vẫn chưa có sự

kết hợp để đạt hiệu quả cao trong những năm gần đây.

Ba là, chưa quan tâm giải quyết mối quan hệ giữa nghệ thuật biểu diễn

với doanh nghiệp kinh tế

Đối với các nước có nền công nghiệp biểu diễn phát triển như: Thái Lan,

Singapo, Anh, Đức, Mỹ, Pháp… thì mối quan hệ giữa các đơn vị tổ chức biểu

diễn với các doanh nghiệp làm kinh tế gắn bó rất mật thiết. Mối quan hệ này theo

kiểu “đôi bên cùng có lợi”. Đối với các đơn vị tổ chức biểu diễn, các doanh

nghiệp là chỗ dựa vững chắc về tài chính thông qua tài trợ để họ yên tâm sáng

tạo nên những tác phẩm nghệ thuật đỉnh cao. Ngược lại, khi tài trợ cho các đơn

vị nghệ thuật biểu diễn, không những các doanh nghiệp được Nhà nước miễn trừ

thuế, mà hình ảnh và sản phẩm của công ty họ còn tiếp cận thị trường một cách dễ

dàng hơn. Với họ, mối quan hệ này là một chiến lược marketing hết sức hiệu quả.

Có thể nói, chính mối quan hệ hữu cơ trên mà nghệ thuật biểu diễn ở các quốc gia

này có một sức mạnh phát triển đáng kể.

Trong khi đó, hiện nay, ở Việt Nam nói chung, Tp. Hồ Chí Minh nói

riêng, mối quan hệ giữa các đơn vị tổ chức nghệ thuật biểu diễn và các doanh

nghiệp kinh tế khác chỉ mới phát triển ở một mức độ thấp sau khi chủ trương xã

hội hóa văn hóa được Nhà nước ban hành. Ngoại trừ lĩnh vực âm nhạc, đa số các

loại hình nghệ thuật biểu diễn còn lại như kịch, cải lương, tuồng, múa rối… đều

rất khó tìm nguồn tài trợ, hoặc có nguồn tài trợ nhưng kém ổn định.

Nhìn chung, các đơn vị nghệ thuật ở Tp. Hồ Chí Minh vẫn còn nhiều hạn

chế trong “công nghiệp kinh doanh” nghệ thuật biểu diễn. Hạn chế chung chính

là việc tổ chức biểu diễn thiếu tính chuyên nghiệp. Việc thiếu chuyên nghiệp thể

111

hiện ở rất nhiều vấn đề, nhưng trước hết có lẽ là trong tư duy của các nhà sản

xuất. Biểu hiện của vấn đề này là việc nhiều nhà sản xuất (hay còn gọi là “bầu

sô”) đã đưa ra những thông tin quảng cáo không đúng sự thật, đánh lừa khán giả

và làm mất lòng tin ở khán giả. Hoặc, rất nhiều các đơn vị, các nhà sản xuất đã

đầu tư cho quảng cáo, hiểu về quảng cáo một cách máy móc. Họ hiểu rất rõ vai

trò của quảng cáo, nhưng lại làm không đúng cách. Kết quả, không những không

kéo khán giả đến với mình mà ngược lại - đánh mất khán giả.

Nguyên nhân của sự thiếu chuyên nghiệp này, có lẽ chủ yếu là do chưa có

một qui định, một cơ chế rõ ràng và chặt chẽ trong việc thành lập các đơn vị

nghệ thuật hay các công ty có chức năng biểu diễn nghệ thuật (cả điều kiện về cơ

sở vật chất và chuyên môn, kỹ năng đảm bảo có thể tổ chức được một buổi

diễn). Vì hoạt động tổ chức biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp có tính đặc thù

cao nên đòi hỏi người quản lý, điều hành vừa có tri thức về kinh doanh, am hiểu

thị trường, thị hiếu khán giả, đồng thời phải có tri thức và am hiểu về nghệ thuật

nữa. Trong thực tế, đa phần các công ty, đơn vị nghệ thuật (kể cả công lập) đều

chưa thỏa mãn được những yêu cầu này. Họ hoặc là nghệ sĩ, diễn viên đứng ra

quản lý, điều hành, tổ chức, hoặc là người chỉ biết kinh doanh mà không có sự

nhạy cảm, hiểu biết sâu về nghệ thuật [Phụ lục 3]. Vì thế kết quả của việc tổ chức

biểu diễn nghệ thuật nói chung trong thời gian qua ở Tp. Hồ Chí Minh chưa thật

sự có chất lượng đồng đều và cao. Thực chất của vấn đề này chính là sự yếu kém

của đội ngũ quản lý các đơn vị nghệ thuật. Hay nói cách khác, đó là trình độ quản

lý chưa thích ứng với cơ chế thị trường.

3.4.2.4. Vấn đề quản lý và chính sách của Nhà nước còn nhiều bất cập

Nếu Nhà nước có cơ chế quản lý khoa học, chính sách khuyến khích hợp

lý sẽ tạo động lực thúc đẩy sự phát triển bền vững của các hoạt động văn hóa,

trong đó có công nghiệp văn hóa. Thế nhưng, trên thực tế, cơ chế quản lý và chính

sách đối với hoạt động nghệ thuật biểu diễn còn nhiều điều bất cập, chưa phát huy

hết hiệu quả, không đáp ứng được yêu cầu phức tạp của thị trường. Cụ thể:

112

Sự chồng chéo trong công tác quản lý đã ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát

triển nền công nghiệp văn hóa trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn của Thành

phố, tạo nên môi trường phát triển kém bền vững và sự cạnh tranh thiếu công

bằng. Tiêu biểu là trong lĩnh vực âm nhạc. Hiện tại, thị trường âm nhạc Thành

phố xuất hiện nhiều sản phẩm kém chất lượng. Nguyên nhân là nếu đơn vị, địa

phương này không cấp phép biểu diễn, xuất bản thì xin đơn vị, địa phương khác.

Cũng chính vì thế mới xảy ra chuyện cấp phép chồng chéo, đơn vị này phủ định

quyết định của đơn vị khác, tạo ra vô số kẽ hở để thị trường âm nhạc ngày càng mất

tầm kiểm soát. Đơn cử như trường hợp album “Da nâu 1” của Phi Thanh Vân, dù

không được Sở VH, TT &DL Tp. Hồ Chí Minh không cho phép xuất bản nhưng

được Nhà xuất bản chuyên ngành âm nhạc cấp phép; album “Đàn ông là thế” của

nhóm Vboys bị Sở VH, TT & DL Tp. Hồ Chí Minh yêu cầu bỏ một số ca khúc có ca

từ không phù hợp, nhưng lại được một địa phương khác thông qua “nguyên bản”…

Theo kết quả khảo sát của chúng tôi, khi lấy ý kiến của cán bộ ở các sân

khấu về nguyên nhân cản trở sự phát triển ngành công nghiệp văn hóa trong lĩnh

vực nghệ thuật biểu diễn ở Thành phố hiện nay thì có đến đến 96% ý kiến cho

rằng công tác quản lý nhà nước là nguyên nhân quan trọng nhất cản trở đến sự

phát triển [Bảng 3, b.1. phụ lục 2]; 69% ý kiến của cán bộ Sở VH, TT & DL Tp.

Hồ Chí Minh cho đây là nguyên nhân quan trọng nhất [Bảng 3, b.2, phụ lục 2].

Điều này cũng phù hợp với thực tiễn hiện nay, khi mà công tác quản lý nhà nước

lĩnh vực văn hóa nghệ thuật nói chung và NTBD nói riêng đang tồn tại nhiều bất

cập, hạn chế.

Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi năm 2009) khẳng định: “Nhà nước

công nhận và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của mọi tổ chức, cá nhân”. Tuy nhiên,

tình trạng vi phạm quyền tác giả và các quyền liên quan trong lĩnh vực nghệ

thuật biểu diễn trên địa bàn Thành phố vẫn diễn ra phổ biến. Hiện tượng này xảy

ra một phần là do những kẻ hở trong luật và những văn bản dưới luật có khả

năng điều chỉnh hoạt động nghệ thuật biểu diễn. Trong một bài báo, Nhạc sĩ

Đinh Trung Cẩn - Giám đốc VCPMC phía Nam, nhấn mạnh:

113

Thực tế trong năm 2014 cho thấy, các hành vi xâm phạm quyền tác

giả vẫn đang diễn ra hết sức công nhiên, thách thức và gây tổn hại

không nhỏ đến quyền lợi chính đáng của các tác giả. Nhiều chương

trình âm nhạc, các live show được đầu tư bài bản, công phu, giá vé

bán hàng triệu hoặc hàng chục triệu đồng, cátsê ca sĩ được trả hàng

trăm triệu, chưa kể nguồn thu tương đối lớn từ các đơn vị tài trợ và

quảng cáo, thì nhạc sĩ nhiều khi không có lấy một đồng, hoặc nếu có

cũng chỉ hết sức tượng trưng cho qua. Các bầu sô lợi dụng kẽ hở từ

Nghị định 79 mà mặc sức sử dụng tác phẩm [134].

Ngay trong Luật sở hữu trí tuệ quy định các chương trình sử dụng tác

phẩm đã được phép công bố thì “không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận

bút, thù lao” cho tác giả. Rõ ràng, điều luật này khiến chủ sở hữu tác phẩm mất

quyền cho phép hay không cho phép các tổ chức biểu diễn sử dụng tác phẩm của

mình. Hay như tại điều 22 trong Quy chế 47 quy định: các cơ quan Nhà nước có

quyền cấp phép biểu diễn. Tuy nhiên, trong toàn bộ nội dung của quy chế này

(cùng nhiều văn bản luật và dưới luật khác) lại không quy định trong hồ sơ đơn

vị xin cấp phép phải có hợp đồng giữa nhà tổ chức với tác giả của các tác phẩm

nghệ thuật. Ngoài vấn đề trên, hiện tượng vi phạm bản quyền còn do năng lực

quản lý của các trung tâm thực thi bản quyền còn hạn chế, dẫn đến hiện tượng

thời gian qua còn nhiều điều tranh cãi xung quanh Luật bản quyền và các quyền

liên quan.

3.4.2.5. Sự thiếu thốn, lạc hậu về hệ thống cơ sở vật chất

Một hệ thống cơ sở vật chất hiện đại, đồng bộ là điều kiện quan trọng để

nghệ thuật biểu diễn nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. Thế nhưng, thực tế

sự nghèo nàn, thiếu thốn và lạc hậu của hệ thống cơ sở vật chất đã góp phần đẩy

hoạt động nghệ thuật biểu diễn Thành phố hiện ngày càng rơi vào hoàn cảnh khó

khăn hơn. Cụ thể:

Đối với hệ thống cơ sở vật chất phục vụ công tác đào tạo: hiện nay,

Thành phố có các cơ sở đào tạo chính quy là Trường Đại học Sân khấu - Điện

114

ảnh; Đại học Sài gòn (chuyên ngành Thanh nhạc); Đại học Văn hóa (chuyên

ngành Quản lý hoạt động sân khấu, Quản lý hoạt động âm nhạc), Nhạc viện

Thành phố, trường Cao đẳng Văn hóa nghệ thuật, trường Trung cấp Múa và

hàng chục trung tâm đào tạo tư nhân. Thế nhưng, kết quả khảo sát cho thấy,

100.0% đơn vị không đáp ứng được những yêu cầu về cơ sở vật chất phục cho

công tác đào tạo, đặc biệt những thiết bị phục vụ học thực hành. Điều này đã ảnh

hưởng rất lớn đến chất lượng đào tạo, bởi nghệ thuật biểu diễn là một ngành đặc

thù, nên trong quá trình đào tạo, đòi hỏi tính thực hành rất cao.

Bên cạnh đó, cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động biểu diễn của Thành

phố cũng thiếu thốn. Là một Thành phố với thị trường khoảng 10 triệu dân,

nhưng Thành phố không có bất kỳ một nhà hát đa năng nào đạt chuẩn quốc gia,

quốc tế có thể phục vụ cho những chương trình biểu diễn chuyên nghiệp, nhất là

những chương trình với quy mô lớn. Hiện nay, Tp. Hồ Chí Minh có khoảng 20

địa điểm có thể phục vụ biểu diễn nghệ thuật, nhưng kết quả khảo sát cho thấy,

100.0% cơ sở này không đáp ứng được các yêu cầu về sân khấu, cùng hệ thống

âm thanh, ánh sáng... Nhà hát Hòa Bình, vốn được xem là Nhà hát hiện đại nhất

Việt Nam với sức chứa 2.400 chỗ. Nhưng hiện nay, Nhà hát được cho thuê làm

rạp phim và sân khấu Nụ Cười Mới hoạt động. Vì vậy, khi các chương trình diễn

ra tại đây, việc tập luyện của nghệ sỹ hết sức khó khăn, bởi phần lớn thời gian

trong tuần đều dành để chiếu phim. Hay như Nhà hát Bến Thành, dù đây là đơn

vị sơ hữu hệ thống âm thanh có chất lượng khá tốt, nhưng sân khấu nhỏ - sức

chứa khoảng 1.046 chỗ, thiếu chiều sâu, cách bố trí ghế chưa phù hợp, cách âm

không tốt... Nhà hát Thành phố là địa điểm lý tưởng cho các chương trình nghệ

thuật hàn lâm. Thế nhưng, Nhà hát này luôn được ưu tiên cho các sự kiện chính

trị - xã hội, vì vậy việc tập duyệt chương trình cũng rất khó khăn. Trên địa bàn

Thành phố hiện nay, có lẽ Sân khấu Lan Anh được xem là địa điểm biểu diễn lý

tưởng nhất với sức chứa khoảng 2.500 chỗ cùng hệ thống âm thanh, ánh sáng

tương đối tốt. Mặc dầu vậy, sân khấu này vẫn không đảm bảo chất lượng cho các

chương trình có quy mô lớn, có những đòi hỏi cao hơn về kỹ thuật, đặc biệt là

115

các chương trình của nghệ sỹ quốc tế. Trong khi đó, CLB Phan Đình Phùng, nhà

thi đấu Nguyễn Du và sân vận động Quân khu 7 vốn dĩ không phải được xây

dựng để phục vụ cho hoạt động biểu diễn nghệ thuật, nên khi các chương trình

được tổ chức tại đây luôn gặp rất nhiều khó khăn trong việc thiết kế hệ thống âm

thanh, ánh sáng, ghế ngồi… vì vậy, chất lượng của chương trình không đảm bảo.

Các sân khấu như Trống Đồng, Cầu Vồng – dù đây là địa điểm biểu diễn thường

xuyên của hầu hết các nghệ sỹ - nhất là lĩnh vực âm nhạc. Thế nhưng, vì là sân

khấu ngoài trời, nên bên cạnh vấn đề chất lượng âm thanh, đơn vị tổ chức luôn

chịu sự phản ứng của người dân sống xung quanh do tiếng ồn làm ảnh hưởng

đến đời sống của họ.

Kết quả khảo sát cơ sở vật chất của các đơn vị kinh doanh nghệ thuật biểu

diễn tư nhân cho thấy, chỉ Sân khấu kịch 5B là có cơ sở riêng để biểu diễn, các

đơn vị còn lại đều phải thuê cơ sở để biểu diễn. Sân khấu kịch Hồng Vân thì thuê

tại Trung tâm Văn hóa quận Phú Nhuận; Kịch Idecaf thuê tại Trung tâm Văn hóa

và hợp tác Pháp; sân khấu Nụ Cười Mới thuê Nhà hát Hòa Bình; sân khấu Kịch

Sài Gòn thì thuê cơ sở tại Nhà hát Đại Đồng…Chính vì không có cơ sở riêng để

hoạt động, nên việc đầu tư cơ sở vật chất của các đơn vị này rất hạn chế, thiếu

tính chiến lược lâu dài.

Đi cùng với cơ sở vật chất phải kể đến trang thiết bị âm thanh, ánh sáng,

nhạc cụ... Bởi nó chính là phương tiện để chuyển tải nội dung trình diễn. Mặc

dầu, Nhà nước có chính sách đầu tư, nhưng các đơn vị nghệ thuật vẫn thường

xuyên phải đối phó với tình trạng thiết bị âm thanh thiếu thốn và lạc hậu. Hiện

nay, ở khu vực nhà nước và một số công ty tư nhân đã đầu tư trang thiết bị điện

tử như các bộ đều khiển âm thanh, ánh sáng điện tử, áp dụng kỹ thuật số…để

cho thuê. Tuy nhiên, do thiếu nguồn vốn nên 100% các thiết bị hiện đang sử

dụng ở các đơn vị nghệ thuật là không đồng bộ và hiện đại vì mua từ nhiều hãng

khác nhau, nhiều thời điểm khác nhau, chất lượng khác nhau…nhưng vẫn phải

lắp vào dùng chung, các phụ kiện kèm theo hầu hết là tự làm lấy. Bên cạnh tình

trạng đó, người sử dụng thiết bị âm thanh, ánh sáng hầu hết chưa được đào tạo

116

đúng chuyên ngành nên có thể gây ra hỏng hóc, chưa chú ý bảo quản chóng xóc,

chóng ẩm, chóng quá tải…

3.4.2.6. Vấn đề nguồn nhân lực còn hạn chế

Cùng với điều kiện cơ sở vật chất, yếu tố nguồn nhân lực giữ vai trò quyết

định đối với sự phát triển của công nghiệp văn hóa. Tuy nhiên, nguồn nhân lực

của nghệ thuật biểu diễn Thành phố cũng đang đứng trước những khó khăn, thử

thách rất lớn. Những loại hình nghệ thuật âm nhạc truyền thống – dân tộc, nhạc

giao hưởng - thính phòng, nghệ thuật múa chính thống đang thiếu đội ngũ đạo

diễn, diễn viên kế thừa. Trong khi đó, đối với lĩnh vực âm nhạc – loại hình nhạc

nhẹ phục vụ giới trẻ, kịch nói, nghệ thuật múa không chính thống lại rơi vào tình

trạng: thiếu nguồn nhân lực có chất lượng cao, thừa nguồn nhân lực có chất

lượng thấp. Nguyên nhân của hiện tượng này là do chất lượng đào tạo và sự thay

đổi thị hiếu của thị trường, vì vậy người học phải chọn những ngành học phù

hợp với nhu cầu xã hội.

Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đến Sở VH, TT & DL Tp. Hồ

Chí Minh để lấy ý kiến đánh giá về chất lượng nguồn nhân lực phục vụ cho sự

phát triển của công nghiệp văn hóa trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn Thành

phố. Kết quả nghiên cứu cho thấy chỉ có 2.4% ý kiến đánh giá của cán bộ Sở cho

rằng chất lượng nguồn nhân lực phục vụ cho ngành công nghiệp văn hóa trong

lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn đạt tốt; 26.8% đạt mức khá trong khi có đến 70.7%

đạt từ mức trung bình đến yếu [Bảng 8, b.2, phụ lục 2]. Đánh giá này hoàn toàn

phù hợp với thực tiễn hiện nay, phần lớn nguồn nhân lực trong lĩnh vực NTBD

làm việc theo kinh nghiệm là chính, tỷ lệ người được đào tạo bài bản, chuyên

nghiệp rất thấp. Hơn nữa, môi trường đào tạo nguồn nhân lực cho lĩnh vực này ở

Việt Nam còn chưa phát triển hoàn thiện, vì vậy việc thiếu nguồn nhân lực chất

lượng cao là tất yếu.

Tiểu kết

Như vậy, quá trình khảo sát, đánh giá thực trạng loại hình nghệ thuật: âm

nhạc, kịch nói và múa ở Tp. Hồ Chí Minh trong thời gian qua trên các bình diện:

117

hoạt động sáng tạo/sản xuất; hoạt động kinh doanh, tổ chức biểu diễn và hoạt

động phân khúc thị trường, vấn đề bản quyền cho thấy một số thành tựu đã đạt

được theo hướng công nghiệp. Đó là: đội ngũ sáng tạo/ sản xuất được đào tạo bài

bản qua các trường lớp hoặc tự bỏ tiền ra nước ngoài để học tập khá đông. Cách

thức sáng tạo/sản xuất các sản phẩm nghệ thuật chuyên nghiệp. Trong quá trình

sáng tạo/ sản xuất và tổ chức biểu diễn đã áp dụng những thành tựu của khoa học kỹ

thuật - công nghệ tiên tiến. Các chủ thể đã biết quan tâm đến phát triển thị trường

bằng cách phân khúc thị trường và chọn thị trường mục tiêu, giới thiệu, quảng bá…

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được còn tồn tại một số hạn chế:

Sản phẩm nghệ thuật biểu diễn còn chạy theo thị hiếu tầm thường, tẻ nhạt. Thị

trường nghệ thuật biểu diễn thiếu những sản phẩm có chất lượng cao đáp ứng

nhu cầu của công chúng; tình trạng phát triển manh mún, không có sự liên minh,

liên kết giữa các lĩnh vực với nhau; thiếu định hướng chiến lược phát triển bền

vững. Ngoài ra, vấn đề quản lý và chính sách của Nhà nước còn nhiều bất cập; sự

thiếu thốn, lạc hậu về hệ thống cơ sở vật chất; vấn đề nguồn nhân lực cho phát

triển nghệ thuật biểu diễn của Tp. Hồ Chí Minh còn hạn chế… Để có một ngành

công nghiệp biểu diễn hoàn thiện và hiện đại, xứng tầm với quá trình phát triển

của đất nước, cũng như với thế giới thì đòi hỏi những hạn chế đang còn vướng mắc

phải được khắc phục và phát huy tối đa những mặt tích cực đã đạt được trong thời

gian qua. Việc phát triển ngành công nghiệp văn hóa chính là một yếu tố, một động

lực thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Tp. Hồ Chí Minh và cả nước,

đồng thời góp phần xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiến tiến, đậm đà bản sắc

dân tộc.

118

Chƣơng 4

NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN

NGHỆ THUẬT BIỂU DIỄN Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

HIỆN NAY VÀ MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ

4.1. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN NGHỆ THUẬT

BIỂU DIỄN Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY

Qua quá trình nghiên cứu, khảo sát thực trạng đề tài, tác giả luận án nhận

thấy một số vấn đề đặt ra đối với phát triển nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí

Minh hiện nay như sau:

4.1.1. Mâu thuẫn giữa nhu cầu hƣởng thụ của công chúng và khả

năng đáp ứng của lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn Thành phố

Nhu cầu hưởng thụ nghệ thuật của công chúng Tp. Hồ Chí Minh từ trước

đến nay vốn hết sức phong phú, đa dạng và phức tạp. Do sự đa dạng về thành

phần dân cư, trình độ dân trí, địa vị xã hội… vì vậy trình độ tiếp nhận cũng như

thị hiếu thẩm mỹ của công chúng cũng có những điểm khác nhau. Ngày nay, xã

hội phát triển, trình độ dân trí được nâng cao, dân chúng đến với nghệ thuật

không những chỉ giải trí đơn thuần. Sự hấp dẫn của văn hóa, văn nghệ hay nói rõ

hơn là sự hấp dẫn của các tác phẩm nghệ thuật phải là sự hấp dẫn của cái hay

chân chính. Sự hấp dẫn xuất phát từ nhu cầu văn hóa văn nghệ chân chính của xã

hội chứ không phải hấp dẫn vì chiều theo những đòi hỏi một cách tuỳ tiện và tự

phát của công chúng. Nhu cầu của công chúng muốn được thưởng thức những

bộ phim rõ nét, rõ hình, thích nghe những bài hát rõ tiếng, rõ lời, biết thể hiện

nội dung bài hát không chỉ qua chất giọng mà còn qua điệu bộ, phong cách biểu

diễn; thích hợp với những lớp kịch mang đậm tính hài có thể gây được những

tiếng cười no nê, thoải mái; thích được khóc theo diễn viên trong những màn bi,

được nhập thân vào những tình huống sôi nổi, hừng hực trong những cảnh,

những màn hùng tráng; thích được thấy thật rõ những cảnh sống thật, tâm trạng

thật của chính mình phản ánh lên sân khấu, lên màn ảnh… Ngay cả việc thích

119

tán dương, thích ngưỡng mộ thật hết mình đối với những ca sĩ, kịch sĩ, diễn viên

điện ảnh… có thực tài, có thanh, có sắc cũng là một nhu cầu hết sức chính đáng.

Vậy nhưng, khả năng đáp ứng của hoạt động văn hóa nghệ thuật biểu diễn của

Thành phố còn có những hạn chế nhất định. Mặc dầu, so với các địa phương

khác trong cả nước, Tp. Hồ Chí Minh đã đạt được những thành tựu đáng kể,

nhưng khi được khảo sát, số khán giả thực sự hài lòng (rất hài lòng) về những

chất lượng nội dung các vở diễn, chương trình ca nhạc chưa nhiều. Ngoài nhu

cầu hưởng thụ về chất lượng nội dung, còn phải kể đến những hạn chế về chất

lượng cơ sở vật chất: hệ thống âm thanh, ánh sáng, ghế ngồi; hạn chế về các dịch

vụ đi kèm, giá vé, thông tin quảng cáo trên các kênh truyền thông…

Khi được hỏi về mức độ hài lòng của ông/bà đối với chất lượng chương

trình ca nhạc tại sân khấu thì kết quả cho thấy tỷ lệ khán giả rất hài lòng về chất

lượng các chương trình ca nhạc khá thấp – chỉ chiếm 37.8% tỷ lệ khán giả được

khảo sát; trong khi có đến 62.2% khán giả chỉ dừng ở mức hài lòng đối với các

chương trình ca nhạc tại các sân khấu được khảo sát [Bảng 4, a.1, phụ lục 2].

Một tỷ lệ lớn khán giả chọn các sân khấu để xem đơn giản chỉ vì gần nhà; trong

khi đó chỉ có 36% khán giả được khảo sát cho biết lý do đến xem tại sân khấu

được khảo sát là vì tại đây có các chương trình nghệ thuật chất lượng cao [Bảng

2, a.1, phụ lục 2]. Đó là vấn đề mà các nhà quản lý tại các sân khấu được khảo

sát cần phải lưu tâm.

Đối với khán giả của các sân khấu kịch khi được hỏi về mức độ hài lòng

đối với chất lượng nội dung các vở diễn thì kết quả cho thấy tỷ lệ khán giả rất

hài lòng về chất lượng các vở kịch khá thấp – chỉ chiếm 30.1% tỷ lệ khán giả

được khảo sát; trong khi có đến 69.9% khán giả chỉ dừng ở mức hài lòng đối với

các vở kịch tại các sân khấu được khảo sát [Bảng 5, a.2, phụ lục 2].

120

Biểu 4.1: Mức độ hài lòng của khán giả đối với chất lƣợng nội dung các vở diễn Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án

Điều đó cho thấy, dù phần lớn khán giả cho rằng kịch hay chính là lý do

để họ quyết định đến xem tại sân khấu [Bảng 2, a.2, phụ lục 2], thế nhưng khi họ

được hưởng thụ trực tiếp thì đã có những đánh giá hoàn toàn khác.

Nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn trên có nhiều, trước hết, đó là do trình

độ của đội ngũ làm công tác văn hóa, văn nghệ ở Tp. Hồ Chí Minh chưa thực sự

đồng bộ về mọi mặt. Đội ngũ các văn nghệ sĩ, diễn viên được đào tạo chính quy

tại các trường có chất lượng tốt chưa nhiều, trình độ tổng hợp về nghệ thuật, về

văn hóa, về chính trị chưa cao. Vì vậy, chất lượng buổi diễn còn hạn chế. Đội

ngũ nghệ sĩ, nghệ nhân giỏi nghề phần nhiều đã lớn tuổi, lực lượng kế thừa còn

non trẻ. Ngoài ra, về chất lượng tác phẩm nghệ thuật, còn hiếm những tác phẩm

giàu tính nhân văn, mang hơi thở thời đại, tạo được dấu ấn. Sàn diễn còn tràn

ngập những vở diễn, những bài hát sáo mòn, xa lạ với cuộc sống, quanh quẩn

với mâu thuẫn nhân vật cũ mòn. Diễn viên diễn sân khấu hoặc quá công thức,

hoặc quá tuỳ tiện, ít quan tâm đến việc kết hợp hài hoà giữa nghệ thuật ca diễn

để có một vai diễn hay. Hơn nữa, Tp. Hồ Chí Minh hiện có nhiều nhà hát, đoàn

nghệ thuật chuyên nghiệp do Nhà nước quản lý nhưng lại thiếu sân khấu đủ quy

121

chuẩn “chuyên nghiệp” để biểu diễn. Thực trạng đó đã không đáp ứng được nhu

cầu hưởng thụ ngày càng cao của công chúng nghệ thuật Thành phố.

4.1.2. Mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển ngành công nghiệp văn hóa

và thực trạng của lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn

Có thể khẳng định rằng, trong khi ngành công nghiệp văn hóa ở trên thế

giới phát triển mạnh mẽ, trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều quốc gia thì

ở Việt nam, xây dựng và phát triển ngành công nghiệp này vẫn ở giai đoạn khởi

đầu. Ngành công nghiệp văn hóa nước ta mới chỉ hình thành sau một thời gian dài

chuyển đổi từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường. Quá trình phát triển kinh tế -

xã hội theo cơ chế thị trường, chúng ta có khá nhiều lĩnh vực của đời sống văn hóa

đã, đang có sự chuyển biến, hướng đến phương thức sản xuất, phổ biến, tiêu dùng

văn hóa theo lối công nghiệp.

Một trong những nguyên nhân làm cho ngành công nghiệp văn hóa nói

chung và nghệ thuật biểu diễn nói riêng ở nước ta chậm phát triển, đó là nhận thức

chung của các cơ quan lãnh đạo và quản lý về vai trò, vị trí của ngành công nghiệp

này chưa đúng. Thậm chí, nhiều cấp, nhiều ngành còn xa lạ với thuật ngữ “công

nghiệp văn hóa”, chưa coi văn hóa như một ngành công nghiệp có khả năng tạo

nên sự phát triển kinh tế - xã hội cho đất nước.

Khi chúng tôi tiến hành khảo sát đội ngũ cán bộ tại các sân khấu về thuật

ngữ CNVH thì kết quả nghiên cứu cho thấy, một thực tế là không có một cán bộ

nào từ các đơn vị sân khấu được khảo sát hiểu một cách tường tận thuật ngữ này,

trong khi đó chỉ có 5.4% cán bộ tham gia khảo sát cho biết đang tìm hiểu; 49.1%

chưa bao giờ nghe, 40% đã nghe những không quan tâm [Bảng 1, b.1, phụ lục 2]

Điều này cho thấy thuật ngữ CNVH còn khá xa lạ đối với một bộ phận không nhỏ

cán bộ làm công tác quản lý trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật. Đây là một trở

ngại rất lớn để có thể phát triển ngành CNVH tại Thành phố.

122

Biểu 4.2: Đánh giá của cán bộ quản lý sân khấu về thuật ngữ CNVH Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án

Cũng với nội dung câu hỏi này, chúng tôi khảo sát ở đối tượng cán bộ

quản lý nhà nước (Sở VH, TT & DL Tp. Hồ Chí Minh) thì kết quả nghiên cứu

cho thấy, nếu so với cán bộ quản lý tại các đơn vị nghệ thuật thì tỷ lệ cán bộ tại

cơ quan quản lý nhà nước hiểu rõ về thuật ngữ CNVH (tỷ lệ 14.6%), đồng thời

có đến 35.4% cán bộ tham gia khảo sát cho biết đang tìm hiểu về thuật ngữ này;

trong khi đó chỉ có 10.4% cán bộ chưa bao giờ nghe đến thuật ngữ này và 22.9%

cán bộ đã nghe nhưng không quan tâm [Bảng 1, b.2, phụ lục 2]. Kết quả này

chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của ngành CNVH của Thành phố. Tuy

nhiên, kết quả này cho thấy thuật ngữ CNVH không còn xa lạ đối với cán bộ làm

công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật. Đây là một lợi thế

để có thể thúc đẩy sự phát triển của ngành CNVH tại Tp.Hồ Chí Minh.

123

Biểu 4.3: Đánh giá của cán bộ quản lý nhà nƣớc (Sở VH, TT & DL Tp. Hồ Chí Minh) về thuật ngữ CNVH Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án

Cho đến nay, việc xây dựng Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp

văn hóa ở Việt Nam cũng chỉ mới nằm ở bản dự thảo.

4.1.3. Mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển công nghiệp nghệ thuật biểu

diễn và sự bất cập về thể chế liên quan

Trong thời gian qua, các chủ thể tham gia hoạt động trong ngành thuộc

lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn đã khá nhanh nhạy trong nhận thức cũng như trong

thực tiễn. Trên cơ sở những định hướng của Đảng về phát triển kinh tế, văn hóa

xã hội, họ hướng phát triển lĩnh vực của mình trong xu thế toàn cầu hóa và hội

nhập quốc tế. Từ đó, các chủ thể đã chủ động tích cực trong việc đổi mới kỹ

thuật và công nghệ, tiếp cận thị trường, bám sát nhu cầu, thị hiếu của xã hội để

tạo nên những sản phẩm văn hóa vừa thể hiện bản sắc độc đáo của văn hóa Việt

Nam, vừa tiếp thu những thành tựu văn hóa, văn minh của nhân loại, làm đa dạng và

phong phú đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân, tạo tiền đề quan trọng cho ngành

công nghiệp nghệ thuật biểu diễn phát triển. Tuy nhiên, qua quá trình thực hiện, họ

gặp phải nhiều vướng mắc, nhất là thiếu một hành lang pháp lý để họ thực hiện.

124

Trước những băn khoăn, bức xúc về rất nhiều bất cập đã và đang tồn tại

trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn, lần đầu tiên, Uỷ ban Văn hóa, Giáo dục

thanh niên, thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội đã tiến hành giám sát việc thi

hành chính sách, pháp luật về nghệ thuật biểu diễn từ tháng 7 đến tháng 10/2010.

Quá trình giám sát đã nhận ra lĩnh vực này đang tồn tại quá nhiều vấn đề. Theo

GS.TS Nguyễn Minh Thuyết, nguyên Phó Chủ nhiệm Uỷ ban đã khẳng định:

Lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn đang rất thiếu những văn bản quy phạm

pháp luật. Điều chỉnh trực tiếp trong lĩnh vực này mới chỉ có các quy

chế, được ban hành theo quyết định của Bộ trưởng. Mà theo Luật Ban

hành văn bản quy phạm pháp luật hiện hành thì quyết định của Bộ

trưởng không được xem là văn bản quy phạm pháp luật [128].

TS. Nguyễn Danh Ngà trong một bài viết đăng trên báo gần đây cũng đã

khẳng định: Công nghiệp văn hóa là một ngành công nghiệp, vì thế cần có một

hệ thống chính sách phù hợp. Trình độ quản lý hành chính về văn hóa trực tiếp

tác động vào công nghiệp văn hóa. Quản lý văn hóa đòi hỏi phải có hành lang

pháp lý thuận lợi cho quá trình sản xuất và tiêu dùng văn hóa, quản lý vĩ mô là

chính, vi mô là phụ, tổng hợp cả những biện pháp về kinh tế và pháp luật, hành

chính, giáo dục, dư luận, tin tức. Bởi vậy, cần hoàn thiện hơn hệ thống quản lý

nhà nước, tạo hành lang pháp lý cho sự hình thành thị trường văn hóa lành mạnh.

Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách nhằm khuyến khích sự sáng tạo của

các chủ thể nghệ sĩ, các nhà hoạt động văn hóa, sáng tạo văn hóa. Trong các

chính sách, thúc đẩy nền công nghiệp văn hóa phát triển, quan trọng nhất là

chính sách ưu đãi về đầu tư, thuế… và chính sách đối với các sản phẩm văn hóa

khi sản xuất và lưu thông trên thị trường.

Quá trình xã hội hóa hoạt động nghệ thuật biểu diễn đang diễn ra vô cùng

sôi động ở Tp. Hồ Chí Minh. Các lĩnh vực ca múa nhạc, sân khấu ra đời nhiều

ban, nhóm tại các nhà văn hóa, câu lạc bộ và nổi bật với phong trào sân khấu

nhỏ. Quá trình xã hội hóa diễn ra với các cấp độ khác nhau. Có thể tạm phân ra

125

thành các hình thức sở hữu như: hình thức bán công, hình thức dân lập, hình

thức tư nhân. Mặc dù quá trình xã hội hóa các hoạt động biểu diễn đã thành chủ

trương, chính sách của Nhà nước nhưng trên thực tế vẫn tiến hành một cách tự

phát, mạnh ai nấy làm, chưa có quy hoạch cụ thể. Hoạt động biểu diễn nghệ

thuật có xu hướng thương mại hóa, bỏ quên mục đích phục vụ chính trị, cho ra đời

các chương trình biểu diễn ve vuốt thị hiếu tầm thường của công chúng. Đầu tư cho

nghệ thuật không cao. Luật doanh nghiệp ra đời, vấn đề cổ phần hóa được đặt ra,

các đơn vị xã hội hóa vẫn lúng túng vì chưa có cơ sở văn bản hướng dẫn để chuyển

đổi thành một đơn vị doanh nghiệp hoạt động theo luật định ở lĩnh vực này.

4.1.4. Khoảng cách lớn về nguồn nhân lực để phát triển công nghiệp

văn hóa của Thành phố so với khu vực và thế giới

Ở các nước trong khu vực và trên thế giới, ngành công nghiệp văn hóa đã

phát triển rất mạnh mẽ và trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Công nghiệp văn

hóa góp phần tăng trưởng GDP và giải quyết công ăn việc làm cho người lao

động, tác động trực tiếp đến nền kinh tế của các nước:

Từ năm 2000 đến 2010, các ngành công nghiệp văn hóa nói chung

hàng năm đã tăng trưởng nhiều hơn hai lần so với ngành công nghiệp

dịch vụ và gấp bốn lần so với lĩnh vực sản xuất ở các nước phát triển

và đang phát triển. Thị trường toàn cầu chỉ riêng lĩnh vực âm thanh -

hình ảnh ước tính đạt 516 tỷ đô vào năm 2008. Tổng giá trị của xuất

khẩu về hàng hóa và dịch vụ sáng tạo đạt 592 tỷ đô vào năm 2008, và

tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp trong thời gian sáu năm này

đạt trung bình 14% [86, tr.2].

Nhưng ở Việt Nam nói chung, Tp. Hồ Chí Minh nói riêng bước vào quá

trình phát triển ngành công nghiệp văn hóa muộn hơn nhiều, kinh nghiệm để

phát triển các lĩnh vực phát triển công nghiệp văn hóa còn nhiều hạn chế. Đội

ngũ nguồn nhân lực để phát triển lĩnh vực này còn rất mỏng, vừa thiếu lại vừa

yếu. Ngoài một số ít cá nhân tài năng như các nghệ sĩ, các nhà sản xuất kinh

doanh, tổ chức các hoạt động văn hóa có năng lực sáng tạo tốt, nhanh nhạy trong

126

kết nối toàn cầu và quan trọng là rất tâm huyết với lĩnh vực mới mẻ này thì phần

đông nguồn nhân lực còn thiếu về kiến thức kinh tế trong văn hóa, đạo đức trong

kinh doanh các sản phẩm văn hóa, kiến thức về luật pháp và giao lưu quốc tế

trong hoạt động văn hóa…

Khi chúng tôi lấy ý kiến của cán bộ Sở VH, TT & DL Tp. Hồ Chí Minh

về những vấn đề đặt ra hiện nay đối với sự phát triển của ngành công nghiệp văn

hóa trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn Tp. Hồ Chí Minh (theo đánh giá thứ tự

ưu tiên một số bình diện như mâu thuẫn giữa nhu cầu hưởng thụ và khả năng đáp

ứng của Thành phố; mâu thuẫn giữa áp lực quốc tế và năng lực trong nước; mâu

thuẫn giữa trình độ quản lý và nhu cầu phát triển; mâu thuẫn giữa nguồn nhân

lực của CNVH với tốc độ phát triển của khu vực và thế giới) thì kết quả nhận

được như sau:

Biểu 4.4: Các vấn đề đặt ra hiện nay đối với sự phát triển của CNNTBD

Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án

Mâu thuẫn giữa nhu cầu hưởng thụ của khán giả và khả năng đáp ứng của

thị trường chính là vấn đề nghiêm trọng nhất hiện nay trên thị trường văn hóa

nghệ thuật. Thực tế là hiện nay có sự chênh lệch khá lớn giữa nhu cầu thưởng

127

thức nghệ thuật của công chúng và khả năng đáp ứng của các doanh nghiệp kinh

doanh. Nguyên nhân của hiện tượng này có thể do sự hạn chế về nguồn lực của

chính các doanh nghiệp hoặc hạn chế về khả năng thanh toán của các phân khúc

thị trường. Mâu thuẫn giữa trình độ quản lý và nhu cầu phát triển là mức độ quan

trọng thứ hai. Điều này hoàn toàn hợp lý khi mà chất lượng nguồn nhân lực để

giúp cho ngành CNVH phát triển là một trong những hạn chế lớn nhất hiện nay.

Mức độ quan trọng tiếp theo là sự mâu thuẫn giữa nguồn nhân lực của CNVH

với tốc độ phát triển của khu vực và thế giới. Thực tiễn phát triển hiện nay cho

thấy, nếu so với thế giới và khu vực, rõ ràng trình độ phát triển một cách toàn

diện của nền CNVH tại Việt Nam quá non trẻ và còn tồn tại vô vàn hạn chế, đặc

biệt là cơ chế thị trường và chủ trương chính sách của nhà nước. Mâu thuẫn giữa

áp lực quốc tế và năng lực trong nước là vấn đề quan trọng cuối cùng. Đó chính

là áp lực về toàn cầu hóa, quốc tế hóa ngành CNVH với khả năng thích nghi,

thức ứng, tồn tại và phát triển của chính các doanh nghiệp trong nước. Nếu

không hạn chế được mâu thuẫn này thì rất có thể, thị trường văn hóa nghệ thuật

vốn còn biên độ phát triển rất rộng này sẽ bị các doanh nghiệp nước ngoài lần

lượt thâu tóm [Bảng 10, b.2, phụ lục 2].

Nói tóm lại, ở Việt Nam nói chung, Tp. Hồ Chí Minh nói riêng hiện nay

lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn chưa phát triển đầy đủ với tư cách của một ngành

công nghiệp đúng nghĩa chuyên nghiệp. Nguyên nhân của sự thiếu chuyên

nghiệp này chủ yếu là do chưa có những quy định, cơ chế rõ ràng và chặt chẽ

trong việc thành lập các đơn vị nghệ thuật hay các công ty có chức năng biểu

diễn nghệ thuật (cả điều kiện về cơ sở vật chất và chuyên môn, kỹ năng đảm bảo

để tổ chức biểu diễn một cách chuyên nghiệp). Vì hoạt động tổ chức biểu diễn

nghệ thuật chuyên nghiệp có tính đặc thù cao, đòi hỏi người quản lý, điều hành

vừa có tri thức về kinh doanh, am hiểu thị trường, thị hiếu khán giả, đồng thời

phải có tri thức và am hiểu về nghệ thuật nữa. Trong thực tế, đa phần các công

ty, đơn vị nghệ thuật (kể cả công lập) đều chưa thỏa mãn được những yêu cầu

này. Họ hoặc là nghệ sĩ, diễn viên đứng ra quản lý, điều hành, tổ chức, hoặc là

128

người chỉ biết kinh doanh mà không có sự nhạy cảm, hiểu biết sâu về nghệ thuật.

Vì thế kết quả của việc tổ chức biểu diễn nghệ thuật nói chung trong thời gian

qua ở Tp. Hồ Chí Minh chưa thật sự có chất lượng đồng đều và cao. Thực chất

của vấn đề này chính là sự yếu kém của đội ngũ quản lý các đơn vị nghệ thuật.

Hay nói cách khác, đó là trình độ quản lý chưa thích ứng với cơ chế thị trường.

Cần nhanh chóng đào tạo nguồn nhân lực để phát triển lĩnh vực này đáp ứng yêu

cầu trong nước, đồng thời kéo gần khoảng cách với các nước khác trên thế giới.

4.2. DỰ BÁO XU HƢỚNG VẬN ĐỘNG, PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP

VĂN HÓA VÀ NGHỆ THUẬT BIỂU DIỄN Ở VIỆT NAM NÓI CHUNG VÀ

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NÓI RIÊNG

Việt Nam đang trong bối cảnh chuyển đổi nhanh chóng và mạnh mẽ trên

tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa và xã hội. Quản lý và phát triển các ngành

công nghiệp văn hóa là một vấn đề mới mẻ. Tuy nhiên, với kinh nghiệm phát

triển các lĩnh vực văn hóa nghệ thuật từ trước tới nay, thêm vào đó là quá trình

đổi mới nhận thức và chính sách, cơ chế quản lý hiện nay, kết hợp với nghiên

cứu và vận dụng linh hoạt, sáng tạo kinh nghiệm của các nước trên thế giới, chắc

chắn Việt Nam sẽ từng bước phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, đóng

góp tích cực vào sự phát triển kinh tế và phát triển văn hóa, xã hội của đất nước;

phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Xuất phát từ bối cảnh quốc tế và trong nước cùng với những chủ trương,

đường lối, chiến lược văn hóa đã đề ra, trong thời gian tới, các hình thái sản xuất

sản phẩm văn hóa sẽ xuất hiện đa dạng. Tuy nhiên sẽ có sự sắp xếp lại các lĩnh

vực sản xuất, kinh doanh, dịch vụ văn hóa theo hướng phù hợp với phát triển

ngành công nghiệp văn hóa. Trong điều kiện Việt Nam phát triển kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay, sẽ có loại hình do thị trường tự

giải quyết, có loại bán công nghiệp, có loại Nhà nước phải tự đứng ra làm. Việc

xã hội hóa trong lĩnh vực này được thực hiện ngày càng hiệu quả hơn.

Lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn sẽ ngày càng có những bước phát triển

mới. Nhu cầu thưởng thức văn hóa nghệ thuật ngày càng phong phú và đa dạng,

đòi hỏi cao hơn về chất lượng nghệ thuật. Nghệ thuật biểu diễn là loại hình

129

không thể thiếu trong việc đáp ứng đời sống tinh thần sẽ nhanh chóng nắm bắt

các nhu cầu, thị hiếu của công chúng, không ngừng đổi mới để đáp ứng nhu cầu

ngày càng đa dạng của khán giả. Do ảnh hưởng của các yếu tố ngoại sinh cũng

như do sự tìm tòi của các văn nghệ sĩ nên một số thể loại trong nghệ thuật biểu

diễn sẽ có những biến tấu nhất định. Những tác phẩm nghệ thuật mang tính giải

trí ngày càng xuất hiện nhiều hơn và được công chúng đón nhận cởi mở hơn.

Tính chuyên nghiệp của những người tham gia vào phát triển nghệ thuật biểu diễn

sẽ được nâng cao bởi được đào tạo bài bản ở trong nước và ngoài nước. Hàng rào

ngôn ngữ cản trở thu các kỹ thuật tân tiến, các trào lưu văn hóa và kinh nghiệm hoạt

động văn hóa nghệ thuật quốc tế sẽ dần được khắc phục. Khả năng cạnh tranh thị

trường trong nước và thế giới của nghệ thuật biểu diễn ngày càng tăng cao. Mức độ

thị trường hóa của sản phẩm nghệ thuật biểu diễn ngày càng đa dạng…

Là một Thành phố công nghiệp trẻ, năng động, dân số đông nhất nước,

Tp. Hồ Chí Minh sẽ có một đội ngũ công chúng ngày càng đông đảo. Văn hóa

nghệ thuật lại là một hình thái ý thức xã hội nhạy cảm sẽ nhanh chóng nắm bắt

được các nhu cầu, thị hiếu của công chúng, không ngừng tự đổi mới để đáp ứng

yêu cầu đa dạng của khán giả. Tp. Hồ Chí Minh ngày càng chứng tỏ không chỉ là

một Thành phố có những hoạt động về kinh tế sôi nổi mà thị trường nghệ thuật ở

Tp. Hồ Chí Minh cũng sôi nổi không kém. Khi điều kiện kinh tế của người dân nơi

đây ngày càng đầy đủ thì thói quen đến các phòng trà, rạp hát thưởng thức nghệ

thuật sẽ thường xuyên hơn, nhu cầu thưởng thức văn hóa nghệ thuật ngày càng đa

dạng và phong phú hơn. Đây là một điều kiện rất tốt cho việc phát triển nghệ thuật.

Thời gian vừa qua, Thành phố đã chú trọng tạo điều kiện để phát triển văn

hóa nói chung và hoạt động biểu diễn nghệ thuật nói riêng. Tuy nhiên, có thể

thấy rằng, trong hoàn cảnh kinh tế chung của nước ta hiện nay, với số kinh phí

ngân sách phân bổ cho lĩnh vực văn hóa - thông tin cũng chỉ đạt được trên dưới

1,6% thì những đầu tư ấy cũng chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của hoạt

động biểu diễn nghệ thuật. Vì thế, thời gian tới Thành phố sẽ tiếp tục khuyến

khích các thành phần kinh tế ngoài công lập tham gia dưới mọi hình thức để bảo

130

tồn phát huy các giá trị văn hóa dân tộc, phát triển các loại hình nghệ thuật

đương đại. Đồng thời, khuyến khích tập thể, tư nhân liên doanh, liên kết xây dựng

các rạp hát, trung tâm biểu diễn, tổ chức hoạt động biểu diễn, kinh doanh trang thiết

bị biểu diễn, âm thanh, ánh sáng… để phát triển nghệ thuật biểu diễn. Xã hội hóa

nghệ thuật biểu diễn sẽ phát triển càng phong phú và đa dạng ở nhiều loại hình.

Xu hướng mở rộng liên doanh, liên kết, hợp tác với các nước trong khu

vực và trên thế giới để phát triển công nghiệp văn hóa ở Tp. Hồ Chí Minh ngày

càng đa dạng và phong phú hơn. Tp. Hồ Chí Minh là cửa ngõ giao lưu các nền

văn hóa trên thế giới, là nơi tiếp nhận cái mới nhanh và mạnh mẽ nên quá trình

trao đổi các sản phẩm văn hóa nghệ thuật ngày càng gia tăng. Quá trình liên

doanh, liên kết này sẽ góp phần nâng cao nội lực của công nghiệp văn hóa Tp.

Hồ Chí Minh, sáng tạo ra nhiều giá trị và sản phẩm văn hóa mới để đáp ứng nhu

cầu của nhân dân Thành phố và nhân dân cả nước, khẳng định bản sắc và bản

lĩnh dân tộc, góp phần quảng bá hình ảnh Tp. Hồ Chí Minh và văn hóa Việt Nam

cho bạn bè thế giới, giảm bớt sự xâm nhập tràn lan của các sản phẩm văn hóa

nước ngoài tràn vào. Phát triển nghệ thuật biểu diễn trên cơ sở kết hợp hài hòa

giữa tính dân tộc và tính quốc tế ngày càng gia tăng. Nghĩa là vừa bảo tồn và

phát huy loại hình văn hóa truyền thống tiêu biểu, vừa tiếp thu, tiếp biến những

tinh hoa văn hóa nhân loại tạo nên những tác phẩm nghệ thuật vừa dân tộc, vừa

hiện đại để đáp ứng cư dân Thành phố.

Vấn đề phân đoạn thị trường, chọn thị trường mục tiêu, phát triển thị

trường cũng như khâu tổ chức và biểu diễn nghệ thuật sẽ ngày càng được quan

tâm và phát triển theo xu hướng chuyên nghiệp hơn. Các đơn vị nghệ thuật sẽ cử

người đi du học ở nước ngoài để phát triển lĩnh vực này. Sự góp mặt của Việt

Nam tại các giải thưởng, các hoạt động văn hóa nghệ thuật quốc tế trở nên

thường xuyên hơn.

Một số chính sách, pháp luật về biểu diễn nghệ thuật còn bất cập sẽ sớm

được điều chỉnh, tạo hành lang pháp lý cho các nhà đầu tư, các nhà quản lý cũng

như đội ngũ văn nghệ sĩ hoạt động thuận lợi hơn.

131

Vấn đề bảo vệ bản quyền, sở hữu trí tuệ, cơ chế mở rộng thị trường hàng

hóa dịch vụ văn hóa sẽ được quan tâm nhiều hơn. Một lý do giải thích cho đóng

góp của ngành công nghiệp văn hóa vào nền kinh tế thế giới là do sự phát triển

của các sản phẩm văn hóa có giá trị trí tuệ cao. Chính vì lẽ đó, quyền bảo vệ sở

hữu trí tuệ là hết sức quan trọng đối với sự phát triển của ngành công nghiệp văn

hóa. Thông qua quá trình phân phối thu nhập và chi phí giữa những cá nhân khác

nhau tham gia, nó tạo ra ảnh hưởng đến kinh tế và thúc đẩy sự phát triển.

Mục tiêu, phương hướng phát triển công nghiệp văn hóa Việt Nam trong

bối cảnh hiện nay và tương lai đã được Đảng ta định hướng rất rõ, đó là: Vẫn

tiếp tục ưu tiên và đặt hiệu quả xã hội lên hàng đầu, trước nhất, sau đó mới chú

trọng đến hiệu quả kinh tế. Kinh tế phát triển là nền tảng cho công cuộc xây

dựng sự nghiệp văn hóa, nhưng trong tình hình hiện tại, vẫn phải quan tâm hàng

đầu đến hiệu quả xã hội của văn hóa:

Mục đích căn bản phát triển của việc xây dựng công nghiệp văn hóa

của chúng ta không phải là để kiếm tiền mà để nâng cao tố chất văn

hóa khoa học của nhân dân, xây dựng con người với 5 đức tính cơ bản

mà Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII đã nêu ra, bảo đảm xây dựng

nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp đổi mới của chúng ta. Xây

dựng công nghiệp văn hóa không thể đi chệch hướng với những mục tiêu

căn bản này” [134].

Trong quá trình xây dựng và phát triển ngành công nghiệp văn hóa Việt

Nam, nhất định phải chú ý đến một số nguyên tắc sau:

Một là, trước hết cần khẳng định: phát triển ngành công nghiệp văn hóa

phải hướng tới xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân

tộc. Mặc dầu, CNVH phát triển sẽ mang lại nguồn lực kinh tế đáng kể nhưng

không vì lợi nhuận mà bỏ quên chức năng quan trọng của văn hóa là định hướng

giá trị. Phát triển CNVH phải đặt hiệu quả xã hội lên trên hết, mọi hoạt động văn

hóa, sản phẩm văn hóa ra đời đều phải hướng đến xây dựng con người và môi

trường văn hóa. Xây dựng và phát triển công nghiệp văn hóa nhằm góp phần

khẳng định những giá trị tích cực của văn hóa dân tộc, đầu tư cho việc bảo lưu

132

và phát huy những loại hình nghệ thuật biểu diễn truyền thống; xây dựng và phát

triển một số loại hình nghệ thuật cổ điển thế giới phù hợp với điều kiện của Việt

Nam, chống lại âm mưu lợi dụng văn hóa, áp đặt mô hình văn hóa ngoại lai vào

nước ta. Muốn thực hiện được điều này cần phải nâng cao năng lực lãnh đạo và

quản lý của các cơ quan chức năng đối với lĩnh vực công nghiệp văn hóa. Các cơ

quan lãnh đạo và quản lý các cấp cần nhận thức sâu sắc hơn vai trò của việc phát

triển ngành công nghiệp văn hóa trong thời kỳ hiện nay, xác định quan điểm và

định hướng phát triển cho lĩnh vực này để tạo nên sự phát triển toàn diện và

đồng bộ.

Hai là, phát triển công nghiệp văn hóa phải hướng tới phục vụ sự nghiệp

phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Phải cải cách phương thức phát triển sự

nghiệp văn hóa cũ để đi theo con đường phát triển công nghiệp hóa phù hợp với yêu

cầu thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình đẩy

mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, sự nghiệp xây dựng và phát triển

ngành công nghiệp văn hóa phải hướng tới góp phần cổ vũ, động viên nhân dân tích

cực tham gia vào sự nghiệp xây dựng đất nước ngày càng văn minh, giàu đẹp.

Ba là, thực hiện tốt chính sách xã hội hóa trong hoạt động của ngành công

nghiệp văn hóa. Một trong những vấn đề vừa mang tính thời sự, vừa có ý nghĩa

lâu dài, liên quan đến sự tồn tại và tác động tới chiều hướng phát triển của công

nghiệp văn hóa nói chung, lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn nói riêng là quá trình xã

hội hóa. Nói cách khác, đã đến lúc cần một nhận thức mới cùng những động thái

mới cho công tác xã hội hóa, bởi đây chính là yếu tố quan trọng thúc đẩy các

hoạt động nghệ thuật phát triển đúng hướng với hiệu quả cao. Quá trình chuyển

đổi từ cơ chế bao cấp sang cơ chế kinh tế thị trường định hướng XHCN tất yếu

dẫn đến nhu cầu xã hội hóa trên nhiều lĩnh vực, trong đó có hoạt động nghệ

thuật. Cần phải có những chính sách cởi mở và thông thoáng để tranh thủ các

nguồn lực trong nước và quốc tế tham gia, tạo nên sự cạnh tranh năng động và

lành mạnh trong lĩnh vực này vừa đáp ứng nhu cầu tinh thần ngày càng cao của

xã hội, vừa góp phần phát triển kinh tế - xã hội.

133

Bốn là, nắm vững quy luật của nền kinh tế thị trường, nghiên cứu, xem

xét đặc điểm của sản xuất sản phẩm văn hóa và dịch vụ văn hóa để từ đó có tư

tưởng đối sách phù hợp, tuân theo quy luật phát triển tự thân của công nghiệp

văn hóa.

Năm là, đẩy mạnh giao lưu và hợp tác quốc tế để phát triển nền công

nghiệp văn hóa. Trong bối cảnh thế giới còn có nhiều biến đổi về kinh tế và công

nghệ, tri thức và sáng tạo có tầm quan trọng ngày càng gia tăng với tư cách là

động lực của tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa. Mở rộng giao lưu và hợp

tác quốc tế để tranh thủ nguồn vốn, kỹ thuật và công nghệ, kinh nghiệm quản lý,

tiếp cận thị trường khu vực và quốc tế, nâng cao năng lực cạnh tranh trong hội

nhập quốc tế.

4.3. KHUYẾN NGHỊ VỀ CÁC GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN LĨNH

VỰC NGHỆ THUẬT BIỂU DIỄN Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

4.3.1. Thay đổi nhận thức về vai trò của công nghiệp văn hóa

Muốn phát triển ngành công nghiệp mới mẻ này cần phải thay đổi nhận

thức. Trước hết, đó là sự thay đổi nhận thức của những người lãnh đạo trong một

số cơ quan quản lý Nhà nước về văn hoá, nghệ thuật, các cơ quan hoạch định

chính sách, các đơn vị, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực văn hoá nghệ

thuật (nhất là đơn vị công lập) ở Tp. Hồ Chí Minh để họ hiểu về khái niệm công

nghiệp văn hoá, nhận thức được sự cần thiết phải phát triển ngành công nghiệp

văn hoá nói chung, công nghiệp nghệ thuật biểu diễn nói riêng. Phải coi đây là

một ngành sản xuất đặc biệt mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao, trong đó có

lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn.

Trong các cuộc hội thảo gần đây bàn về phát triển công nghiệp văn hóa,

các nhà nghiên cứu và các nhà tư vấn chính sách đều xác định: muốn xây dựng

công nghiệp văn hóa trước hết phải đổi mới quan niệm của chúng ta về lĩnh vực

mới mẽ này. Bà Nguyễn Thế Thanh, nguyên PGĐ Sở VH, TT & DL Tp. Hồ Chí

Minh phát biểu trong buổi làm việc về “Lấy ý kiến chuyên gia về tình hình hoạt

động và thi hành chính sách, pháp luật trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn” đã

nhấn mạnh:

134

Cần phải thay đổi não trạng. Đó là phải nhìn nhận làm nghệ thuật

không thể không theo hướng thị trường vì thị trường chính là vấn đề cốt

lõi trong chủ trương xã hội hóa nghệ thuật biểu diễn. Vấn đề cung - cầu

và nhu cầu phát triển là những yếu tố không được bỏ qua trong sự phát

triển của nền kinh tế định hướng XHCN [129].

Đảng và Nhà nước cần có chủ trương và biện pháp giáo dục, nâng cao

nhận thức cho các chủ thể sản xuất, kinh doanh về vai trò đặc biệt của các sản

phẩm và dịch vụ văn hóa do ngành công nghiệp văn hóa tạo ra. Đây là những

sản phẩm hàng hóa đặc biệt vừa có chức năng kinh tế, vừa có chức năng xã hội.

Vì vậy, các chủ thể sản xuất kinh doanh và dịch vụ trên lĩnh vực này không thể

chạy theo lợi nhuận đơn thuần, bằng mọi giá mà trước hết đề cao chức năng giáo

dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong các sản phẩm công nghiệp văn

hóa. Đồng thời, đề cao giá trị tinh thần và bản sắc văn hóa Việt Nam, tinh thần

tự hào dân tộc trong sản phẩm văn hóa và dịch vụ văn hóa.

Để tạo nên thị trường giải trí năng động, đưa nghệ thuật biểu diễn trở

thành ngành công nghiệp chuyên nghiệp, đóng góp được cho sự phát triển kinh

tế đất nước thì sự hào hứng, mạnh dạn của riêng các đơn vị tư nhân vẫn chưa đủ.

Các đơn vị nghệ thuật công lập cũng cần có sự chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa,

phải chiều theo khán giả và có những thay đổi để có thể cạnh tranh được với các

đơn vị tư nhân, chứ không thể mãi đứng ngoài vòng quay thị trường.

Theo ông Trương Nhuận, phó Giám đốc Nhà hát Tuổi trẻ, Hà Nội thì:

Nghệ thuật biểu diễn của Việt Nam từ năm 2001 đến nay đã có những

bước tiến rất dài. Điều đầu tiên phải kể đến chính là việc nhận diện

được rằng, công nghiệp giải trí là một trong những yếu tố tác động rất

lớn. Và việc cho ra đời những công ty tổ chức sự kiện, tổ chức các

chương trình nghệ thuật biểu diễn, các đoàn nghệ thuật tư nhân đã tạo ra

bộ mặt mới cho nghệ thuật biểu diễn. Có đến trên 60-70% hoạt động

biểu diễn nghệ thuật hiện nay đều do các đơn vị tư nhân đảm trách [120].

135

4.3.2. Hoàn thiện các văn bản pháp luật về phát triển văn hóa, nghệ

thuật trong cơ chế thị trƣờng

Trước thực trạng nghệ thuật biểu diễn đang thiếu hệ thống các văn bản

quy phạm pháp luật đủ mạnh đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước… thì việc hoàn

chỉnh, bổ sung thêm hệ thống văn bản pháp luật cho lĩnh vực nghệ thuật biểu

diễn trong điều kiện cơ chế thị trường là việc làm vô cùng cấp thiết. Trước hết,

cần nhanh chóng ban hành Luật nghệ thuật biểu diễn nhằm phục vụ công tác

quản lý nhà nước và tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động biểu diễn nghệ

thuật phát triển phong phú.

Một hệ thống văn bản chính sách, pháp luật hoàn thiện sẽ bảo đảm quan

trọng cho công nghiệp văn hóa phát triển lành mạnh. Mặt khác, khi công nghiệp

văn hóa phát triển sẽ nảy sinh những vấn đề mới từ thực tiễn, đòi hỏi có những

chính sách kịp thời, có hiệu lực. Chính sách phát triển công nghiệp văn hóa vừa

phải thể hiện một tầm nhìn lâu dài, vừa có khả năng đáp ứng yêu cầu thực tiễn

trước mắt. Chiến lược phát triển văn hóa Việt Nam đến năm 2020 của Bộ VH,

TT & DL được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 06/05/2009 đã nhấn mạnh

nhiệm vụ “tập trung xây dựng cơ chế, chính sách và môi trường kinh doanh để

phát triển ngành công nghiệp văn hóa”. Để lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn phát

triển đúng hướng, đòi hỏi pháp luật phải nghiêm minh, các luật về văn hóa phải

phù hợp với các thông lệ và các công ước quốc tế; đồng thời, phải tôn trọng

những quy tắc thị trường phù hợp, bảo đảm công bằng, hợp lý trong việc bảo hộ

quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, thương hiệu, quản lý các loại

ngành, nghề văn hóa theo pháp luật.

TS. Nguyễn Danh Ngà trong cuộc hội thảo “Công nghiệp văn hóa ở Việt

Nam - Thực trạng và giải pháp” do Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam tổ chức

đã phát biểu:

Để có nền công nghiệp văn hóa phải thay đổi tư tưởng coi sự nghiệp

văn hóa là ngành nghề phi sản xuất, không thể đem lại của cải cho xã

hội. Tiếp theo là phải nhìn đúng các vấn đề xuất hiện trong thị trường

136

văn hóa. Pháp luật, cơ chế, thể chế và ý thức quần chúng đang vào thời

kỳ biến đổi nhanh chóng. Trong thị trường văn hóa khó tránh khỏi xuất

hiện các vấn đề phức tạp nhưng không vì thế mà phủ định thị trường văn

hóa [87, tr.28].

Tiến sĩ Ngà cũng cho rằng:

Công nghiệp văn hóa là một ngành công nghiệp, vì thế nó cần một hệ

thống chính sách phù hợp, trình độ quản lý hành chính về văn hóa trực

tiếp tác động vào công nghiệp văn hóa. Quản lý văn hóa đòi hỏi phải có

hành lang pháp lý thuận lợi cho quá trình sản xuất và tiêu dùng văn hóa,

quản lý vĩ mô là chính, vi mô là phụ, tổng hợp cả những biện pháp về

kinh tế và pháp luật, hành chính, giáo dục, dư luận, tin tức [87, tr.29].

4.3.3. Chú trọng đầu tƣ xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật

Cơ sở vật chất - kỹ thuật hỗ trợ rất nhiều cho sự thể hiện của người sáng

tác, biểu diễn và đưa lại hiệu quả không nhỏ cho người hưởng thụ văn hóa. Vì

vậy, không thể không ứng dụng những tiến bộ của khoa học – công nghệ vào

việc quy hoạch, phát triển hệ thống các thiết chế văn hóa phù hợp với việc phát

triển nghệ thuật biểu diễn.

Ở các nước Mỹ, Nhật Bản sở dĩ phát triển công nghiệp văn hóa thành

công là nhờ vào sự kết tinh văn hóa kỹ thuật cao. Những nước đi sau như nước

ta càng phải biết tận dụng những thành quả của cách mạng khoa học kỹ thuật

hiện đại, thực hiện chiến lược “đi tắt đón đầu” hợp lý, nhằm tạo sự bức phá

mạnh mẽ trong việc xây dựng nền công nghiệp văn hóa hiện đại mang bản sắc

Việt Nam.

Như phần thực trạng đã đánh giá, các thiết chế phục vụ cho biểu diễn

nghệ thuật tại Tp. Hồ Chí Minh nhìn chung còn hạn chế về nhiều mặt, hạn chế cả

về số lượng, về quy mô, về trang thiết bị, về đội ngũ quản lý và vận hành. Vì

vậy, Thành phố cần phải dành quỹ đất để xây mới và xây thêm các Nhà hát,

Trung tâm văn hóa cho phù hợp với quá trình đô thị hóa đang diễn ra vô cùng

mạnh mẽ nơi đây, phù hợp với tình hình kinh tế, văn hóa cũng như quy mô dân

137

số, mật độ dân số và nhu cầu thưởng thức, sáng tạo văn hóa nghệ thuật vốn rất

sôi động trên địa bàn Thành phố. Các công trình xây dựng phải được đặt ở

những địa điểm thuộc trung tâm của đô thị có diện tích đủ để thực hiện các hoạt

động biểu diễn nghệ thuật phù hợp với từng loại hình nghệ thuật cụ thể. Tập

trung xây dựng một số trung tâm biểu diễn nghệ thuật hiện đại, đa năng để có thể

tổ chức được các chương trình nghệ thuật lớn trong nước và quốc tế. Trong xây

dựng cơ sở vật chất cần kết hợp công nghệ hiện đại với bản sắc dân tộc trong

kiến trúc, trong cảnh quan công trình, qua đó vừa đáp ứng yêu cầu cao về chất

lượng biểu diễn nghệ thuật, vừa tạo sức hấp dẫn với công chúng. Các công trình

đã xây dựng trong thời gian qua hầu như không tạo được dấu ấn về mặt kiến

trúc, trang thiết bị phần lớn lạc hậu, thiếu đồng bộ. Đối với các dự án xây dựng

trung tâm biểu diễn nghệ thuật do các tập đoàn kinh tế ngoài công lập đầu tư,

Nhà nước cần tạo điều kiện khuyến khích và ưu đãi để từng bước nâng cao điều

kiện phát triển nghệ thuật biểu diễn theo kịp khu vực và quốc tế.

Việc cụ thể hóa các chính sách khuyến khích phát triển các cơ sở ngoài

công lập như cho thuê, xây dựng cơ sở vật chất, giao đất...cho các đơn vị nghệ

thuật xã hội hóa là một yêu cầu rất cấp thiết, để các đơn vị chủ động hơn trong

đầu tư, trong xây dựng kế hoạch hoạt động lâu dài, đồng thời đủ sức cạnh tranh

với các đối tác nước ngoài trong giai đoạn mới, hoặc chủ trương tổ chức đấu

thầu công khai để tìm đơn vị (không phân biệt tư nhân hay nhà nước) thực hiện

tốt nhất, hiệu quả nhất đối với những công trình nghệ thuật lớn của Nhà nước.

Việt Nam cần học hỏi kinh nghiệm của một số nước tiên tiến về cách đầu tư xây

dựng các thiết chế văn hóa. Cụ thể như ở Nhật Bản, tất cả các cơ sở vật chất nhà

hát đều do nhà nước đầu tư xây dựng, mỗi quận đều có từ một đến vài nhà hát.

Sau khi nhà nước xây dựng nhà hát sẽ tổ chức đấu thầu cho các công ty tư nhân

có năng lực hoạt động thuê lại thời gian 5 năm, 10 năm... để thực hiện các

chương trình, vở diễn phục vụ nhân dân. Đó là cách để khán giả được hưởng thụ

văn hóa tốt hơn.

138

4.3.4. Kịp thời cải tiến chế độ, chính sách

Trong những năm qua, Nhà nước đã ban hành một số chính sách đối với

hoạt động nghệ thuật biểu diễn bao gồm: chính sách về chi phí quản lý hành

chính; tiền lương; xây dựng tiết mục, luyện tập biểu diễn, phụ cấp độc hại nguy

hiểm, chế độ nhuận bút; bản quyền tác giả. Vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã ký

quyết định số 14/2005/QĐ – TTg về tăng mức bồi dưỡng biểu diễn đối với

những người làm việc trong lĩnh vực NTBD lên đáng kể. Các chế độ, chính sách,

quyết định trên là cơ sở thúc đẩy nghệ thuật biểu diễn phát triển, duy trì được đội

ngũ cán bộ, nghệ sĩ yêu nghề và yên tâm sáng tạo cho nghệ thuật, nhưng so với

tình hình thực tế hiện nay, những chế độ, chính sách đó còn bộc lộ một số hạn

chế. Vì vậy, đổi mới chế độ, chính sách đối với các nghệ sĩ hoạt động trong lĩnh

vực nghệ thuật biểu diễn về lương, phụ cấp, tuổi nghề, về khen thưởng và phong

tặng các danh hiệu là việc cần phải làm ngay. Nhìn chung, các chế độ về lương,

phụ cấp, nâng ngạch bậc… đối với nghệ sĩ biểu diễn đã rất lạc hậu và không phù

hợp với đặc thù nghề nghiệp (gắn liền với năng khiếu, thanh, sắc...). NSND

Thuý Quỳnh trong lần phát biểu tại Hội nghị “Lấy ý kiến chuyên gia về tình hình

hoạt động và thi hành chính sách, pháp luật trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn”

vừa qua đã nhấn mạnh: cần coi nghệ thuật biểu diễn là một loại hình nghệ thuật

đặc thù và có chính sách đãi ngộ riêng đối với anh em nghệ sĩ và các sinh viên

ngành biểu diễn. Thứ trưởng Lê Tiến Thọ cũng đưa ra kiến nghị về chế độ chính

sách cho nghệ sĩ, nhất là về chế độ lương hiện nay. Gần đây, trong một lần trả lời

phỏng vấn trên đài truyền hình VTV3, NSND Lê Khanh đã phát biểu: Hiện nay,

kịch nói đang tưng bừng, nở rộ. Thế nhưng, để có tài năng trẻ, giữ họ được cần

có chế độ tiền lương hợp lý. Nói tóm lại, chế độ lương, phụ cấp... phải thực sự là

động lực để người nghệ sĩ phấn đấu, rèn luyện nâng cao đạo đức nghề nghiệp,

nâng cao chuyên môn và gắn bó với nghề. Hơn nữa, phải tăng cường đưa ra

những chế độ, những cơ chế chính sách phát triển như phải xây dựng pháp lệnh,

nghị định hay luật cho nghệ thuật biểu diễn phát triển.

139

Ngoài những chính sách kể trên, trong quá trình khảo sát, chúng tôi còn

lấy ý kiến của đội ngũ cán bộ quản lý lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn về thứ tự ưu

tiên các chính sách nhà nước để tạo động lực phát triển CNVH. Câu hỏi chúng

tôi đưa ra: Ông/bà vui lòng sắp xếp thứ tự các chính sách mà Nhà nước cần ưu

tiên để tạo động lực cho công nghiệp văn hóa trong lĩnh vực nghệ thuật biểu

diễn Tp. HCM phát triển (Trong đó, 1 là ưu tiên nhất)? Kết quả cho thấy:

Bảng 4.1: Chính sách nhà nƣớc cần ƣu tiên để tạo động lực phát triển CNVH

UT1 UT2 UT3 UT4 UT5 UT6 UT7 UT8 UT9 UT10

96.2 3.8 0 0 0 0 0 0 0 0

0 4 8 36 36 4 4 4 4 0

0 0 0 33.3 12.5 12.5 37.5 4.2 0 0

0 0 4.2 33.3 0 0 2.5 8.3 41.7 0

4.2 83.3 0 0 4.2 0 0 8.3 0 0

0 4.2 20.8 12.5 20.8 4.2 33.3 0 4.2 0

0 0 8.3 20.8 8.3 20.8 4.2 33.3 4.2 0

0 0 25 16.7 29.2 8.3 0 4.2 8.3 8.3

0 0 29.2 12.5 0 16.7 4.2 37.5 0 0

thu hút 0 4.2 4.2 0 4.2 0 0 0 87.5 0 CL PTCNVH Chính sách thuế Ưu đãi vay vốn CS ưu đãi thuê mặt bằng CS ĐT tài năng QTNT CS ĐT nghệ sĩ ST, BD CS trọng dụng nhân tài XHH CS hoạt động NT CS đổi mới CNKT CS đầu tư QT

Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án

Qua bảng đánh giá trên cho thấy, theo ý kiến của các cán bộ được khảo

sát, Chiến lược phát triển CNVH chính là nội dung đầu tiên mà nhà nước cần

dành nhiều sự quan tâm nhất để có thể phát triển ngành CNVH. Kết quả này

140

cũng phù hợp với thực tế hiện nay là tại Việt Nam, ngành CNVH đang phát triển

manh mún, tự phát mà thiếu hẳn bàn tay của quy hoạch, thiếu sự định hướng

mang tính chiến lược từ các cơ quan nhà nước. Ưu tiên thứ hai cần giải quyết

theo các cán bộ tại các đơn vị nghệ thuật được khảo sát là chính sách đào tạo

nguồn nhân lực chất lượng cao trong công tác quản trị nghệ thuật. Điều này hoàn

toàn hợp lý bởi trên thực tế hiện nay, tại Tp. HCM đang khủng hoảng về đội ngũ

nguồn nhân lực chất lượng cao làm công tác quản trị nghệ thuật. Đó chính là một

trong những nhân tố làm cho ngành CNVH của Thành phố phát triển chưa hoàn

thiện. Đứng ở vị trí ưu tiên thứ 3 là Chính sách đổi mới công nghệ kỹ thuật. Đó

là điều tất nhiên bởi khi nói đến một ngành CNVH phát triển thì không thể thiếu

yếu tố kỹ thuật - công nghệ. Các chính sách ưu đãi cho thuê mặt bằng, vay vốn,

chính sách thuế, đào tạo nghệ sỹ sáng tạo, biểu diễn, trọng dụng nhân tài, xã hội

hóa hoạt động nghệ thuật và chính sách thu hút vốn đầu tư quốc tế chiếm các vị

trí ưu tiên cần giải quyết 4, 5, 6, 7, 8, 9 và 10.

4.3.5. Quan tâm đào tạo nguồn nhân lực

Trong phần đánh giá về những tồn tại trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn

tại Tp. Hồ Chí Minh đã đề cập đến vấn đề thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao,

thừa nguồn nhân lực chất lượng thấp. Vì vậy, để giải quyết vấn đề này cần phải

quan tâm đến hệ thống trường lớp và đội ngũ giáo viên đào tạo nguồn nhân lực

này. Xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn cho đội ngũ cán bộ giảng dạy trong các

trường văn hóa nghệ thuật. Bồi dưỡng, nâng cao trình độ bằng nhiều hình thức:

đầu tư cho đào tạo chính quy, tập huấn, trao đổi nghiệp vụ trong nước và nước

ngoài, mời chuyên gia... Tập trung đào tạo nâng cao trình độ cho giảng viên, đặc

biệt trong lĩnh vực sản xuất chương trình biểu diễn nghệ thuật.

Cần nhanh chóng phát hiện tài năng trẻ thông qua các cuộc thi, hội diễn,

liên hoan... Đào tạo trong nước và nước ngoài cho các thí sinh đoạt giải; khuyến

khích các nghệ sĩ, nghệ nhân có uy tín tổ chức kèm cặp, truyền nghề, dạy nghề

hoặc mở lớp đào tạo nghệ thuật. Cử học viên có khả năng đi đào tạo tại các

141

trường nghệ thuật chuyên ngành về lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn quốc tế. Thời

gian qua chỉ có đội ngũ nghệ sĩ biểu diễn, đạo diễn được đào tạo theo trường lớp

chính quy bài bản, còn nguồn nhân lực ở các khâu khác như âm thanh, ánh sáng,

tổ chức biểu diễn phần lớn chưa được đào tạo chuyên sâu về chuyên môn. Do

đó, tính chuyên nghiệp của hoạt động biểu diễn còn nhiều hạn chế. Để khắc phục

một cách căn bản tình trạng này, cần phải đào tạo nguồn nhân lực có trình độ

chuyên môn nghiệp vụ cao. Song, để có nguồn nhân lực như vậy cần đổi mới nội

dung chương trình đào tạo của các trường văn hóa nghệ thuật theo hướng đáp

ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế; trao đổi, học tập

kinh nghiệm của các nước có nền công nghiệp nghệ thuật biểu diễn phát triển.

Có như vậy mới khắc phục được tình trạng chắp vá, thiếu chuyên nghiệp như

hiện nay.

Ngoài ra, cần phải đào tạo đội ngũ những nhà lý luận phê bình văn hóa

nghệ thuật có tâm, có tầm và có tài để dám nói thẳng, nói thật, làm tròn chức

năng hướng dẫn, định hướng giá trị sao cho phù hợp với văn hóa dân tộc và sự

phát triển của văn hóa nhân loại.

4.3.6. Đẩy mạnh xã hội hóa lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn

Có thể nói, mô hình xã hội hóa sân khấu ở Tp. Hồ Chí Minh thời gian qua

đã đem lại những thành công vượt trội so với các địa phương khác. Cái được lớn

nhất là mô hình này buộc các nhà tổ chức, các nghệ sĩ phải năng động, phải dám

“dấn thân” trong cơ chế thị trường để tồn tại và vươn lên, phải tạo ra được những

tác phẩm đáp ứng được thị hiếu đa dạng của khán giả. Chính vì sự năng động,

táo bạo, cạnh tranh nhau của các đơn vị nghệ thuật nên hoạt động sân khấu kịch

nói ở Tp. Hồ Chí Minh thời gian qua diễn ra rất sôi động. Tuy nhiên, bên cạnh

những cái được, thế mạnh đó, đôi khi kéo theo sự dễ dãi trong nội dung và chất

lượng nghệ thuật. Cần phải tìm ra những giải pháp để giải quyết những mâu

thuẫn đó. Tìm cách giải bài toán giữa doanh thu và nghệ thuật. Muốn vậy, một

mặt, Nhà nước cần khuyến khích, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tư nhân,

142

các đơn vị nghệ thuật xã hội hóa đứng vững và phát triển. Đẩy mạnh hơn nữa

hoạt động xã hội hoá không chỉ lĩnh vực sân khấu kịch nói mà cả lĩnh vực âm nhạc và múa. Nhân rộng những mô hình xã hội hoá nghệ thuật thành công. Nhà

nước cần quan tâm, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tư nhân, các đơn vị nghệ

thuật xã hội hoá đứng vững và phát triển. Tạo nên một sân chơi lành mạnh để

các đơn vị này cùng cạnh tranh phát triển. Mặt khác, cần tăng cường quản lý

Nhà nước, thanh tra, kiểm tra để cho các đơn vị nghệ thuật luôn hướng tới các

giá trị Chân - Thiện - Mỹ.

Phát triển mạnh các cơ sở ngoài công lập dưới hai hình thức dân lập và tư

nhân: cá nhân, gia đình, các tổ chức kinh tế - xã hội, đoàn thể được đầu tư, tham

gia vào hầu hết các hoạt động biểu diễn nghệ thuật. Thực hiện việc chuyển đổi

toàn bộ các đơn vị sự nghiệp thuộc ngành biểu diễn nghệ thuật trên địa bàn

Thành phố đang thực hiện chế độ tự chủ tài chính áp dụng cho đơn vị có thu

sang cơ chế cung ứng dịch vụ công ích khi có các văn bản quy phạm pháp luật

về cơ chế được ban hành. Cần phải có những chính sách cởi mở và thông thoáng

để tranh thủ các nguồn lực trong nước và quốc tế tham gia, tạo nên sự cạnh tranh

năng động và lành mạnh trong lĩnh vực này vừa đáp ứng nhu cầu tinh thần ngày

càng cao của xã hội, vừa góp phần phát triển kinh tế - xã hội... là những biện

pháp cần phải triển khai thực hiện.

4.3.7. Định hƣớng thị hiếu thẩm mỹ cho công chúng

Để lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn phát triển lành mạnh, hạn chế sự tác

động tiêu cực của kinh tế thị trường không thể không chú ý đến việc nâng cao thị

hiếu thẩm mỹ của công chúng. Sẽ không có nền nghệ thuật tiên tiến nếu không

có công chúng thưởng thức nghệ thuật tương ứng. Thực tế có những chương

trình nghệ thuật nghiêm túc có chất lượng nghệ thuật cao, thể hiện tinh hoa nghệ

thuật lại ít công chúng, trong khi đó, các chương trình chất lượng nghệ thuật

không cao, thậm chí có những tiết mục phản cảm lại thu hút nhiều người xem, có

nguyên nhân quan trọng là từ những hạn chế về thị hiếu thẩm mỹ của một bộ

phận công chúng. Thế nhưng, kết quả khảo sát của chúng tôi khi hỏi cán bộ quản

143

lý tại các đơn vị nghệ thuật về những giải pháp ưu tiên phát triển công nghiệp

văn hóa trong NTBD thì kết quả được thể hiện ở bảng sau:

Bảng 4.2: Giải pháp cần ƣu tiên phát triển công nghiệp văn hóa

UT 1 UT2 UT3 UT4 UT5 UT6 UT7

Thay đổi nhận thức, tư duy 70.8 4.2 0 8.3 0 8.3 8.3

0 0 54.5 4.5 22.7 18.2 0 Hoàn thiện văn bản PL về VH, NT

Đầu tư xây dựng CSVC 8.7 43.5 8.7 13 13 13 0

Cải tiến chế độ chính sách 4.5 22.7 9.1 18.2 45.5 0 0

Đào tạo nguồn nhân lực 13.6 18.2 4.5 45.5 9.1 4.5 4.5

9.1 4.5 0 0 0 54.5 31.8 Đẩy mạnh xã hội hóa lĩnh vực NTBD

4.3 0 21.7 13 8.7 0 52.2 Nâng cao thị hiếu thẩm mỹ của công chúng

Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án

Như vậy, theo đánh giá của các cán bộ tại các đơn vị sân khấu được khảo

sát thì để phát triển ngành CNVH Thành phố cần thực hiện theo thứ tự ưu tiên

các giải pháp sau: 1- Cần thay đổi nhận thức, tư duy; 2- Đầu tư xây dựng cơ sở

vật chất; 3- Hoàn thiện các văn bản pháp luật về văn hóa nghệ thuật; 4- Đào tạo

nguồn nhân lực; 5- Cải tiến chế độ chính sách; 6- Đẩy mạnh xã hội hóa lĩnh vực

NTBD và 7- Nâng cao thị hiếu thẩm mỹ của công chúng. Chỉ có 4.3% cán bộ

được hỏi cho rằng nâng cao thị hiếu thẩm mỹ cho công chúng cần phải ưu tiên

thứ nhất trong các giải pháp phát triển công nghiệp văn hóa nghệ thuật biểu diễn.

Điều này cũng dễ hiểu bởi để phát triển lĩnh vực này cần quan tâm đến rất nhiều

giải pháp. Thế nhưng, có đến 52.2% ý kiến cán bộ cho rằng đây là giải pháp ưu

tiên cuối cùng trong số các giải pháp đưa ra. Kết quả này cho thấy, mặc dầu nâng

cao thị hiếu thẩm mỹ cho công chúng là giải pháp vô cùng quan trọng để định

hướng giá trị, hướng tới các giá trị chân- thiện - mỹ, đáp ứng nhu cầu văn hóa

tinh thần lành mạnh cho công chúng nhưng đội ngũ quản lý vẫn chưa thực sự

144

quan tâm. Điều này còn được chứng minh thêm ở bảng sau khi được hỏi mức độ

ưu tiên định hướng giá trị cho đơn vị mình:

Biểu 4.5: Định hƣớng giá trị của các đơn vị nghệ thuật Nguồn: Khảo sát của tác giả luận án

Định hướng giá trị là một trong những quỹ đạo quan trọng để xây dựng

chiến lược phát triển bền vững của các đơn vị kinh doanh nói chung và kinh

doanh lĩnh vực văn hóa nghệ thuật nói riêng. Đối với các sân khấu kịch nói và ca

nhạc được khảo sát, các cán bộ quản lý ở đây cho rằng, đề cao tính thẩm mỹ

nghệ thuật chỉ xếp ở mức độ ưu tiên thứ 5 trong số 8 ưu tiên đưa ra (tỷ lệ cao

nhất là 37.5%). Những con số này phần nào chứng tỏ cần phải quan tâm đến giải

pháp này nhiều hơn nữa. Các biện pháp cơ bản để nâng cao thị hiếu thẩm mỹ

cho công chúng bao gồm: chú trọng chất lượng giảng dạy những môn nghệ thuật

trong các trường phổ thông; nâng cao chất lượng hoạt động lý luận và phê bình

nghệ thuật... Theo chúng tôi, chính những người tham gia quản lý, những người

trực tiếp sáng tạo ra các sản phẩm nghệ thuật phải quan tâm đến thị hiếu thẩm

mỹ của công chúng hơn ai hết. Bởi chính họ là những người định hướng giá trị

cho tầng lớp khán giả.

145

Như vậy, việc thực hiện đồng bộ và toàn diện các giải pháp trên đây đã

góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của một ngành công nghiệp văn hóa

còn non trẻ là ngành nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí Minh hiện nay. Việc

nhấn mạnh giải pháp này hay giải pháp khác tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ thể của

từng thời điểm và từng công ty, từng đoàn nghệ thuật biểu diễn. Vấn đề cơ bản

đặt ra là phải có cái nhìn toàn diện và nâng cao tính chuyên nghiệp, tính hiện đại

và tính hội nhập với khu vực và quốc tế trên cơ sở giữ gìn và phát huy giá trị độc

đáo, đặc sắc của nghệ thuật dân tộc. Tạo nên sự đa dạng và khác biệt trong quá

trình phát triển công nghiệp nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí Minh chính là

động lực cho sự phát triển.

Tiểu kết

Qua quá trình nghiên cứu, khảo sát đề tài, tác giả luận án nhận thấy một

số vấn đề đang còn tồn tại, đặt ra đối với lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ

Chí Minh hiện nay như sau: Một là, mâu thuẫn giữa nhu cầu hưởng thụ nghệ

thuật biểu diễn và khả năng đáp ứng của Thành phố; Hai là, mâu thuẫn giữa nhu

cầu phát triển và định hướng phát triển ngành công nghiệp văn hóa; Ba là, mâu

thuẫn giữa lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn đang ngày càng phát triển nhưng thiếu

những văn bản quy phạm pháp luật; Bốn là, mâu thuẫn giữa nguồn nhân lực của

công nghiệp văn hóa với tốc độ phát triển của khu vực và thế giới.

Cùng với việc xác định những vấn đề đang còn tồn tại, tác giả luận án đưa

ra những dự báo về xu hướng vận động, phát triển CNVH ở Việt Nam nói

chung, Tp. Hồ Chí Minh nói riêng. Từ đó đề xuất một số khuyến nghị về các giải

pháp nhằm phát triển lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí Minh trong

thời gian tới.

146

KẾT LUẬN

Luận án “Công nghiệp văn hóa ở Tp. Hồ Chí Minh hiện nay (Qua khảo

sát một số lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn)” nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý

luận công nghiệp văn hóa và lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn. Từ đó, luận án khảo

sát, phân tích và đánh giá thực trạng phát triển công nghiệp văn hóa trong lĩnh

vực nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí Minh hiện nay, khuyến nghị một số giải

pháp. Luận án đã đạt được một số kết quả sau đây:

Thứ nhất, luận án đã nghiên cứu tổng quan tình hình nghiên cứu công

nghiệp văn hóa và nghệ thuật biểu diễn ở trong nước và ngoài nước. Trên cơ sở

đó xác định những vấn đề luận án cần phải tiếp tục làm rõ và nghiên cứu.

Thứ hai, trên cơ sở kế thừa những kết quả nghiên cứu trước đó về công

nghiệp văn hóa và nghệ thuật biểu diễn, luận án làm rõ khái niệm, cơ cấu, đặc

trưng của công nghiệp văn hóa. Đồng thời, ở góc độ tiếp cận nghệ thuật biểu

diễn là một ngành của công nghiệp văn hóa, luận án đã làm rõ khái niệm, cơ cấu,

đặc điểm và vai trò của nghệ thuật biểu diễn.

Thứ ba, luận án phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến nghệ thuật biểu

diễn ở Tp. Hồ Chí Minh hiện nay. Đồng thời, khảo sát, đánh giá thực trạng

ngành công nghiệp văn hóa trong nghệ thuật biểu diễn ở 3 lĩnh vực: Âm nhạc, sân khấu Kịch nói và Múa. Luận án đã tập trung chỉ rõ những thành tựu và hạn chế

của công nghiệp văn hóa trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí Minh.

Đây là cơ sở để kế thừa thành tựu, khắc phục các hạn chế trong thời gian tới.

Thứ tư, luận án nêu rõ những vấn đề đặt ra và đưa ra những dự báo, xu

hướng phát triển và đề xuất những giải pháp cơ bản để phát triển ngành công

nghiệp nghệ thuật biểu diễn phát triển mạnh mẽ và đúng hướng ở Tp. Hồ Chí Minh trong tương lai. Việc thực hiện toàn diện và đồng bộ các giải pháp này sẽ

góp phần thúc đẩy sự phát triển nghệ thuật biểu diễn nói riêng, công nghiệp văn

hóa nói chung ở Tp. Hồ Chí Minh trong thời gian tới.

147

Kết luận chung có thể thấy:

Ngành công nghiệp nghệ thuật biểu diễn nước ta đang trong giai đoạn

hình thành và phát triển. Tuy non trẻ, nhưng đã bước đầu khẳng định được vị trí,

phục vụ mục đích chính trị và từng bước phát triển theo hướng công nghiệp giải

trí, công nghiệp văn hóa. Thực tiễn các nước trên thế giới có nền công nghiệp

nghệ thuật biểu diễn phát triển mạnh đã chứng minh: đây là ngành công nghiệp

có khả năng đóng góp vào GDP của một nền kinh tế quốc dân rất lớn. Hơn nữa,

phát triển công nghiệp nghệ thuật biểu diễn không chỉ đơn thuần góp phần phát

triển kinh tế, mà còn tăng cao khả năng quảng bá hình ảnh đất nước, văn hóa và

con người Việt Nam ra cộng đồng quốc tế. Từ đó, chúng ta nâng cao được sự

đoàn kết, gắn bó với cộng đồng quốc tế trên cơ sở hiểu biết và tôn trọng bản sắc

văn hóa của mỗi quốc gia, dân tộc.

Sự phát triển của ngành công nghiệp văn hóa nói chung, trong đó có lĩnh

vực nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí Minh nói riêng đang vận động theo cơ

chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nên các sản phẩm văn hóa phải

được khẳng định là những hàng hóa đặc biệt. Những sản phẩm văn hóa phải vừa

có giá trị kinh tế, vừa có giá trị tinh thần, góp phần xây dựng tư tưởng, đạo đức,

lối sống, xây dựng con người và môi trường văn hóa lành mạnh, làm động lực

thúc đẩy sự phát triển xã hội, góp phần bảo vệ, phát huy bản sắc, bản lĩnh dân

tộc trong hội nhập quốc tế. Trong những năm đổi mới gần đây, do tác động của

cơ chế thị trường và ảnh hưởng của xu thế toàn cầu hóa, hoạt động văn hóa nghệ

thuật ở Tp. Hồ Chí Minh đã có những bước chuyển biến rõ rệt. Sự phát triển rầm

rộ các loại hình dịch vụ văn hóa, sự xâm nhập các yếu tố ngoại sinh gây nên sự

kích thích để văn hóa nghệ thuật của Thành phố phát triển, tạo nên một nền văn

hóa nghệ thuật đa dạng màu sắc, mới lạ, sôi động và hấp dẫn, đáp ứng nhu cầu

thưởng thức nghệ thuật ngày càng cao của công chúng. Đặc biệt, trong môi

trường cạnh tranh khốc liệt của nền kinh tế thị trường, các loại hình nghệ thuật

biểu diễn muốn tồn tại và phát triển thì phải tạo ra được những sản phẩm đáp

ứng được nhu cầu của thị trường với nhiều đối thủ cạnh tranh ác liệt. Vì vậy, mỗi

148

loại hình nghệ thuật phải phân đoạn thị trường, từ đó chọn thị trường mục tiêu -

phân đoạn thị trường có khả năng phát triển nhất để tiếp cận và chiếm lĩnh. Bên

cạnh đó, việc sử dụng các công cụ marketing như là một biện pháp hữu hiệu nhất

trong giai đoạn hiện nay để tồn tại và phát triển. Tất cả vấn đề trên đều thuộc về chủ

thể của công nghiệp nghệ thuật biểu diễn.

Hiện nay, lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn của Tp. Hồ Chí Minh còn nhiều

khó khăn, hạn chế như: chính sách quản lý chưa đồng bộ, năng lực quản lý chưa

cao, thị trường nghệ thuật biểu diễn chưa phát triển hoàn thiện, chất lượng nguồn

nhân lực còn hạn chế, cơ sở vật chất hạ tầng còn thiếu thốn, các đơn vị chưa tận

dụng được những công cụ marketing một cách hiệu quả nhất… Những khó khăn

này đã trở thành rào cản lớn để phát triển nền công nghiệp nghệ thuật biểu diễn

Thành phố. Để công nghiệp nghệ thuật biểu diễn phát triển đúng hướng và thực

sự chuyên nghiệp, chúng ta cần phát huy sức mạnh tổng hợp, trong đó: Nhà

nước cần đề ra những chính sách hợp lý để tạo điều kiện cho công nghiệp nghệ

thuật biểu diễn phát triển theo hướng tiếp cận với khoa học và công nghệ tiên

tiến trên thế giới, tạo điều kiện và cơ hội thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân

ngoài công lập tham gia và hoạt động có hiệu quả trong lĩnh vực nghệ thuật biểu

diễn. Phát huy vai trò chủ động tích cực, sáng tạo của đội ngũ văn nghệ sĩ, đội

ngũ doanh nhân, doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực này.

Khi nước ta đã gia nhập WTO, cùng với hội nhập kinh tế sẽ kéo theo sự

hội nhập quốc tế sâu rộng về văn hóa, trong đó có công nghiệp văn hóa nói

chung và nghệ thuật biểu diễn nói riêng. Công nghiệp văn hoá - giải trí sẽ trở

thành một trong những ngành công nghiệp mũi nhọn của một đất nước có lượng

người hưởng thụ văn hoá đông như nước ta. Vì vậy, phát triển công nghiệp văn

hóa, phát triển nghệ thuật biểu diễn gắn với định hướng xây dựng nền văn hóa

nghệ thuật tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, góp phần vào bồi dưỡng tâm hồn,

tình cảm tốt đẹp để xây dựng con người, làm động lực để phát triển kinh tế - xã

hội là yêu cầu khách quan và cấp thiết hiện nay.

149

Chú thích:

1Joni M. Cherbo là một nhà xã hội học nghệ thuật, đã tham gia đồng tác giả American

Participation in Opera and Musical Theater; là giám đốc chính sách nghệ thuật và chương

trình quản lý tại Đại học bang Ohio. 2Bà Wyszomirski là giáo sư chuyên về lĩnh vực: Chính sách văn hóa và nghệ thuật, Hoạt

động từ thiện và nghệ thuật, chính sách công. Bà từng là giám đốc của Quỹ Quốc gia Nghệ

thuật Hoa Kỳ, Giám đốc Văn phòng Chính sách Hoa Kỳ. Bà tham gia giảng dạy tại nhiều

trường đại học, viện nghiên cứu của Hoa Kỳ.

3HaroldL.Vogel là chuyên gia cao cấp chuyên phân tích tài chính, thị trường hàng đầu thế

giới cho các ngành công nghiệp giải trí, là giảng viên Đại học Columbia Graduate School

of Business. 4David M. Conte là một doanh nhân người Mỹ. Ông là giám đốc điều hành của Honeywell.

Năm 2013, ông được tạp chí Chief ExecutiveMagazine bầu chọn là Giám đốc điều hành

của năm. Ông được xem là một trong những giám đốc điều hành thành công nhất của nước

Mỹ và thế giới.

5Cụm từ này được báo chí hay dùng trong những năm gần đây để chỉ những tác phẩm âm

nhạc và những ca sỹ kém chất lượng xuất hiện trên thị trường âm nhạc toàn quốc.

6Ca khúc dân gian đương đại là cụm từ được hội đồng nghệ thuật của VTV3 – Đài Truyền

hình Việt Nam sử dụng chính thức trong việc phân loại ca khúc để bình chọn trao giải “Bài

hát Việt”. Cụm từ này để chỉ những tác phẩm âm nhạc được sáng tác trong thời hiện đại

nhưng sử dụng chất liệu dân gian. Một số tác phẩm tiểu biểu cho loại ca khúc này như: “Giấc

mơ trưa”– sáng tác Giáng Son - Thơ: Nguyễn Vĩnh Tiến, “Quê tôi” – sáng tác và biểu diễn Lê

Minh Sơn, “Bà tôi” – sáng tác Nguyễn Vĩnh Tiến, “Con cò” – sáng tác Lưu Hà An… 7Trưởng khoa Chính sách văn hóa và Quản lý nghệ thuật, Trường Đại học Goldsmiths –

London

150

DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ

ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Nguyễn Thị Kim Liên (2012), “Công nghiệp biểu diễn ở Thành phố Hồ

Chí Minh hiện nay – nhìn từ lĩnh vực nghệ thuật âm nhạc”, Tạp chí

Giáo dục lý luận, (4), tr. 76-78, 82.

2. Đoàn Minh Huấn, Nguyễn Thị Kim Liên (2012), “Nhu cầu và cách tiếp

cận nghiên cứu công nghiệp văn hóa Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Lý

luận Chính trị, (4), tr. 65-70.

3. Nguyễn Thị Kim Liên (2012), “Công nghiệp biểu diễn âm nhạc ở Thành

phố Hồ Chí Minh hiện nay”, Thông tin Văn hóa và phát triển, (31), tr.

45-48.

4. Nguyễn Thị Kim Liên (2012), “Yếu tố văn hóa trong hoạt động kinh

doanh của doanh nghiệp”.Tạp chí Giáo dục lý luận,(5), tr.56-59.

5. Nguyễn Thị Kim Liên (2013), “Phát triển công nghiệp văn hóa, yêu cầu

cấp thiết hiện nay”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, (347), tr. 23-25.

6. Nguyễn Thị Kim Liên (2015), “Xã hội hóa với phát triển nghệ thuật biểu

diễn ở Tp. Hồ Chí Minh”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, (372), tr.84-86.

151

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tiếng Việt

1. A.A. Radughin (chủ biên) (2004), Văn hóa học – những bài giảng, Viện

Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.

2. Bùi Diệu Anh (1998), “Cải lương và Kịch nói trong bối cảnh văn hóa Nam Bộ”,

Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, (7).

3. Ngô Thị Kim Anh (1999), Tác động xu thế toàn cầu hóa đối với việc xây

dựng nền văn hóa Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ văn hóa học

văn hóa, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

4. Dương Viết Á (2005), Mấy vấn đề văn hóa âm nhạc Việt Nam, NXB

Văn hóa dân tộc.

5. Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương (2004), Tài liệu nghiên cứu kết luận

hội nghị lần thứ mười Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX,

NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

6. Ban Tư tưởng văn hóa Trung ương (2004), Xây dựng môi trường văn hóa –

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Hà Nội.

7. Ban Tuyên giáo Trung ương (2014), Tài liệu nghiên cứu Nghị quyết và một

số chủ trương của Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương

Đảng khóa XI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

8. Bộ Chính trị (2012), Nghị quyết số 16 – NQ/TW về phương hướng, nhiệm

vụ phát triển Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020.

9. Bộ Khoa học công nghệ, Đề tài độc lập cấp Nhà nước (2006-2007), Hoạt

động văn hóa và sản phẩm văn hóa trong cơ chế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.

10. Bộ Khoa học và Công nghệ (2014), Kỷ yếu hội thảo khoa học: Quan

điểm, định hướng và giải pháp phát triển công nghiệp văn hóa ở nước

ta đến năm 2020 – Dưới góc nhìn văn hóa, Hà Nội.

152

11. Bộ Văn hóa - Thông tin (2004), Ứng dụng Marketing trong quản l ‎ý văn

hóa nghệ thuật, Hà Nội.

12. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Cục Nghệ thuật biểu diễn (2006), Kỷ

yếu hội thảo: Thực trạng và giải pháp để phát triển ngành nghệ thuật

biểu diễn, Hà Nội.

13. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội

(2010), Hội thảo khoa học quốc tế: Văn hóa trong thế giới hội nhập,

NXB Văn hóa – thông tin, Hà Nội.

14. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội,

Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, Trường Đại học

Văn hóa nghệ thuật quốc gia Macscova (2008), Kỷ yếu hội thảo quốc

tế Các trường Đại học văn hóa nghệ thuật trong thế giới hội nhập.

15. Lê Ngọc Canh (2010), Nghệ thuật biểu diễn truyền thống trong thế giới

hội nhập, Hội thảo khoa học quốc tế “Văn hóa trong thế giới hội

nhập, NXB Văn hóa Thông tin.

16. Nguyễn Thị Minh Châu (2003), “Thị hiếu đại chúng và ca khúc thịnh hành tại

Thành phố Hồ Chí Minh”, Tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam, (3).

17. Trần Trọng Đăng Đàn (1998), Chống những biểu hiện của văn hóa, văn

nghệ thương mại, xã hội hóa các hoạt động văn hóa và xã hội hóa

kinh doanh văn hóa, NXB Văn nghệ, Sở Văn hóa Thông tin, Thành

phố Hồ Chí Minh.

18. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp

hành Trung ương khóa VII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

19. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp

hành Trung ương khóa VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2009), Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị về Phát

triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới, NXB Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

153

21. Phạm Duy Đức (chủ biên) (2008), Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin

về văn hóa, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

22. Phạm Duy Đức (2006), Đề tài khoa học cấp Thành phố: Nghiên cứu xây

dựng và phát triển ngành công nghiệp văn hóa của Thủ đô Hà Nội

trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa.

23. Phạm Duy Đức (chủ biên) (2005), Hoạt động giải trí ở đô thị Việt Nam,

những vấn đề lý luận và thực tiễn, Viện Văn hóa và NXB Văn hóa –

Thông tin, Hà Nội.

24. Phạm Duy Đức (chủ biên) (2010), Phát triển văn hóa Việt Nam giai đoạn

2011-2020, những vấn đề phương pháp luận, NXB Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

25. Phạm Duy Đức (chủ biên) (2010), Thành tựu trong xây dựng và phát

triển văn hóa Việt Nam 25 năm đổi mới (1986-2010), NXB Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

26. Phạm Duy Đức, Vũ Phương Hậu (2012), Nghiên cứu xây dựng và phát

triển công nghiệp văn hóa Thủ đô Hà Nội, NXB Văn hóa – Thông tin

và Viện Văn hóa, Hà Nội.

27. Phạm Thanh Hà (2011), Giữ gìn bản sắc dân tộc Việt Nam trong bối cảnh

toàn cầu hóa hiện nay, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

28. Phạm Minh Hạc (2012), Giá trị học, NXB Dân trí, Hà Nội.

29. Lê Thị Thu Hiền (2010), “Marketing trong hoạt động tổ chức biểu diễn

nghệ thuật”, Tạp chí Thông tin Văn hóa nghệ thuật, (311).

30. Lê Thị Thu Hiền (2010), Quản lý hoạt động biểu diễn nghệ thuật sân

khấu truyền thống ở Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch, Luận văn

Thạc sĩ Quản lý văn hóa, Đại học Văn hóa, Hà Nội.

31. Thúy Hiền (2004), “Ban hành quy chế hoạt động biểu diễn nghệ thuật và

tổ chức biểu diễn chuyên nghiệp, thông thoáng gắn liền với trách

nhiệm”, Báo Văn hóa, ngày 20-27/7/2004

154

32. Dương Phú Hiệp (2010), Tác động của toàn cầu hóa đối với sự phát triển

văn hóa và con người Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

33. Dương Phú Hiệp (chủ biên) (2012), Cơ sở lý luận và phương pháp luận

nghiên cứu văn hóa và con người Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

34. Lê Như Hoa (2000), Quản lý văn hóa thị trường trong điều kiện công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Viện Văn hóa, Hà Nội.

35. Lê Như Hoa (chủ biên) (1996), Xã hội hóa hoạt động văn hóa, NXB Văn

hóa Thông tin, Hà Nội.

36. Hội đồng lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương (2009), Văn

học nghệ thuật trong cơ chế thị trường và hội nhập, NXB Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

37. Nguyễn Thị Hương (2005), “Chính sách văn hóa – nhìn từ bản quyền tác

giả trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật”, Tạp chí Thông tin Văn hóa và

phát triển, (5).

38. Nguyễn Thị Hương (2008), “Phát triển ngành công nghiệp văn hóa ở

nước ta trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế”, Tạp chí Lý luận

chính trị, (10).

39. Nguyễn Thị Hương (2009), “Chính sách kinh tế trong văn hóa và phát

triển ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam”, Tạp chí Lý luận Chính

trị và Truyền thông, (5).

40. Nguyễn Thị Hương (2009), Đề tài khoa học cấp Bộ: Phát triển công nghiệp

văn hóa ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp.

41. Nguyễn Thị Hương (2009), Đề tài khoa học cấp Bộ: Thị trường văn hóa

phẩm ở nước ta hiện nay – Hiện trạng và giải pháp.

42. Nguyễn Thị Hương (chủ biên) (2011), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn xây

dựng, phát triển văn hóa Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

43. Đỗ Huy (2000), Mỹ học- Khoa học về các quan hệ thẩm mỹ, NXB Khoa

học Xã hội, Hà Nội.

155

44. Phạm Bích Huyền (2012), Hoạt động giáo dục nghệ thuật của các đơn vị

nghệ thuật biểu diễn quốc gia trên địa bàn Hà Nội, Luận án Tiến sĩ

Văn hóa học, Đại học Văn hóa, Hà Nội.

45. Phạm Bích Huyền (2013), Phát triển khán giả – nhu cầu và giải pháp cho

các

tổ chức văn hóa nghệ

thuật Việt Nam,

tại

trang

huc.edu.vn/vi/spct/id121, [truy cập ngày 12/3/2013].

46. Khoa Văn hóa xã hội chủ nghĩa – Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí

Minh (2004), Văn hóa và phát triển ở Việt Nam – Một số vấn đề lý

luận và thực tiễn, NXB Lý luận Chính trị, Hà Nội.

47. Nguyễn Thị Kim Liên (2005), Giao lưu quốc tế về văn hóa nghệ thuật ở

thành phố Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới hiện nay (qua khảo sát

lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn), Luận văn Thạc sỹ Văn hóa học, Học

viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

48. Dương Thị Liễu (2013), Văn hóa kinh doanh, NXB Đại học Kinh tế quốc

dân, Hà Nội.

49. Phạm Xuân Nam (1998), Văn hóa vì phát triển, NXB Chính trị Quốc gia,

Hà Nội.

50. Nguyễn Đăng Nghị (2005), “Âm nhạc Việt Nam thời kỳ đổi mới, thực

trạng và giải pháp”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, (5).

51. Nguyễn Đăng Nghị, (2010), “Một cách nhìn về văn hóa âm nhạc Việt

Nam”, Tạp chí Thông tin Văn hóa nghệ thuật, (311).

52. Phan Ngọc (2002), Bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB Văn hóa Thông tin,

Hà Nội.

53. Nguyễn Tri Nguyên (2004), Những bài giảng về quản lý văn hóa trong kinh

tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, NXB Văn hóa Thông tin,

Hà Nội.

54. Mai Hải Oanh (2006), “Sức sản xuất văn hóa và công nghiệp văn hóa”,

Tạp chí Cộng sản điện tử, (105).

156

55. Mai Hải Oanh (2006), “Xây dựng ngành công nghiệp văn hóa ở nước ta”,

Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, (7).

56. Mai Hải Oanh (2010), “Phát triển công nghiệp văn hóa- Nâng cao sức

cạnh tranh của văn hóa trong thời kỳ mới”, Tạp chí Cộng sản, (10).

57. Mai Hải Oanh (2010), “Phát triển sự nghiệp văn hóa và công nghiệp văn hóa”,

Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, (9).

58. Mai Hải Oanh (2011), Quan hệ giữa xây dựng văn hóa và phát triển kinh

tế ở nước ta hiện nay, NXB Chính trị - Hành chính, Hà Nội.

59. Nguyễn Hồ Phong (2015), Chiến lược phát triển khán giả của Sân khấu

kịch Hồng Vân, Thành phố Hồ Chí Minh, giai đoạn 2001-2014, Luận

văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa, Trường Đại học văn hóa Thành phố Hồ

Chí Minh.

60. Nguyễn Duy Quý (2006), Đạo đức xã hội ở nước ta hiện nay - Vấn đề và

giải pháp, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

61. Tô Huy Rứa (2006), “Xây dựng và phát triển công nghiệp văn hóa ở nước ta”,

Tạp chí Cộng sản, (1).

62. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh, Báo cáo tổng quan

tình hình hoạt động văn hóa nghệ thuật tại Thành phố Hồ Chí Minh.

63. Tham luận hội thảo khoa học (2013), “Hệ giá trị văn hóa Việt Nam trong

đổi mới, hội nhập”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội.

64. Nguyễn Thị Lan Thanh (2012), Đề tài khoa học cấp Bộ, Nâng cao tính

chuyên nghiệp của hoạt động Marketing đối với nghệ thuật biểu diễn

trong thời kỳ hội nhập, Hà Nội.

65. Nguyễn Thị Lan Thanh (chủ biên) (2009), Marketting văn hóa nghệ

thuật, NXB Đại học Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội.

66. Đặng Quang Thành (2008), Văn hóa và phát triển – Một số vấn đề lý luận

và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay, NXB Đại học quốc gia Thành phố

Hồ Chí Minh.

157

67. Trần Nho Thìn (2015), “Công nghiệp sáng tạo và văn hóa”, Tạp chí Văn

hóa dân gian, (2).

68. Phan Thọ (2009), Mấy vấn đề về công chúng của nghệ thuật sân khấu,

NXB Sân Khấu, Hà Nội.

69. Đặng Hoài Thu, Phạm Bích Huyền (2009), Giáo trình các ngành công

nghiệp văn hóa, Trường Đại học Văn hóa, Hà Nội.

70. Thủ tướng Chính phủ (2008), Chiến lược phát triển văn hóa đến năm

2020, Hà Nội.

71. Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định số 2631/QĐ – TTg về: Phê

duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội Thành phố Hồ

Chí Minh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025, Hà Nội.

72. Tình Nguyễn Văn Tình (2009), Chính sách văn hóa trên thế giới và việc hoàn

thiện chính sách văn hóa ở Việt Nam, NXB Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.

73. Lê Ngọc Tòng (2004), Một số nghiên cứu bước đầu về kinh tế học văn

hóa, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

74. Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh

(2010), Thị trường văn hóa phẩm, dịch vụ văn hóa, điện ảnh và một

số hoạt động của ngành Văn hóa – thông tin Thành phố Hồ Chí Minh

từ 1996 đến nay, cùng kế hoạch phát triển đến năm 2010, Đề tài

nghiên cứu khoa học, Thành phố Hồ Chí Minh.

75. Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình kỹ năng

nghiên cứu và lập luận, NXB Hồng Đức – Hội Luật Gia Việt Nam,

Thành phố Hồ Chí Minh.

76. Trường Đại học Văn hóa Hà Nội (2013), Kỷ yếu hội thảo: Những nhiệm

vụ cấp bách, quan trọng và các giải pháp tiếp tục thực hiện Nghị

quyết Trung ương 5 khóa VIII.

77. Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh (2013), Kỷ yếu hội

thảo: Mối quan hệ kinh tế trong văn hóa, văn hóa trong kinh tế qua

thực tiễn Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII – thực trạng và giải pháp.

158

78. Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, Khoa Quản lý Văn hóa

Nghệ thuật, Tổng hợp những bài báo viết về Sân khấu Kịch Thành phố Hồ

Chí Minh (kịch nói, kịch hình thể, kịch thiếu nhi) giai đoạn 2008 – 2011.

79. Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, Khoa Quản lý Văn

hóa Nghệ thuật, Tổng hợp những bài viết về hoạt động âm nhạc

Thành phố Hồ Chí Minh (giai đoạn 2008 -2010).

80. Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, Khoa Quản lý Văn

hóa Nghệ thuật, Tổng hợp những bài báo viết về nghệ thuật Múa Việt

Nam (giai đoạn 2008 -2011).

81. Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, Khoa Quản lý Văn

hóa Nghệ thuật, Tổng hợp những bài báo viết về nghệ thuật Múa rối

tại Thành phố Hồ Chí Minh (giai đoạn 2008 - 2010).

82. Tư liệu phỏng vấn sâu của dự án (2012), Phát triển cơ chế và khung luật

tài chính thích hợp cho ngành công nghiệp văn hóa và khuyến khích

đầu tư cho ngành công nghiệp văn hóa tại Việt Nam (UNESCO, EU,

VICAS).

83. Nguyễn Thanh Tuấn (2010), Đa dạng văn hóa và quyền văn hóa hiện nay

ở Việt Nam, NXB Văn hóa Thông tin và Viện Văn hóa, Hà Nội

84. Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2012), Viện nghiên cứu phát

triển: Thành phố Hồ Chí Minh 35 năm xây dựng và phát triển, NXB

Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.

85. Viện nghiên cứu xã hội Thành phố Hồ Chí Minh (2007), Kỷ yếu Hội thảo

khoa học: Văn hóa – động lực phát triển bền vững của Thành phố Hồ

Chí Minh trong thời kỳ hội nhập mới, Thành phố Hồ Chí Minh.

86. Viện Văn hóa Nghệ thuật, Bộ Văn hóa , Thể thao và Du lịch (2014), Bản

dự thảo ngày 26/11/2014 về Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp

văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.

159

87. Viện Văn hóa Nghệ thuật, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2010), Kỷ

yếu Hội thảo về: Công nghiệp văn hóa Việt Nam – Thực trạng và giải

pháp, Hà Nội.

88. Lê Quốc Vinh (2012), Tìm hiểu về khoảng cách giữa Nhu cầu của ngành

công nghiệp sáng tạo và sự cung ứng của ngành giáo dục sau đại học

của Việt Nam. Hội thảo Đào tạo sau đại học và Công nghiệp sáng tạo:

Bối cảnh châu Á - Anh, Singapore, 10/2012.

89. Trần Quốc Vượng (chủ biên) (1998), Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB

Giáo dục.

90. William Codjo (2012), Cơ chế tài chính mới cho ngành công nghiệp sáng

tạo của Việt Nam (báo cáo dự án), Dự án: Phát triển cơ chế và khung

luật tài chính thích hợp cho ngành công nghiệp văn hóa và khuyến

khích đầu tư cho ngành công nghiệp văn hóa tại Việt Nam (UNESCO,

EU, VICAS).

Tài liệu tiếng Anh

91. Duncan M.Webb (2005), Running Theaters: Best Practices for Leaders

and Managers, Allworth Press.

92. Derick Chong(2009), Arts Management (The second edition), Routledge.

93. David M. Conte and Stephen Langley (2007), Theatre Management:

Producing and Managing the Performing Arts, EntertainmentPro.

94. Harry Hillman, Joni M. Cherbo and Margaret J. Wyszomirski (2000)

The Public Life of the Arts in America, NXB Rutgers University

Press, New York.

95. Harold L. Vogel (2001), Entertainment Industry Economics - A Guide for

Financial Analysis, Cambridge University Press.

96. Frederic B. Vogel and Benjamin A. Hodges (2006),The Commercial

Theater Institute Guide to Producing Plays and Musicals, Applause

Theatre & Cinema Books.

160

97. James Heilbrun and Charles M.Gray (1993), The Economics of Art and

Culture - An American Perspective, Cambridge University Press.

98. Jens Nielsen (2010),Cultural Industry: its role in the economy and a

suitable policy framework for its development at 3 levels (in the world,

in Europe and in Denmark particularly) - Công nghiệp văn hóa: Vai

trò trong nền kinh tế và khung chính sách phù hợp cho sự phát triển

ngành ở ba cấp độ (thế giới, châu Âu và Đan Mạch).

99. John Newbigin (2010), The Creative Economy: An Introductory Guide -

Kinh tế sáng tạo: - Giới thiệu chung, Creative and Cultural Economy. 1

(Tuyển tập Kinh tế Văn hóa và Sáng tạo số 1), The British Council,

London.

100. Kusakabe Kimihito (Nhật Bản), Culture industry theory (lý thuyết công

nghiệp văn hóa).

101. MichaelKaiser (1995), Strategic Planning in the Arts: A Practical

Guide, Engler Group.

102. NESTA /Tom Fleming Creative Consultancy (2004), Forward Thinking

- New Solutions to Old Problems: Investing in the Creative Industries

- www.nesta.org.uk.

103. Pop goes Korea: Behind the revolotion in movies, misic, and Internet

Culture/ Mark James Russell – Berkeley, California: Stone Bridge

Press, 2008.

104. Ralf Hussmanns, Farhad Mehran and Vijaya Varma (1990), Survey of

employment, underemployment and unemployment in the performing

arts, International Labour Organization.

105. Richard E. Caves (2000), Creative Industries: Contracts Between Art

and Commerce, Harvard University Press.

106. Ruth Towse (2010), A Textbook of Cultural Economics, Cambridge

University Press.

161

107. Ruth Towse (2011), A Handbook of Cultural Economics (Second

Edition), Edward Elgar.

108. Throsby, David and Glenn A. Withers (1979), The Economics of the

Performing Arts (edition 1993),Edward Arnold (Australia).

109. Throsby David (2001), Economics and Culture, Cambridge University Press.

110. Throsby, David and Victor A. Ginsburgh (2006), Handbook of the

Economics of Art and Culture (volume 2), North-Holland.

111. Throsby, David (2010), The Economics of Cultural Policy, Cambridge

University Press, Hoa Kỳ.

112. Throsby, David and Michael Hutter (2011), Beyond Price: Value in

Culture, Economics and the Arts, Cambridge University Press,

New York.

113. Tess Collins (2003), How Theater Managers Manage, Scarecrow Press.

114. UNDP, UNTCAD (2010), Creative Economy Report 2010 - Creative

Economy: A Fesasible Development Option - Báo cáo Kinh tế Sáng

tạo 2010 - Kinh tế Sáng tạo: Một lựa chọn phát triển khả thi.

115. UNESCO, GACD (2006), Understanding Creative Industries - Cultural

statistics for public-policy making - Hiểu về Công nghiệp sáng tạo -

Số

liệu văn hóa cho hoạch định chính sách công. Lấy

từ:http://portal.unesco.org/culture/en/ev.php-

116. UNSCO – Các ngành Công nghiệp văn hóa – Tâm điểm của văn hóa

trong tương lai. Website: http://portal.unesco.org/culture/en/ev.

Tài liệu trên Website

117. Công nghiệp văn hóa nên được coi là lĩnh vực thương mại,

http://toquoc.vn/sites/vi-vn/details/10/cua-so-van-hoa/80354/cong-

nghiep-van-hoa-nen-duoc-coi-la-linh-vuc-thuong-mai.aspx, [truy cập

ngày 18/8/2011].

162

118. Diện mạo sân khấu TP Hồ Chí Minh và những vấn đề đặt ra,

http://www.nhandan.com.vn/mobile/_mobile_vanhoa, [truy cập ngày

04/05/2015].

119. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực văn hóa để đáp ứng yêu

cầu yêu cầu hội nhập, http://tapchicongsan.org.vn/, [truy cập ngày

21/04/2015].

120. Để nghệ thuật biểu diễn phát triển: Cần sự vào cuộc mạnh hơn của các đơn

vị nhà nước, http://baotintuc.vn/doi-song-van-hoa/de-nghe-thuat-bieu-

dien-phat-trien-can-su-vao-cuoc-manh-hon-cua-cac-don-vi-nha-nuoc,

[truy cập ngày 01/10/2011].

121. Để nghệ thuật biểu diễn phát triển: Tư nhân không thể đọc diễn!, Báo

điện

tử

của Bộ Văn

hóa, Thể

thao

và Du

lịch,

http://www.toquoc.gov.vn, [truy cập ngày 19/04/2015].

122. Gần 40 nhạc

sĩ công kích Cục Nghệ

thuật biểu diễn,

http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/gioi-sao/trong-nuoc/gan-40-nhac-si-

cong-kich-cuc-nghe-thuat-bieu-dien, [truy cập ngày 17/2/2012].

123. Khẳng định mục

tiêu phát

triển công nghiệp văn hóa,

http://thethaovanhoa.vn/van-hoa-giai-tri/khang-dinh-muc-tieu-phat-

trien-cong-nghiep-van-hoa-n20150123071858153.htm, [truy cập ngày

23/01/2015].

124. Nguồn:http://baodientu.chinhphu.vn/Tin-noi-bat/Nghi-quyet-Hoi-nghi-

Trung-uong-9-khoa-XI/201435.vgp

125. Nguồn:http://tuoitre.vn/tin/chinh-tri-xa-hoi/20141217/dan-so-vn-dat-

904-trieu-nguoi-tphcm-co-795-trieu-dan/686193.html

126. Nghĩ về công nghiệp sáng tạo ở Việt Nam, http://www.tapchicongsan.org.vn,

[truy cập ngày 16/7/2014].

127. Phát

triển ngành

công nghiệp

văn hóa ở Việt Nam,

http://www.nhandan.com.vn/vanhoa/dong-chay/item/23313302-phat-

163

trien-nganh-cong-nghiep-van-hoa-o-viet-nam.html, [truy cập ngày

26/5/2014].

128. Quản lý hoạt động biểu diễn nghệ thuật: Còn nhiều bất cập,

http://www.nhandan.org.vn/vanhoa/dien-dan/item/12840402-.html

129. Thay đổi tư duy đầu tư cho nghệ thuật biểu diễn, http://www.nhandan.com.vn,

[truy cập ngày 30/11/2011].

130. Trung tâm Bảo vệ quyền tác giả âm nhạc Việt Nam – Chi nhánh phía

nam

tổ chức Họp mặt kỷ niệm 10 năm

thành

lập,

http://vcpmc.org/vcpmc/tintuc/chitiet/_877/Trung_tam_Bao_ve_quye

n_tac_gia_am_nhac_Viet_Nam__Chi_nhanh_phia_Nam_to_chuc_Ho

p_mat_ky_niem_10_nam_thanh_lap

131. Sáng tạo phải dựa vào chuẩn mực, http://www.anninhthudo.vn/giai-

tri/sang-tao-phai-dua-tren-chuan-muc/347905.antd

132. Vi phạm

tác quyền âm nhạc: Vẫn

là căn bệnh mãn

tính!

http://vcpmc.org/vcpmc/tintuc/chitiet/875/Vi pham tac quyen am nhac

Van la can benh man tinh.

133. Xã hội hóa biểu diễn tới đâu?http://maivang.nld.com.vn

134. Xây dựng và phát triển ngành công nghiệp văn hóa ở nước ta,

http://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tracuu/xay_dung_va_phat_trien_cnvh-

0.html

164

PHỤ LỤC LUẬN ÁN

PHỤ LỤC 1: PHIẾU KHẢO SÁT XÃ HỘI HỌC

165

PHỤ LỤC 2: BẢNG XỬ LÝ SỐ LIỆU KHẢO SÁT

188

PHỤ LỤC 3: CÂU HỎI VÀ NỘI DUNG PHỎNG VẤN

198

PHỤ LỤC 4: DANH SÁCH CÁC ĐƠN VỊ HOẠT ĐỘNG LĨNH VỰC

203

VĂN HÓA NGHỆ THUẬT – GIẢI TRÍ TẠI TP. HỒ CHÍ MINH

PHỤ LỤC 5: MỘT SỐ HÌNH ẢNH MINH HỌA

206

165

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC II

Mã số: 02

Mục đích khảo sát: Tìm hiểu đánh giá của khán giả về tình hình hoạt động của một số sân khấu ca nhạc tại Tp. HCM hiện nay. Đối tượng khảo sát: Khán giả tại một số sân khấu ca nhạc tại Tp. HCM

Khảo sát viên: ....................................................... Ngày khảo sát:………………………………. Địa điểm khảo sát: sân khấu………………………

Đề tài cần khảo sát: Công nghiệp văn hóa ở Tp. Hồ Chí Minh hiện nay (Qua khảo sát một số lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn)

PHỤ LỤC 1.1: BIỂU KHẢO SÁT XÃ HỘI HỌC Chúng tôi là nhóm nghiên cứu viên đến từ Học viện Chính trị khu vực II thực hiện đề tài này với mục đích nghiên cứu. Chúng tôi rất mong được sự giúp đỡ của quý vị trong quá trình thực hiện công trình này. Chúng tôi cam kết những thông tin mà quý vị cung cấp được bảo mật để phục vụ công tác nghiên cứu khoa học. Xin chân thành cảm ơn! Để hoàn thiện bảng hỏi, ông/bà vui lòng đánh dấu X vào ô tương ứng với ý kiến của ông/bà. Xin chân thành cảm ơn!

166

PHẦN I: THÔNG TIN CHUNG

2. Nữ 

Câu 1: Ông /bà vui lòng cho biết một số thông tin chung sau: Giới tính: 1. Nam  Tuổi: 12 – 18 tuổi 

19 – 25 tuổi  26 – 35 tuổi 

36 – 45 tuổi  46 – 55 tuổi  trên 55 tuổi 

Dân tộc: 1. Kinh 

2. Chăm  3. Hoa 

4. KhơMe  5. Khác 

Trình độ học vấn: 1. Chưa bao giờ đi học  2. Cấp 1  3. Cấp 2  4. Cấp 3  5. Trung cấp, Cao đẳng  6. Đại học  7. Sau đại học 

PHẦN II: KHẢO SÁT CHUYÊN SÂU

Câu 2: Ông /bà vui lòng cho biết đây là lần thứ mấy ông/bà đến xem biểu diễn ca nhạc tại sân khấu này:

1. Lần đầu  2. Lần thứ 2  3. Lần thứ 3  4. Trên 3 lần 

Nếu trả lời một trong các ý 2, 3, 4, xin mời trả lời tiếp câu 3, Nếu trả lời ý 1, xin mời trả lời tiếp câu 4

Câu 3: Ông /bà vui lòng cho biết vì sao thường xuyên đến xem biểu diễn ca nhạc tại sân khấu này (có thể chọn nhiều ý trả lời):

Bài hát hay

Sân khấu đẹp

Các dịch vụ đi kèm tốt

Vị trí sân khấu gần nhà

Khác (vui lòng ghi rõ)

Hệ thống âm thanh, ánh sáng chuẩn

Câu 4: Ông /bà đánh giá như thế nào về chất lượng ca sĩ tại đây:

Phần lớn chất giọng và trình diễn tốt

Phần lớn chất giọng và trình diễn khá

Phần lớn chất giọng và trình diễn trung bình

Phần lớn chất giọng và trình diễn yếu

Câu 5: Mức độ hài lòng của Ông /bà đối với chất lượng chương trình ca nhạc tại sân khấu này:

Rất hài lòng với phần lớn chương trình ca nhạc

Tương đối hài lòng với phần lớn chương trình ca nhạc

Không hài lòng với phần lớn chương trình ca nhạc

167

Câu 6: Theo Ông /bà, giá vé tại sân khấu này như thế nào:

Rất cao

Tương đối cao

Phù hợp

Rẻ

Câu 7: Ông /bà vui lòng cho biết ý kiến về chất lượng hệ thống cơ sở vật chất tại sân khấu này:

Hệ thống âm thanh

Hệ thống ánh sáng

Ghế ngồi

Nhà vệ sinh

Tốt Khá TB Kém Tốt Khá TB Kém Tốt Khá TB Kém Tốt Khá TB Kém

Câu 8: Ông /bà vui lòng cho biết ý kiến về chất lượng một số hoạt động của sân khấu này:

Hoạt động bán vé

Dịch vụ giữ xe

Hoạt động quảng cáo

Công tác an ninh, trật tự

Dịch vụ ẩm thực (nếu có)

Tốt Khá TB kém Tốt Khá TB kém Tốt Khá TB kém Tốt Khá TB kém Tốt Khá TB kém

Câu 9: Ông /bà biết những thông tin về các chương trình ca nhạc ở sân khấu này qua các kênh truyền thông nào:

Báo in

Truyền miệng

Website của sân khấu

Biển quảng cáo trước sân khấu

Báo điện tử

Khác (vui lòng ghi rõ)

Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của ông/bà!

168

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC II

Mã số: 02

Mục đích khảo sát: Tìm hiểu đánh giá của khán giả về tình hình hoạt động của một số sân khấu kịch nói tại Tp. HCM hiện nay. Đối tượng khảo sát: Khán giả tại một số sân khấu kịch nói tại Tp. HCM

Khảo sát viên:…………………………….………. Ngày khảo sát:………………………………. Địa điểm khảo sát: sân khấu………………………

Đề tài cần khảo sát: Công nghiệp văn hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay (Qua khảo sát một số lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn)

PHỤ LỤC 1.2: BIỂU KHẢO SÁT XÃ HỘI HỌC Chúng tôi là nhóm nghiên cứu viên đến từ Học viện chính trị khu vực II thực hiện đề tài này với mục đích nghiên cứu. Chúng tôi rất mong được sự giúp đỡ của quý vị trong quá trình thực hiện công trình này. Chúng tôi cam kết những thông tin mà quý vị cung cấp được bảo mật để phục vụ công tác nghiên cứu khoa học. Xin chân thành cảm ơn! Để hoàn thiện bảng hỏi, ông/bà vui lòng đánh dấu X vào ô tương ứng với ý kiến của ông/bà. Xin chân thành cảm ơn!

169

PHẦN I: THÔNG TIN CHUNG

2. Nữ 

19 – 25 tuổi  26 – 35 tuổi  36 – 45 tuổi 

trên 55 tuổi 

Câu 1: Ông /bà vui lòng cho biết một số thông tin chung sau: Giới tính: 1. Nam  Tuổi: 12 – 18 tuổi  46 – 55 tuổi  Dân tộc: 1. Kinh 

2. Chăm  3. Hoa 

4. KhơMe  5. Khác 

Tôn giáo: 1. Phật 

2. Thiên Chúa Giáo 

4. Cao đài 

5. Thờ Ông bà 

3. Tin lành  6. Khác 

Trình độ học vấn: 1. Chưa bao giờ đi học  2. Cấp 1  3. Cấp 2  4. Cấp 3  5. Trung cấp, Cao đẳng  6. Đại học  7. Sau đại học 

PHẦN II: KHẢO SÁT CHUYÊN SÂU

Câu 2: Ông /bà vui lòng cho biết đây là lần thứ mấy ông/bà đến xem kịch tại sân khấu này:

1. Lần đầu  2. Lần thứ 2  3. Lần thứ 3  4. Trên 3 lần 

Nếu trả lời một trong các ý 2, 3, 4, xin mời trả lời tiếp câu 3, nếu trả lời ý 1, xin mời trả lời tiếp câu 4

Câu 3: Ông /bà vui lòng cho biết vì sao thường xuyên đến xem kịch tại sân khấu này (có thể chọn nhiều ý trả lời):

Kịch hay

Sân khấu đẹp

Các dịch vụ đi kèm tốt

Vị trí sân khấu gần nhà

Khác (vui lòng ghi rõ)

Hệ thống âm thanh, ánh sáng chuẩn

Câu 4: Ông /bà đánh giá như thế nào về chất lượng diễn viên tại đây:

Phần lớn diễn xuất tốt

Phần lớn diễn xuất khá

Phần lớn diễn xuất yếu

Phần lớn diễn xuất tốt

Phần lớn diễn xuất trung bình

Phần lớn diễn xuất yếu

Phần lớn diễn xuất trung bình

Diễn viên chính

Diễn viên phụ Phần lớn diễn xuất khá

Câu 5: Mức độ hài lòng của Ông /bà đối với chất lượng nội dung các vở kịch tại sân khấu này:

Rất hài lòng với phần lớn vở kịch

Tương đối hài lòng với phần lớn vở kịch

Không hài lòng với phần lớn vở kịch

170

Câu 6: Theo Ông /bà, giá vé tại sân khấu này như thế nào:

Rất cao

Tương đối cao

Phù hợp

Rẻ

Câu 7: Ông /bà vui lòng cho biết ý kiến về chất lượng hệ thống cơ sở vật chất tại sân khấu này:

Hệ thống âm thanh Hệ thống ánh sáng

Ghế ngồi

Nhà vệ sinh

Tốt Khá TB kém Tốt Khá TB kém Tốt Khá TB kém Tốt Khá TB kém

Câu 8: Ông /bà vui lòng cho biết ý kiến về chất lượng một số hoạt động của sân khấu này:

Dịch vụ giữ xe

Hoạt động bán vé

Hoạt động quảng cáo

Công tác an ninh, trật tự

Dịch vụ ẩm thực (nếu có)

Tốt Khá TB kém Tốt Khá TB kém Tốt Khá TB kém Tốt Khá TB kém Tốt Khá TB kém

Câu 9: Ông /bà biết những thông tin về các vở kịch ở sân khấu này qua các kênh truyền thông nào:

Báo in

Truyền miệng

Website của sân khấu

Biển quảng cáo trước sân khấu

Báo điện tử

Khác (vui lòng ghi rõ)

Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của ông/bà!

171

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC II

Mã số: 02

Mục đích khảo sát: Tìm hiểu đánh giá của cán bộ/nhân viên về hoạt động của 1 số sân khấu ca nhạc tại Tp. HCM Đối tượng khảo sát: Cán bộ/nhân viên đang làm việc tại 1 số sân khấu ca nhạc tại Tp. HCM

Khảo sát viên: ....................................................... Ngày khảo sát:……………………………….

Địa điểm khảo sát: sân khấu………………………

Đề tài cần khảo sát: Công nghiệp văn hóa tại Tp. Hồ Chí Minh hiện nay (Qua khảo sát một số lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn)

PHỤ LỤC 1.3: BIỂU KHẢO SÁT XÃ HỘI HỌC Chúng tôi là nhóm nghiên cứu viên đến từ Học viện Chính trị khu vực II thực hiện đề tài này với mục đích nghiên cứu. Chúng tôi rất mong được sự giúp đỡ của quý vị trong quá trình thực hiện công trình này. Chúng tôi cam kết những thông tin mà quý vị cung cấp được bảo mật để phục vụ công tác nghiên cứu khoa học. Xin chân thành cảm ơn! Để hoàn thiện bảng hỏi, ông/bà vui lòng đánh dấu X hoặc chấm điểm ưu tiên theo hướng dẫn vào ô tương ứng với ý kiến của ông/bà. Xin chân thành cảm ơn!

172

PHẦN I: THÔNG TIN CHUNG

2. Nữ 

26 – 35 tuổi  36 – 45 tuổi 

Câu 1: Ông /bà vui lòng cho biết một số thông tin chung sau: Giới tính: 1. Nam  Tuổi: 18 – 25 tuổi  46 – 55 tuổi  trên 55 tuổi  Dân tộc: 1. Kinh 

2. Chăm  3. Hoa 

4. KhơMe  5. Khác 

Trình độ học vấn: 1. Cấp 1  2. Cấp 2  3. Cấp 3  4. TC, CĐ  5. Đại học  6. Sau đại học 

Ông /bà vui lòng cho biết thời gian làm việc tại sân khấu này:

1. Dưới 1 năm  2. Năm thứ 2  3. Năm thứ 3  4. Trên 3 năm 

7. NV hậu đài 

9. NV ánh sáng  10. NV trang trí sân khấu (nếu có)  11. Đạo diễn 

Ông /bà vui lòng cho biết công việc chuyên môn của mình tại sân khấu này: 1. NV bán vé  2. NV soát vé  8. NV âm thanh  3. NV vệ sinh  4. NV trật tự  5. NV truyền thông/quảng cáo/Marketing (nếu có)  6. NV hành chính tổng hợp  12. Ca sĩ  13. Khác (vui lòng ghi rõ):…………………………………………………….

PHẦN II: KHẢO SÁT CHUYÊN SÂU

Câu 2: Đối với thuật ngữ “Công nghiệp văn hóa”, ông /bà đã:

1.Chưa bao giờ nghe

3.Đã nghe nhưng không quan tâm

5.Đang tìm hiểu thuật ngữ này

2.Đã nghe nhưng không hiểu

4.Hiểu rõ về thuật ngữ này

Nếu trả lời ý 1, 2, 3, 5 xin mời trả lời tiếp câu 8; Nếu trả lời ý 4 thì xin mời trả lời tiếp câu 3 Câu 3: Theo ông/bà, công nghiệp văn hóa bao gồm những thành tố nào sau đây:

 1. Khu vực sáng tạo nghệ thuật (nghệ sỹ, diễn viên)  2. Khu vực tổ chức biểu diễn 3. Khu vực quản trị nghệ thuật (bán vé, marketing)  4. Tất cả các thành tố trên 

173

Câu 4: Ông/bà vui lòng sắp xếp thứ tự các nguyên nhân (Trong đó, 1 là nguyên nhân

quan trọng nhất) đang cản trở sự phát triển ngành công nghiệp văn hóa trong lĩnh

vực nghệ thuật biểu diễn ở Thành phố hiện nay:

1. Công tác quản

3. Thiếu hụt tài năng

4. Công tác tổ chức

lý nhà nước

nghệ thuật

biểu diễn

2. Công tác quản trị của doanh nghiệp

Câu 5: Ông/bà vui lòng sắp xếp thứ tự các chính sách mà Nhà nước cần ưu tiên để tạo

động lực cho công nghiệp văn hóa trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn Tp. HCM phát triển (Trong đó, 1 là ưu tiên nhất):

1. Chiến lược phát triển công nghiệp nghệ thuật biểu diễn

2. Chính sách thuế thu nhập

3. Chính sách ưu đãi vay vốn ngân hàng

4. Chính sách ưu đãi thuê mặt bằng

5. Chính sách đào tạo tài năng quản trị nghệ thuật

6. Chính sách đào tạo nghệ sĩ sáng tạo và biểu diễn

7. Chính sách trọng dụng nhân tài nghệ thuật

8. Chính sách xã hội hoạt động nghệ thuật

9. Chính sách đổi mới công nghệ kỹ thuật

10. Chính sách thu hút đầu tư quốc tế

Câu 6: Ông/bà vui lòng sắp xếp thứ tự các giải pháp cần ưu tiên thực hiện để công

nghiệp văn hóa trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn Tp. HCM phát triển (Trong đó, 1 là ưu tiên nhất):

1. Cần thay đổi nhận thức, tư duy về công nghiệp NTBD

2. Cần hoàn thiện các văn bản pháp luật về văn hóa, nghệ thuật 

3. Quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật

4. Kịp thời cải tiến chế độ chính sách

5. Quan tâm đào tạo nguồn nhân lực

6. Đẩy mạnh xã hội hóa lĩnh vực NTBD

7. Nâng cao thị hiếu thẩm mỹ cho công chúng

174

Câu 7: Ông /bà vui lòng sắp xếp mức độ quan tâm của đơn vị mình đối với các thành tố sau (trong đó, 1 là ưu tiên nhất):

1. Khu vực sáng tạo nghệ thuật (nghệ sỹ, diễn viê

2. Khu vực tổ chức biểu diễn

3.Khu vực quản trị nghệ thuật

Câu 8: Ông /bà vui lòng sắp xếp mức độ ưu tiên về định hướng giá trị của đơn vị

mình (trong đó, 1 là ưu tiên nhất):

4. Đề cao tài năng nghệ thuật  5. Chăm lo cho nghệ sĩ  6. Bảo tồn nghệ thuật dân tộc  7. Tăng sức cạnh tranh 

   

1. 1.Tăng lợi nhuận 2. 2. Thu hút khán giả 3. 3. Giữ thương hiệu 4. Đề cao tính thẩm mỹ

Câu 9: Mức độ tham gia biểu diễn của ông bà tại đơn vị mình là (câu này chỉ dành cho những người là diễn viên tham gia khảo sát):

1. Rất thường xuyên

2. Thường xuyên

3. Thỉnh thoảng

Câu 10: Ông /bà vui lòng cho biết ý kiến về chất lượng các chương trình ca nhạc tại đơn vị mình:

1.Cao

2. Trung bình

3. Thấp

4. Rất thấp

Câu 11: Ông /bà vui lòng cho ý kiến về chất lượng hệ thống cơ sở vật chất tại sân khấu này:

Hệ thống âm thanh

Hệ thống ánh sáng

Ghế ngồi

Nhà vệ sinh

Tốt Khá TB Kém Tốt Khá TB Kém Tốt Khá TB Kém Tốt Khá TB Kém

Câu 12: Ông /bà vui lòng cho biết hiện nay đơn vị mình đang áp dụng những hình thức truyền thông/quảng cáo/marketing nào: (có thể chọn nhiều ý trả lời)

1.Website

Khác (vui lòng ghi rõ)

2.Biển quảng cáo

3.Báo in

4.Báo điện tử

5.Truyền miệng

175

Câu 13: Ông /bà vui lòng đánh giá mức độ hiệu quả của các hình thức truyền thông/quảng cáo/marketing mà sân khấu mình đang dùng (trong đó, 1 là hiệu quả cao nhất):

1.Website

2.Biển quảng cáo

3.Báo in

4.Báo điện tử

5.Truyền miệng

Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của ông/bà!

176

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC II

Mã số: 02

Mục đích khảo sát: Tìm hiểu đánh giá của cán bộ/nhân viên về hoạt động của 1 số sân khấu kịch nói tại Tp. HCM Đối tượng khảo sát: Cán bộ/nhân viên đang làm việc tại 1 số sân khấu kịch nói tại Tp. HCM

Khảo sát viên: ....................................................... Ngày khảo sát:………………………………. Địa điểm khảo sát: sân khấu………………………

Đề tài cần khảo sát: Công nghiệp văn hóa tại Tp. Hồ Chí Minh hiện nay (Qua khảo sát một số lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn)

PHỤ LỤC 1.4: BIỂU KHẢO SÁT XÃ HỘI HỌC Chúng tôi là nhóm nghiên cứu viên đến từ Học viện Chính trị khu vực II thực hiện đề tài này với mục đích nghiên cứu. Chúng tôi rất mong được sự giúp đỡ của quý vị trong quá trình thực hiện công trình này. Chúng tôi cam kết những thông tin mà quý vị cung cấp được bảo mật để phục vụ công tác nghiên cứu khoa học. Xin chân thành cảm ơn! Để hoàn thiện bảng hỏi, ông/bà vui lòng đánh dấu X hoặc chấm điểm ưu tiên theo hướng dân vào ô tương ứng với ý kiến của ông/bà. Xin chân thành cảm ơn!

177

PHẦN I: THÔNG TIN CHUNG

2. Nữ 

Câu 1: Ông /bà vui lòng cho biết một số thông tin chung sau: Giới tính: 1. Nam  Tuổi: 18 – 25 tuổi 

26 – 35 tuổi  36 – 45 tuổi 

46 – 55 tuổi  trên 55 tuổi 

2. Chăm  3. Hoa 

Dân tộc: 1. Kinh 

4. KhơMe  5. Khác 

Trình độ học vấn:

1. Cấp 1  2. Cấp 2  3. Cấp 3  4. TC, CĐ  5. Đại học  6. Sau đại học 

Ông /bà vui lòng cho biết thời gian làm việc tại sân khấu này:

1. Dưới 1 năm  2. Năm thứ 2  3. Năm thứ 3  4. Trên 3 năm 

8. NV âm thanh  9. NV ánh sáng  10. NV trang trí sân khấu (nếu có)  11. Đạo diễn  12. Nhà biên kịch  13. Diễn viên 

Ông /bà vui lòng cho biết công việc chuyên môn của mình tại sân khấu này: 1. NV bán vé  2. NV soát vé  3. NV vệ sinh  4. NV trật tự  5. NV truyền thông/quảng cáo/Marketing (nếu có)  6. NV hành chính tổng hợp  7. NV hậu đài  14. Khác (vui lòng ghi rõ):…………………………………………………….

PHẦN II: KHẢO SÁT CHUYÊN SÂU

Câu 2: Đối với thuật ngữ “Công nghiệp văn hóa”, ông /bà đã:

1.Chưa bao giờ nghe

3.Đã nghe nhưng không quan tâm

4.Hiểu rõ về thuật ngữ này

5.Đang tìm hiểu thuật ngữ này

2.Đã nghe nhưng không hiểu

Nếu trả lời ý 1, 2, 3, 5 xin mời trả lời tiếp câu 8; Nếu trả lời ý 4 thì xin mời trả lời tiếp câu 3

178

Câu 3: Theo ông/bà, công nghiệp văn hóa trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn bao

gồm những thành tố nào sau đây:

1. Khu vực sáng tạo nghệ thuật (nghệ sỹ, diễn viên)

2. Khu vực tổ chức biểu diễn

3. Khu vực quản trị nghệ thuật (bán vé, marketing) 

4.Tất cả các thành tố trên 

Câu 4: Ông/bà vui lòng sắp xếp thứ tự các nguyên nhân (Trong đó, 1 là nguyên nhân

quan trọng nhất) đang cản trở sự phát triển ngành công nghiệp nghệ thuật biểu diễn

ở Thành phố hiện nay

1.Công tác

2.Công tác

3.Thiếu hụt tài

4.Công tác tổ chức

quản lý nhà

quản trị của

năng nghệ thuật

biểu diễn

nước

doanh nghiệp

Câu 5: Ông/bà vui lòng sắp xếp thứ tự các chính sách mà Nhà nước cần ưu tiên để để

tạo động lực cho công nghiệp văn hóa nghệ thuật biểu diễn Tp. HCM phát triển

(Trong đó, 1 là ưu tiên nhất):

1.Chiến lược phát triển công nghiệp nghệ thuật biểu diễn

2.Chính sách thuế thu nhập

3.Chính sách ưu đãi vay vốn ngân hàng

4.Chính sách ưu đãi thuê mặt bằng

5.Chính sách đào tạo tài năng quản trị nghệ thuật

6.Chính sách đào tạo nghệ sĩ sáng tạo và biểu diễn

7.Chính sách trọng dụng nhân tài nghệ thuật

8.Chính sách xã hội hoạt động nghệ thuật

9.Chính sách đổi mới công nghệ kỹ thuật

10. Chính sách thu hút đầu tư quốc tế

Câu 6: Ông/bà vui lòng sắp xếp thứ tự các giải pháp cần cần ưu tiên thực hiện để

công nghiệp văn hóa trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn Tp. HCM phát triển (Trong

đó, 1 là ưu tiên nhất):

1.Cần thay đổi nhận thức, tư duy về công nghiệp NTBD

2.Cần hoàn thiện các văn bản pháp luật về văn hóa, nghệ thuật

3. Quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật

4. Kịp thời cải tiến chế độ chính sách

5. Quan tâm đào tạo nguồn nhân lực

6. Đẩy mạnh xã hội hóa lĩnh vực NTBD

7. Nâng cao thị hiếu thẩm mỹ cho công chúng

179

Câu 7: Ông /bà vui lòng sắp xếp mức độ quan tâm của đơn vị mình đối với các thành tố sau (trong đó, 1 là ưu tiên nhất):

2. Khu vực tổ chức biểu diễn

1. Khu vực sáng tạo nghệ thuật (nghệ sỹ, diễn viên

3.Khu vực quản trị nghệ thuật

Câu 8: Ông /bà vui lòng sắp xếp mức độ ưu tiên về định hướng giá trị của đơn vị

mình (trong đó, 1 là ưu tiên nhất):

5. Đề cao tài năng nghệ thuật  6. Chăm lo cho nghệ sĩ  7. Bảo tồn nghệ thuật dân tộc  8. Tăng sức cạnh tranh 

1. Tăng lợi nhuận  2. Thu hút khán giả  3. Giữ thương hiệu  4. Đề cao tính thẩm mỹ 

Câu 9: Mức độ tham gia biểu diễn của ông bà tại đơn vị mình là (câu này chỉ dành cho những người là diễn viên tham gia khảo sát):

1. Rất thường xuyên

2. Thường xuyên

3. Thỉnh thoảng

Câu 10: Ông /bà vui lòng cho biết ý kiến về chất lượng các vở diễn tại đơn vị mình:

1.Cao

2. Trung bình

3. Thấp

4. Rất thấp

Câu 11: Ông /bà vui lòng cho ý kiến về chất lượng hệ thống cơ sở vật chất tại sân khấu này:

Hệ thống âm thanh

Hệ thống ánh sáng

Ghế ngồi

Nhà vệ sinh

Tốt Khá TB Kém Tốt Khá TB Kém Tốt Khá TB Kém Tốt Khá TB Kém

Câu 12: Ông /bà vui lòng cho biết hiện nay đơn vị mình đang áp dụng những hình thức truyền thông/quảng cáo/marketing nào: (có thể chọn nhiều ý trả lời)

1.Website

2.Biển quảng cáo

3.Báo in

4.Báo điện tử

5.Truyền miệng

Khác (vui lòng ghi rõ)

180

Câu 13: Ông /bà vui lòng đánh giá mức độ hiệu quả của các hình thức truyền thông/quảng cáo/marketing mà sân khấu mình đang dùng (trong đó, 1 là hiệu quả cao nhất):

1.Website

2.Biển quảng cáo

3.Báo in

4.Báo điện tử

5.Truyền miệng

Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của ông/bà!

181

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC II

Mã số: 04

Mục đích khảo sát: Tìm hiểu nhận thức của cán bộ/nhân viên ngành văn hóa về công nghiệp văn hóa nghệ thuật biểu diễn Đối tượng khảo sát: Cán bộ/nhân viên đang làm việc tại các cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa

Khảo sát viên: ....................................................... Ngày khảo sát:…………………………….

Địa điểm khảo sát: ………………………………………….

Đề tài cần khảo sát: Công nghiệp văn hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay (Qua khảo sát một số lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn)

PHỤ LỤC 1.5: BIỂU KHẢO SÁT XÃ HỘI HỌC Chúng tôi là nhóm nghiên cứu viên đến từ Học viện chính trị khu vực II thực hiện đề tài này với mục đích nghiên cứu. Chúng tôi rất mong được sự giúp đỡ của quý vị trong quá trình thực hiện công trình này. Chúng tôi cam kết những thông tin mà quý vị cung cấp được bảo mật để phục vụ công tác nghiên cứu khoa học. Xin chân thành cảm ơn! Để hoàn thiện bảng hỏi, ông/bà vui lòng đánh dấu X hoặc chấm điểm ưu tiên theo hướng dẫn vào ô tương ứng với ý kiến của ông/bà. Xin chân thành cảm ơn!

182

PHẦN I: THÔNG TIN CHUNG

2. Nữ 

26 – 35 tuổi  36 – 45 tuổi 

2. Chăm  3. Hoa 

Câu 1: Ông /bà vui lòng cho biết một số thông tin chung sau: Giới tính: 1. Nam  Tuổi: 18 – 25 tuổi  46 – 55 tuổi  trên 55 tuổi  Dân tộc: 1. Kinh  4. KhơMe  5. Khác 

Trình độ học vấn:

1. Cấp 1  2. Cấp 2  3. Cấp 3  4. TC, CĐ  5. Đại học  6. Sau đại học 

Ông /bà vui lòng cho biết thời gian làm việc tại cơ quan này: 1. Dưới 1 năm  2. Năm thứ 2  3. Năm thứ 3  4. Trên 3 năm 

Ông /bà vui lòng cho biết vị trí công việc của mình: 1. Giám đốc  2. P.Giám đốc  3. Trưởng phòng  4. Phó phòng  5. NV văn phòng  6. NV kế toán, tài chính  7. Khác (vui lòng ghi rõ):…………………………………………………….

PHẦN II: KHẢO SÁT CHUYÊN SÂU

Câu 2: Đối với thuật ngữ “Công nghiệp văn hóa”, ông /bà đã: 1.Chưa bao giờ nghe

3.Đã nghe nhưng không quan tâm

2.Đã nghe nhưng không hiểu

4.Hiểu rõ về thuật ngữ này

5.Đang tìm hiểu thuật ngữ này

Nếu trả lời ý 1, 2, 3, xin mời trả lời tiếp câu 8; nếu trả lời ý 4, 5 thì xin mời trả lời tiếp câu 3 đến câu 11 Câu 3: Theo ông/bà, công nghiệp văn hóa trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn bao gồm những thành tố nào sau đây:

1. Khu vực sáng tạo nghệ thuật (nghệ sỹ, diễn viên)

2. Khu vực tổ chức biểu diễn

3. Khu vực quản trị nghệ thuật (bán vé, marketing) 

4. Tất cả các thành tố trên 

183

Câu 4: Ông/bà vui lòng sắp xếp thứ tự các nguyên nhân (Trong đó, 1 là nguyên nhân quan trọng nhất) đang cản trở sự phát triển ngành công nghiệp văn hóa nghệ thuật biểu diễn ở Thành phố hiện nay:

1. Công tác quản lý nhà nước

3. Thiếu hụt tài năng nghệ thuật

4. Công tác tổ chức biểu diễn

2. Công tác quản trị của doanh nghiệp

Câu 5: Ông/bà vui lòng sắp xếp thứ tự các chính sách mà Nhà nước cần ưu tiên để tạo động lực cho công nghiệp nghệ thuật biểu diễn Tp. HCM phát triển (Trong đó, 1 là ưu tiên nhất):

1.Chiến lược phát triển công nghiệp nghệ thuật biểu diễn

2.Chính sách thuế thu nhập

3. Chính sách ưu đãi vay vốn ngân hàng

4. Chính sách ưu đãi thuê mặt bằng

5. Chính sách đào tạo tài năng quản trị nghệ thuật

6. Chính sách đào tạo nghệ sĩ sáng tạo và biểu diễn

7. Chính sách trọng dụng nhân tài nghệ thuật

8. Chính sách xã hội hoạt động nghệ thuật

9. Chính sách đổi mới công nghệ kỹ thuật

10. Chính sách thu hút đầu tư quốc tế

Câu 6: Ông/bà vui lòng sắp xếp thứ tự các giải pháp cần ưu tiên thực hiện để công

nghiệp nghệ thuật biểu diễn Tp. HCM phát triển (Trong đó, 1 là ưu tiên nhất):

1. Cần thay đổi nhận thức, tư duy về công nghiệp NTBD

2. Cần hoàn thiện các văn bản pháp luật về văn hóa, nghệ thuật

3. Quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật

4. Kịp thời cải tiến chế độ chính sách

5. Quan tâm đào tạo nguồn nhân lực

6. Đẩy mạnh xã hội hóa lĩnh vực NTBD

7. Nâng cao thị hiếu thẩm mỹ cho công chúng

184

Câu 7: Ông /bà vui lòng cho biết để công nghiệp văn hóa- nghệ thuật biểu diễn phát triển cần quan tâm các thành tố sau đây như thế nào (trong đó, 1 là ưu tiên nhất):

2. Khu vực tổ chức biểu diễn

1. Khu vực sáng tạo nghệ thuật (nghệ sỹ, diễn viên)

3.Khu vực quản trị nghệ thuật

Câu 8: Ông /bà vui lòng sắp xếp mức độ ưu tiên về định hướng giá trị để công nghiệp

văn hóa- nghệ thuật biểu diễn phát triển (trong đó, 1 là ưu tiên nhất):

 1. Tăng lợi nhuận  2. Thu hút khán giả 3. Giữ thương hiệu  4. Đề cao tính thẩm mỹ  5. Đề cao tài năng nghệ thuật  6. Chăm lo cho nghệ sĩ  7. Bảo tồn nghệ thuật dân tộc  8. Tăng sức cạnh tranh 

Câu 9: Ông/bà vui lòng đánh giá về chất lượng/ số lượng đội ngũ nguồn nhân lực

phục vụ cho công nghiệp nghệ thuật biểu diễn tại Tp. Hồ Chí Minh hiện nay:

Tốt

Khá

Trung bình

Yếu

Câu 10: Theo ông/bà, những điều kiện/yếu tố/nhân tố nào tác động đến sự phát triển

công nghiệp nghệ thuật biểu diễn ở Tp. Hồ Chí Minh hiện nay:

1. Điều kiện về tự nhiên, tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội của Thành phố 

2. Đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển công nghiệp văn hóa 

3. Xu thế toàn cầu hóa

4. Sự phát triển của khoa học – công nghệ

5. Tác động của kinh tế thị trường

6. Tất cả các nhân tố trên

185

Câu 11: Ông/bà vui lòng sắp xếp thứ tự đối với những vấn đề đặt ra sau đây của công nghiệp nghệ thuật biểu diễn Tp. HCM hiện nay (Trong đó, 1 là ưu tiên nhất):

1. Mâu thuẫn giữa nhu cầu hưởng thụ và khả năng đáp ứng

2. Mâu thuẫn giữa áp lực quốc tế và năng lực trong nước

3. Mâu thuẫn giữa trình độ quản lý và nhu cầu phát triển

4. Mâu thuẫn giữa nguồn nhân lực của CNVH

với tốc độ phát triển của khu vực và thế giới

Xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của ông/bà!

186

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC II

Mục đích khảo sát: Tìm hiểu việc ứng dụng công nghệ

Mã số: 01

trong hoạt động biểu diễn sân khấu ca nhạc tại Tp.HCM Hình thức khảo sát: Thống kê số liệu từ 05 đơn vị biểu

diễn sân khấu ca nhạc tại Tp.HCM

Khảo sát viên: ....................................................... Ngày khảo sát: ……………………………….

Địa điểm khảo sát: ……………………………………

Đề tài cần khảo sát: Công nghiệp văn hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay (Qua khảo

sát một số lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn)

Kết quả cần đạt được: Thống kê cần thể hiện rõ sự thay đổi về yếu tố kỹ thuật – công nghệ

trong hoạt động biểu diễn sân khấu ca nhạc tại Tp. HCM trong quá khứ và hiện tại

187

PHỤ LỤC 1.6: BIỂU THỐNG KÊ

Chúng tôi là nhóm nghiên cứu viên đến từ trường Học viện Chính trị khu vực II thực hiện đề tài

này với mục đích nghiên cứu. Chúng tôi rất mong được sự giúp đỡ của quý vị trong quá trình thực hiện công trình này. Chúng tôi cam kết những thông tin mà quý vị cung cấp được bảo mật

để phục vụ công tác nghiên cứu khoa học. Xin chân thành cảm ơn!

Loại kỹ thuật – công nghệ trước đây Loại kỹ thuật – công nghệ hiện tại

Hệ thống ánh sáng

- Hệ thống bàn điều khiển bằng tín hiệu

- Hệ thống điều khiển tín hiệu DMX 512

DMX

chanel

Kỹ thuật – công nghệ chiếu sáng

- Đèn Par 64 - Đèn profile - Đèn Fresnell

- Đèn Par led - Đèn Moving head

Hệ thống âm thanh

- Bàn điều khiển kỹ thuật số Yamaha 48

- Bàn điều khiển cơ (Allen & heat)

chanel

Tp. Hồ Chí Minh, ngày 20 tháng 12năm 2014 Cơ quan cung cấp số liệu xác nhận, đóng dấu

188

PHỤ LỤC 2

KẾT QUẢ XỬ LÝ SỐ LIỆU ĐỊNH LƯỢNG

1. Đặc trưng xã hội học của mẫu nghiên cứu định lượng

- Mẫu khán giả

+ Giới tính: 46.7% nữ, 53.3% nam.

+ Độ tuổi: từ 12 – 18: 5.9%; từ 19 – 25: 35.8%; từ 26 – 35: 36.4%; từ 36

– 45: 11.8%; từ 46 – 55: 8%; trên 55: 2.1%.

+ Dân tộc: 87.9% Kinh, 10.4% Hoa, 0.6% Chăm; 1.1 khác

+ Trình độ học vấn: 2.1% chưa bao giờ đi học; 4.2% cấp 2; 9.5% cấp 3;

31.2% TC, CĐ; 43.4% ĐH, 9.6% sau ĐH.

- Mẫu cán bộ

+ Giới tính: 60.2% nam, 39.8% nữ.

+ Độ tuổi: từ 18 – 25: 11.4%; từ 26 – 35: 35.4%; từ 36 – 45: 26.9%; từ

46 – 55: 16.5%; trên 55: 9.8%.

+ Dân tộc: 96.7% Kinh, 2.4% Hoa, Khơ me: 0.9%.

+ Trình độ học vấn: 1% cấp 1; 7% cấp 2; 30% cấp 3; 12% TC, CĐ; 42%

ĐH, 8% sau ĐH.

+ Thời gian làm việc: 6.5% dưới 1 năm; 11.7% năm thứ 2; 11.7% năm

thứ 3; 70.1% trên 3 năm.

2. Kết quả khảo sát định lượng

2.1. Đối tượng là khán giả

a.1. Đánh giá của khán giả sân khấu ca nhạc

Bảng 1: Mức độ xem biểu diễn ca nhạc tại sân khấu được khảo sát

Lần thứ 3

Trên 3 lần

39.7

34.3

Lần thứ 2 26.0

189

Bảng 2: Lý do thường xuyên đến xem biểu diễn ca nhạc tại sân khấu này

Sân khấu đẹp

Vị trí sân khấu gần nhà

Các chương trình có chất lượng nghệ thuật cao 36

41.3

Hệ thống âm thanh, ánh sáng chuẩn 44

Các dịch vụ đi kèm tốt 5.3

56

Bảng 3: Đánh giá về chất lượng ca sĩ

Phần lớn chất giọng và trình diễn khá

Phần lớn chất giọng vàtrình diễn yếu

Phần lớn chất giọng và trình diễn tốt

Phần lớn chất giọng và trình diễn trung bình

35.1

59.5

5.4

0

Bảng 4: Mức độ hài lòng của Ông /bà đối với chất lượng chương trình ca nhạc tại sân khấu

Rất hài lòng với phần lớn chương trình ca nhạc

Tương đối hài lòng với phần lớn chương trình ca nhạc

Không hài lòng với phần lớn chương trình ca nhạc

37.8

62.2

0

Bảng 5: Đánh giá về giá vé tại sân khấu

Rất cao

Tương đối cao

Phù hợp

Rẻ

1.3

4.0

57.3

37.3

Bảng 6: Ý kiến về chất lượng hệ thống cơ sở vật chất tại sân khấu

Tốt

kém

TB

Khá

Hệ thống âm thanh Hệ thống ánh sáng Ghế ngồi Nhà vệ sinh

59.5 60.3 18.9 1.4

00 00 00 16.2

5.4 5.5 14.9 47.3

35.1 34.2 66.2 35.1

Bảng 7: Ý kiến về chất lượng một số hoạt động của sân khấu

Hoạt động bán vé Hoạt động quảng cáo Công tác an ninh, trật tự Dịch vụ ẩm thực Dịch vụ giữ xe

Tốt 40.5 50 50.7 6.7 25.7

kém 1.3 00 00 3.3 00

TB 6.8 2.7 13.3 60 28.4

Khá 51.4 47.3 36 30 45.9

190

Bảng 8: thông tin về các chương trình ca nhạc ở sân khấu này qua các kênh truyền thông

Báo in

Báo điện tử

Truyền miệng

Website của sân khấu

Biển quảng cáo trước sân khấu

23.9

76

12

10.7

82.7

a.2. Đánh giá của khán giả sân khấu kịch

Bảng 1: Mức độ xem biểu diễn tại sân khấu

Lần thứ 2 30.1

Lần thứ 3 27.4

Trên 3 lần 42.5

Bảng 2: Lý do thường xuyên đến xem biểu diễn tại sân khấu này

Kịch hay

84

Sân khấu đẹp 24

Hệ thống âm thanh, ánh sáng chuẩn 25.3

Các dịch vụ đi kèm tốt 1.3

Vị trí sân khấu gần nhà 32

Bảng 3: Đánh giá về chất lượng diễn viên chính

Phần lớn diễn xuất tốt

Phần lớn diễn xuất khá

Phần lớn diễn xuất trung bình

Phần lớn diễn xuất yếu

71.2

28.8

00

00

Bảng 4: Đánh giá về chất lượng diễn viên phụ

Phần lớn diễn xuất tốt

Phần lớn diễn xuất khá

Phần lớn diễn xuất trung bình

Phần lớn diễn xuất yếu

54.7

39.1

6.2

0

Bảng 5: Mức độ hài lòng của ông /bà đối với chất lượng nội dung các vở diễn

Rất hài lòng với phần lớn vở kịch

Tương đối hài lòng với phần lớn vở kịch

Không hài lòng với phần lớn vở kịch

30.1

69.9

00

Bảng 6: Đánh giá về giá vé tại sân khấu

Rất cao

Tương đối cao

Phù hợp

Rẻ

54.9

43.7

1.4

00

191

Bảng 7: Ý kiến về chất lượng hệ thống cơ sở vật chất tại sân khấu

Tốt

TB

kém

Khá

Hệ thống âm thanh Hệ thống ánh sáng Ghế ngồi Nhà vệ sinh

42.5 44.6 15.2 8.2

12.3 12.0 35.1 38.4

00 00 00 00

45.2 43.2 52.7 53.4

Bảng 8: Ý kiến về chất lượng một số hoạt động của sân khấu

Tốt 27.4 34.8 28.2

TB 13.7 25.7 11.3

kém 1.4 2.9 00

Khá 57.5 34.8 60.6

Hoạt động bán vé Hoạt động quảng cáo Công tác an ninh, trật tự Dịch vụ ẩm thực Dịch vụ giữ xe

4.1 22.5

49 28.2

20.4 1.4

26.5 47.9

Bảng 9: thông tin về các vở diễn của sân khấu này qua các kênh truyền thông

Báo in

Báo điện tử

Truyền miệng

Website của sân khấu

Biển quảng cáo trước sân khấu

50.7

64

5.3

13.3

65.3

b. Đánh giá của cán bộ

b.1. Đánh giá của cán bộ quản lý nghề nghiệp (tại các đơn vị sân khấu)

Bảng 1: Đối với thuật ngữ CNVH ông/bà đã:

Đang tìm hiểu

Chưa bao giờ nghe 49.1

Đã nghe không hiểu 5.5

Đã nghe nhưng không quan tâm 40

Hiểu rỏ thuật ngữ này 0

5.4

Bảng 2: Công nghiệp biểu diễn bao gồm những thành tố:

Khu vực quản trị

Khu vực sáng tạo nghệ thuật

Khu vực tổ chức biểu diễn

Tất cả các thành tố trên

0

0

0

100

192

Bảng 3: Nguyên nhân cản trở sự phát triển của CNNTBD

Quan trọng 1 Quan trọng 2 Quan trọng 3

Quan trọng 4

Công tác quản lý nhà nước

96

0

4

0

0

100

0

0

Công tác quản trị doanh nghiệp

Thiếu hụt tài năng nghệ thuật

0

0

16.7

83.3

Công tác tổ chức biểu diễn

21.4

0

64.3

`4.3

Bảng 4: Chính sách nhà nước cần ưu tiên để tạo động lực phát triển CNNTBD

UT1 UT2 UT3 UT4 UT5 UT6 UT7 UT8 UT9 UT10

0

0

0

0

0

0

0

0

Chính sách thuế

CL PTCN NT biễu diễn 96.2 3.8 4

4

0

4

8

36

36

4

4

0

Ưu đãi vay vốn

0

0

33.3 12.5 12.5 37.5 0

4.2

0

0 CS ưu đãi thuê mặt bằng 0

4.2 33.3

0

0 12.5 8.3 41.7

0

0

CS ĐT tài năng QTNT

4.2 83.3 0

0

4.2

0

0

8.3

0

0

CS ĐT nghệ sĩ ST, BD

0

4.2 20.8 12.5 20.8 4.2 33.3

0

4.2

0

CS trọng dụng nhân tài

0

8.3 20.8 8.3 20.8 4.2 33.3 4.2

0

0

CS XHH hoạt động NT

0

25 16.7 29.2 8.3

0

4.2 8.3

8.3

0

CS đổi mới CNKT

0

0 29.2 12.5

0

16.7 0

4.2 37.5

0

CS thu hút đầu tư QT

0

4.2 4.2

0

4.2

0

0

0

0

87.5

Bảng 5: Giải pháp cần ưu tiên phát triển CN NTBD

UT 1 UT2 UT3 UT4 UT5 UT6 UT7

70.8

4.2

0

8.3

0

8.3

8.3

Thay đổi nhận thức, tư duy về CNNTBD

Hoàn thiện văn bản PL về VH, NT

0

0

54.5

4.5

22.7 18.2

0

Đầu tư xây dựng CSVC

8.7

43.5

8.7

13

13

13

0

Cải tiến chế độ chính sách

4.5

22.7

9.1

18.2

45.5

0

0

Đào tạo nguồn nhân lực

13.6

18.2

4.5

45.5

9.1

4.5

4.5

9.1

4.5

0

0

0

54.5

31.8

4.3

0

21.7

13

8.7

0

52.2

Đẩy mạnh xã hội hóa lĩnh vực NTBD Nâng cao thị hiếu thẩm mỹ của công chúng

193

Bảng 6: Mức độ quan tâm của đơn vị đối với các thành tố của CNNTBD

UT 1

UT2

UT3

Khu vực sáng tạo nghệ thuật

81.2

12.5

6.3

Khu vực tổ chức biểu diễn

40.9

45.5

13.6

Khu vực quản trị nghệ thuât

57.4

24.3

18.3

Bảng 7: Định hướng giá trị của đơn vị mình

UT 1 UT2 UT3 UT4 UT5 UT6 UT7 UT8

Tăng lợi nhuận

28.8

7.7

3.8

19.2

11.5

5.8

19.2

3.8

Thu hút khán giả

7.8

39.2

11.8

5.9

3.9

23.5

7.8

0

Giữ thương hiệu

6.4

10.6

38.3

8.5

6.4

17.8

0

0

Đề cao tính thẩm mỹ

4.2

6.2

20.8

37.5

25

6.3

0

0

Đề cao tài năng nghệ thuật

29.8

14.9

19.1

2.1

6.4

25.5

0

2.1

Chăm lo cho nghệ sỹ

10.2

20.4

44.9

8.2

8.2

4.1

4.1

0

Bảo tồn nghệ thuật dân tộc

31.4

11.8

7.8

17.6

16.6

7.8

0

2

Tăng sức cạnh tranh

0

0

4.3

8.5

6.4

80.9

0

0

Bảng 8: Mức độ tham gia biểu diễn của ông bà tại đơn vị mình

Rất thường xuyên

Thường xuyên

Thỉnh thoảng

63

29.6

7.4

Bảng 9 : Chất lượng các chương trình nghệ thuật

Cao

Trung binh

Thấp

Rất thấp

81.8

18.2

0

0

194

Bảng 10: Ý kiến về chất lượng hệ thống cơ sở vật chất tại sân khấu

Tốt

TB

kém

Khá

Hệ thống âm thanh

59.3

9.3

1.9

29.6

Hệ thống ánh sáng

55.6

14.8

1.8

27.8

Sân khấu

61.1

13

0

25.9

Ghế ngồi

49.1

32.1

0

18.9

Nhà vệ sinh

46.2

32.7

1.9

19.2

Bảng 11: Hình thức truyền thông/Quảng cáo/marketing

Website

Biển quảng cáo

Báo in

Báo điện tử

Truyền miệng

khác

85.7

85.7

50

66.1

69.6

12.5

Bảng 12: Đánh giá mức độ hiệu quả của các công cụ truyền thông

(Mức độ hiệu quả được sắp xếp theo thứ tự từ 1 đến 5, trong đó 1 là hiệu quả nhất)

Hiệu quả 1

Hiệu quả 2

Hiệu quả 3 Hiệu quả 4 Hiệu quả 5 8.2

8.2

Website

36.7

32.7

14.3

Biển quảng

57.1

28.6

2.4

4.8

7.1

cáo

Báo in

28.9

10.5

7.9

10.5

Báo điện tử

0

2,9

54.3

25.7

42.1 17.1

Truyền

5.1

20.5

30.8

41

2.6

miệng

b.2. Đánh giá của cán bộ quản lý nhà nước (Sở VH, TT & DL Tp. HCM)

Bảng 1: Đối với thuật ngữ CNNTBD, ông/bà đã

Đang tìm hiểu

Chưa bao giờ nghe

Đã nghe không hiểu

Đã nghe nhưng không quan tâm

Hiểu rõ thuật ngữ này

10.4

16.7

22.9

14.6

35.4

195

Bảng 2: CNNTBD bao gồm những thành tố

Khu vực quản trị

Khu vực sáng tạo nghệ thuật

Khu vực tổ chức biểu diễn

Tất cả các thành tố trên

3.4

1.7

3.4

91.3

Bảng 3: Mức độ quan trọng của các nguyên nhân cản trở sự phát triển của CNNTBD

Quan trọng

Quan trọng

Quan trọng

Quan trọng

1

2

3

4

Công tác quản lý nhà nước

69

3.4

10.3

17.2

Công

tác quản

trị doanh

13.8

41.4

27.6

17.2

nghiệp

Thiếu hụt tài năng nghệ thuật

12.9

19.4

25.8

41.9

Công tác tổ chức biểu diễn

10.3

37.9

37.9

13.8

Bảng 4: Các chính sách của Nhà nước cần ưu tiên để phát triển CNNTBD

UT 1

UT 2

UT 3

UT 4

UT 5

UT 6

UT 7

UT 8

UT 10

UT 9

3

6.1 15.2 15.2

0

0

0

3

0

CL PTCN NT biễu diễn 57.6

0

23.3 3.3

0

0

6.7

20

6.7

23.3

Chính sách thuế

16. 7

3.3

10

16.7

0

6.7

0

3.3

20

6.7

Ưu đãi vay vốn

23. 3

3.3

0

6.7 16.7 6.7

6.7

6.7 16.7

13.3

23. 3

CS ưu đãi thuê mặt bằng

8.8 20.6 23.5 17.6 17.6 2.9

2.9 2.9

0 0

0 0

5.9 CS ĐT tài năng QTNT CS ĐT nghệ sĩ ST, BD 23.5 17.6 5.9 11.8 11.8 23.5 2.9

6.1 18.2 27.3 9.1

9.1

6.1 21.2

0

0

3

CS trọng dụng nhân tài

3

3

3

18.2 21.2 12.1 6.1 27.3

3

3

CS XHH hoạt động NT

3.1

9.4

9.4

0

6.2

25

15.6 6.2

9.4

CS đổi mới CNKT

15. 6

CS thu hút đầu tư QT

3.3

0

13.3 3.3

3.3 13.3 13.3 13.3 10

26.7

196

Bảng 5: Giải pháp ưu tiên phát triển CNNTBD

UT 1 UT2 UT3 UT4 UT5 UT6 UT7

34.5

10.3

10.3

3.4

13.8 10.3

17.2

Thay đổi nhận thức, tư duy về CNNTBD

Hoàn thiện văn bản PL về VH, NT

23.3

13.3

13.3

10

10

23.3

6.7

Đầu tư xây dựng CSVC

9.7

29

19.4

9.7

19.4

6.5

6.5

Cải tiến chế độ chính sách

9.7

12.9

16.1 22.6

9.7

12.9

16.1

Đào tạo nguồn nhân lực

12.9

12.9

29

22.6

9.7

9.7

3.2

6.7

16.7

3.3

16.7 16.7

20

20

16.1

6.5

12.9 16.1 19.4

9.7

19.4

Đẩy mạnh xã hội hóa lĩnh vực NTBD Nâng cao thị hiếu thẩm mỹ của công chúng

Bảng 6: CNNTBD cần quan tâm đến các thành tố

UT 1

UT2

UT3

Khu vực sáng tạo nghệ thuật

66.7

23.8

9.5

Khu vực tổ chức biểu diễn

30.4

34.8

34.8

Khu vực quản trị nghệ thuât

30

30

40

Bảng 7: Định hướng giá trị để CNNTBD phát triển

UT 1 UT2 UT3 UT4 UT5 UT6 UT7 UT8

Tăng lợi nhuận

22.2

8.3

11.1

5.6

13.9 16.7

5.6

16.7

Thu hút khán giả

22.5

15

17.5

17.5

15

7.5

5

0

Giữ thương hiệu

5.9

8.8

11.8

17.6

2.9

17.6 17.6 17.6

Đề cao tính thẩm mỹ

12.8

25.6

17.9

10.3 10.3

2.6

10.3 10.3

Đề cao tài năng nghệ thuật

15

20

32.5

17.5

10

2.5

0

2.5

Chăm lo cho nghệ sỹ

21.6

5.4

8.1

13.5 24.3

8.1

10.8

8.1

Bảo tồn nghệ thuật dân tộc

18.9

13.5

2.7

13.5 13.5 16.2 78.4 94.6

Tăng sức cạnh tranh

81

5.4

2.7

5.4

13.5 21.6 18.9 24.3

197

Bảng 8: Đánh giá chất lượng nguồn nhân lực – đội ngũ nhân sự phục vụ cho sự phát

triển của CNNTBD thành phố

Tốt

Khá

Trung bình

Yếu

2.4

26.8

56.1

14.6

Bảng 9: Những nhân tố tác động đến sự phát triển của CNNTBD

ĐKTN, KT, VH. XH

Sự PT KHCN

Tác động của KT TT

Tất cả nhân tố trên

Đường lối, chủ trương của Đảng

Xu thế toàn cầu hóa

7.0

8.6

8.9

6.9

13.8

54.8

Bảng 10: Các vấn đề đặt ra hiện nay đối với sự phát triển của CNNTBD

VĐ 1 VĐ2 VĐ3 VĐ4

>< giữa nhu cầu hưởng thụ và khả năng đáp ứng

54.3

17.1 17.1 11.4

>< giữa áp lực quốc tế và năng lực trong nước

3.3

30

43.3 23.3

>< giữa trình độ quản lý và nhu cầu phát triển

43.8

40.6 15.6

0

>< giữa nguồn nhân lực của CNVH với tốc độ phát triển

20.7

10.3 17.2 51.8

của KV và TG

198

PHỤ LỤC 3

CÂU HỎI VÀ NỘI DUNG PHỎNG VẤN SÂU

1. Một số chú ý

- Nội dung cuộc phỏng vấn đã được tĩnh lược và biên tập cho phù hợp với đề

tài nghiên cứu và thể loại văn phong khoa học. Việc này được thực hiện trên cơ sở

sự đồng thuận và giám sát của các cá nhân tham gia phỏng vấn.

- Những nội dung được trích dẫn đảm bảo tính nguyên gốc của thông tin mà

phỏng vấn viên thu thập được.

- Thứ tự các câu hỏi trong bảng này không trùng khớp với số thứ tự câu hỏi

trên phỏng vấn thực địa.

2. Thông tin chung về các cuộc phỏng vấn

- Thời gian phỏng vấn: Từ tháng 10-12/2014

- Phỏng vấn viên: Nguyễn Thị Kim Liên, Nguyễn Hồ Phong (Giảng viên

trường Đại học Văn hoá Tp. Hồ Chí Minh)

- Địa điểm phỏng vấn: Tại cơ quan của các cá nhân tham gia trả lời phỏng vấn

- Lý lịch trích ngang của các cá nhân tham gia trả lời phỏng vấn

Chức vụ/ Đơn vị công tác

Stt 1 2 3

Họ và tên Huỳnh Anh Tuấn Ngô Đặng Hồng Vân Trương Tấn Đức

Năm sinh 1962 1966 1976

GĐ Sân khấu Idecaf GĐ Sân khấu kịch Hồng Vân Công ty du lịch Sài Gòn Tourist

3.Trích nội dung trả lời phỏng vấn

Phỏng vấn số 01: Ông Huỳnh Anh Tuấn – Giám đốc Sân khấu Idecaf

Câu 1: Thưa ông, ông nghĩ gì về khái niệm công nghiệp văn hoá? ở Tp. Hồ

Chí Minh hiện nay, lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn đã phát triển theo hướng công

nghiệp như thế nào?

Trả lời: Đây là một khái niệm chính xác. Ở nhiều nước trên thế giới, vui

chơi, giải trí đã trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, khái niệm CNVH cần thiết cho

Việt Nam lâu lắm rồi, nhưng hiện nay Luật biểu diễn ở Việt Nam vẫn chưa có để

cho ngành biểu diễn yên tâm phát triển. Ở những đơn vị tư nhân, dù vô tình hay cố

ý thì cũng phải quan tâm đến yếu tố công nghiệp. Tôi là người “ngoại đạo”, có cái

199

đầu “nóng” và “lạnh”, có nghĩa là vừa tỉnh táo trong thị trường, vừa đam mê trong

nghệ thuật. Đây là nghề “sản xuất cảm xúc”, tạo ra những sản phẩm nghệ thuật

mang lại cảm xúc cho khán giả nhưng đồng thời cũng phải tìm cách kéo khán giả

đến với mình thì mới có được doanh thu. Ở một số đơn vị khác, những người làm

quản lý chủ yếu chính là những văn, nghệ sĩ nên thiếu sự tính toán kinh doanh, làm

theo kiểu “nghệ sĩ”, chủ yếu là kinh nghiệm, nghề dạy nghề.

Câu 2: Theo ông, vì sao thời gian gần đây sân khấu kịch Tp. Hồ Chí Minh

chủ yếu khai thác phát triển hài kịch?

Trả lời:... Tp. Hồ Chí Minh là một thành phố công nghiệp rất năng động,

luôn hối hả và có phần căng thẳng. Vì vậy, nhu cầu“được cười” của công chúng rất

cao. Sau những ngày làm việc căng thẳng, họ không muốn gì hơn là những tiếng cười

sảng khoái để chuẩn bị cho một ngày làm việc mới. Vì lẽ đó, hiện nay, nhiều sân

khấu đầu tư phát triển hài kịch để thu hút khán giả.

Câu 3: Theo ông, liệu còn lý do nào khác khiến hài kịch đang phát triển rất

mạnh không?

Trả lời: …Vì dựng một vở hài kịch đơn giản hơn rất nhiều so với chính

kịch, nhất là khâu kịch bản, đầu tư cho hài kịch đỡ tốn kém hơn nhưng đời sống của

vở lâu hơn, lợi nhuận thu được lớn hơn. Vì vậy, các đơn vị đang chạy đua dựng hài

kịch để thu lợi nhuận.

Câu 4: Theo ông, khả năng mở rộng, phát triển thị trường quốc tế của lĩnh

vực nghệ thuật biểu diễn Tp. Hồ Chí Minh hiện nay như thế nào?

Trả lời: … Khán giả kiều bào thích xem những thể loại tấu hài, cải lương

nhẹ nhàng và những vở kịch mang nội dung tình tự quê hương. Tuy nhiên, những

thị hiếu đó không phải các ông bầu hải ngoại không nắm bắt được. Vì thế, nếu đưa

kịch Việt Nam ra nước ngoài phục vụ kiều bào sẽ vấp phải việc cạnh tranh mạnh

của các sân khấu hải ngoại.

Câu 5: Với Nhà hát múa rối nước Rồng Vàng, ông đã bằng cách nào để có

thể phát triển được như hôm nay?

Trả lời: Hiện nay, chúng tôi đã liên kết ít nhất 05 công ty du lịch trong

thành phố để đưa khách đến nhà hát của chúng tôi. Trong đó, đối tác lớn nhất của

200

chúng tôi là công ty du lịch Sài Gòn Tourist. Nhờ có sự kết hợp này mà Nhà hát chúng

tôi đã vượt qua được những giai đoạn khó khăn nhất. Đến hôm nay thì chúng tôi hoàn

toàn tin tưởng rằng, Nhà hát chúng tôi sẽ tiếp tục tồn tại và sẽ phát triển hơn nữa trong

tương lai.

Câu 6: Ông vui lòng cho biết suy nghĩ của mình về vấn đề bản quyền trong

sân khấu Kịch Thành phố hiện nay?

Trả lời:.. Ở nước ngoài, đạo diễn viết kịch bản xong thì đến Cục Sở hữu trí

tuệ để đăng ký bản quyền nhưng ở Việt Nam thì ít khi đăng ký. Chỉ khi nào ai sử

dụng mới trả tiền, có khi là độc quyền, có khi là đồng sở hữu, nhưng phải được

đồng ý của tác giả. Có thể hợp đồng sở hữu trong khoảng vài năm hoặc lâu hơn.

Phỏng vấn số 02: NSND Hồng Vân - GĐ Sân khấu kịch Hồng Vân

Câu 1: Theo chị, hiện nay doanh nghiệp mình có phải chịu sức ép nào của

khán giả trong quá trình sáng tạo nghệ thuật không?

Trả lời: … Khán giả ngày nay khác xưa rất nhiều. Họ có nhiều sự lựa chọn

hơn cho nhu cầu giải trí của mình. Chỉ tính riêng kịch nói, thành phố này đã có hàng

chục điểm diễn, nếu tính chung các loại hình giải trí khác thì nhiều vô số kể. Tất cả

những đơn vị đó đều có những biện pháp khác nhau nhằm thu hút khách hàng. Vì

vậy, nếu mình làm dịch vụ không tốt, giá cả không hợp lý thì dù kịch có hay đến

mấy công chúng cũng sẽ không đến với mình. Vì vậy, chúng tôi phải luôn suy nghĩ

tìm ra giải pháp tốt nhất để đảm bảo lợi ích của khách hàng, thoả mãn yêu cầu của

họ, từ đó giữ chân được khán giả trung thành, chinh phục được những phân khúc

khán giả mới, nhưng đồng thời cũng phải đảm bảo lợi ích kinh tế của chúng tôi…

Câu 2: Chị có thể nói rõ hơn khó khăn về cơ sở vật chất hiện nay của đơn vị mình?

Trả lời: ... Tiền để đầu tư hệ thống cơ sở vật chất hiện đại và hoàn chỉnh thì

chúng tôi có thể huy động được. Nhưng hiện nay, ngoài sân khấu Superbowl là tạm

yên tâm vì người ta cho thuê dài hạn, hai điểm diễn còn lại đều chỉ ký hợp đồng 2

năm một lần. Trong khi đó, tại sân khấu Phú Nhuận, chúng tôi có thể phải huỷ suất

diễn bất cứ khi nào nếu chính quyền cần hội trường. Thực trạng như vậy thì làm sao

chúng tôi có thể yên tâm để đầu tư cho chu đáo…

201

Câu 3: Với cương vị là người quản lý sân khấu kịch Hồng Vân, chị nghĩ sao

khi có ý kiến cho rằng các vở diễn của sân khấu Hồng Vân chủ yếu là kịch thị

trường, ít có vở diễn đạt đỉnh cao về nghệ thuật?

Trả lời: ... Công bằng mà nhìn nhận, thị trường kịch nói thành phố hiện

nay tồn tại quá nhiều hạn chế, khó khăn, yếu kém. Trong đó, việc phổ biến các tác

phẩm nghệ thuật mang tính giải trí tầm thường mà thiếu vắng những tác phẩm đạt

đỉnh cao về giá trị nghệ thuật, sâu sắc về giá trị nội dung là thực trạng đáng quan

tâm nhất. Nhưng đó là nhu cầu thị trường. Đối với sân khấu kịch Hồng Vân, trước

mắt, nhu cầu này tạm thời giúp chúng tôi vượt qua những khó khăn hiện tại, nhưng

về lâu dài, rõ ràng chúng sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của chúng tôi…

Nói thật, người làm nghệ thuật như chúng tôi, ai cũng muốn tạo ra những tác phẩm

có giá trị nghệ thuật cao. Tuy nhiên, vấn đề còn ở chỗ tài chính và nhu cầu của khán

giả. Bây giờ, chúng tôi hoạt động theo cơ chế thị trường nên không thể làm ngơ

trước thị hiếu của họ, bởi đó là nguồn sống của chúng tôi. Hiện nay có một thực tế

là vở diễn đạt giá trị nghệ thuật cao thì dường như không phù hợp với gu giải trí của

khán giả. Ngược lại, một vở diễn chỉ có tiếng cười thì lại được khán giả quan tâm

ủng hộ. Điều đó cho thấy một bộ phận lớn cư dân thành phố cần những tiếng cười

sảng khoái hơn là những suy nghĩ sâu xa, nặng về tư duy trừu tượng ... Tôi nghĩ xu

hướng này thể hiện nhu cầu của công chúng, cái nhu cầu có thực của người thưởng

thức, bởi vì mình nghĩ cuộc sống nó dồn dập mọi thứ đều áp lực, họ muốn giải toả,

giải trí là một chuyện còn giải toả nữa... Tôi rất muốn khai thác kịch văn học và

kịch tâm lý, nhưng khán giả có nhu cầu xem kịch kinh dị cao hơn hẳn các thể loại

còn lại. Để duy trì hoạt động sân khấu, chúng tôi buộc phải tập trung vào thế mạnh

này để có thể duy trì các thể loại hình kia... Bây giờ vẫn là kịch giải trí chiếm ưu

thế, kịch giải trí nuôi được tất cả những loại hình khác luôn...

Câu 4: Với tư cách là giám đốc, chị có thể cho ý kiến về năng lực quản lý

của Ban giám đốc sân khấu mình hiện nay như thế nào?

Trả lời: ... Mặc dù sân khấu chúng tôi là một doanh nghiệp kinh tế tư nhân,

nhưng bản thân tôi và anh Minh (tức nghệ sỹ Minh Nhí) chưa hề học qua một lớp

đào tạo chính quy về công tác quản lý, điều hành doanh nghiệp, ngoại trừ một vài

202

đợt tập huấn ngắn hạn mà Sở VH, TT & DL Thành phố tổ chức. Chúng tôi điều

hành đơn vị của mình hoàn toàn bằng đam mê và kinh nghiệm có được trong nhiều

năm đi diễn, rồi học từ bạn bè, đồng nghiệp. Sai đâu sửa đó.... Thật ra, cả tôi và anh

Minh (tức nghệ sỹ Minh Nhí) đều biết điểm yếu của chúng tôi cả. Và tất nhiên,

chúng tôi cũng muốn bổ túc những gì mình còn thiếu về lý thuyết. Chứ bấy lâu nay,

làm thì làm vậy thôi, chứ chúng tôi nào có hiểu đầy đủ bản chất của nền kinh tế thị

trường, ngay cả những từ ngữ như cạnh tranh, thị trường...chúng tôi cũng chỉ hiểu

theo cách nghệ sỹ... Làm quản lý mà không hiểu thấu đáo mấy vấn đề này thì tất

nhiên là khó khăn rồi. Nhưng nói thật, “lực bất tòng tâm”, một ngày chúng tôi làm

việc suốt từ sáng đến khuya, công việc thì ngổn ngang, trăm bề thì lấy đâu ra thời

gian để đi học. Đó là trăn trở thường trực trong lòng chúng tôi...

Câu 5: Mục tiêu nào khiến chị nhiều lần đưa đoàn đi lưu diễn?

Trả lời: Mục tiêu ban đầu của chuyến lưu diễn là chỉ để các diễn viên trẻ của

đoàn có cơ hội khẳng định tài năng của mình trong một môi trường mới chứ chưa

dám tính chuyện lợi nhuận.

Phỏng vấn số 03: Anh Trương Tấn Đức – hướng dẫn viên Công ty du lịch

Sài Gòn Tourist.

Câu 01: Theo anh, Công ty du lịch Sài Gòn Tourist đã làm gì để đa dạng

hoá sản phẩm phục vụ du khách?

Trả lời: Để đa dạng sản phẩm phục vụ du khách, nhất là khách nước ngoài,

chúng tôi đã hợp tác với Nhà hát Múa rối nước Rồng Vàng để đưa khách đến đây

giải trí. Tôi nghĩ, hướng hợp tác này là cần thiết, tuy nhiên, tại thành phố hiện nay

chưa có nhiều đơn vị nghệ thuật đủ điều kiện để chúng tôi hợp tác.

Câu 02: Vậy, theo anh, thái độ của du khách khi đến xem biểu diễn ở đây

như thế nào?

Trả lời: Tôi đã rất nhiều lần đưa khách đến đây, lần nào tôi cũng thấy khách

rất thích thú với các vở diễn, nhất là khách đến từ Nhật, Ý, Đức. Xem xong, họ đứng

vỗ tay rất lâu, có người còn đòi chụp hình chung với nghệ sỹ biểu diễn cho bằng

được. Lúc ra về, họ thường hỏi chúng tôi là “Các bạn còn loại hình nghệ thuật nào

thú vị như thế này nữa không?.

203

PHỤ LỤC 4

DANH SÁCH CÁC ĐƠN VỊ HOẠT ĐỘNG TRONG LĨNH VỰC VĂN HÓA

NGHỆ THUẬT – GIẢI TRÍ TẠI TP. HỒ CHÍ MINH

Stt Tên sân khấu

Địa chỉ

Các sân khấu kịch

1. SK. Kịch Idecaf

28 Lê Thánh Tôn, Quận 1

2. SK. Kịch Quận 1

7 Trần Cao Vân, Quận 1

3. SK. Kịch Sài Gòn

130 Cao Thắng, Quận 3

4. Nhà hát kịch Tp. HCM

30 Trần Hưng Đạo, Quận 1

5. Nhà hát kịch Sân khấu Nhỏ

5B Võ Văn Tần, Quận 3

6. SK. Kịch Nụ Cười Mới

643 Đi n Biên h , Quận 3

7. SK. Kịch Thế Giới Trẻ

125 Cống Quỳnh, Quận 1

8. SK. Kịch Lê Hay

142 Đinh Tiên Hoàng, Quận 1

9. SK. Kịch Hoàng Thái Thanh

139 Bắc H i, Quận 10

Các nhà hát, sân khấu ca nhạc

10. Nhà hát c i lương Trần Hữu Trang 515 – 517 Trần Hưng Đạo, Quận

Nhà hát Ngh thuật hát Bội Tp. Hồ

234 Lý Tự Trọng, Quận 1

11.

Chí Minh

Nhà hát Giao hưởng & Vũ kịch Tp.

12.

212 Nguyễn Trãi, Quận 1

Hồ Chí Minh

Nhà hát Ca múa nhạc dân tộc Bông

13.

108 Hai Bà Trưng, Quận 1

Sen

14. Nhà hát Thành phố

7 Công Trường Lam Sơn, Quận 1

15. Nhà hát Hòa Bình

240 Đường 3/2, Quận 10

16. Sân khấu ca nhạc Lan Anh

291 Cách Mạng Tháng 8, Quận 10

17. Sân khấu ca nhạc Trống Đồng

12B Cách Mạng Tháng Tám, Quận 1

18. Sân khấu Cầu Vòng 126

126 Cách Mạng Tháng Tám, Quận 3

204

Các phòng trà

19. hòng trà Điểm hẹn Sài Gòn

230 Đường 3/2, Quận 10

20. hòng trà Không Tên

112 Lê Thánh Tôn, Quận 1

21. hòng trà We

8 Lê Quý Đôn, Quận 3

22. hòng trà MTV

Lầu 1, 65 Võ Văn Tần, Quận 3

23. hòng trà Tiếng Xưa (Văn ngh )

442 Cao Thắng, Quận 10

24. hòng trà ATB

197/4 Nguyễn Văn Trỗi, Quận hú Nhuận

25. hòng trà M&Tôi

176 Đi n Biên h , Quận 3

26. hòng trà Ân Nam

52 Trương Định, Quận 3

27. hòng trà Đồng Dao

164 Pasteur, Quận 3

28. hòng trà Tình Ca

1A Phổ Quang, Quận Tân Bình

29. hòng trà Cest Môi – Làn Sóng Nhỏ

126 han Đăng Lưu, Quận hú Nhuận

30. hòng trà K&K

11 Nguyễn Văn Trỗi, Quận hú Nhuận

hòng trà ca nhạc M&Tôi – Nốt

31.

176 Đi n Biên h , Quận 3

trầm giữa Sài Gòn

Rạp chiếu phim

Tầng 7 - Hùng Vương laza, 126 Hùng

32. Megastar Cineplex Hùng Vương

Vương, Quận 5

33. Galaxy Cinema

116 Nguyễn Du, Quận 1

34. Thăng Long

19 Cao Thắng , Quận 3

35. Galaxy Nguyễn Trãi

230 Nguyễn Trãi, Quận 1

Tầng 13 Diamond Plaza, 34 Lê Duẩn,

36. Lotte Cinema Diamond

Quận 1

37. Toàn Thắng

102 Châu văn Liêm, Quận 3

38. Đống Đa

890 Trần Hưng Đạo, Quận 5

39. Vinh Quang

59 Pesteur, Quận 1

40. Văn Hoa

62 Trần Quang Kh i, Quận 1

41. Quốc Thái

157 – Đường 3/2, Quận 3

205

369 Lê văn Sĩ, Quận 3

42. Minh Châu

207 Đinh Tiên Hoàng, Quận 1

43. Cầu Bông

63-65 Châu văn Liêm, Quận 5

44. Đại Quang

186 Nguyễn văn Trỗi, Quận Tân Bình

45. Tân Sơn Nhất

22 Vĩnh Viễn, Quận 10

46. Vườn Lài

6 Thái văn Lung, Quận 1

47. Fafim VN

212 Lý Chiến Thắng, Quận 1

48. Cinema Box

Tầng 10, arkson laza, 60A, Trường

49. Megastar Parkson

Sơn, Quận Tân Bình

Tầng 5 tòa nhà Saigon aragon, 3 Nguyễn

50. Megastar Cineplex Saigon Paragon

Lương Bằng, Quận 7

Tầng 3, Lotte Mart 469 Nguyễn Hữu

51. Lotte Cinema Nam Sài Gòn

Quận 7

52. Lotte Cinema An Khánh

Xa Lộ Hà NôI, Quận 2

Lầu 4 siêu thị Maximart - Đường 3/2,

53. BHD Star cineplex

Quận 10

206

PHỤ LỤC 5 MỘT SỐ HÌNH ẢNH MINH HỌA

A. Các điểm diễn và cơ sở vật chất của sân khấu kịch Hồng Vân

Hình 1: Background sân khấu kịch Hồng Vân Nguồn: kichhongvan.vn

Hình 2: Sân khấu Phú Nhuận Nguồn: Nguyễn Hồ Phong

207

Hình 3: Sân khấu Superbowl Nguồn: kichhongvan.vn

Hình 4: Nội thất sân khấu Superbowl Nguồn: kichhongvan.vn

208

B. Một số hình thức truyền thông marketing của sân khấu Hồng Vân

và sân khấu Idecaf

Hình 5: Giao diện website của sân khấu Hồng Vân Nguồn: kichhongvan.vn

Hình 6: Vở Nước mắt người điên – Kịch kinh dị Nguồn: kichhongvan.vn

209

Hình 7: Vở Số đỏ – Kịch văn học Nguồn: kichhongvan.vn

Hình 8: Vở Làm… – Kịch văn học Nguồn: kichhongvan.vn

210

Hình 9: Vở Thay rể – Hài kịch Nguồn: kichhongvan.vn

Hình 10: Cảnh trong vở Hợp đồng mãnh thú diễn tại Mỹ Nguồn: Sân khấu kịch IDECAF

211

Hình 11: Đông kín khán giả kiều bào xem vở Hợp đồng mãnh thú tại San Jose – miền Bắc California - Mỹ Nguồn: Sân khấu kịch IDECAF

Hình 12: Một hình thức quảng cáo chương trình nghệ thuật “Chiều hạ vàng” Nguồn: saigongiaitri.net

212

C. Một số chương trình ca-múa-nhạc tại các sân khấu Tp. Hồ Chí Minh

Hình 13: Hồ Ngọc Hà hát trong đêm nhạc Giấc mơ mùa thu tại Sân khấu Trống đồng Nguồn: www.vietgiaitri.com

Hình 14: Ca sĩ Mỹ Tâm hát tại sân khấu Lan Anh Nguồn: giaitriviet.net

213

Hình 15: Ti t m c ca múa nhạc v kịch với trích đoạn đám cưới công chúa Hu ền Trân Nguồn: saigongiaitri.net

Hình 16: Khách đang xem múa rối ở Nhà hát Múa rối nước Rồng Vàng TPHCM Nguồn: www.sggp.org.vn