Công tác xã hội với trẻ em lang thang trên địa bàn Hà Nội hiện nay
lượt xem 6
download
Công tác xã hội là một ngành khoa học, một nghề mới ở Việt Nam mặc dù có nguồn gốc và lịch sử phát triển hơn một thế kỷ qua trên thế giới. Với bản chất hướng tới sự trợ giúp con người trong cuộc sống, nhất là những nhóm đối tượng dễ bị tổn thương bằng các mô hình can thiệp từ cá nhân, đến nhóm và cộng đồng, công tác xã hội thể hiện được vai trò quan trọng trong đời sống xã hội nhất là trong xã hội hiện đại, xã hội công nghiệp.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Công tác xã hội với trẻ em lang thang trên địa bàn Hà Nội hiện nay
- JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE Social Sci. Science., 2010, Vol. 55, No. 7, pp. 72-81 CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI TRẺ EM LANG THANG TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI HIỆN NAY Nguyễn Thanh Bình Đại học Sư phạm Hà Nội 1. Đặt vấn đề Công tác xã hội là một ngành khoa học, một nghề mới ở Việt Nam mặc dù có nguồn gốc và lịch sử phát triển hơn một thế kỷ qua trên thế giới. Với bản chất hướng tới sự trợ giúp con người trong cuộc sống, nhất là những nhóm đối tượng dễ bị tổn thương bằng các mô hình can thiệp từ cá nhân, đến nhóm và cộng đồng, công tác xã hội thể hiện được vai trò quan trọng trong đời sống xã hội nhất là trong xã hội hiện đại, xã hội công nghiệp. Trẻ em lang thang là một trong số những nhóm đối tượng dễ bị tổn thương cần sự trợ giúp của công tác xã hội. Nhóm đối tượng này không được sự che chở, quan tâm, chăm sóc của gia đình, họ hàng và người thân; chúng phải tự túc cuộc sống cho chính bản thân mình. Cuộc đời của chúng sẽ đi đến đâu, có những vấn đề khó khăn gì mà chúng đang phải đối mặt; xã hội cần làm gì để giải quyết những vấn đề cho trẻ em lang thang? Để có được câu trả lời xác đáng cho những vấn đề nêu trên, chúng tôi đã tiến hành điều tra, khảo sát thực tế trẻ em lang thang trên địa bàn Hà Nội năm 2009; từ đó đề xuất các giải pháp hỗ trợ trẻ em lang thang từ góc độ của công tác xã hội. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Cơ cấu xã hội của nhóm trẻ em lang thang trên địa bàn Hà Nội 2.1.1. Giới tính Trong tổng số 126 trẻ em lang thang trên địa bàn Hà Nội được chúng tôi điều tra, có 78 trẻ em nam và 48 trẻ em nữ. 2.1.2. Độ tuổi Đa số trẻ em lang thang được chúng tôi khảo sát có độ tuổi từ 10 đến 16 (64,3%). Độ tuổi này có số lượng đông nhất, bởi lẽ nếu nhỏ hơn 10 tuổi trẻ em khó 72
- Công tác xã hội với trẻ em lang thang trên địa bàn Hà Nội hiện nay có thể tồn tại một cách độc lập mà thông thường phải sống phụ thuộc; còn ở độ tuổi trên 16, họ có thể tự lập và tạo dựng được cuộc sống cho bản thân nên tỷ lệ những người ở nhóm tuổi này sống lang thang trên địa bàn Hà Nội là thấp hơn so với nhóm tuổi 10-16. Cụ thể, trong cuộc điều tra của chúng tôi, có 27% trẻ em dưới 10 tuổi sống lang thang trên đường phố và 8,7% có độ tuổi trên 16. 2.1.3. Học vấn Trình độ học vấn của trẻ em lang thang trên địa bàn Hà Nội là thấp. Phần lớn trẻ em lang thang bị mù chữ hoặc có trình độ từ lớp một đến lớp năm. Một số trẻ em do lưu ban, học kém cũng bỏ nhà gia nhập vào nhóm trẻ em lang thang này. Vì phải bỏ nhà đi lang thang, không có người nuôi dưỡng, phải bươn chải cuộc sống nên các em không có điều kiện học hành. Môi trường sống cũng như sự thất học của trẻ em lang thang là những thiệt thòi lớn đối với sự phát triển nhân cách của các em. Do thiếu tình thương, thiếu sự giáo dục của cha mẹ, lại không được học hành nên số trẻ em này rất dễ lệch lạc về nhân cách, hành vi và lối sống. Do vậy, nhóm trẻ em lang thang đường phố có nguy cơ phạm pháp rất cao. Theo thống kê của Tổng cục cảnh sát nhân dân, hàng năm thanh thiếu niên phạm tội chiếm từ 70% đến 75% tổng số vụ phạm tội xảy ra trong toàn quốc, thậm chí trong những năm gần đây tỷ lệ này lên tới 80 - 84% tổng số các vụ phạm tội. Qua kết quả điều tra về trình độ học vấn của trẻ em lang thang trên địa bàn Hà Nội, chúng tôi thu được kết quả như sau: Bảng 1. Trình độ học vấn của trẻ em lang thang Hà Nội (%) STT Trình độ học vấn Tỉ lệ 1 Không biết chữ 32,5 2 Hiện đang đi học 7,1 3 Hiện đã bỏ học 60,3 Kết quả điều tra trên cho thấy, tỷ lệ trẻ em lang thang bỏ học chiếm tỷ lệ cao nhất (60,3%). Điều này hoàn toàn hợp lý bởi lẽ các em phải sống lang thang, cuộc sống không ổn định, nay đây mai đó nên không có điều kiện tham gia học tập thường xuyên, vì thế hầu hết các em phải bỏ học giữa chừng. Thêm vào đó, cuộc sống của các em chưa thật đầy đủ, hàng ngày vẫn phải dành thời gian lao động để lo cho cuộc sống nên không thể có đủ điều kiện cả về vật chất và thời gian cho việc học tập. Nhằm khắc phục vấn đề này, hiện nay ở Hà Nội đã xây dựng một số mô hình thí điểm như tổ chức các lớp dạy chữ cho trẻ em lang thang do các sinh viên tình nguyện giảng dạy, một số mái ấm tình thương cho phép trẻ em lang thang vào học. Tuy nhiên, các lớp học này thường hay tổ chức vào buổi tối và không thường xuyên, liên tục nên trẻ em lang thang không tham gia đầy đủ. Sau một ngày lao động, làm việc vất vả, buổi tối thường là khoảng thời gian các em nghỉ ngơi để dành sức lao động cho ngày tiếp theo; nên việc bố trí thời gian đi học thêm vào các buổi 73
- Nguyễn Thanh Bình tối là rất khó khăn. Cũng theo kết quả điều tra từ bảng số liệu 1, trẻ em không biết chữ chiếm tỷ lệ khá cao, chiếm 32,5% số người được hỏi. Những trường hợp này thường là những trẻ em bị bỏ rơi, hay tự ý rời bỏ gia đình ngay từ nhỏ nên các em không có điều kiện được học hành. 2.1.4. Hoàn cảnh gia đình Thành phần xuất thân của trẻ em lang thang trên địa bàn Hà Nội rất đa dạng. Theo kết quả điều tra, đa số các em có hoàn cảnh rất éo le, bất hạnh, như cha mẹ bỏ nhau, bố hoặc mẹ chết, có em mồ côi cả cha và mẹ. Nhiều em thuộc gia đình nghèo; bố, mẹ hoặc cả bố mẹ bị tàn tật, ốm đau. Cũng có những trường hợp trẻ em lang thang do bản thân bố, mẹ không có nơi nương tựa. Về nghề nghiệp của bố mẹ trẻ em lang thang, chúng tôi thu được kết quả: 35,7% trẻ em lang thang có bố làm nông nghiệp; 54,8% có mẹ làm nông nghiệp. Do điều kiện, hoàn cảnh gia đình làm nông nghiệp nên cuộc sống gặp nhiều khó khăn, vì thế trẻ em trong các gia đình này thường phải kiếm tiền để giúp gia đình trang trải cuộc sống. Một trong những cách mà trẻ em lựa chọn là bán báo, đánh giầy,...tại các thành phố lớn, trong đó có Hà Nội. Bên cạnh đó, bố mẹ không có nghề nghiệp cũng là lý do dẫn đến trẻ em lang thang. Cụ thể: 22,3% trẻ em lang thang có bố không có nghề nghiệp; 32,5% trẻ em lang thang có mẹ không nghề nghiệp. Bố, mẹ không có nghề nghiệp nên các em không được chăm sóc đầy đủ và phải tự lo cho cuộc sống của mình cũng là hợp với quy luật. Cũng theo kết quả điều tra, chỉ có 0,8% số trẻ em được hỏi có bố hoặc mẹ là cán bộ, công nhân viên chức. Con số này phản ánh tương đối chính xác thực tế hiện nay, bởi vì trong các gia đình công chức, trẻ em thường được quan tâm, chăm sóc cả về thể chất lẫn tinh thần nên không phải tự kiếm sống và trở thành trẻ em lang thang. Chỉ có những trường hợp do trẻ em hư hỏng, đua đòi bạn bè nên mới bỏ nhà ra đi. Nhưng tỉ lệ này rất ít do trẻ em trong các gia đình trên thường nhận được sự giáo dục của bố, mẹ; thầy cô và nhà trường. Như vậy, có thể kết luận rằng hoàn cảnh gia đình khó khăn như: bố, mẹ không có việc làm, hay làm những nghề không có thu nhập cao (nông nghiệp) thì trẻ em trong gia đình đó thường phải lang thang để kiếm sống. Một câu hỏi khác mà chúng tôi đặt ra về hoàn cảnh của gia đình trẻ em lang thang là trong gia đình của các em có bao nhiêu anh chị em? Chúng tôi nhận được kết quả, trong gia đình các em có từ 3 đến 4 anh chị em chiếm nhiều nhất: 49,2% số trẻ em được hỏi; tiếp đến là gia đình có từ 4 đến 5 con chiếm 27,8%; các gia đình có từ 1 đến 2 con chiếm 20,6%. Kết quả này cho thấy trong các gia đình đông con thì trẻ em thường phải tự kiếm sống, do vậy tỷ lệ trẻ em lang thang trong các gia đình này là tương đối lớn. Về câu hỏi: Các em là con thứ mấy trong gia đình, chúng tôi nhận được kết quả phần nhiều các em là con cả và con thứ trong gia đình, với 33,3% các em được 74
- Công tác xã hội với trẻ em lang thang trên địa bàn Hà Nội hiện nay điều tra là con cả; 34,9% là con thứ; chỉ có 1,6% là con út trong gia đình. Theo truyền thống, các em là con cả và con thứ thường có trách nhiệm với gia đình và với các em nên nhiều khi họ phải hi sinh bản thân để cùng bố mẹ chăm lo cho các em; vì vậy tỷ lệ trẻ em là con cả và con thứ rời bỏ gia đình đi kiếm sống nuôi bản thân và cùng bố mẹ nuôi các em là phù hợp với thực tiễn ở các gia đình Việt Nam hiện nay. Bên cạnh hoàn cảnh gia đình của các em là nghèo đói khiến trẻ em phải rời bỏ gia đình để lang thang ở các thành phố lớn, thì do chính sách mở cửa của nhà nước, kinh tế thị trường phát triển, một bộ phận dân cư giàu lên nhanh chóng song mặt trái của nó là sự phân hóa giàu nghèo mạnh mẽ, khoảng cách giàu nghèo ngày càng xa. Trong khi đó, nhu cầu đòi hỏi của lớp trẻ đặc biệt là trẻ em có hoàn cảnh khó khăn ngày càng cao mà khả năng của gia đình và xã hội chưa đáp ứng kịp. Tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm khá phổ biến...đã gây ra những bức bách cho cuộc sống gia đình; trẻ em phải bỏ học, lao động sớm, bỏ nhà ra đi lang thang kiếm sống và kiếm tiền nuôi sống bản thân và hỗ trợ gia đình. Mặt khác, do cơ chế chính sách đầu tư phát triển nông thôn và các vùng trọng điểm đói nghèo vẫn chưa đồng bộ, chưa tạo được nền tảng vững chắc cho kinh tế hộ gia đình nông thôn phát triển, trẻ em ở nông thôn còn bị thiệt thòi về mọi mặt dẫn đến việc họ phải rời bỏ gia đình để kiếm sống cho bản thân mình. 2.2. Cuộc sống của trẻ em lang thang đường phố trên địa bàn Hà Nội 2.2.1. Điều kiện sinh hoạt thường nhật Theo báo cáo gần đây nhất của UNICEF, ước tính có khoảng 100 triệu trẻ em trên thế giới phải sống lang thang hoặc thường xuyên bị bóc lột ngoài ý muốn của chúng. Trong số này ước tính có 70% tập trung ở châu Phi, châu Mỹ la tinh, châu Á. Riêng châu Á ước tính khoảng 25-30 triệu trẻ em bị xô đẩy vào những hoàn cảnh mà việc lạm dụng tình dục và thể chất là hiện tượng diễn ra hàng ngày. Theo ước tính của Bộ Lao động - Thương binh và xã hội, hiện nay cả nước có 19.000 trẻ em lang thang. Phần lớn các em bỏ nhà ra đi kiếm sống, lang thang ở các thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng, Huế,... Các em có mặt ở khắp mọi nơi trong thành phố, nhất là những nơi đông người như nhà ga, bến tàu, các khu vui chơi công cộng,... Các em cũng làm đủ nghề từ rửa bát, đánh giầy, bán báo, ăn xin thậm chí những việc làm bất chính như móc túi, lừa gạt hoặc trẻ em gái bán dâm,... Về cơ bản, trẻ em lang thang trên địa bàn Hà Nội có thể phân ra thành ba nhóm: - Nhóm 1: Trẻ em không có chỗ ở cố định, không có gia đình hay người bảo hộ. Chúng bị buộc hoặc tự ý rời bỏ gia đình. Chúng ngủ ngoài đường hoặc đôi khi ở 75
- Nguyễn Thanh Bình các lán, trại từ thiện và kiếm sống bằng mọi cách như đánh giầy, ăn xin, trộm cắp, nhặt rác, bán vé số, thuốc lá hoặc sách báo. - Nhóm 2: Trẻ em sống ngoài đường cùng với gia đình hoặc người bảo hộ, ăn xin hoặc nhặt rác với cha mẹ hoặc anh, chị em. - Nhóm 3: Trẻ em có gia đình nhưng ban ngày lang thang ngoài phố, đêm về nhà. Nhóm trẻ em này thường dính líu vào các băng, nhóm, tổ chức tội phạm. Trẻ em ở nhóm một phần lớn bị bóc lột về thể xác, và trong một số trường hợp bị lạm dụng tình dục. Chúng sống thiếu sự bảo vệ, chăm sóc của gia đình, bạn bè và nói chung cuộc sống dễ có nguy cơ “bên bờ vực thẳm” nên cần được bảo vệ. Trẻ em thuộc nhóm này thường tự mình quyết định tất cả những gì mà chúng muốn. Để bảo vệ bản thân, chúng thường kết bạn từ 3 đến 7 người trong một nhóm, trong đó có một trẻ lớn nhất làm nhóm trưởng. Vì sống lang thang nên số trẻ này rất dễ bị lạm dụng và sa vào tội phạm. Trẻ em ở nhóm 2 và nhóm 3, tuy phần nào được nương tựa vào gia đình hoặc người bảo hộ nhưng cuộc sống của các em vẫn luôn trong điều kiện tồi tàn, đói, rét thường xuyên xảy ra. Do lang thang kiếm sống hàng ngày trên đường phố nên các em cũng rất dễ bị lôi kéo vào các tệ xã hội. Với câu hỏi chỗ ở của các em ở đâu? Chúng tôi thu được kết quả như sau: Bảng 2. Chỗ ở hiện nay của trẻ em lang thang trên địa bàn Hà Nội (%) STT Chỗ ở hiện nay Tỉ lệ 1 Mái ấm, nhà tình thương 31 2 Nhà ở nhờ không mất tiền 11,9 3 Nhà trọ 19,8 4 Bến xe, nhà ga, nơi công cộng 12,7 5 Chợ 4,8 6 Tại gia đình đang làm thuê 19,8 Qua bảng số liệu trên ta thấy, có 31% trẻ em được sống ở các mái ấm, nhà tình thương. Những em được sống trong các mái ấm này nhìn chung có cuộc sống ổn định. Các em có cơm ăn hàng ngày, quần áo để mặc và không sợ đói rét. Các em được sự quan tâm, nuôi dưỡng, chăm sóc của những người bảo trợ, có điều kiện được học hành và thường ít có khả năng tham gia vào các tệ nạn xã hội. Một trong số những mô hình điển hình ở Hà Nội là mái ấm tình thương ở phố Trần Quốc Toản. Có 19,8% các em ở trong các gia đình làm thuê. Những trường hợp này có chỗ ở tương đối ổn định, thông thường cùng ở với nhà chủ, hoặc nơi kinh doanh của nhà chủ. 19,8% trẻ em khác phải ở trọ, và chúng thường phải có tính tự lập cao, phải có ý thức nếu không rất dễ mắc phải các tệ nạn xã hội. Ngoài ra, trẻ em lang thang trên địa bàn Hà Nội còn phải sống ở những nơi tạm bợ khác như chợ, bến xe, nhà 76
- Công tác xã hội với trẻ em lang thang trên địa bàn Hà Nội hiện nay ga,... Những nơi ở như thế này rất nguy hiểm đối với đứa trẻ, do vậy trẻ em cần được bảo vệ, và phải được trang bị những kiến thức và kỹ năng cơ bản để có thể sống được trong môi trường phức tạp như vậy. 2.2.2. Công việc của trẻ em lang thang trên địa bàn Hà Nội Trong cuộc điều tra xã hội học đối với trẻ em lang thang trên địa bàn Hà Nội, chúng tôi đưa ra câu hỏi về công việc mà các em đang làm để nuôi sống bản thân, chúng tôi nhận được các câu trả lời sau: Bảng 3. Công việc của trẻ em lang thang đang làm trên địa bàn Hà Nội (%) STT Công việc Tỉ lệ 1 Đánh giầy 26,2 2 Bán báo 10,3 3 Ăn xin 20,6 4 Nhặt rác 9,5 5 Bán hàng rong 11,1 6 Giúp việc gia đình 15,1 7 Khác 7,1 Có thể nhận thấy rằng những công việc mà trẻ em lang thang đang làm chỉ cần sự chăm chỉ, khéo léo là có thể làm được. Các công việc này không cần nhiều vốn, nhiều kiến thức. Chính vì thế, đại đa số các em đều thích nghi ngay được với các công việc. Điều này thuận lợi cho trẻ em lang thang trong quá trình tìm kiếm thu nhập cho chính họ. Có 26,2% trẻ em làm công việc đánh giày; bán báo là 10,3%; bán hàng rong là 11,1%. Nếu như những đứa trẻ không có điều kiện và khả năng để làm các công việc đó thì trẻ em có thể làm các công việc khác, như nhặt rác (9,5%). Tuy nhiên, điều đáng lưu ý ở đây là có đến 20,6% trẻ em lang thang đi ăn xin. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc sống của người dân đô thị, gây ra một cách nhìn tiêu cực đối với khách du lịch khi đặt chân đến thủ đô Hà Nội ngàn năm văn hiến. Đồng thời, với những đứa trẻ ăn xin nó tạo ra thói quen ỉ lại, thụ động, chờ đợi từ bên ngoài,... Yếu tố này sẽ không thúc đẩy được đứa trẻ trong tương lai. 2.2.3. Thu nhập của trẻ em lang thang đường phố Hà Nội Do công việc mà trẻ em lang thang làm thường là những công việc giản đơn, thủ công nên thu nhập của các em rất bấp bênh và không cao. 49,2% trẻ em cho biết thu nhập bình quân một tháng khoảng từ 300.000 đến 500.000 đồng; với mức thu nhập dưới 300.000 đồng chiếm 11,1%. Rõ ràng với thu nhập như vậy, trẻ em thường chỉ đủ trang trải cuộc sống ở thành phố. Có những em biết tiết kiệm, chi tiêu khéo léo thì hàng tháng cũng dư ra được một khoản tiền phụ giúp cho gia đình ở quê hương. 77
- Nguyễn Thanh Bình 2.2.4. Chi tiêu của trẻ em lang thang trên địa bàn Hà Nội Trẻ em lang thang phải tự lập cuộc sống của bản thân, với mức thu nhập không cao mà lại phải sống trong một môi trường đắt đỏ, nên các em rất đắn đo trong các khoản chi tiêu của mình. Đại đa số các em chỉ chi tiêu những khoản cần thiết cho sự tồn tại của bản thân: ăn, uống, ở... rất ít khi sắm sửa quần áo, giầy dép mới,... Có 73,8% các em dành 200.000 đồng/ tháng để chi tiêu cho ăn uống; có 24,5% trẻ em lang thang dành từ 200.000 đến 400.000 đồng/ tháng chi tiêu cho ăn uống hàng ngày. Với mức chi tiêu tiết kiệm như vậy, các em đã dành được một khoản tiết kiệm nhất định gửi về cho gia đình. Một điều hết sức đặc biệt là 100% các em được hỏi cho biết hàng tháng các em đều có tiền tiết kiệm hoặc gửi tiền về cho gia đình. Có thể kết luận rằng, trẻ em lang thang ở Hà Nội đều phải bươn chải cuộc sống, bên cạnh đó các em còn rất ý thức trong việc tiết kiệm tiền để có thể giúp cho gia đình ở quê có cuộc sống đỡ vất vả hơn. 2.3. Một số giải pháp hạn chế trẻ em lang thang trên địa bàn Hà Nội hiện nay từ góc độ công tác xã hội Vai trò của công tác xã hội là tìm kiếm các nguồn lực để trợ giúp trẻ em lang thang vượt qua được hoàn cảnh khó khăn hiện tại, tiến tới ổn định cuộc sống trong tương lai. Để làm được điều đó, cần sự phối kết hợp của nhiều yếu tố từ xã hội, cũng như từ gia đình trẻ em lang thang. Cụ thể, có các biện pháp sau đây: 2.3.1. Các biện pháp phát triển kinh tế - xã hội Phát triển kinh tế - xã hội toàn diện là một biện pháp chiến lược của thành phố Hà Nội và các tỉnh có trẻ em lang thang ra thành phố Hà Nội sinh sống để khắc phục tận gốc nguyên nhân phát sinh vấn đề trẻ em lang thang và từng bước giảm dần số lượng trẻ em lang thang kiếm sống trên đường phố Hà Nội hiện nay. Các biện pháp phòng ngừa trẻ em lang thang đường phố bao gồm: - Thành phố Hà Nội và các tỉnh có trẻ em lang thang nên có các biện pháp lâu dài phát triển kinh tế nông thôn, kinh tế hộ gia đình nhằm nâng cao đời sống vật chất, giúp người dân an tâm trụ lại trên quê hương họ từ đó hạn chế việc di chuyển của người dân vào thành phố Hà Nội để kiếm sống. - Đẩy mạnh thực hiện các chương trình của Đảng và Nhà nước về việc làm, xóa đói giảm nghèo. Các chương trình này cần ưu tiên, hỗ trợ cho các gia đình có trẻ em lang thang. - Cùng với các tỉnh thành trợ giúp các gia đình trẻ em lang thang về kiến thức kinh doanh để sử dụng đồng vốn có hiệu quả và hướng dẫn kỹ thuật cần thiết giúp trẻ em có cơ hội học nghề và phát triển các nghề truyền thống. - Thực hiện tốt chương trình giáo dục hướng nghiệp và dạy nghề, chẳng hạn 78
- Công tác xã hội với trẻ em lang thang trên địa bàn Hà Nội hiện nay như ban hành các chính sách và chỉ đạo miễn giảm các khoản đóng góp của nhà trường đối với trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, học sinh nghèo. Đa dạng hóa các loại hình giáo dục và dạy nghề để trẻ em lang thang có điều kiện được học văn hóa và học nghề. - Đẩy mạnh hơn nữa chương trình dân số, kế hoạch hóa gia đình, y tế cộng đồng: có biện pháp tuyên truyền giáo dục, miễn phí cho việc áp dụng các biện pháp kế hoạch hóa gia đình đối với người nghèo để giảm tỷ lệ sinh đẻ, nơi phát sinh nhiều trẻ em lang thang. - Các ban ngành chức năng có kế hoạch thường xuyên đẩy mạnh giám sát theo dõi các loại hình chăm sóc, giáo dục trẻ, củng cố nâng cao chất lượng các cơ sở đã có nhằm giải quyết các yêu cầu cấp bách với đối tượng trẻ em lang thang đường phố. - Tăng cường mở rộng văn phòng tư vấn, giảm hoặc miễn phí cho trẻ em tại các quận huyện để có điều kiện hướng dẫn, giúp đỡ kịp thời những bức xúc cho trẻ. - Huy động triệt để các nguồn lực xã hội, các tổ chức chính trị xã hội, các nhà hảo tâm,....ưu tiên hỗ trợ các dự án phát triển cộng đồng, phát triển kinh tế gia đình, phát triển các dịch vụ xã hội và các dịch vụ gia đình, đẩy mạnh sản xuất để có thể giúp các gia đình quá khó khăn, tạo điều kiện cho các em được đi học, không phải lao động quá nặng nhọc, không phải vào đời sớm. 2.3.2. Trách nhiệm của xã hội trong việc tái hòa nhập trẻ em lang thang - Các ban ngành chức năng, các đoàn thể xã hội từng bước phối hợp chặt chẽ với các địa phương có đông trẻ em lang thang để có kế hoạch giải quyết các vấn đề cấp bách trước mắt của trẻ em và tìm hiểu nguồn gốc ra đi của trẻ em để có các biện pháp giúp trẻ hồi gia. - Nâng cao trách nhiệm của tỉnh, thành phố, của cộng đồng xã hội để giúp giải quyết những khó khăn từ gốc gia đình nơi trẻ ra đi, giúp những gia đình này ổn định dần cuộc sống và có những điều kiện thuận lợi để đón trẻ trở về với cuộc sống gia đình và cộng đồng. - Với trẻ mồ côi, bị bỏ rơi không còn nhân thân, tùy theo hoàn cảnh, ý muốn của trẻ để giúp trẻ có tổ ấm gia đình (tìm người đỡ đầu hoặc cha mẹ nuôi cho trẻ), một số khác gửi vào nuôi dưỡng tại các trung tâm bảo trợ xã hội. - Đối với trẻ ăn xin cần có biện pháp cụ thể, thích hợp với từng nhóm đối tượng. Nếu trẻ có gia đình, vận động gia đình bảo lãnh, cam kết không để trẻ tiếp tục ăn xin và nhận con về. Những trẻ không còn thân nhân thì có thể đưa vào cơ sở bảo trợ xã hội hoặc các cơ sở nuôi trẻ mồ côi để dạy học và hướng nghiệp cho trẻ. - Đối với trẻ lao động sớm, cần có sự phối hợp giữa các ngành có liên quan để kiểm tra, giám sát nắm tình hình đơn vị sản xuất, kinh doanh có sử dụng lao động trẻ em. Từ đó, có các chính sách ưu tiên hợp tình hợp lý với trẻ em lao động sớm. - Để khắc phục ngay trước mắt tình trạng trẻ em lang thang, các ban ngành 79
- Nguyễn Thanh Bình của thành phố cần đón các em vào trung tâm bảo trợ xã hội hoặc các văn phòng tư vấn tổ chức giúp các cháu ăn, ngủ trong khoảng thời gian không quá 15 ngày theo quy định của pháp luật và vận động, giúp đỡ các em trở về với gia đình. - Nâng cao chất lượng và hỗ trợ các mô hình chăm sóc trẻ em lang thang tại các trung tâm bảo trợ xã hội và tại cộng đồng. Các mô hình chăm sóc trẻ em lang thang tại cộng đồng như “mái ấm”, “nhà mở”, “lớp vừa học vừa làm”, “lớp tình thương” nên tổ chức theo kiểu gọn nhẹ, theo quan điểm giúp giải quyết khó khăn trước mắt để động viên các em trở về cùng gia đình, không khuyến khích các em ở lại lâu dài tại thành phố để kiếm sống. - Giúp trẻ em lang thang hiểu biết pháp luật, quyền và trách nhiệm của trẻ em trong pháp luật quốc gia và quốc tế. . . .Đẩy mạnh hơn nữa hoạt động của các văn phòng tư vấn đối với trẻ em lang thang để hướng dẫn, trợ giúp trẻ em lang thang hồi gia thuận lợi. 2.3.3. Trách nhiệm của gia đình Gia đình vẫn phải là chỗ dựa cơ bản cho trẻ em. Để ngăn chặn ngay từ đầu nguy cơ trẻ em lang thang, trẻ em vào đời sớm cần phát huy và nâng cao vai trò trách nhiệm của các thành viên trong gia đình. Cha mẹ có vai trò rất quan trọng trong việc nuôi dạy con cái, là tấm gương cho con cái trong cách ứng xử các mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, là cơ sở cốt lõi niềm tin cho trẻ. Gia đình cũng cần chủ động liên kết, phối hợp với nhà trường và cộng đồng trong việc giáo dục nuôi dạy, hướng nghiệp đáp ứng nhu cầu cơ bản cho con cái, không nên cho trẻ tự lập quá sớm. 2.3.4. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục và đào tạo đội ngũ nhân viên làm việc với trẻ em lang thang - Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của các bậc cha mẹ, các cấp chính quyền, các tổ chức đoàn thể xã hội và toàn dân hiểu biết về: + Những tác hại và nguy hiểm của môi trường lang thang mà trẻ em phải đương đầu. + Những biện pháp cơ bản nuôi dạy con cái và biện pháp tổ chức cuộc sống gia đình. + Trách nhiệm, nghĩa vụ của cha mẹ, của chính quyền trong việc chăm sóc, giáo dục trẻ em. + Tác hại của văn hóa phẩm, băng hình đồi trụy, các hành vi lệch lạc của trẻ em lang thang. - Cần có chương trình thông tin đầy đủ trên mọi phương tiện thông tin đại chúng để các bậc cha mẹ hiểu biết về sự cần thiết của việc học tập và trang bị nghề nghiệp cho trẻ là cơ hội cho trẻ là cơ hội cho trẻ lập nghiệp, thoát khỏi nghèo đói. 80
- Công tác xã hội với trẻ em lang thang trên địa bàn Hà Nội hiện nay - Truyền thông rộng rãi các mô hình hoạt động chăm sóc, giáo dục hòa nhập với trẻ em lang thang có hiệu quả để mọi gia đình, mọi người dân biết đến và có biện pháp phòng ngừa tích cực trẻ em lang thang kiếm sống. - Tuyên truyền sâu rộng về pháp luật quốc tế và quốc gia về quyền, bổn phận của trẻ em. - Tăng cường và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm việc với trẻ em trong hoàn cảnh khó khăn - trẻ em lang thang bằng cách quy hoạch cán bộ, mở các lớp tập huấn công tác xã hội ngay tại các cơ sở hoặc cử các cán bộ chuyên trách đi đào tạo theo những chương trình chính quy dài hạn về xã hội học, công tác xã hội làm lực lượng nòng cốt ở cơ sở. 3. Kết luận Công tác xã hội với trẻ em lang thang trên địa bàn Hà Nội hiện nay là một vấn đề hết sức quan trọng và cần thiết. Trên cơ sở phân tích cơ cấu xã hội của nhóm trẻ em lang thang thông qua các chỉ báo: độ tuổi, giới tính, học vấn, hoàn cảnh gia đình trẻ em lang thang; cũng như phân tích thực trạng cuộc sống của trẻ em lang thang trên địa bàn Hà Nội như: việc làm của trẻ em lang thang, thu nhập, chi tiêu của các em; các giải pháp hạn chế tình trạng trẻ em lang thang một cách bền vững trên địa bàn Hà Nội từ góc độ công tác xã hội được đưa ra bao gồm: các biện pháp phát triển kinh tế - xã hội; trách nhiệm của xã hội trong việc tái hòa nhập trẻ em lang thang; trách nhiệm của gia đình; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục và đào tạo đội ngũ nhân viên làm việc với trẻ em lang thang. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Lê Văn Phú, 2004. Công tác xã hội. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. [2] Lê Thị Quý, 2001. Cẩm nang về công tác xã hội với trẻ em có hoàn cảnh khó khăn. Bộ Lao động thương binh và xã hội, Hà Nội. [3] Trần Đình Tuấn, 2010. Công tác xã hội lý thuyết và thực hành. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. ABSTRACT Social work with street children in Hanoi today Social work with street children in Hanoi today is a very important and vi- tal issue. This paper explores some issues about social structure of street children through three indicators: age, gender, education plus family background. The arti- cle also analyzes the current status of street children’s life based on: employment, income and expenditure. Since then, the author gives some sustainable solutions on the situation of street children in Hanoi from the perspective of social work. 81
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Công tác xã hội với trẻ em và gia đình - Phần 1
10 p | 1094 | 194
-
Công tác xã hội với trẻ em và gia đình - Phần 2
23 p | 378 | 130
-
Trẻ em và gia đình - Công tác xã hội
116 p | 390 | 98
-
Công tác xã hội với trẻ em và gia đình - Phần 3
26 p | 266 | 97
-
Bài giảng Những kiến thức cơ bản cho công tác xã hội với trẻ em - TS.Nguyễn Thị Lan
67 p | 294 | 71
-
Công tác xã hội với trẻ em và gia đình - ThS. Nguyễn Ngọc Lâm
116 p | 261 | 45
-
Giáo trình Công tác xã hội với trẻ em (Nghề Công tác xã hội - Trình độ Trung cấp) - CĐ GTVT Trung ương I
96 p | 45 | 8
-
Giáo trình Công tác xã hội với trẻ em (Nghề: Công tác xã hội - Trung cấp) - Trường Trung cấp Tháp Mười
127 p | 20 | 7
-
Giáo trình đào tạo Công tác xã hội với trẻ em bị ảnh hưởng thiên tai và tai nạn thương tích
211 p | 29 | 6
-
Giáo trình Công tác xã hội với trẻ em (Nghề: Công tác xã hội - Cao đẳng) - Trường Cao đẳng Cộng đồng Kon Tum
89 p | 21 | 6
-
Giáo trình Công tác xã hội với trẻ em (Nghề Công tác xã hội - Trình độ Cao đẳng): Phần 1 - CĐ GTVT Trung ương I
53 p | 55 | 6
-
Giáo trình Công tác xã hội với trẻ em (Nghề: Công tác xã hội) - CĐ Cơ Giới Ninh Bình
60 p | 48 | 6
-
Giáo trình Công tác xã hội với trẻ tự kỷ (Nghề: Công tác xã hội - Cao đẳng) - Trường Cao đẳng Cộng đồng Kon Tum
79 p | 13 | 6
-
Giáo trình Công tác xã hội với trẻ em (Nghề Công tác xã hội - Trình độ Cao đẳng): Phần 2 - CĐ GTVT Trung ương I
41 p | 24 | 5
-
Giáo trình Công tác xã hội với trẻ em (Nghề: Công tác xã hội - CĐ/TC) - Trường Cao đẳng Cơ giới Ninh Bình (2021)
56 p | 9 | 4
-
Đề thi kết thúc học phần học kì 2 môn Công tác xã hội với trẻ em năm 2019-2020 có đáp án - Trường ĐH Đồng Tháp
2 p | 14 | 4
-
Đề thi kết thúc học phần học kì 2 môn Công tác xã hội với trẻ em năm 2020-2021 có đáp án - Trường ĐH Đồng Tháp
3 p | 18 | 3
-
Giáo trình Công tác xã hội với trẻ em (Ngành: Công tác xã hội - Trình độ: Trung cấp) - Trường Trung cấp Kinh tế - Kỹ thuật Bình Thuận
136 p | 4 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn