intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội - Từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin đến thực tiễn Việt Nam

Chia sẻ: Tưởng Trì Hoài | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:17

5
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội - Từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin đến thực tiễn Việt Nam" trình bày quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội; quá trình hiện thực hóa lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; một số vấn đề đặt ra hiện nay ở Việt Nam;... Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội - Từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin đến thực tiễn Việt Nam

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI - TỪ QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN ĐẾN THỰC TIỄN VIỆT NAM Vương Thị Bích Thủy Trường Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng Tác giả liên hệ: Vương Thị Bích Thủy, email: vtbthuy@ued.udn.vn Tóm tắt: C.Mác và Ph.Ăngghen sáng lập học thuyết chủ nghĩa xã hội khoa học vào nửa cuối thế kỷ XIX; hai ông đã chỉ ra xu hướng vận động của lịch sử là chủ nghĩa xã hội tất yếu thay thế chủ nghĩa tư bản và dự báo về những đặc trưng của xã hội tương lai. Vận dụng, phát triển quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen vào nước Nga đầu thế kỷ XX, V.I.Lênin mở ra tiến trình mới đưa chủ nghĩa xã hội từ lý luận trở thành hiện thực. Lênin đã tiến hành những thử nghiệm táo bạo, tìm kiếm con đường, cách thức xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin đã được hiện thực hóa trong mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu trong thế kỷ XX. Với việc áp dụng mô hình Xô Viết, thời kỳ trước đổi mới, Việt Nam chưa xác định rõ những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội. Trong thời kỳ đổi mới, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và nhà nước ta đã xây dựng được mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam với tám đặc trưng cơ bản. Mô hình đó đã và đang được hiện thực hóa trong thực tiễn. Từ khóa: chủ nghĩa xã hội; đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội; chủ nghĩa Mác - Lênin; mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam; chủ nghĩa xã hội đổi mới. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin chủ nghĩa xã hội là giai đoạn đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Đó là một chế độ xã hội tiến bộ, ưu việt, vì con người. Chủ nghĩa xã hội đã mở ra những khả năng rộng lớn cho sự phát triển của xã hội loài người. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội - từ lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin đến thực tiễn Việt Nam - là một con đường mới mẻ chưa từng được khai phá, đầy khó khăn và thử thách, nhưng bước đầu đã đạt được những thành quả to lớn. Tư tưởng về chủ nghĩa xã hội do các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin vạch ra đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt 602
  2. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” Nam vận dụng sáng tạo vào quá trình cách mạng Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập, thống nhất Tổ Quốc, đưa đất nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó cũng là quá trình không ngừng tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận để vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực, vừa hoàn thiện những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội về lý luận của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới. 2. NỘI DUNG 2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội 2.1.1. Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen Xuất phát từ quan niệm duy vật về lịch sử, trên cơ sở nghiên cứu sự phát triển của xã hội loài người nói chung, của chủ nghĩa tư bản nói riêng, nhất là trên cơ sở phân tích làm rõ mâu thuẫn cơ bản trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa - mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa của sản xuất và chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất - C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra xu thế vận động, phát triển của xã hội loài người là xã hội tư bản chủ nghĩa tất yếu sẽ bị thay thế bởi một xã hội có trình độ phát triển cao hơn, tiến bộ hơn; đó là chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Dự báo về xã hội tương lai, C.Mác và Ph.Ăngghen viết: “Thay cho xã hội tư sản cũ, với những giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, sẽ xuất hiện một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” (C.Mác và Ph.Ăngghen, 1995a, 628). Trong các tác phẩm từ 1848 trở về trước, C.Mác và Ph.Ăngghen dùng thuật ngữ “chủ nghĩa cộng sản" để nói về xã hội tương lai; các ông gọi xã hội tương lai là xã hội cộng sản chủ nghĩa để phân biệt với chủ nghĩa xã hội không tưởng và các trào lưu tư tưởng tư sản khác. Trong Lời Tựa cho bản tiếng Anh xuất bản năm 1888 “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” Ph.Ăngghen giải thích: “Năm 1847, chủ nghĩa xã hội có nghĩa là một phong trào tư sản, còn chủ nghĩa cộng sản là một phong trào công nhân” (C.Mác và Ph.Ăngghen, 1995b, 522-523). Khi nói về tính tất yếu ra đời chủ nghĩa cộng sản, trong “Hệ tư tưởng Đức”, C.Mác và Ph.Ăngghen viết: “Đối với chúng ta, chủ nghĩa cộng sản không phải là một trạng thái cần phải sáng tạo ra, không phải là một lý tưởng mà hiện thực phải khuôn theo. Chúng ta gọi 603
  3. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG chủ nghĩa cộng sản là một phong trào hiện thực, nó xoá bỏ trạng thái hiện nay. Những điều kiện của phong trào ấy là do những tiền đề hiện đang tồn tại đẻ ra” ( C.Mác và Ph.Ăngghen, 1995d, 51). Trong “Phê phán cương lĩnh Gôta” (1875), C.Mác phân chia hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa thành các giai đoạn: (1) thời kỳ quá độ từ xã hội tư bản chủ nghĩa lên xã hội cộng sản chủ nghĩa; (2) giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa (nay ta gọi là chủ nghĩa xã hội) ; (3) giai đoạn cao của xã hội cộng sản chủ nghĩa (nay ta gọi là chủ nghĩa cộng sản). Trong một số tác phẩm khác đôi chỗ C.Mác và Ph.Ăngghen đã dùng thuật ngữ “chủ nghĩa cộng sản” để chỉ chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên các ông đã lưu ý rằng, khi gọi chủ nghĩa xã hội là chủ nghĩa cộng sản thì không được quên rằng, đó chưa phải là chủ nghĩa cộng sản phát triển trên những cơ sở của chính nó. C.Mác giải thích: “Cái xã hội mà chúng ta nói ở đây không phải là một xã hội cộng sản chủ nghĩa đã phát triển trên những cơ sở của chính nó, mà trái lại là một xã hội cộng sản chủ nghĩa vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa, do đó là một xã hội, về mọi phương diện - kinh tế, đạo đức, tinh thần - còn mang những dấu vết của xã hội cũ mà nó đã lọt lòng ra” . Nghiên cứu sự vận động và phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đề cập đến các đặc trưng của xã hội tương lai. Các đặc trưng này được các ông trình bày dưới dạng các khả năng, các tiên đoán, các dự báo về sự phát triển xã hội; bởi các nhà kinh điển “không cố đoán trước về tương lai một cách giáo điều, mà chỉ mong tìm ra cái thế giới mới qua sự phê phán thế giới cũ” ( C.Mác và Ph.Ăngghen, 1995e, 305). Có thể khái quát dự báo của C.Mác và Ph.Ăngghen về những đặc trưng cơ bản của xã hội tương lai như sau: - Chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản phải được xây dựng trên cơ sở lực lượng sản xuất phát triển cao; - Xã hội xã hội chủ nghĩa xóa bỏ chế độ tư hữu, xác lập chế độ công hữu; không còn áp bức bóc lột, không còn sản xuất hàng hóa; - Xã hội cộng sản chủ nghĩa được chia thành hai giai đoạn phát triển từ thấp đến cao, thực hiện phân phối theo lao động (trong giai đoạn thấp) và theo nhu cầu (ở giai đoạn cao); 604
  4. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” - Chủ nghĩa xã hội quản lý sản xuất phù hợp với kế hoạch đặt ra và căn cứ vào nhu cầu xã hội; - Lao động trở thành nhu cầu của con người; - Con người được giải phóng, được tự do, phát triển toàn diện … Trong những đặc trưng nói trên, C.Mác và Ph.Ăngghen đặc biệt nhấn mạnh đến việc xóa bỏ chế độ tư hữu tư sản; các ông coi đó là nhiệm vụ tất yếu trong quá trình cải tạo xã hội: “thủ tiêu chế độ tư hữu là một cách nói vắn tắt nhất và tổng quát nhất về việc cải tạo toàn bộ chế độ xã hội” (Lênin, 2006d, 467). C.Mác và Ph.Ăngghen lưu ý rằng, không phải khi nào cũng xóa bỏ được chế độ tư hữu, mà cần phải hội đủ những điều kiện xã hội nhất định. Bởi vì,“Bất cứ một sự thay đổi nào của chế độ xã hội, bất cứ một sự cải biến nào về mặt quan hệ sở hữu cũng đều là kết quả tất yếu của việc tạo nên những lực lượng sản xuất mới, không còn phù hợp với các quan hệ sở hữu cũ nữa”; rằng, không thể thủ tiêu ngay chế độ tư hữu “cũng y như không thể làm cho lực lượng sản xuất hiện có tăng lên ngay lập tức đến mức cần thiết để xây dựng một nền kinh tế công hữu”; mà “sẽ chỉ có thể cải tạo xã hội hiện nay một cách dần dần, và chỉ khi nào đã tạo nên được một khối lượng tư liệu sản xuất cần thiết cho việc cải tạo đó thì khi ấy mới thủ tiêu được chế độ tư hữu” ( C.Mác và Ph.Ăngghen, 1995a, 469). C.Mác và Ph.Ăngghen quan niệm “bước thứ nhất trong cuộc cách mạng công nhân là giai cấp vô sản biến thành giai cấp thống trị, là giành lấy dân chủ”. Sau khi trở thành giai cấp thống trị, giai cấp vô sản thiết lập và xây dựng một chế độ xã hội mới, hướng đến mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng con người. Cần lưu ý rằng, khi nói tới các đặc trưng của xã hội tương lai, “C.Mác và Ph.Ăngghen không khẳng định những đặc trưng ấy như những cái đã có, hoặc dứt khoát sẽ có, mà chỉ như những cái có thể xảy ra, như những khả năng mà thôi” (Lê, 2003, 31). Những đặc trưng được C.Mác và Ph.Ăngghen đưa ra là kết quả của việc phân tích tình hình kinh tế - xã hội nửa cuối thế kỷ XIX trong sự phê phán, đối chiếu, so sánh với chủ nghĩa tư bản thời bấy giờ. Vì vậy, rất khó có thể dự đoán chính xác chủ nghĩa xã hội hiện thực trong tương lai sẽ có diện mạo như thế nào, được xây dựng và phát triển ra sao, chủ nghĩa tư bản sẽ có những biến đổi gì. Về những vấn đề này, C.Mác và Ph.Ăngghen không thể để lại những đáp án có sẵn cho hậu thế. 605
  5. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG Dự báo về con đường đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, nhưng các ông chưa đi trên con đường đó. 2.1.2. V.I. Lênin vận dụng, bổ sung, phát triển quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội Kế thừa, phát triển lý luận của C.Mác và Ph.Ăngghen trong điều kiện chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, V.I.Lênin cho rằng, sau khi giai cấp vô sản đã giành được chính quyền thì tất nhiên có một nhiệm vụ căn bản khác được đặt lên hàng đầu, đó là xây dựng một chế độ xã hội có trình độ phát triển cao hơn so với chủ nghĩa tư bản. Theo V.I.Lênin, “danh từ nước Cộng hòa Xô-Viết xã hội chủ nghĩa có nghĩa là chính quyền Xô-viết quyết tâm thực hiện bước chuyển lên chủ nghĩa xã hội, chứ hoàn toàn không có nghĩa là đã thừa nhận chế độ kinh tế mới là chế độ xã hội chủ nghĩa” (Lênin, 2006a, 362). Phát triển quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về sự phân kỳ hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng (1917), V.I.Lênin đã trình bày rõ hơn về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, về những đặc trưng cơ bản của giai đoạn thấp (chủ nghĩa xã hội) và giai đoạn cao (chủ nghĩa cộng sản). Chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản có những đặc trưng chung như: tư liệu sản xuất không còn là của riêng cá nhân mà thuộc về sở hữu công cộng; không có người bóc lột người; nền kinh tế quốc doanh phát triển theo kế hoạch; phân phối sản phẩm theo phương thức “làm theo năng lực, hưởng theo lao động”. Nhưng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản khác nhau về trình độ phát triển. Chủ nghĩa xã hội là một xã hội vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa, do đó còn mang trong mình nhiều vết tích, tàn dư của xã hội cũ. Lênin viết: “Giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản chưa thể thực hiện được công bằng và bình đẳng: về mặt của cải, thì vẫn còn chênh lệch, mà những chênh lệch ấy là bất công, nhưng tình trạng người bóc lột người thì không thể có nữa” (Lênin, 2006e, 114). Theo Lênin, đến chủ nghĩa cộng sản thì sẽ không còn sự bất bình đẳng trong lao động và phân phối. Năm 1918, nước Nga bước vào thời kỳ nội chiến rất gian khổ; để thích ứng với tình hình đó, nước Nga đã áp dụng chính sách “Cộng sản thời chiến” để bảo vệ chính quyền Xô Viết non trẻ. Đây được xem như là thử nghiệm đầu tiên về một mô hình chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, việc tiếp tục kéo dài thực hiện chính sách này đã 606
  6. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” đẩy nước Nga vào cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng và làm nảy sinh tư tưởng nóng vội, chủ quan cho rằng nước Nga có thể trực tiếp đi lên chủ nghĩa cộng sản. Mùa xuân năm 1921, đứng trước những nguy cơ mới nảy sinh, V.I.Lênin và Đảng Bônsêvich đã kiên quyết chuyển đổi từ chính sách “Cộng sản thời chiến” sang “Chính sách kinh tế mới” (NEP) với việc thừa nhận rằng “toàn bộ quan điểm của chúng ta về chủ nghĩa xã hội đã thay đổi về cơ bản” (Lênin, 2006b, 428). Từ trong thực tiễn V.I.Lênin nhận thức được rằng, nước Nga không thể đi lên chủ nghĩa xã hội bằng con đường “quá độ trực tiếp”, mà cần phải trải qua con đường “quá độ gián tiếp” với những “biện pháp trung gian”. V.I.Lênin tin tưởng rằng, “từ nước Nga của chính sách kinh tế mới sẽ nảy ra nước Nga xã hội chủ nghĩa” (Lênin, 2006b, 358). Để phát triển lực lượng sản xuất, V.I.Lênin coi trọng việc xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, “cơ sở vật chất duy nhất của chủ nghĩa xã hội chỉ có thể là nền đại công nghiệp cơ khí có khả năng cải tạo cả nông nghiệp” (Lênin, 2006f, 11). Người cho rằng, trong những nước tiểu nông lạc hậu, giai cấp vô sản phải biết kế thừa và sử dụng có hiệu quả thành quả khoa học, kỹ thuật, công nghệ của chủ nghĩa tư bản. V.I.Lênin khuyến khích những người cộng sản Nga “dùng cả hai tay mà lấy những cái tốt của nước ngoài: Chính quyền xô viết + trật tự ở đường sắt Phổ + kỹ thuật và cách tổ chức các tơrớt ở Mỹ + ngành giáo dục quốc dân Mỹ etc. etc. + + = Σ1) = chủ nghĩa xã hội” (Lênin, 2006a, 684). V.I.Lênin cũng nhấn mạnh, năng suất lao động cao là một trong những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội. Trong tác phẩm Sáng kiến vĩ đại (tháng 7 năm 1919) Lênin đã chỉ ra rằng năng suất lao động là cái quan trọng nhất bảo đảm cho thắng lợi của chủ nghĩa xã hội. “Xét đến cùng, thì năng suất lao động là cái quan trọng nhất, chủ yếu nhất cho thắng lợi của chế độ xã hội mới. Chủ nghĩa tư bản đã tạo ra một năng suất lao động chưa từng thấy dưới chế độ nông nô. Chủ nghĩa tư bản có thể bị đánh bại hẳn, và sẽ bị đánh bại hẳn vì chủ nghĩa xã hội tạo ra một năng suất lao động mới, cao hơn nhiều” (Lênin, 2006c, 25). Luận giải về nhà nước, V.I.Lênin quan niệm nhà nước phải mang bản chất giai cấp công nhân và bảo vệ cho lợi ích của nhân dân lao động; trong chủ nghĩa xã hội, nhà nước chưa thể “tự tiêu vong” được vì vẫn còn giai cấp và sự khác biệt lợi ích giữa các giai cấp đó. Sau một thời gian vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác vào nước Nga, V.I.Lênin bước đầu đã nhận ra sự khó khăn, phức tạp của công cuộc xây dựng chủ 607
  7. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG nghĩa xã hội. Từ thực tiễn đó Người nhắc nhở: "Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống" (Lênin, 2006d, 232). Từ chính sách “Cộng sản thời chiến” đến “Chính sách kinh tế mới” (NEP), V.I.Lênin đã để lại nhiều chỉ dẫn kinh điển quý báu cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội về sau. Việc nhận thức lại đặc điểm của thời kỳ quá độ, chủ trương phát triển nền kinh tế hỗn hợp, lựa chọn con đường quá độ gián tiếp, các biện pháp trung gian để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga là một bước tiến bộ của tư duy mới về chủ nghĩa xã hội. NEP được xem là một phương án đổi mới xã hội chứa đựng những kiến giải lý luận đầy sáng tạo và cùng với nó là những thử nghiệm táo bạo, dũng cảm, đặt nền móng cho sự sinh thành chủ nghĩa xã hội hiện thực ở nước Nga. Với NEP, V.I.Lênin đã đưa vào lý luận về xây dựng chủ nghĩa xã hội những vấn đề mới mẻ, đó là quan hệ giữa chủ nghĩa xã hội và cơ chế thị trường; việc sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước để xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần để phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Do những hạn chế lịch sử và thời đại, cho nên V.I.Lênin chưa nhìn thấy hết khả năng phát triển và nhất là khả năng tự điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản; chưa dự đoán được về sự phát triển tăng tốc của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, chưa hình dung hết những khó khăn, thách thức của công cuộc xây dựng, kiến tạo xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa. Các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác - Lênin đã dự báo về xã hội tương lai; nhưng các ông chưa bao giờ khẳng định rằng chủ nghĩa xã hội chỉ có một mô hình duy nhất. Xã hội mới ấy ở mỗi quốc gia dân tộc có diện mạo như thế nào là do sản phẩm của quá trình vận động lịch sử, do sự vận dụng, phát triển và sáng tạo của những người cộng sản và nhân dân lao động mỗi nước xây dựng nên trên cơ sở đặc điểm lịch sử - cụ thể của mình. V.I.Lênin từng nhắc nhở “những người xã hội chủ nghĩa ở Nga đặc biệt cần phải tự mình phát triển hơn nữa lý luận của Mác, vì lý luận này chỉ đề ra những nguyên lý chỉ đạo chung, còn việc áp dụng nguyên lý ấy thì xét riêng từng nơi, ở Anh không giống ở Pháp, ở Pháp không giống ở Đức, ở Đức không giống ở Nga" (Lênin, 2006d, 232). Thực tiễn lịch sử đã cho thấy, mô hình chủ nghĩa xã hội của một quốc gia nào đó xây dựng nên bao giờ cũng mang trong nó những 608
  8. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” nét đặc thù riêng về lịch sử, văn hóa, truyền thống dân tộc và những nguồn lực bên trong phản ánh trình độ phát triển của quốc gia đó. Những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội qua phác thảo của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã được các Đảng Cộng sản và công nhân quốc tế tiếp thu, vận dụng, hiện thực hóa trong mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước. Sau cách mạng tháng Mười, cùng với nước Nga Xô Viết, nhiều quốc gia và nước cộng hòa đã thống nhất thành lập Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô Viết (Liên Xô) vào năm 1922, khẳng định sức sống và bản chất ưu việt của chủ nghĩa xã hội hiện thực. Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, chế độ xã hội chủ nghĩa được xây dựng ở Liên Xô và các quốc gia châu Âu (Cộng hòa dân chủ Đức, Tiệp Khắc, Ba Lan, Anbani, Bungary, Hungary, Rumani,…), châu Á (Trung Quốc, Việt Nam, Mông Cổ, Triều Tiên, Lào) và khu vực Mỹ Latinh (Cuba), tạo thành hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới. Trong thời kỳ này, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa đã đạt được những thành tựu to lớn về nhiều mặt; trở thành chỗ dựa tin cậy cho phong trào cách mạng thế giới; hỗ trợ, giúp đỡ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa và phụ thuộc chống thực dân, đế quốc; góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Những thành tựu nói trên đã làm cho chủ nghĩa xã hội trở thành một hình mẫu xã hội hiện thực về đấu tranh xóa bỏ áp bức bóc lột của chủ nghĩa tư bản, giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động; bảo vệ hòa bình thế giới. Sự hình thành hệ thống xã hội chủ nghĩa là minh chứng cho những giá trị phổ biến của chủ nghĩa xã hội, phản ánh sự lựa chọn và xu thế vận động tất yếu của của lịch sử trong thế kỷ XX. Từ thực tiễn thành công và thất bại của chủ nghĩa xã hội trên thế giới, nhận thức về những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội không còn nguyên vẹn như quan điểm của các nhà kinh điển Mác - Lênin mà đã thay đổi, phát triển hơn rất nhiều. Từ chỗ chỉ có một mô hình chủ nghĩa xã hội mang tính kế hoạch hóa tập trung của Liên Xô được áp dụng cho nhiều nước Đông Âu và Việt Nam (trước đổi mới), đến nay đã xuất hiện những mô hình chủ nghĩa xã hội đổi mới, sáng tạo như mô hình chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc gắn với cải cách, mở cửa; mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam gắn với đổi mới và hội nhập quốc tế; mô hình chủ nghĩa xã hội ở Cuba; ở Lào, ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên. Thực tiễn lịch sử cho thấy chủ nghĩa xã hội thất bại ở Liên Xô và Đông Âu vào những năm 90 của thế 609
  9. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG kỷ XX là sự sụp đổ của một mô hình cụ thể, chứ không phải là sự sụp đổ của lý tưởng xã hội chủ nghĩa trên nền móng lý luận khoa học. Xã hội xã hội chủ nghĩa, như Ph.Ăngghen quan niệm “không phải là cái gì đó nhất thành bất biến, mà cũng như mọi chế độ xã hội khác, nó cần phải được xem xét như một xã hội được thay đổi và cải tạo thường xuyên” ( C.Mác và Ph.Ăngghen, 1995c, 167-168). Với tư cách đó, chủ nghĩa xã hội không cam chịu bất kỳ một sự đình trệ, khủng hoảng hay thất bại nào mà luôn đòi hỏi phải cải cách, đổi mới để phát triển. Thông qua cải cách, đổi mới, chủ nghĩa xã hội hiện thực đã vượt qua khủng hoảng và tiếp tục phát triển trong thời đại mới. Độc lập, tự do, dân chủ, bình đẳng và phát triển vẫn là những giá trị lớn của thời đại được phản ánh trong các mô hình này. 2.2. Quá trình hiện thực hóa lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam 2.2.1. Thời kỳ trước đổi mới Ở Việt Nam sự lựa chọn mục tiêu và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đã được đặt ra từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo nhân dân ta thực hiện cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, đấu tranh chống thực dân Pháp và phát xít Nhật, giành chính quyền, lập nên nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, hướng đến lý tưởng cao đẹp là xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, dân chủ, đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong thời kỳ này, chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng cao cả, là biểu tượng của khát vọng hòa bình, độc lập, dân chủ và tự do. Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (năm 1954), đất nước tạm thời chia làm hai miền: miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hệ thống chuyên chính vô sản trong thời kỳ này đã phát huy được bản chất ưu việt của chủ nghĩa xã hội; nhờ đó đã huy động được tất cả nhân, tài, vật lực của đất nước, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc, nhân dân ta vừa đạt được những thành tựu to lớn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa giành thắng lợi hoàn toàn trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng Miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, theo cách nói tóm tắt và mộc mạc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đó là độc lập, tự do cho dân tộc, 610
  10. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” hạnh phúc cho nhân dân; đó là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Diện mạo của chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ này được hình dung khái quát là một chế độ xã hội không có áp bức bóc lột, bất công; có nền kinh tế phát triển theo kế hoạch do nhà nước quản lý, dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất; thực hiện phân phối bình quân; con người có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được phát triển toàn diện... Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc theo mô hình Liên Xô (giai đoạn 1954 – 1975) đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Do bối cảnh vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội, vừa tiến hành cuộc kháng chiến chống xâm lược, bảo vệ Tổ Quốc, Đảng và nhà nước ta đã duy trì quá lâu mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội dựa trên nền kinh tế kế hoạch hóa và cơ chế quản lý tập trung bao cấp. Mô hình này dù đã phát huy tác dụng tích cực khi cả nước có chiến tranh, nhưng sau khi chiến tranh kết thúc (năm 1975), hoàn cảnh lịch sử thay đổi, cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì mô hình này không còn phù hợp. Trong thực tế, quá trình xây dựng đất nước nhất là trong giai đoạn từ 1975 - 1985, Đảng ta “đã phạm phải nhiều sai lầm trong việc xác định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật, cải tạo xã hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2013, 15, 20). Những sai lầm này đã dẫn đến tư tưởng nóng vội, chủ quan, muốn có ngay chủ nghĩa xã hội khi chưa hội đủ những điều kiện cần thiết. Mô hình chủ nghĩa xã hội mà chúng ta đặt nhiều kỳ vọng sẽ làm thay đổi về chất toàn bộ đời sống xã hội đã không diễn ra như mong muốn. Vào cuối những năm 70 đầu những năm 80 của thế kỷ XX, kinh tế - xã hội nước ta khủng hoảng nghiêm trọng, đời sống nhân dân hết sức khó khăn. Trong thời kỳ này, nhận thức của Đảng ta về những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội còn đơn giản và có phần rập khuôn theo mô hình của Liên Xô, như: đồng nhất mục tiêu với nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội; nhấn mạnh một chiều đến quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa mà chưa thấy được mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; thực hiện chế độ phân phối bình quân kéo dài; đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản; chúng ta đã không tuân thủ những chỉ dẫn của C.Mác và Ph.Ăngghen về xóa bỏ chế độ tư hữu; đã nhận thức một cách đơn giản và giáo điều rằng có thể dùng chế độ chính trị tiên tiến để hoàn 611
  11. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa mà không tính đến trình độ lạc hậu của lực lượng sản xuất... Những hạn chế này cho thấy Đảng ta đã trung thành với mô hình chủ nghĩa xã hội của Liên Xô, mà chưa làm rõ được tính đặc thù của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nhìn một cách tổng thể, thời kỳ trước đổi mới, Đảng và Nhà nước ta chưa xác định rõ mô hình và những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. 2.2.2. Thời kỳ đổi mới Đại hội VI của Đảng (tháng 12 năm 1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, đánh dấu một bước chuyển biến quan trọng trong tư duy lý luận của Đảng về chủ nghĩa xã hội, về thời kỳ quá độ và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Từ Hội nghị Trung ương 6 khoá VI (3-1989), Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương từ bỏ mô hình kinh tế kế hoạch hóa và cơ chế quản lý tập trung bao cấp, chuyển sang hạch toán kinh tế, kinh doanh xã hội chủ nghĩa; từng bước phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất; thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hoá và cơ chế thị trường; coi trọng việc kết hợp lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội. Trong quá trình đổi mới, Đảng ta đã nhận thấy việc xác định đúng mô hình chủ nghĩa xã hội có ý nghĩa quyết định đến sự thành công của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Bài học về sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu nhắc nhở chúng ta rằng, không thể tuyệt đối hóa một mô hình nào; một mô hình nào đó có thể đã thành công ở nước này, ở giai đoạn này, trong điều kiện này; nhưng chưa hẳn đã phù hợp với nước khác, ở giai đoạn khác, trong điều kiện khác. Không những thế, ngay trong một nước, mô hình được lựa chọn dù đã thành công trong một giai đoạn nhất định, cũng cần phải được thường xuyên bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn và sự phát triển của tư duy lý luận. Trên cơ sở nhận thức, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu có chọn lọc những thành tựu lý luận của các nước trên thế giới, Đảng ta đã không ngừng tìm tòi, nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn để xây dựng nên một mô hình chủ nghĩa xã hội phù hợp với đặc điểm, truyền thống, lịch sử và trình độ phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam. Nhận thức của Đảng ta về 612
  12. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” chủ nghĩa xã hội có quá trình hình thành, phát triển, bổ sung và từng bước được hiện thực hóa trong thực tiễn đổi mới đất nước. Trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (Cương lĩnh năm 1991), Đảng ta xác định mô hình chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng gồm có 6 đặc trưng cơ bản: Thứ nhất, do nhân dân lao động làm chủ; Thứ hai, có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; Thứ ba, có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Thứ tư, con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; Thứ năm, các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; Thứ sáu, có quan hệ hữu nghị hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 1991, 115). Các đặc trưng nêu trên phản ánh bản chất tiến bộ, ưu việt, nhân văn của chủ nghĩa xã hội hiện thực, là thành quả của công cuộc đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội. Quá trình thực hiện đường lối đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã đạt được những thành tựu to lớn. Nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao; sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá được đẩy mạnh; nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được phát triển; giải quyết đúng đắn, có hiệu quả mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Nhờ đó, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt; chính trị, xã hội, quốc phòng và an ninh được bảo đảm. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho sự phát triển trong thời kỳ mới. Những thành tựu đó là cơ sở, là minh chứng thực tiễn cho nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội. Từ thực tiễn đổi mới đất nước, Đại hội X của Đảng (năm 2006) đã bổ sung thêm 2 đặc trưng mới vào mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam; đó là đặc trưng “Dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh” và “Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng 613
  13. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG Cộng sản” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2006, 68). Trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta đã điều chỉnh một số nội dung và trình bày cô đọng, khái quát tám đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Xã hội xã hội chủ nghĩa mà Nhân dân ta xây dựng là một xã hội với 8 đặc trưng cơ bản: - Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; - Do Nhân dân làm chủ; - Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp; - Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; - Con người có cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; - Các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; - Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; - Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2011, 70). Tám đặc trưng nói trên vừa phản ánh những giá trị chung, phổ biến của chủ nghĩa xã hội theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin; vừa phản ánh những giá trị riêng, đặc thù của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng. Những đặc trưng này là thành tựu nhận thức lý luận quan trọng của Đảng, đồng thời là kết quả đúc kết từ thực tiễn sáng tạo sinh động của nhân dân, thể hiện khát vọng và ý chí của cả dân tộc. Xét trong tổng thể, tám đặc trưng trong mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã đặt ra và xử lý các mối quan hệ giữa mục tiêu của chủ nghĩa xã hội và điều kiện bảo đảm thực hiện mục tiêu đó, giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa chế độ kinh tế với thiết chế chính trị (bao gồm nhà nước pháp quyền, quyền làm chủ của nhân dân và dân chủ), giữa phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, giữa dân tộc và quốc tế. Từ Đại hội XII (năm 2016) đến nay, trong đường lối đổi mới đất nước, Đảng ta tiếp tục làm sáng tỏ nhận thức về các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam bằng việc bổ sung, phát triển hệ thống 614
  14. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới. Những thành tựu xây dựng chủ nghĩa xã hội trong 35 năm qua là minh chứng thuyết phục nhất cho sự đúng đắn, sáng tạo của mô hình đó. 2.3. Một số vấn đề đặt ra hiện nay ở Việt Nam Sau 35 năm đổi mới, nhận thức của Đảng về chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã được hình thành trên những nét cơ bản. Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa tính phổ biến và tính đặc thù, không tuyệt đối hóa những nguyên lý của Chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội mà có sự vận dụng sáng tạo, bổ sung và phát triển các nguyên lý đó phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Tuy nhiên, mô hình hiện nay mới chỉ phản ánh diện mạo chung, khái quát của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Để hiện thực hóa mô hình đó trong thực tiễn cần làm sáng tỏ nội hàm, nội dung và các mối quan hệ trong từng đặc trưng cụ thể. Để có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp cần phải làm sáng tỏ nội hàm của một nền kinh tế phát triển cao là gì. Hướng đến mục tiêu trở thành nước công nghiệp hiện đại, nhưng cho đến nay chúng ta vẫn chưa xác định rõ tiêu chí của một nước công nghiệp. Vì vậy nên chúng ta còn lúng túng về con đường, cách thức, điểm đột phá để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền tảng khoa học công nghệ hiện đại. Cũng cần phải xác định rõ vị trí, vai trò của các thành phần kinh tế, của doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Để có nền kinh tế thị trường phát triển cao, cần xác định rõ hơn đặc trưng, tiêu chí cơ bản của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đặc biệt là việc cụ thể hóa những đặc trưng này trong từng lĩnh vực để bảo đảm giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển. Trong những năm qua, chúng ta vẫn chưa khắc phục được mặt trái của kinh tế thị trường, nhất là xu hướng thương mại hóa các quan hệ xã hội, sự phân hóa giàu nghèo và còn nhiều lúng túng, sai phạm trong quản lý kinh tế. 615
  15. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG Chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo là đúng đắn. Khoản 3 Điều 2 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”; nhưng trong thực tế chúng ta chỉ thấy tính chất pháp quyền trong nhà nước mà chưa thấy được đây là phương thức thực hiện quyền lực của nhân dân và là điều kiện bảo đảm thực thi dân chủ xã hội chủ nghĩa hiệu quả nhất. Cơ chế vận hành, cơ chế “phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp” trong thực hiện quyền lực nhà nước chưa được làm rõ. Cho nên, chưa tạo ra cơ chế, chế tài để ngăn chặn sự tha hóa quyền lực và tình trạng tham nhũng trong bộ máy nhà nước hiện nay. Cơ chế, điều kiện phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa còn chung chung, chưa cụ thể. Một trong những đặc trưng cơ bản và là giá trị cao nhất của Nhà nước pháp quyền là tính thượng tôn pháp luật. Nhưng ở Việt Nam hiện nay ý thức pháp luật của một bộ phận nhân dân còn thấp kém, tình trạng vi phạm pháp luật còn phổ biến trong xã hội. Chủ trương xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vẫn dừng lại ở mục tiêu và các quan điểm chỉ đạo ở tầm vĩ mô mà chưa thực sự đi vào cuộc sống. Chưa đề ra được hệ giá trị chuẩn mực văn hóa Việt Nam và hệ giá trị con người Việt Nam. Chưa có giải pháp và chính sách đột phá để bứt phá trong đổi mới giáo dục và đào tạo; phát triển khoa học và công nghệ; thiếu chính sách ở tầm quốc gia về trọng dụng, thu hút nhân tài. Nhiều chủ trương đúng vẫn dừng ở tư tưởng, quan điểm mà chưa mạnh dạn đầu tư, hoặc chậm triển khai trong thực tế. Chúng ta đã giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, nhưng chưa đánh giá đúng mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa, xã hội. Còn có tư tưởng tuyệt đối hóa kinh tế, coi phát triển kinh tế là ưu tiên hàng đầu, lĩnh vực văn hóa - xã hội chậm đổi mới. Trong Tầm nhìn và Định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030, Đại hội XIII của Đảng xác định: “Tiếp tục nắm vững và xử lý tốt các mối quan hệ lớn: quan hệ giữa ổn định, đổi mới và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản 616
  16. KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA “XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” xuất xã hội chủ nghĩa; giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ; giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, 119). Những mối quan hệ lớn nói trên phản ánh những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội và tính quy luật của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đây là điểm mới trong tư duy lý luận của Đảng trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước. Do vậy, nắm vững và xử lý tốt các mối quan hệ này sẽ bảo đảm giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. 3. KẾT LUẬN Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra tính tất yếu của sự vận động lịch sử là chủ nghĩa xã hội thay thế chủ nghĩa tư bản và dự báo về những đặc trưng cơ bản của xã hội tương lai. Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi mở ra tiến trình mới đưa chủ nghĩa xã hội từ lý luận trở thành hiện thực. Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ chí Minh, từ thực tiễn của đổi mới đất nước, Đảng ta đã xác định mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam với 8 đặc trưng cơ bản. Đó là mô hình chủ nghĩa xã hội thực tiễn, vừa phản ánh những nguyên lý chung của chủ nghĩa Mác - Lênin, vừa phản ánh tính đặc thù của dân tộc và thời đại. Trong quá trình đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã từng bước hiện thực hóa mô hình đó bằng đường lối chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Những thành tựu trong 35 năm đổi mới đã cho chúng ta nhìn thấy một chủ nghĩa xã hội mới với diện mạo và sức sống mới đầy sinh động, sáng tạo. Công cuộc đổi mới càng đi vào chiều sâu, ngày càng đặt ra những vấn đề mới cần phải làm sáng tỏ cả về lý luận và thực tiễn. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập (Vol. 4). (1995a). Chính trị quốc gia. [2]. C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập (Vol. 21). (1995b). Chính trị quốc gia. [3]. C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập (Vol. 37). (1995c). Chính trị quốc gia. [4]. C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập (Vol. 3). (1995d). Chính trị quốc gia. 617
  17. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG [5]. C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập (Vol. 19). (1995e). Chính trị quốc gia. [6]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (1991). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII. Chính trị quốc gia. [7]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2006). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Chính trị quốc gia. [8]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2011). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Chính trị quốc gia. [9]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2013). Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới và hội nhập. Chính trị Quốc gia. [10]. Đảng Cộng sản Việt Nam. (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (Vol. 1). Chính trị quốc gia Sự thật. [11]. Lê, H. T. (2003). Chủ nghĩa xã hội từ lý luận đé̂n thực tiẽ̂n những bài học kinh nghiệm chủ yé̂u. Chính trị quốc gia. [12]. Lênin, V. I. (2006a). Toàn tập (Vol. 36). Chính trị quốc gia. [13]. Lênin, V. I. (2006b). Toàn tập (Vol. 45). Chính trị quốc gia. [14]. Lênin, V. I. (2006c). Toàn tập (Vol. 39). Chính trị quốc gia. [15]. Lênin, V. I. (2006d). Toàn tập (Vol. 4). Chính trị Quốc gia. [16]. Lênin, V. I. (2006e). Toàn tập (Vol. 33). Chính trị quốc gia. [17]. Lênin, V. I. (2006f). Toàn tập (Vol. 44). Chính trị quốc gia. 618
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2