Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br />
<br />
Số 4/2015<br />
<br />
THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC<br />
<br />
DẪN LIỆU BAN ĐẦU VỀ THÀNH PHẦN LOÀI ĐỘNG VẬT PHÙ DU<br />
Ở HỒ TÂY, TỈNH ĐĂK NÔNG<br />
PRELIMINARY RESULT ON THE SPECIES COMPOSITION OF ZOOPLANKTON<br />
IN TAY LAKE, ĐĂK NONG PROVICE<br />
Trương Thị Bích Hồng1, Nguyễn Thị Thúy2, Trần Văn Phước3, Nguyễn Văn Quỳnh Bôi4<br />
Ngày nhận bài: 09/12/2014; Ngày phản biện thông qua: 20/5/2015; Ngày duyệt đăng: 15/12/2015<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Nghiên cứu thành phần loài động vật nổi ở hồ Tây tỉnh Đăk Nông được tiến hành trong thời gian một năm<br />
từ 10/2013 -10/2014. Lần đầu tiên xác định được 45 loài động vật nổi (Zooplankton). Số lượng các loài động<br />
vật nổi có sự biến động theo các đợt thu mẫu từ 12-45 loài. Vào mùa khô số lượng loài xác định được cao nhất<br />
45 loài. Thời điểm chuyển mùa giữa mùa khô với mùa mưa, mùa mưa và giữa mùa mưa với mùa khô không có<br />
loài mới xuất hiện, nhiều loài bị mất đi do bị tác động bởi nhiều yếu tố khác nhau như chất lượng nước, hàm<br />
lượng chất hữu cơ, nên số lượng loài thấp 12, 21 và 36 tương ứng. Sinh khối động vật nổi ở hồ Tây trong thời<br />
gian nghiên cứu (dao động từ 36.719 – 310.546 con/m3).<br />
Từ khóa: Động vật nổi, loài, sinh khối<br />
ABSTRACT<br />
Research the species composition of zooplankton in Tay lake of Đăk Nong province was couducted<br />
from October 2013 to October 2014. Forty five zooplankton species have been identified. The number of<br />
zooplankton species was highly variable according to the sampling period from 12-45 species. In the dry<br />
season the number of species identified was highest (45 species). The time of transition season between the dry<br />
season to rainy season, rainy season and the rainy season to the dry season, the number of species identified<br />
was low 12, 21 and 36 respectively. Because at that time, there was no appearance of new species, there were<br />
many species were lost due to be affected by many different factors such as water quality, organic content.<br />
The zooplankton biomass in Tay lakes of the study period was at high level, ranged from 36.719-31.0546<br />
individuals/m3.<br />
Keywords: Zooplankton, species, biomass<br />
I. ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Hồ nhân tạo, bán nhân tạo là một trong<br />
những thủy vực không chỉ có vai trò quan<br />
trọng trong việc điều hòa nước đáp ứng mục<br />
đích tưới tiêu, cấp nước cho công nghiệp, sinh<br />
hoạt, chống lũ, mà còn được đánh giá là có<br />
<br />
tiềm năng kinh tế và đa dạng sinh học cao, nơi<br />
lưu giữ một nguồn tài nguyên thủy sinh vật rất<br />
đa dạng, có ý nghĩa trong việc cung cấp thực<br />
phẩm cho đời sống con người, đồng thời có<br />
giá trị về mặt khoa học. Hồ Tây Đăk Mil tỉnh<br />
Đăk Nông là hồ nước bán nhân tạo có diện tích<br />
<br />
ThS. Trương Thị Bích Hồng, 2 ThS. Nguyễn Thị Thúy, 3 ThS. Trần Văn Phước, 4 ThS. Nguyễn Văn Quỳnh Bôi:<br />
Viện Nuôi trồng thủy sản - Trường Đại học Nha Trang<br />
<br />
1<br />
<br />
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 39<br />
<br />
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br />
mặt nước 108ha được hình thành vào năm<br />
1940 do thực dân Pháp quy hoạch để phục vụ<br />
cho dự án trồng cà phê tại Việt Nam. Hiện nay,<br />
hồ Tây không chỉ là nơi cấp nước phục vụ hoạt<br />
động sản xuất nông nghiệp mà còn là nơi cung<br />
cấp nguồn nước sạch cho nhà máy xử lý nước<br />
phục vụ nhu cầu về nước sinh hoạt của người<br />
dân ở thị trấn Đăk Mil, đem lại nguồn lợi lớn<br />
về thủy sản cho người dân trong vùng và còn<br />
là điểm du lịch thu hút nhiều du khách tới địa<br />
phương. Ngoài các ưu điểm về phát triển kinh<br />
tế - xã hội, hồ Tây còn có một hệ thống động,<br />
thực vật thủy sinh rất phong phú là nguồn thức<br />
ăn tự nhiên để nâng cao năng suất và sản<br />
lượng các loài cá trong hồ.<br />
Cho đến nay, chưa có một công trình nào<br />
nghiên cứu đầy đủ, có hệ thống về thành phần<br />
loài động vật nổi ở hồ Tây Đăk Mil, tỉnh Đăk<br />
Nông. Trong 2 năm 2013 và 2014, được sự<br />
tài trợ về kinh phí của đề tài cấp tỉnh của Sở<br />
Khoa học và Công nghệ tỉnh Đăk Nông, chúng<br />
tôi đã tổ chức khảo sát thu mẫu 4 lần (mùa<br />
khô, giao mùa giữa mùa khô với mùa mưa,<br />
mùa mưa và giao mùa giữa mùa mưa với mùa<br />
khô) nhằm đánh giá tính đa dạng sinh học nói<br />
chung và cung cấp những dẫn liệu ban đầu về<br />
thành phần loài động vật nổi. Đặc biệt, kết quả<br />
nghiên cứu làm cơ sở cho việc đề xuất đối<br />
tượng nuôi trồng thủy sản thích hợp, sử dụng có<br />
hiệu quả nguồn thức ăn tự nhiên là động vật nổi.<br />
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br />
1. Đối tượng nghiên cứu<br />
Đối tượng nghiên cứu là khu hệ động vật nổi<br />
(Zooplankton) ở hồ Tây, tỉnh Đăk Nông. Trên toàn<br />
bộ mặt hồ chọn 3 điểm. Ba điểm thu mẫu tiêu biểu<br />
đại diện cho toàn bộ lưu vực hồ (hình 1).<br />
2. Phương pháp nghiên cứu<br />
2.1.Phương Pháp nghiên cứu ngoài thực địa<br />
Sử dụng lưới Juday (gas 68) để thu<br />
mẫu định tính và định lượng động vật nổi<br />
(Zooplankton) ở mỗi điểm. Mẫu định tính được<br />
thu theo kiểu kéo zích zắc. Đặt miệng lưới cách<br />
mặt nước 20-30 cm rồi kéo theo hình ziczắc,<br />
<br />
40 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG<br />
<br />
Số 4/2015<br />
từ 2-4 lượt rồi nhấc lưới, đưa mẫu vào lọ đựng<br />
mẫu có thể tích 250mL đã chuẩn bị sẵn. Mẫu định<br />
lượng thu theo phương pháp lọc. Múc 64 lít nước<br />
tại điểm thu mẫu đổ qua lưới Juday để lọc mẫu.<br />
Chuyển mẫu ở ống đáy của lưới qua lọ đựng mẫu<br />
có thể tích 250mL. Toàn bộ mẫu định tính và định<br />
lượng được cố định mẫu bằng formalin (2-4%),<br />
lắc đều mẫu, đánh dấu mẫu (ghi nhãn).<br />
2.2. Phương pháp nghiên cứu trong phòng<br />
thí nghiệm<br />
Phân tích định loại tên khoa học bằng<br />
phương pháp so sánh hình thái. Các tài liệu<br />
chính được sử dụng để định loại là: Định loại<br />
động vật không xương sống (ĐVKXS) ở nước<br />
ngọt Bắc Việt Nam của Đặng Ngọc Thanh,<br />
Thái Trần Bái, Phạm Văn Miên (1980) [3]; Định<br />
loại các nhóm ĐVKXS nước ngọt thường gặp<br />
ở Việt Nam của Nguyễn Xuân Quýnh (2001)<br />
[2]; A. Shirota (1968) [4]. Chúng tôi sử dụng<br />
các tài liệu trên để phân loại từ bộ, họ, tới loài<br />
theo khóa định loại lưỡng phân.<br />
Định lượng động vật nổi (Zooplankton): Sử<br />
dụng ống đong có chia vạch tới mm để xác<br />
định lượng nước cô đặc sau khi lọc qua lưới.<br />
Dùng pipet lấy 1ml nước có chứa mẫu ở mẫu<br />
nước cô đặc cho lên buồng đếm động vật nổi<br />
sau đó đưa mẫu lên soi trên kính hiển vi ở độ<br />
phóng đại 10 lần,. Đếm trực tiếp các loài bắt<br />
gặp bằng cách di chuyển buồng đếm theo tọa<br />
độ từ trên xuống dưới, từ trái qua phải.<br />
Số lượng động vật phù du được tính theo<br />
công thức:<br />
N0 = CxV2x1000:V1 xV3<br />
N0 :Số lượng Zooplankton (con/m3)<br />
C: Cá thể đếm được trên buồng đếm<br />
V1 : Số ml nước mẫu lấy để đếm (1ml)<br />
V2 : Số ml nước mẫu đong được sau khi<br />
cô đặc<br />
V3: Thể tích nước đã lọc (L)<br />
Từ kết quả thu được qua các điểm và thời<br />
gian thu mẫu, chúng tôi đã xác định được<br />
mật độ cá thể động vật nổi ở hồ Tây Đăk Mil<br />
theo mùa và thời điểm chuyển mùa: mùa khô,<br />
chuyển mùa khô sang màu mưa, mùa mưa và<br />
chuyển mùa mưa sang mùa khô.<br />
<br />
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br />
<br />
Số 4/2015<br />
<br />
Hình 1. Sơ đồ các điểm thu mẫu ở hồ Tây, tỉnh Đăk Nông<br />
<br />
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU<br />
<br />
có loài Notholca.sp phân bố chính ở nước ngọt<br />
<br />
1. Đặc trưng và cấu trúc động vật không<br />
xương sống ở hồ Tây, tỉnh Đăk Nông<br />
Trong thời gian nghiên cứu, đã xác định<br />
được 45 loài động vật nổi và 5 dạng ấu trùng<br />
(Nauplius, Copepodid, ấu trùng giun nhiều<br />
tơ, ấu trùng chữ D và ấu trùng giáp xác râu<br />
ngành), trong đó: Trùng bánh xe (Rotatoria)<br />
chiếm ưu thế 21 loài thuộc 8 họ 12 giống.<br />
Tiếp đến là râu ngành (Cladocera) có 14 loài<br />
thuộc 4 họ 9 giống. Lớp phụ chân mái chèo<br />
(Copepoda) 9 loài thuộc 5 họ và 7 giống. Còn<br />
lại giáp trai (Ostracoda) có 1 loài.<br />
Thành phần loài động vật nổi ở hồ Tây Đăk<br />
Mil đều có nguồn gốc nước ngọt. Trong đó<br />
<br />
tuy nhiên nó có khả năng sinh sống ở thủy vực<br />
nước lợ. Nhóm loài thuộc ngành luân trùng<br />
chiếm ưu thế (47%) chứng tỏ hồ Tây Đăk Mil<br />
có hàm lượng chất hữu cơ cao. Hầu hết các<br />
loài thuộc ngành luân trùng có kích thước cơ<br />
thể nhỏ, vỏ mỏng có thể làm thức ăn tốt cho đối<br />
tượng nuôi trồng thủy sản. Một vài loài có vỏ<br />
dày chiếm tỷ lệ thấp (4,4%) bao gồm Keratella<br />
cochlesris thuộc họ Brachionidae và giáp trai<br />
không thích hợp làm thức ăn cho đối tượng nuôi<br />
trồng thủy sản. Đáng chú ý, trong thành phần<br />
loài động nổi không có loài nào là đối tượng gây<br />
hại cho đối tượng nuôi trồng thủy sản.<br />
<br />
Hình 2. Biểu đồ số lượng các họ, giống và loài trong thành phần loài động vật nổi ở hồ Tây<br />
<br />
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 41<br />
<br />
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br />
Về bậc họ, trong tổng số 16 họ, luân trùng<br />
(Rotatoria) 8 họ (chiếm 50,00%), giáp xác râu<br />
ngành (Cladocera) 4 họ (chiếm 25,00%), giáp<br />
xác chân mái chèo 3 họ (chiếm 18,75%) còn<br />
lại là giáp trai 1 họ (chiếm 6,25%). Họ có số<br />
lượng giống cao nhất là Chydoridae có 4 giống<br />
tiếp đến là họ Brachionidae và Diaptomidae có<br />
<br />
Số 4/2015<br />
3 giống, họ Asplanchinidae, Synchaetidae,<br />
Bosminidae, Sididae đều có 2 giống còn lại<br />
các họ Filinidae, Hexathrhdae, Philodinidae,<br />
Trichocercidae, Podonidae, Pseudodiaptomidae,<br />
Heterorhabdidae,<br />
<br />
Canthocamptidae,<br />
<br />
Viguierellidae mỗi họ chỉ có một giống.<br />
Bảng 1. Số lượng và tỷ lệ các taxon động vật nổi ở hồ Tây<br />
<br />
STT<br />
<br />
1<br />
<br />
Tên Bộ<br />
<br />
Ploimida<br />
<br />
Số loài<br />
<br />
Tỉ lệ %<br />
<br />
21<br />
<br />
46.7<br />
<br />
Tên Họ<br />
<br />
Asplanchinidae<br />
Brachionidae<br />
<br />
2<br />
<br />
Cladocera<br />
<br />
14<br />
<br />
31.1<br />
<br />
4<br />
<br />
5<br />
<br />
Harpacticoida<br />
<br />
Ostracoda<br />
<br />
7<br />
<br />
2<br />
<br />
1<br />
<br />
15.6<br />
<br />
6<br />
<br />
4.4<br />
13.3<br />
<br />
Số loài Tỉ lệ %<br />
<br />
Anuraeopsis<br />
<br />
1<br />
<br />
2.2<br />
<br />
Ascomorpha<br />
<br />
1<br />
<br />
2.2<br />
<br />
Brachionus<br />
<br />
4<br />
<br />
8.9<br />
<br />
Keratella<br />
<br />
1<br />
<br />
2.2<br />
<br />
Notholca<br />
<br />
1<br />
<br />
2.2<br />
<br />
2<br />
<br />
4.4<br />
<br />
Filinia<br />
<br />
1<br />
<br />
2.2<br />
<br />
Hexathrhdae<br />
<br />
1<br />
<br />
2.2<br />
<br />
Hexathra<br />
<br />
1<br />
<br />
2.2<br />
<br />
Philodinidae<br />
<br />
1<br />
<br />
2.2<br />
<br />
Rotaria<br />
<br />
2<br />
<br />
4.4<br />
<br />
Synchaetidae<br />
<br />
2<br />
<br />
4.4<br />
<br />
Ploesoma<br />
<br />
1<br />
<br />
2.2<br />
<br />
Polyarthra<br />
<br />
1<br />
<br />
2.2<br />
<br />
Scaridiidae<br />
<br />
1<br />
<br />
2.2<br />
<br />
Scaridium<br />
<br />
1<br />
<br />
2.2<br />
<br />
Trichocercidae<br />
<br />
6<br />
<br />
13.3<br />
<br />
Trichocerca<br />
<br />
6<br />
<br />
13.3<br />
<br />
Bosminidae<br />
<br />
4<br />
<br />
8.9<br />
<br />
Bosmina<br />
<br />
3<br />
<br />
6.7<br />
<br />
Bosminopsis<br />
<br />
1<br />
<br />
2.2<br />
<br />
Alona<br />
<br />
2<br />
<br />
4.4<br />
<br />
Alonella<br />
<br />
1<br />
<br />
2.2<br />
<br />
Biapertura<br />
<br />
1<br />
<br />
2.2<br />
<br />
Chydorus<br />
<br />
2<br />
<br />
4.4<br />
<br />
Sida<br />
<br />
1<br />
<br />
2.2<br />
<br />
Diaphanosoma<br />
<br />
2<br />
<br />
4.4<br />
<br />
Sididae<br />
<br />
Calanoida<br />
<br />
2<br />
<br />
Tên Giống<br />
<br />
Filinidae<br />
<br />
Chydoridae<br />
<br />
3<br />
<br />
Số loài Tỉ lệ %<br />
<br />
6<br />
<br />
3<br />
<br />
13.3<br />
<br />
6.7<br />
<br />
Podonidae<br />
<br />
1<br />
<br />
2.2<br />
<br />
Podon<br />
<br />
1<br />
<br />
2.2<br />
<br />
Diaptomidae<br />
<br />
4<br />
<br />
8.9<br />
<br />
Allodiaptomus<br />
<br />
2<br />
<br />
4.4<br />
<br />
Eodiaptomus<br />
<br />
1<br />
<br />
2.2<br />
<br />
Mongolodiaptomus<br />
<br />
1<br />
<br />
2.2<br />
<br />
Pseudodiaptomidae<br />
<br />
2<br />
<br />
4.4<br />
<br />
Schmackeria<br />
<br />
2<br />
<br />
4.4<br />
<br />
Heterorhabdidae<br />
<br />
1<br />
<br />
2.2<br />
<br />
Heterorhabdus<br />
<br />
1<br />
<br />
2.2<br />
<br />
Canthocamptidae<br />
<br />
1<br />
<br />
2.2<br />
<br />
Canthocamptus<br />
<br />
1<br />
<br />
2.2<br />
<br />
Viguierellidae<br />
<br />
1<br />
<br />
2.2<br />
<br />
Phyllognathopus<br />
<br />
1<br />
<br />
2.2<br />
<br />
1<br />
<br />
2.2<br />
<br />
4.4<br />
<br />
2.2<br />
<br />
42 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG<br />
<br />
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br />
Về bậc giống, ở hồ Tây Đăk Mil đã xác<br />
định được tổng số 27 taxon bậc giống. trong<br />
đó ngành luân trùng (Rotatoria) chiếm ưu thế<br />
với 12 giống (44,44%), tiếp đến là giáp xác râu<br />
ngành (Cladocera) 9 giống (33,33%), giáp xác<br />
chân mái chèo (Copepoda) 9 giống (18,52%),<br />
thấp nhất là giáp trai chỉ có 1 giống duy nhất<br />
(3,70%). Giống Trichocerca có số lượng loài<br />
nhiều nhất 6 loài, tiếp đến là giống Brachionus<br />
có 4 loài, Bosmina có 3 loài, các giống Rotaria,<br />
Alona Chydorus, Diaphanosoma, Schmackeria<br />
mỗi giống có 2 loài, ngoài ra các giống còn lại<br />
trong bảng 1 đều có 1 loài.<br />
Về bậc loài trong tổng số loài định dạng<br />
được ở hồ Tây thì luân trùng (Rotatoria)<br />
có số lượng loài nhiều nhất 21 loài (chiếm<br />
46,67%), tiếp đến là râu ngành (Cladocera) 14<br />
loài (chiếm 31,11%), giáp xác chân mái chèo<br />
(Copepoda) 9 loài (chiếm 20,00%), thấp nhất<br />
giáp trai (Ostracoda) chỉ có 1 loài (chiếm<br />
2,22%) và 5 dạng ấu trùng.<br />
2. Sự biến động về số lượng loài và mật độ<br />
động vật ở hồ<br />
2.1. Về số lượng<br />
Số lượng thành phần loài động vật nổi ở hồ<br />
Tây Đăk Mil khá đa dạng, thành phần loài chủ<br />
yếu là thuộc ngành luân trùng (Rotatoria), giáp<br />
xác râu ngành (Cladocera) và giáp xác chân<br />
chèo (Copepoda). Tuy nhiên, giữa các lần thu<br />
mẫu có sự biến động rõ rệt về thành phần loài.<br />
Sự biến động về thành phần loài trong thủy<br />
vực phụ thuộc chặt chẽ vào điều kiện thủy lý,<br />
thủy hóa, hàm lượng chất hữu cơ, mật độ tảo,<br />
<br />
Số 4/2015<br />
mùa vụ và sự phát triển của nhóm động vật ăn<br />
động vật nổi.<br />
Qua kết quả nghiên cứu, chúng tôi nhận<br />
thấy số lượng các loài động vật nổi ở hồ Tây<br />
có sự sai khác theo mùa vụ thu mẫu. Số lượng<br />
thành phần loài xuất hiện nhiều nhất vào mùa<br />
khô 45 loài và 5 loại ấu trùng, tiếp đến là thời<br />
điểm giao mùa giữa mùa mưa và mùa khô (36<br />
loài và 4 loại ấu trùng, đứng thứ 3 là vào mùa<br />
mưa (21 loài và 4 loại ấu trùng) thấp nhất vào<br />
thời điểm giao mùa giữa mùa khô và mùa mưa<br />
12 loài và 3 loại ấu trùng. Kết quả này tương<br />
tự với nghiên cứu của Võ Văn Phú và cộng tác<br />
viên (2009) [1]về thành phần loài động không<br />
xương sống ở hồ Phú Ninh – Quảng Nam có<br />
số lượng loài động vật nổi ở mùa khô cao hơn<br />
mùa mưa.<br />
Sự khác biệt về thành phần loài giữa các<br />
mùa phụ thuộc vào hàm lượng chất hữu cơ và<br />
sự phát triển của tảo. Vào mùa khô các hợp<br />
chất hữu cơ tích tụ trong hồ phân hủy nhiều,<br />
tảo phát triển mạnh dẫn tới động vật nổi phát<br />
triển theo. Cuối mùa khô đầu mùa mưa hàm<br />
hượng các chất hữu cơ đã giảm, tảo phát triểm<br />
kém nên số lượng loài giảm theo. Sang mùa<br />
mưa hồ được bổ sung thêm các chất hữu cơ<br />
từ vùng trên bờ do dòng chảy đổ vào hồ nên<br />
thành phần loài bắt đầu tăng lên. Cuối mùa<br />
mưa và đầu mùa khô nguồn thức ăn phong<br />
phú (chất hữu cơ cao, tảo phát triển mạnh)<br />
động vật nổi bắt đầu phát triển mạnh, số lượng<br />
loài xuất hiện nhiều hơn, để đạt mật độ cá thể<br />
loài cao nhất vào mùa khô.<br />
<br />
Hình 3. Số lượng thành phần loài động vật nổi phân bố ở hồ Tây theo các đợt thu mẫu<br />
<br />
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 43<br />
<br />