intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đánh giá hiện trạng và nguyên nhân gây ô nhiễm không khí từ tổ hợp hệ thống giao thông và đường bộ

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:11

34
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết phân tích hiện trạng và nghiên cứu các nguyên nhân gây ô nhiễm không khí do hoạt động giao thông vận tải gây ra. Tổ hợp hệ thống giao thông đường bộ đang chiếm một tỉ trọng lớn vào việc ô nhiễm không khí tại các siêu đô thị.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đánh giá hiện trạng và nguyên nhân gây ô nhiễm không khí từ tổ hợp hệ thống giao thông và đường bộ

  1. ASSESSMENT OF CURRENT SITUATION AND THE CAUSES OF AIR POLLUTION FROM THE INTEGRATION OF TRAFFIC AND ROAD SYSTEM Nguyen Phuong Ngoc Faculty of Construction, Danang Architecture University Email: ngocnp@dau.edu.vn Tel. 0374011566 Abstract The paper analyzes the current state and studies the causes of air pollution caused by transportation activities. Complex road transport systems account for a large proportion of the air pollution in megacities. Emissions from a combination of road and transport systems consist mainly of carbon monoxide (CO), volatile organic substances, nitrogen oxides, carbon dioxide (CO2) and suspended solids. These substances contribute to environmental pollution and impair the health of urban residents. From there, the paper proposes methods to reduce the concentration of hazardous substances in the urban atmosphere. Keywords: Air pollution, roadside space, dispersion of pollutants, environmental protection. 280
  2. ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN GÂY Ô NHIỄM KHÔNG KHÍ TỪ TỔ HỢP HỆ THỐNG GIAO THÔNG VÀ ĐƢỜNG BỘ Nguyễn Phƣơng Ngọc Khoa Xây dựng, Trường Đại học Kiến Trúc Đà Nẵng Email: ngocnp@dau.edu.vn Số điện thoại: 0374011566 Tóm tắt Bài báo phân tích hiện trạng và nghiên cứu các nguyên nhân gây ô nhiễm không khí do hoạt động giao thông vận tải gây ra. Tổ hợp hệ thống giao thông đường bộ đang chiếm một tỉ trọng lớn vào việc ô nhiễm không khí tại các siêu đô thị. Khí thải từ tổ hợp hệ thống giao thông và đường bộ bao gồm chủ yếu cacbon monoxit (CO), các chất hữu cơ dễ bay hơi, nito oxit, cacbon dioxit (CO2) và chất rắn lơ lửng. Các chất này góp phần gây nên tính trạng ô nhiễm môi trường và làm suy giảm sức khỏe của dân cư đô thị. Từ đó, bài báo đề xuất các phương pháp làm giảm nồng độ các chất độc hại trong khí quyển trong đô thị. Từ khóa: Ô nhiễm không khí, không gian ven đường giao thông, phân tán chất ô nhiễm, bảo vệ môi trường (BVMT). 281
  3. 1. Đặt vấn đề Cho đến giữa thế kỷ XX, con người hầu như không chú ý nhiều đến tình trạng ô nhiễm môi trường do hậu quả của quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa. Đồng thời, các biện pháp kiểm soát và giảm thiểu ô nhiễm không khí vẫn chưa được quan tâm và áp dụng để cải thiện tình trạng ô nhiễm này. Kết quả là, nồng độ các chất độc hại tăng dần và tích tụ trong đất, nước và không khí theo năm tháng. Tuy nhiên, chỉ đến những năm 60 của thế kỷ trước, con người mới nhận ra rằng chất lượng cuộc sống phụ thuộc rất nhiều vào trạng thái của môi trường tự nhiên xung quanh. Tại các thành phố lớn, nguồn chính của các chất độc hại tồn tại trong khí quyển chủ yếu bắt nguồn từ hoạt động giao thông vận tải. Theo một số nghiên cứu cho thấy, khí thải từ phương tiện giao thông vận tải chiếm khoảng 50-80% tổng các nguồn ô nhiễm không khí. Một số tài liệu khác thì lại cho kết quả khoảng 30-70% [6]. Như vậy có thể kết luận, 40-70% chất ô nhiễm đi vào khí quyển là do các phương tiện giao thông gây ra. Trong thế giới hiện đại, do sự phát triển không ngừng của công nghệ số, lượng phương tiện vận tải không ngừng gia tăng (đặc biệt là xe ô tô và xe gắn máy). Vì dân cư tập trung chủ yếu tại các thành phố lớn, nên toàn bộ diện tích đô thị được lấp đầy bằng các phương tiện giao thông, và kết quả là tạo nên những vùng tập trung nồng độ chất ô nhiễm cao. Một số chất trong đó được tích tụ trên đường, một số khác được phân tán trong không khí, tích tụ trong khí quyển và rơi xuống theo nước mưa làm ô nhiễm đất và nguồn nước. Đặc biệt, nồng độ các chất ô nhiễm độc hại càng tăng lên rõ rệt khi quan sát tại các khu dân cư cạnh đường giao thông, các bãi đỗ xe và các đường dẫn cho phương tiện giao thông. Do đó ô nhiễm không khí hiện nay được cho là một vấn đề cấp bách, cần được quan tâm vì vấn đề này ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của dân cư trong thành phố và các khu vực đô thị. Biện pháp nhằm giải quyết vấn đề này là đưa các công nghệ mới vào hệ thống đường bộ, như là thay thế nhiên liệu xăng bằng khí đốt hoặc các nhiên liệu thay thế khác, quy hoạch mạng lưới đường phố có tính đến yếu tố thông gió (khi xây dựng các đô thị mới hoặc mở rộng các đô thị hiện có), cũng như lấp đầy các mảng xanh trong các khu đô thị. 2. Tổng quan tài liệu Hiện nay việc nghiên cứu ô nhiễm không khí trong khí quyển do hoạt động giao thông vận tải được các nhà nghiên cứu trên thế giới rất quan tâm. Các nghiên cứu về nồng độ các chất thải vào khí quyển do phương tiện giao thông vận tải tại các thành phố lớn đã được nghiên cứu và công bố ở rất nhiều tài liệu. Đánh giá và phân tích động thái ô nhiễm không khí do các phương tiện giao thông và dự báo các hậu quả có thể xảy ra được đưa ra trong nhiều công trình khoa học [4,5]. Các nhà nghiên cứu này đã dựa trên các dữ liệu thu được, xác định được tác động tiêu cực nhất mà phương tiện giao thông đường bộ gây ra đối với chất lượng không khí. Phần lớn ô nhiễm không khí tại các thành phố lớn trên thế giới là do phương tiện giao thông vận tải. 282
  4. Ngoài ra còn có khá nhiều các công trình khoa học nghiên cứu mối quan hệ giữa địa hình và nồng khí thải gần tổ hợp hệ thống giao thông và đường bộ [3,9,10]. Kết quả nghiên cứu xác định nồng độ các hạt bụi lơ lửng và bụi mịn tồn tại trong khí quyển gần đường giao thông đã được công bố. Sự phụ thuộc giữa nồng độ ô nhiễm không khí do phương tiện vận tải với vị trí và địa hình đã được xem xét. Mối quan hệ giữa độ phẳng của mặt đường với sự phát thải các chất ô nhiễm vào khí quyển từ tổ hợp hệ thống giao thông và đường bộ cũng đã được xác định. Ảnh hưởng của tốc độ và mật độ giao thông đến hàm lượng phát thải các chất ô nhiễm trong không khí cũng được nghiên cứu [1], nghiên cứu ảnh hưởng của các chất ô nhiễm do phương tiện giao thông thải ra đối với sức khỏe con người cũng được khảo sát [8]. Rất nhiều các nghiên cứu đã được thực hiện và cho thấy rằng, có sự phụ thuộc chặt chẽ giữa tỷ lệ phát sinh các bệnh về đường hô hấp và tim mạch phụ thuộc vào hàm lượng bụi trong không khí [7,8]. Ngày nay, ngày càng nhiều quốc gia quan tâm đến vấn đề bảo vệ môi trường vì sức khỏe của cộng đồng và chất lượng cuộc sống đô thị. 3. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu là đánh giá hiện trạng, phân tích nguyên nhân và tác hại của ô nhiễm không khí do hoạt động giao thông đường bộ, từ đó đề xuất các biện pháp làm giảm thiểu ô nhiễm môi trường không khí. 4. Nguyên nhân gây ô nhiễm không khí từ các phương tiện giao thông vận tải Nguyên nhân chính gây nên hiện tượng ô nhiễm không khí là do các phương tiện giao thông chạy bằng nhiên liệu hóa thạch có chứa một lượng lớn các sản phẩm dầu mỏ, và khi bị đốt cháy, chúng thải ra các chất gây ô nhiễm không khí gọi là khí thải. Đây là một trong các nguồn gây ô nhiễm không khí có tính di động (cụ thể là hoạt động giao thông đường bộ). Hầu hết các phương tiện giao thông hiện nay chạy bằng động cơ xăng và diesel để cung cấp năng lượng cho xe. Dầu mỏ được tạo thành từ các hydrocacbon, khi đốt chaý sẽ giải phóng một lượng lớn các chất ô nhiễm, như các khí độc hại, hạt bụi mịn và các hợp chất hữu cơ dễ bay hơi. Những chất này được thải ra từ động cơ ô tô, tích tụ trong không khí với số lượng lớn tại các khu vực thành phố và đường giao thông. Ngoài các khí thải, các hạt rắn cũng được giải phóng vào không khí, các hạt này được hình thành trong quá trình phanh xe đột ngột. Ngoài ra khi phanh gấp, sự phát thải lớn nhất các hạt bụi mịn không phải đến từ các khí thải ra trong quá trình đốt cháy nhiên liệu, mà được hình thành do sự tương tác giữa mặt đường và bánh xe ô tô. Trong trường hợp xe phanh gấp, chiếc xe để lại một vết lốp. Lúc này, ma sát giữa mặt đường và vỏ xe rất lớn dẫn đến mài mòn đệm, đĩa ly hợp của xe, mài mòn cao su (lên đến 1,6 kg/năm cho một xe ô tô con) và mặt đường [8]. Việc giải phóng các chất thải này vào không khí sẽ bao gồm các hạt cao su mịn, kim loại nhỏ và các hạt nhựa đường. Từ các kết quả nghiên cứu quan trắc cho thấy rằng, bụi mịn tích tụ trong không khí với nồng độ cao tại các đường giao thông, đường cao tốc khi mật độ phương tiện giao thông lớn. Ngoài ra, quá trình mài mòn này cũng là nguyên nhân chính khiến chất lượng mặt đường xấu đi, liên tục bị phá hủy do chênh lệch nhiệt độ lớn. 283
  5. Lượng chất ô nhiễm phát ra lớn nhất trong quá trình ô tô tăng tốc, vì đây là lúc động cơ tiêu thụ lượng nhiên liệu lớn nhất, đồng nghĩa với việc lúc này lượng khí phát thải ra ngoài dữ dội nhất. Tỷ lệ tương đối của lượng khí hydrocacbon (CH) và cacbon monoxit (CO) trên tổng lượng khí thải ra đạt giá trị lớn nhất trong quá trình phanh và chạy không tải, còn trong quá trình tăng tốc thì tỉ lệ tương đối của khí NO2 đạt cao nhất [6]. Hình 1: Sự phụ thuộc của lượng khí thải CO vào vận tốc của một xe ô tô con [6] Từ hình 1, ta thấy mức độ phát thải nhỏ nhất khi quan sát ở tốc độ xe chạy 70 km/h. Do đó, tốc độ này không chỉ an toàn nhất trong quá trình di chuyển của xe, mà còn không gây hại nhiều đến bầu khí quyển. Chế độ gió cũng đóng góp một vai trò quan trọng trong việc phát tán bụi và khí thải trong khí quyển. Trong điều kiện thời tiết lặng gió thì lượng khí thải chủ yếu tích tụ và tồn tại lâu dài trong không khí ở một khu vực nhất định. Đặc điểm của địa hình và định hướng không gian của chúng có tác động lớn đến điều kiện khí hậu, tạo ra các vùng vi khí hậu tương phản về nhiệt độ, hướng và tốc độ gió, tạo điều điện đặc biệt cho sự phân tán các chất ô nhiễm [9]. 5. Đánh giá tình trạng ô nhiễm không khí do phƣơng tiện vận tải Theo báo cáo Môi trường quốc gia năm 2016 cho biết, hầu hết các đô thị lớn của nước ta đang đối mặt với tình trạng ô nhiễm không khí ngày càng gia tăng. Mức độ ô nhiễm có tỷ lệ phân hóa khá rõ rệt tại từng địa điểm khác nhau trong đô thị. Mức độ ô nhiễm cao vượt ngưỡng cho phép quan sát tại các tuyến đường giao thông với mật độ cao. Trong các vấn đề ô nhiễm môi trường không khí tại các đô thị lớn Việt Nam thì vấn đề ô nhiễm không khí do bụi vẫn là vấn đề nổi bật nhất. Các chất khí ô nhiễm SO2, CO về cơ bản vẫn nằm trong giới hạn của Quy chuẩn Việt Nam (QCVN), riêng khí O3, NO2 đã có dấu hiệu ô nhiễm trong một số năm gần đây. Ô nhiễm bụi gồm bụi thô (TSP, PM10) và bụi mịn (PM2,5) ở ngưỡng cao, thậm chí có dấu hiệu tăng dần [1]. 284
  6. Hình 2: Diễn biến nồng độ TSP trung bình năm gần các tuyến đường giao thông tại các thành phố lớn, Nguồn: TCMT, 2016 Hình 3: Diễn biến nồng độ TSP trung bình năm gần các tuyến đường giao thông tại các thành phố vừa và nhỏ, Nguồn: TCMT, 2016 Từ biểu đồ trên, có thể thấy rằng, nồng độ ô nhiễm bụi trung bình năm gần các tuyến đường giao thông luôn vượt ngưỡng mức độ cho phép không chỉ tại các thành phố lớn, thậm chí vấn đề này cũng tồn tại ở các thành phố vừa và nhỏ. Theo thời gian, số lượng phương tiện vận tải ngày càng tăng nhanh chóng, đồng nghĩa là mức độ ô nhiễm sẽ tăng theo. Từ đó môi trường không khí đô thị xấu đi và gia tăng tác hại đến sự an toàn của cư dân trong đó. 6. Các chất gây ô nhiễm không khí từ tổ hợp hệ thống giao thông đƣờng bộ Theo các nghiên cứu cho thấy, có khoảng hơn 200 hóa chất đã được tìm thấy trong khí thải. Khí thải từ tổ hợp hệ thống giao thông và đường bộ bao gồm chủ yếu: cacbon monoxit (CO), các chất hữu cơ dễ bay hơi, nito oxit, cacbon dioxit (CO2) và chất rắn lơ lửng. Khi má phanh bị mài mòn một loạt các kim loại sẽ thoát ra ngoài không khí, bao gồm đồng, vanadi, molypden, niken và crom và khi lốp xe bị mài mòn thì sẽ phát thải ra cadimi, chì, kẽm [6]. 285
  7. Theo nghiên cứu của Ragkevok M.V. thống kê tại Liên Bang Nga cho thấy, lượng khí thải trong quá trình di chuyển và bảo dưỡng phương tiện được phân bổ như sau: xe chạy phát thải từ 66,57 đến 68,91%; hoạt động kiểm định kỹ thuật và sửa chữa ô tô phát thải từ 17,87 đến 20,4%; sản xuất nhiên liệu phát thải từ 11,02 đến 11,41%; sản xuất vật liệu để bảo dưỡng và sữa chữa phát thải từ 1,8 đến 2,06% [10]. Như chúng ta thấy, phần chất thải trong quá trình bảo dưỡng và sửa chữa phương tiện giao thông xấp xỉ bằng 1/3 lượng khí thải từ chuyển động của phương tiện, còn quá trình sản xuất nhiên liệu xấp xỉ bằng 1/6 lượng khí thải từ xe chạy. Bảng 1: Thành phần và lƣợng khí thải của mỗi loại xe [2] Lượng phát thải các khí độc , g/km NOx CnHn Dạng xe cơ giới (số (số SO2 Formalde Benzo[a] CO Bồ hóng liệu liệu hyde pyrene NO2) CH) Xe ô tô con 3,5 0,9 0,8 0,7 x10-2 1,5 x10-2 3,2 x10-3 0,3 x10-6 Xe tải nhỏ dưới 8,4 2,1 2,4 3,8 x10-2 2,8 x10-2 8,4 x10-3 0,8 x10-6 3,5t Xe tải từ 3,5 đến 6,8 6,9 5,2 0,4 5,1 x10-2 2,2 x10-2 2,1 x10-6 12t Xe tải trên 12t 7,3 8,5 6,5 0,5 7,3 x10-2 2,5 x10-2 2,6 x10-6 Xe buýt trên 3,5t 5,2 6,1 4,5 0,3 4,2 x10-2 1,8 x10-2 1,8 x10-6 Từ bảng 1 ta thấy các loại xe tải từ 3,5 tấn đến 12 tấn và trên 12 tấn là phương tiện thải ra lượng cacbon monoxit, nito dioxit và hydrocacbon nhiều nhất. Ngoài ra, xe buýt trên 3,5 tấn cũng phát thải chất ô nhiễm này với số lượng đáng kể. Lượng bụi nhỏ nhất quan sát thấy đối với xe ô tô con, còn lượng lớn quan sát được đối với các loại xe tải thuộc mọi hạng cân. Các loại xe tải và xe buýt có trọng lượng trên 3,5 tấn cũng phát thải ra một lượng lớn khí độc hại sulfur dioxit (SO2), nếu hít phải có thể gây viêm đường hô hấp. Formaldehyde, là một chất gây kích ứng mạnh đối với cơ thể, và benzo[a]pyrene, có tác dụng gây đột biến trên cơ thể, chủ yếu được thải ra từ các loại xe tải. Nguy hiểm nhất là các oxit nitơ, bởi vì chúng có ảnh hưởng tiêu cực nhất đến cơ thể con người. Phân tích những dữ liệu này, chúng ta có thể nói rằng tất cả những chất ô nhiễm này được thải ra với số lượng lớn chủ yếu từ xe tải. Khu vực chứa một lượng lớn các chất ô nhiễm độc hại là các tuyến đường cao tốc mà loại hình giao thông này thường xuyên di chuyển. Xe ô tô con cũng thải ra tất cả các chất này, nhưng ở mức độ nhẹ hơn. Ở các thành phố lớn, số lượng ô tô chiếm ưu thế, do đó có thể đánh giá rằng tổng lượng phát thải của các chất ô nhiễm không khí chính là từ lượng phát thải các phương tiện giao thông cụ thể là của ô tô và xe tải. 286
  8. Hầu hết các chất độc hại đều tập trung ở những tuyến đường giao nhau, các nút giao thông đông đúc. Tại nơi đường giao nhau, lượng chất độc hại lớn nhất được thải ra do phanh và dừng xe trước đèn tín hiệu giao thông và sau đó là quá trình tăng tốc khi đèn tín hiệu chuyển màu xanh. 7. Tác động của khí thải ô tô đối với sức khỏe con ngƣời Tồn tại sự phụ thuộc giữa tỷ lệ gia tăng nhiều loại bệnh với nồng độ ô nhiễm bụi trong khí quyển và các hợp chất khác tại khu vực gần đường giao thông. Hiện nay, chính quyền và người dân ngày càng quan tâm nhiều đến vấn đề ô nhiễm môi trường. Sức khỏe và sự phát triển bền vững của đô thị phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng môi trường sống. Các chất ô nhiễm độc hại tồn tại trong không khí không những có ảnh hưởng tiêu cực đến trạng thái của người tham gia giao thông, mà còn ảnh hưởng đến sức khỏe của dân cư sinh sống ven đường. Trong khí thải giao thông chứa rất nhiều tạp chất, và khi con người hít phải thì một lượng lớn kim loại nặng sẽ đưa vào cơ thể, hay bồ hóng, chất độc nguy hại. Đây là yếu tố ảnh hưởng đến sức khỏe con người do chúng có khả năng lắng trong phổi người [6]. Ngoài ra, mức độ nguy hiểm sẽ càng được tăng cao tại các khu vực dân cư do sự phát triển dày đặc của các tòa nhà, nên khả năng thông gió của khu vực này càng trở nên khó khăn, do đó khí thải không thể phát tán theo gió. Tại đây khí thải sẽ tạo thành các đám mây, tồn tại lở lửng trong không trung. Có nghiên cứu cho thấy rằng, những người sống gần đường cao tốc có nhiều khả năng bị ung thư hơn do tiếp xúc nhiều với các chất độc hại như: nitơ diôxit, nitơ, cacbon monoxit, formaldehyde, sulfur dioxit, chì, hydrocacbon, chất rắn lơ lửng, và vv…[8]. Tất cả những chất này đều lạ với cơ thể con người nên hệ thống miễn dịch sẽ cố gắng loại bỏ chúng, nhưng do sự gia tăng các chất có hại quá lớn, cơ thể không có thời gian để đào thải hết chúng ra ngoài, do vậy những chất này tích tụ trong đó và ngăn cản hoạt động trao đổi chất của cơ thể con người. 8. Đề xuất biện pháp giảm thiểu ô nhiễm không khí dƣới tác động của hoạt động giao thông trong đô thị Đối với tình trạng ô nhiễm không khí hiện nay, để giảm thiểu được các tác động tiêu cực do khí thải giao thông gây ra thì các biện pháp mang tính khoa học, hiệu quả và kinh tế nhất là kiểm soát chặt chẽ nguồn thải ô nhiễm giao thông. Nếu việc sử dụng phương tiện vận tải động cơ đốt trong sử dụng nhiên liệu hóa thạch không giảm thì chất lượng môi trường không khí sẽ càng ngày suy giảm nghiêm trọng. Hiện nay, triển vọng nhất là việc thay thế nhiên liệu xăng và dầu diesel bằng điện, từ đó chất lượng không khí trong đô thị sẽ được cải thiện đáng kể. Ngoài ra, biện pháp cây xanh được đánh giá là biện pháp bổ sung hiệu quả nhằm góp phần cải thiện môi trường vì có khả năng giữ và hấp thụ khí thải và tiếng ồn. Trên các đường phố chính của đô thị, không gian xanh còn được coi là phương tiện duy nhất để hài hòa các cảnh quan, xóa mờ ranh giới giữa kiến trúc và thiên nhiên, tạo nên sự mềm mại, tính thẩm mỹ và tăng sức hấp dẫn cho cảnh quan đô thị. Không gian xanh giúp làm giảm mức độ ô nhiễm không khí trên các đường phố chính trong đô thị dưới tác động của phương tiện vận tải thông qua sự hấp thụ các thành phần riêng lẻ các khí thải bằng tán lá, cũng như làm phân tán lên phía lớp khí quyển cao hơn. 287
  9. Ngoài ra, hiệu quả lớn nhất mà không gian xanh mang lại đó là giúp giảm tiếng ồn, việc làm giảm âm thanh xảy ra do sự phản xạ, hấp thụ và biến đổi tần số của rung động âm thanh. Tuy nhiên không nên đánh giá quá cao hiệu quả của không gian xanh trên đường phố và coi đó là biện pháp duy nhất để khử tiếng ồn. Giải pháp này nên được áp dụng như một phương pháp bảo vệ bổ sung, hỗ trợ làm giảm tiếng ồn. Để giảm nồng độ khí thải của không gian ven đường giao thông phụ thuộc vào 2 chỉ số chính là mật độ trồng cây và chiều cao của cây. Mô hình mô phỏng sự phân tán khí tại không gian ven đường trong điều kiện mở và trong điều kiện có vách ngăn không gian xanh được thể hiện qua Hình 4 [2]. Hình 4. Sự phân tán khí thải do phương tiện giao thông gây ra tại khu vực ven đường giao thông chính: a) trong trường hợp không có vách ngăn không gian xanh; b) 1-2 hàng – cây cao; c) – 2-3 hàng cây cao và có tầng lớp cây bụi phía dưới; số và đường viền – nồng độ khí thải [2]. Dựa trên mức độ ô nhiễm cho phép sử dụng các biện pháp bảo vệ sau [2]: - Trồng một hàng cây có tán che bụi cao 1,5m và một dải chiều rộng 3…4m – giảm 7…25% nồng độ ô nhiễm; - Hai hàng cây với tán che bụi cao 1,5m với độ rộng 10…12m – giảm 40…50% nồng độ ô nhiễm; - Bốn hàng cây với tán che bụi cao 1,5m với độ rộng 30…50% - giảm 65…100% nồng độ ô nhiễm; - Đường đắp chắn dạng đường đất, tường – giảm 70…90% nồng độ ô nhiễm; - Bố trí đường đào … giảm 15…40% nồng độ ô nhiễm. Ví dụ: Nếu mức độ ô nhiễm tại vị trí quan sát vượt quá mức giới hạn cho phép là 40%, đề xuất sử dụng biện pháp chắn hai hàng cây với tán che bụi cao 1,5m với độ rộng 10…12m. 288
  10. Ngoài ra, trong công tác quy hoạch đô thị, dựa vào địa hình của thành phố, đề xuất một số giải pháp bảo vệ môi trường khỏi ô nhiễm khí thải giao thông với việc tạo ra các bộ lọc hàng rào bao gồm hệ thống quảng trường và công viên. Đối với các thành phố có vị trí nhiều đồi núi hoặc thung lũng, cần quy hoạch hệ thống công viên tại các điểm đáy của địa hình và hệ thống khu vực cây xanh quanh các khu vực bãi đỗ xe nổi và ngầm, vị trí có nồng độ khí thải độc hại cao (Hình 5) [9]. Hình 5: Bố trí khu vực cây xanh cho thành phố địa hình thung lũng: (1) công viên; (2) hệ thống khu cây xanh; (3) hướng gió theo biểu đồ hoa gió của khu vực Đối với các thành phố có địa hình bằng phẳng, có thể áp dụng việc bố trí các khu vực cây xanh nằm xen kẽ tại những khu vực trọng điểm có nhiều phương tiện vận tải (Hình 5). Bố trí các khu cây xanh đặt nằm theo hướng gió, ở phía sau các bãi đỗ xe. Cần bố trí các công viên có dạng hình chữ nhật thuôn dài nằm dọc theo hướng gió và ở phía đối diện của thành phố, kết hợp cùng các dải cây bụi thấp nằm dọc ven đường giao thông nhằm tạo ra sự tuần hoàn không khí, từ đó giúp cho lượng khí ra vào thành phố được đi qua các vành đai lọc cây xanh [9]. Hình 6: Bố trí khu vực cây xanh cho thành phố địa hình bằng phẳng: (1) công viên; (2) hệ thống khu cây xanh; (3) hướng gió theo biểu đồ hoa gió của khu vực, (4) dải cây bụi thấp, (5) phương tiện giao thông 9. Kết luận Mức độ ô nhiễm không khí theo thời gian có thể sớm tiến tới mức độ báo động. Tình trạng ô nhiễm không khí đang ngày càng gia tăng cũng theo tốc độ phát triển công nghiệp hóa và hiện đại hóa của thành phố. Tổ hợp hệ thống giao thông đường bộ 289
  11. đang chiếm một tỉ trọng lớn vào việc ô nhiễm không khí tại các siêu đô thị. Trong quá trình vận hành và sử dụng hệ thống giao thông đường bộ, một lượng lớn các chất ô nhiễm đã được thải ra ngoài khí quyển. Hậu quả cuối cùng dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường và sự suy giảm sức khỏe của dân cư đô thị. Do đó, việc quy hoạch tạo ra những khu vực không gian xanh trong thành phố, cũng như xây dựng các đường cao tốc nằm ngoài thành phố có thể làm giảm đáng kể nồng độ và các tác động tiêu cực của khí thải từ các phương tiện giao thông đến môi trường. Ngoài ra, việc phát triển các phương tiện sử dụng động cơ điện cũng làm giảm lượng chất phát thải vào khí quyển và làm giảm tác động của chúng đối với môi trường và con người. Tài liệu tham khảo [1] Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia 2016, Chuyên đề Môi trường đô thị. Tổng cục môi trường [2] Nguyễn Phương Ngọc, 2020. Đánh giá mức độ ô nhiễm các khí thải độc hại trong khu vực không gian ven đường giao thông. Tạp chí Môi trường, Chuyên đề II. [3] Dusan Jandacka, Daniela Durcanska, Marek Bujdos. The contribution of road traffic to particulate matter and metals in air pollution in the vicinity of an urban road. Transportation research part Dtransportation and environment. 2017. No.50. Pp. 397-408. [4] Shireesha Y., Suresh B.V., Govinda Rao P. Emmissions reductions using catalyst converter. International Journal of ChemTech Research. 2016. No.3. Pp. 540-549. [5] Сотникова М.В., Демьянова В.С., Дярькин Р.А., Канеева А.Ш. Анализ и прогнозирование выбросов загрязняющих веществ в атмосферу от автотранспортного комплекса // Экология и Промышленность России. 2008. №7. С. 29-31. [6] Егорова О.С., Буркеева Д.Р., Гоголь Э.В., Тунакова Ю.А. Оценка вклада автотранспортных потоков в загрязнение атмосферного воздуха г. Казани // Вестник Казанского технологического университета. 2014. №16. С. 141-142. [7] Уланова Т.С., Антипьева М.В., Волкова М.В., Гилева М.И. Исследование содержания мелкодисперсных частиц в атмосферном воздухе вблизи автомобильных дорог // Анализ риска здоровью. 2016. №4(16). С. 38-46. [8] Дементьев А.А., Ляпкало А.А., Коновалов О.Е., Цурган А.М. Влияние автомобильного транспорта на качество жизни горожан, проживающих на разной удаленности от автомобильных дорог // Российский медико- биологический вестник им. Академика И.П. Павлова. 2016. №3. С. 67-73. [9] Щербатюк А.П. Влияние выбросов от автотранспорта на качество атмосферного воздуха городов России // Вестник Забайкальского государственного университета. 2014. №5. С. 59-64. [10] Радкевич М.В. Выявление значимости некоторых факторов, влияющих на загрязнение воздуха автомобильно-дорожным комплексом // Автомобильный транспорт (Харьков). 2013. №32. С.106-110. 290
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
7=>1