intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đánh giá kết quả bước đầu điều trị khe hở thành bụng bằng túi silo tại Bệnh viện Nhi Trung ương

Chia sẻ: Trần Thị Hạnh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:4

92
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bệnh lý khe hở thành bụng thường được điều trị bằng đóng bụng ngay thì đầu hoặc đặt túi silo trong những trường hợp lỗ thoát vị lớn và tạng thoát vị nhiều. Nghiên cứu được tiến hành nhằm đánh giá kết quả điều trị khe hở thành bụng bằng túi silo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đánh giá kết quả bước đầu điều trị khe hở thành bụng bằng túi silo tại Bệnh viện Nhi Trung ương

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU ĐIỀU TRỊ KHE HỞ THÀNH BỤNG<br /> BẰNG TÚI SILO TẠI BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG<br /> Nguyễn Văn Linh*, Nguyễn Thanh Liêm*, Bùi Đức Hậu*, Trần Minh Điển*<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Mục tiêu: Bệnh lý khe hở thành bụng thường được điều trị bằng đóng bụng ngay thì đầu hoặc đặt túi silo<br /> trong những trường hợp lỗ thoát vị lớn và tạng thoát vị nhiều. Nghiên cứu được tiến hành nhằm đánh giá kết<br /> quả điều trị khe hở thành bụng bằng túi Silo.<br /> Đối tượng phương pháp nghiên cứu: Một nghiên cứu hồi cứu tất cả các bệnh nhân khe hở thành bụng bắt<br /> buộc sử dụng túi Silo. Số liệu thu thập bao gồm: thời gian đặt túi, thời gian đóng bụng, thời gian cho ăn lần đầu<br /> tiên, thời gian cho ăn hoàn toàn, thời gian thở máy, số ngày nằm viện và các biến chứng.<br /> Kết quả: Từ năm 2008 đến nay, có 27 bệnh nhân được điều trị bằng phương pháp này, tỷ lệ nam/nữ là<br /> 15/12, cân nặng từ 1,5 đến 2,8 kg. 24 bệnh nhân điều trị thành công. Thời gian đặt túi silo trung bình là 17,7 giờ<br /> sau đẻ (từ 7 đến 50 giờ), thời gian đóng cân cơ thành bụng là 4,58 ngày (từ 2 đến 8 ngày), thời gian thở máy<br /> trung bình sau mổ là 5,2 ngày, thời gian cho ăn lần đầu trung bình là 12,8 ngày, thời gian ăn đầy đủ trung bình<br /> là 17,4 ngày, thời gian nằm viện trung bình là 21,1 ngày. Áp lực bàng quang sau mổ trung bình là 11 mm H2O<br /> (từ 5 đến 20cm H2O). 2 bệnh nhân phải đặt lại túi do tuột túi. 2 bệnh nhân bị thủng dạ dày do hoại tử được điều<br /> trị đóng ngay thì đầu thành công. Nhiễm trùng gặp ở 11 bệnh nhân, trong đó 2 bệnh nhân tử vong do nhiễm<br /> trùng huyết, 1 bệnh nhân là sơ sinh non yếu, cân nặng thấp.<br /> Kết luận: Như vậy, điều trị đặt túi silo cho những trường hợp thoát vị thành bụng nhiều là phương pháp<br /> điều trị hiệu quả, an toàn.<br /> Từ khóa: Bệnh lý khe hở thành bụng, Silo.<br /> <br /> ABSTRACT<br /> INITIAL RESULTS FOR GASTROCHISIS TREATMENT BY USING SILO IN NATIONAL CHILDREN’S<br /> HOSPITAL<br /> Nguyen Van Linh, Nguyen Thanh Liem, Bui Duc Hau, Tran Minh Dien<br /> * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 3 - 2011: 67 - 70<br /> Objective: Gastrochisis is traditionally managed by emergency primary closure, with a temporary silo<br /> reserved for large defects or large viscera unable to be closed primarily. The study was performed to evaluate the<br /> result of using silo in gastrochisis treatment.<br /> Methods: A retrospective review of all patients treated requiredly using silo was performed. The data<br /> collected includes: time of implementation of silo, time of abdominal closure, time to initation of enteral feeding,<br /> time to achievement of full enteral feeding, time of mechanical ventilation, length of stay and complications.<br /> Results: Between 2008 and the present, 27 patients were treated by using silo to cover the herniate viscera,<br /> male/female: 15/12, weight range, 1.5-2.8 kg. Twenty-four of 27 infants were successfully treated by silo closure.<br /> Mean time of Silo insertion is 17.7 hours (7 - 50 hours). Mean times to final fascial closure is 4.58 days (2 - 8<br /> days), mean time of postoperative mechanical ventilation is 5.2 days, mean time of first feed is 12.8 days, mean<br /> time of full feed is 17.4 days, length of hospitalization is 21.1 days. Postoperative bladder presure is 11.0 mm H20<br /> * Bệnh Viện Nhi Trung Ương<br /> Tác giả liên lạc: BS Nguyễn Văn Linh,<br /> <br /> Chuyên Đề Ngoại Nhi<br /> <br /> ĐT: 0928981198<br /> <br /> Email: nhpsurlinh@gmail.com<br /> <br /> 67<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011<br /> <br /> (5 - 20cm H2O). Two patients were needed silo reinsertion. Two patients had stomach perforation were treated by<br /> initial closure succesfully. Infection was found in 11 patients, 2 of them cause death due to untreatable sepsis, one<br /> death due to low birth weight infant.<br /> Conclusions: Silo closure permits safe, gentle and gradual reduction of exposed viscera leading to<br /> permanent abdominal wall closure.<br /> Key words: Gastrochisis, Silo.<br /> <br /> ĐẶT VẤN ĐỀ<br /> Khe hở thành bụng là một bệnh lý đã được<br /> biết đến từ thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên<br /> bởi Aulus Cornelius Celsus. Đến năm 1943,<br /> Watkin báo cáo trường hợp đầu tiên điều trị<br /> thành công bệnh lý này bằng phương pháp<br /> đóng cân cơ thành bụng thì đầu(12). Tuy nhiên,<br /> phương pháp này được cho là không phù hợp vì<br /> sự phát triển không tương xứng của hồi sức, thở<br /> máy sơ sinh và được cho là gây nguy hiểm vì tạo<br /> nên sự chèn ép hô hấp và các mạch máu do tăng<br /> áp lực ổ bụng. Để khắc phục hiện tượng này,<br /> năm 1948 Gross đã sử dụng vạt da bụng che<br /> phủ chỗ thành bụng khuyết. Tuy nhiên tỷ lệ tử<br /> vong vẫn còn cao và tồn tại thoát vị thành bụng<br /> lớn. Năm 1969, Schuster sử dụng “Teflon mesh”<br /> để điều trị thoát vị thành bụng có màng bọc.<br /> Allen và Wrenn đã biến đổi phương pháp này<br /> thành túi silo để điều trị khe hở thành bụng<br /> thành công năm 1969(12, 14). Từ đó, nhiều phương<br /> thức được biến đổi dựa trên phương pháp này<br /> đã được áp dụng thành công.<br /> Năm 1995, Fischer sử dụng túi silo có vòng<br /> xoắn lò xo để che phủ ruột thoát vị tại giường do<br /> đó không cần dùng đến chỉ khâu vào thành<br /> bụng và gây mê(14), từ đó có rất nhiều cải<br /> tiến(8,9,10,13). Tại bệnh viện Nhi Trung Ương,<br /> chúng tôi điều trị khe hở thành bụng theo nhiều<br /> phương pháp: đóng bụng ngay thì đầu và có sử<br /> dụng túi silo. Trong nghiên cứu này, chúng tôi<br /> tiến hành đánh giá kết quả điều trị đối với<br /> những bệnh nhân dùng kỹ thuật đặt túi silo.<br /> <br /> Mục tiêu nghiên cứu<br /> Bệnh lý khe hở thành bụng thường được<br /> điều trị bằng đóng bụng ngay thì đầu hoặc đặt<br /> túi silo trong những trường hợp lỗ thoát vị lớn<br /> và tạng thoát vị nhiều. Nghiên cứu được tiến<br /> <br /> 68<br /> <br /> hành nhằm đánh giá kết quả điều trị khe hở<br /> thành bụng bằng túi silo.<br /> <br /> ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br /> Từ tháng 1/2009 đến tháng 6/2011 chúng tôi<br /> có 27 bệnh nhân khe hở thành bụng phải điều trị<br /> bằng đặt túi silo. Khi đến bệnh viện, tất cả các<br /> bệnh nhân đều được chuyển đến đơn vị hồi sức<br /> sơ sinh: ủ ấm, truyền dịch, tiêm vitamin K, che<br /> phủ bảo vệ tránh làm tổn thương thêm các tạng<br /> thoát vị, làm các xét nghiệm cơ bản… Tất cả các<br /> bệnh nhân đều được đặt ống nội khí quản và<br /> gây mê để đặt túi silo tại phòng mổ. Nếu đường<br /> kính của lỗ thoát vị nhỏ không đủ để ruột chui<br /> vào ổ bụng thì sẽ được mở rộng lên trên theo<br /> đường trắng giữa. Bệnh nhân sau mổ được<br /> chuyển lại khoa hồi sức tích cực để chăm sóc.<br /> Chỗ khe hở giữa thành bụng và túi silo được che<br /> phủ và thay băng hàng ngày bằng gạc tẩm<br /> betadin hoặc mỡ penicillin. Các quai ruột thoát<br /> vị sẽ nhỏ lại và chui dần vào ổ bụng mà không<br /> sử dụng dây buộc hoặc clamp để dồn ruột vào ổ<br /> bụng. Khi các quai ruột đã nằm ở vị trí thuận lợi,<br /> phẫu thuật viên sẽ quyết định thời điểm đóng<br /> cân cơ thành bụng. Sau khi đóng bụng, phẫu<br /> thuật viên sẽ đo áp lực bàng quang và chuyển<br /> bệnh nhân về hồi sức để chăm sóc theo quy<br /> trình hậu phẫu.<br /> Tất cả các thông số và diễn biến trong quá<br /> trình điều trị đều được ghi chép và đánh giá lại,<br /> xử lý theo thống kê y học SPSS.<br /> <br /> KẾT QUẢ<br /> Trong tổng số 27 bệnh nhân có 24 bệnh nhân<br /> sống chiếm 88,9%, có 3 bệnh nhân tử vong 2 do<br /> nhiễm trùng huyết, 1 do sơ sinh non yếu, cân<br /> nặng thấp. Cân nặng trung bình là 2,23 (từ 1,5<br /> đến 2,8 kg). Đường kính lỗ thoát vị từ 2 đến 4<br /> cm. Hầu hết các bệnh nhân sau đẻ được chuyển<br /> <br /> Chuyên Đề Ngoại Nhi<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011<br /> đến viện mà không được đặt sonde dạ dày,<br /> truyền dịch, tạng thoát vị bên ngoài được che<br /> phủ thô sơ bằng gạc ẩm, nhiệt độ trung bình khi<br /> đến viện là 35,7 độ C. Thời gian đặt túi Silo<br /> trung bình là 17,7 ± 8,7 giờ (từ 7 đến 50 giờ).<br /> Trong quá trình đặt túi Silo, có 2 trường hợp bị<br /> hoại tử gây thủng dạ dày do quá trình vận<br /> chuyển đã được tiến hành khâu lại thành dạ dày<br /> thành công, không trường hợp nào tử vong. Có<br /> 4 bệnh nhân có ruột quay dở dang điều trị ở thì<br /> mổ đóng bụng. Thời gian đóng bụng trung bình<br /> là 4,6 ± 1,8 ngày (từ 2 đến 8 ngày). Áp lực bàng<br /> quang trung bình sau đóng bụng là 11,0 ± 3,5<br /> cmH2O (từ 5 đến 20cm H2O), 24/27 bệnh nhân<br /> không cần thay đổi áp lưch đường thở sau đóng,<br /> chỉ có 3 bệnh nhân cần thiết phải tăng áp lực<br /> này. Thời gian rút máy thở trung bình là 5,2 ± 3,6<br /> ngày (từ 1 đến 16 ngày). Thời gian cho ăn lần<br /> đầu trung bình là 12,8 ± 4,8 ngày, thời gian cho<br /> ăn hoàn toàn là 17,4 ± 5,5 ngày. Thời gian nằm<br /> viện trung bình là 21,1 ± 7,8 ngày. Trong nghiên<br /> cứu này có 10 trường hợp bị viêm phổi, 1 trường<br /> hợp nhiễm trùng vết mổ, không có trường hợp<br /> nào bị viêm ruột hoại tử.<br /> <br /> BÀN LUẬN<br /> Mục đích của việc điều trị bệnh lý khe hở<br /> thành bụng bằng túi silo là bảo vệ và đưa dần<br /> nội dung thoát vị vào ổ bụng và đóng cân cơ<br /> thành bụng. Trước đây, có nhiều phương pháp<br /> được sử dụng nhằm đóng thành bụng ngay khi<br /> phát hiện ra bệnh hoặc che phủ các tạng thoát vị<br /> bằng các chuyển vạt da thành bụng. Tuy nhiên<br /> các phương pháp này đều có những hạn chế do<br /> nội dung thoát vị lớn gây nên là tăng áp lực ổ<br /> bụng sau mổ tạo nên hội chứng khoang ổ bụng<br /> mà hậu quả tức thì là chèn ép hạn chế hô hấp,<br /> chèn ép các mạch máu lớn gây tổn thương tiếp<br /> tục đến các quai ruột và các tạng khác như thận,<br /> tim. Năm 1951, Baggot đã mô tả các hậu quả của<br /> việc đóng bụng dưới áp lực gây nên toác thành<br /> bụng, đặc biệt ở các trường hợp tử vong do điều<br /> trị khe hở thành bụng ở trẻ sơ sinh(4). Nhiều tác<br /> giả đã mô tả sự thay đổi của việc điều khe hở<br /> thành bụng bằng túi silo khác biệt chủ yếu là<br /> <br /> Chuyên Đề Ngoại Nhi<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> làm giảm áp lực thở, rút máy thở sớm, ít biến<br /> chứng và giảm thời gian nằm viện so với điều trị<br /> bằng đóng bụng ngay thì đầu. Hiện nay, chúng<br /> tôi đã tiến hành đặt túi silo thường quy cho<br /> những bệnh nhân này và cải thiện được kết quả<br /> điều trị.<br /> Điều trị bằng túi silo là phương pháp được<br /> tiến hành đơn giản có thể tiến hành ngay tại<br /> giường điều trị ở hồi sức ngoại, tại phòng<br /> đẻ(6,10,11). Trong nghiên cứu này của chúng tôi,<br /> đặt túi silo được tiến hành tại phòng mổ sau<br /> khi bệnh nhân đã được gây mê. Mặc dù nhiều<br /> nghiên cứu đã chỉ ra rằng gây mê không nhất<br /> thiết phải áp dụng thường quy, tuy nhiên<br /> trong nhóm bệnh nhân của chúng tôi, hầu hết<br /> các bệnh nhân đều đến bệnh viện muộn gây<br /> nên sự thương tổn ở ruột như phù nề, dính cần<br /> được tiến hành bóc tách, chuẩn bị một cách<br /> cẩn thận để có thể đưa vào túi bảo vệ. Mặt<br /> khác, gây mê, giãn cơ và giảm đau tốt cũng<br /> hạn chế tối đa hậu quả do chấn thương và có<br /> thể đưa được một phần ruột thoát vị vào ổ<br /> bụng ngay ở giai đoạn này.<br /> Việc sử dụng túi silo để lùi ngày đóng cân cơ<br /> thành bụng làm giảm các thương tổn về ruột và<br /> phổi do áp lực. Sau khi tổng kết y văn, Jeffrey B<br /> và Marc J.S (năm 2000) chỉ ra mối quan hệ qua<br /> lại giữa hội chứng khoang ổ bụng và sự thương<br /> tổn các tạng như ruột, thận, tim, hệ cơ và thần<br /> kinh(4). Sự thay đổi về thể tích dù nhỏ trong ổ<br /> bụng cũng ảnh hưởng đến hô hấp, thận, các<br /> mạch máu và làm tăng tỷ lệ tử vong(2,3). Trong<br /> nghiên cứu của chúng tôi, áp lực bàng quang<br /> sau đóng bụng thấp, trung bình là 11,0 ± 3,5<br /> cmH2O (từ 5 đến 20c m H2O), 24/27 bệnh nhân<br /> không cần thay đổi áp lực đường thở sau đóng,<br /> chỉ có 3 bệnh nhân cần thiết phải tăng áp lực<br /> này. Thời gian rút máy thở trung bình là 5,2 ± 3,6<br /> ngày (từ 1 đến 16 ngày). Thời gian cho ăn lần<br /> đầu trung bình là 12,8 ± 4,8 ngày, thời gian cho<br /> ăn hoàn toàn là 17,4 ± 5,5 ngày. Trong phương<br /> pháp phẫu thuật này, chúng tôi không dùng bất<br /> kỳ biện pháp nào để dồn ruột trong giai đoạn<br /> trước khi đóng bụng và treo thành bụng để làm<br /> <br /> 69<br /> <br /> Nghiên cứu Y học<br /> <br /> Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 3 * 2011<br /> <br /> tăng thể tích ổ bụng. Như vậy, ổ bụng không<br /> chịu áp lực nào sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho<br /> mạch máu lưu thông tốt, thể tích hô hấp tốt, các<br /> quai ruột không chịu áp lực trong suốt quá trình<br /> điều trị. Theo chúng tôi, khi áp lực ổ bụng giảm,<br /> mặc dù không làm giảm thời gian thở máy<br /> nhưng sẽ hạn chế ảnh hưởng của hội chứng<br /> khoang, chúng tôi đã giảm được tối đa hiện<br /> tượng này. Điều này cho phép các quai ruột bị<br /> tổn thương trong ổ bụng được phục hồi nhanh<br /> hơn vì không chịu tác động của vòng xoắn bệnh<br /> lý hội chứng khoang ổ bụng và do đó, thời gian<br /> cho bệnh nhân ăn sẽ sớm hơn và rút ngắn được<br /> thời gian nằm viện. Khi nghiên cứu đối chứng<br /> giữa hai nhóm điều trị đóng bụng thì đầu và<br /> đóng bụng sau khi dùng túi silo, nhiều tác giả<br /> cũng đã khẳng định điều này(6,10,13).<br /> Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ nhiễm<br /> trùng nói chung còn cao do thời gian bệnh nhân<br /> đến bệnh viện muộn, hạn chế trong quá trình<br /> hồi sức sơ sinh và bảo vệ ruột gây nên thời gian<br /> phơi nhiễm ruột cao trên bệnh nhân sơ sinh non<br /> yếu. Nếu quá trình này được cải tiến tốt hơn,<br /> chúng tôi hy vọng sẽ giảm được tỷ lệ nhiễm<br /> trùng và tỷ lệ tử vong.<br /> <br /> KẾT LUẬN<br /> Sử dụng túi Silo trong điều trị bệnh lý<br /> khe hở thành bụng là một phương pháp hiệu<br /> quả và an toàn. Tuy nhiên số lượng bệnh<br /> nhân của chúng tôi còn ít, cần tiến hành<br /> nghiên cứu lớn hơn.<br /> <br /> 70<br /> <br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> 1.<br /> <br /> 2.<br /> 3.<br /> <br /> 4.<br /> 5.<br /> <br /> 6.<br /> <br /> 7.<br /> <br /> 8.<br /> <br /> 9.<br /> <br /> 10.<br /> <br /> 11.<br /> <br /> 12.<br /> 13.<br /> <br /> 14.<br /> <br /> Banyard D, Ramones T, et al (2010). Method to our madness:<br /> an 18-year retrospective analysis on gastroschisis closure. J<br /> Pediatr Surg.45(3):579-84.<br /> Bendahan J, Coetzee CJ, et al (1995). Abdominal compartment<br /> syndrome. J Trauma;38:152-3.<br /> Fietsam Jr R, Villalba M,, et al (1989). Intra-abdominal<br /> compartment syndrome as a complication of ruptured<br /> abdominal aortic aneurysm repair. Am Surg; 55:396-402.<br /> Jeffrey Bailey and Marc J Shapiro (2000). Abdominal<br /> compartment syndrome. Crit Care, 4:23–29.<br /> Jensen AR, Waldhausen JH, (2009). The use of a springloaded silo for gastroschisis: impact on practice patterns and<br /> outcomes. Arch Surg.144(6):516-9.<br /> Lansdale N, Hill R, et al (2009);. Staged reduction of<br /> gastroschisis using preformed silos: practicalities and<br /> problems. J Pediatr Surg. 44(11):2126-9.<br /> Lobo JD, Kim AC, et al (2009). No free ride The hidden costs<br /> of delayed operative management using a spring-loaded silo<br /> for gastroschisis. J Pediatric Surg. X45(7):1426-32.<br /> Machida M, Takamizawa S, Yoshizawa K (2011). Umbilical<br /> cord inverting technique: a simple method to utilize the<br /> umbilical cord as a biologic dressing for sutureless<br /> gastroschisis closure. Pediatr Surg Int. 27(1):95-7.<br /> Minkes RK, Langer JC, et al (2000). Routine insertion of a<br /> silastic spring-loaded silo for infants with gastroschisis.J<br /> Pediatr Surg. 35(6):843-6.<br /> Owen A, Marven S, Jackson L, et al (2006). Experience of<br /> bedside preformed silo staged reduction and closure for<br /> gastroschisis. J Pediatr Surg.;41(11):1830-5.<br /> Pastor AC, Phillips JD, et al (2008). Routine use of a SILASTIC<br /> spring-loaded silo for infants with gastroschisis: a multicenter<br /> randomized controlled trial. J Pediatr Surg. 43(10):1807-12.<br /> Swartz KR, Harrison MW, et al (1986). Selective management<br /> of gastroschisis. Ann Surg. Feb;203(2):214-8.<br /> Tsai MH, Huang HR, et al (2010). Clinical features of<br /> newborns with gastroschisis and outcomes of different initial<br /> interventions: primary closure versus staged repair. Pediatr<br /> Neonatol. 51(6):320-5.<br /> Wu Y, Vogel AM, et al (2003). Primary insertion of a silastic<br /> spring-loaded silo for gastroschisis. Am Surg.69(12):1083-6.<br /> <br /> Chuyên Đề Ngoại Nhi<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2