TRAO ĐỔI HỌC THUẬT VÀ THÔNG TIN KHOA HỌC<br />
<br />
82<br />
<br />
ĐÀO TẠO TỪ XA: THÁCH THỨC Ở THẾ KỶ 21<br />
Ngày nhận bài: 02/12/2014<br />
Ngày nhận lại: 10/12/2014<br />
Ngày duyệt đăng: 15/12/2014<br />
<br />
Lê Thị Thanh Thu1<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
<br />
Bài viết giới thiệu quá trình phát triển của đào tạo từ xa. Từ khi xuất hiện đến nay hơn 2<br />
thế kỷ, đào tạo từ xa đã khẳng định vai trò thiết yếu của mình trong việc xây dựng xã hội học tập<br />
và phát triển không ngừng bằng cách kết hợp với những triết lý và nguyên tắc đào tạo mới để tạo<br />
nên diện mạo mới: đào tạo từ xa, đào tạo mở, đào tạo mở và từ xa, đào tạo mở và mềm dẽo.<br />
Ngoài ra, thách thức đối với đào tạo từ xa trong thời gian tới xuất phát từ thay đổi ở đặc điểm<br />
người học, yêu cầu mới từ bối cảnh tổ chức đào tạo từ xa cũng như việc nhu cầu đào tạo mềm<br />
dẽo cũng được tập trung phân tích. Tổ chức đào tạo từ xa đã và đang thay đổi một cách mềm<br />
dẽo hơn với các mô hình truyền tải thông tin khác nhau để đáp ứng nhu cầu học tập đa dạng và<br />
để tiếp tục khẳng định mình trong thế kỷ 21.<br />
Từ khóa: Đào tạo từ xa, đào tạo mở, đào tạo mở và từ xa, đào tạo mềm dẽo.<br />
ASBTRACT<br />
This article reviewed the evolution process of distance education. Since its existence two<br />
centuries ago, distance education has contributed potentially to the development of learning<br />
society and continuously developed in the way of combining the emerging philosophy and<br />
learning principles to operate in new forms: distance education, open learning, open and<br />
distance learning and open and flexible learning. The challenges to the distance education<br />
originating from the changes in student profiles, changes in information transferred technology<br />
trends and more demand of flexible learning are also discussed. Distance education has<br />
changed dramatically in the 21st century to meet the fast changing demand and to secure their<br />
status and impact.<br />
Keywords: Distance education, open learning, open and distance learning, flexible<br />
learning.<br />
1. Đặt vấn đề1<br />
Đào tạo từ xa (ĐTTX) là một quá trình<br />
đào tạo tưởng như là có sự cách biệt giữa<br />
người dạy và người học về mặt thời gian và<br />
không gian học qua học liệu như: giáo trình,<br />
băng hình, băng tiếng, mạng internet, …dưới<br />
sự tổ chức, trợ giúp của nhà trường (Quyết<br />
định số 40/2003/QĐ-BGD&ĐT).<br />
Đào tạo mở là một khái niệm triết lý tìm<br />
kiếm cách loại bỏ rào cản người học được học<br />
tập và thành công trong học tập suốt đời. Nó<br />
gồm 2 tính chất: (1) Tiếp nhận mở: Người học<br />
viên có thể ghi danh học chương trình mà họ<br />
1<br />
<br />
TS, Trường Đại học Mở TP.HCM. Email:thu.ltt@ou.edu.vn<br />
<br />
muốn bất kỳ lúc nào, tại bất kỳ địa điểm nào<br />
và học nhanh chậm tùy thích; (2) Chọn lựa<br />
chương trình mở: Khi học, người học có thể<br />
chọn học những gì mình thấy cần thiết và phù<br />
hợp (Lewis, 1995). Khái niệm này bắt đầu phổ<br />
biến từ những năm 1960 và được hiện thực<br />
hóa bằng sự thành lập Đại học Mở Anh Quốc<br />
(Tait, 2008). Tiếp nối Đại học Mở Anh Quốc,<br />
các đại học mở khác trên thế giới được thành<br />
lập đều theo đuổi cùng nguyên tắc đào tạo mở.<br />
Theo trào lưu này, phần lớn các cơ sở ĐTTX<br />
thành lập sau đó chấp nhận khái niệm đào tạo<br />
mở và tổ chức thực hiện theo nguyên tắc của<br />
đào tạo mở và đào tạo mở trở nên kết chặt với<br />
<br />
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM – SỐ 1 (40) 2015<br />
<br />
ĐTTX và có thể xem như đồng nghĩa. Từ đó<br />
đào tạo mở và từ xa xuất hiện (ODL) (Evans,<br />
1995). Các hình thức đào tạo mở xuất hiện<br />
thường trực tiếp hay gián tiếp áp dụng phương<br />
pháp đào tạo từ xa. Ngoài ra, vì tính chất của<br />
đào tạo mở phù hợp với nhu cầu học tập suốt<br />
đời của mọi người nên thông thường đào tạo<br />
mở cũng nối kết mật thiết với giáo dục suốt<br />
đời hay giáo dục thường xuyên.<br />
Đào tạo mở và từ xa (trong bài này sử<br />
dụng thay thế thuật ngữ ĐTTX) tạo nên những<br />
hình thức giảng dạy và học tập mới, đặc biệt<br />
với sự phát triển của CNTT, như đào tạo trực<br />
tuyến (online learning) và đào tạo qua thiết bị<br />
di động (mobile learning). Nhìn chung, ĐTTX<br />
có thể được xem như là một phương pháp<br />
thích hợp cho việc theo đuổi các mục tiêu giáo<br />
dục khác nhau, từ học tập chương trình cử<br />
nhân đến việc nâng cao kỹ năng nghề nghiệp<br />
chuyên môn, bổ sung kiến thức, thỏa mãn sở<br />
thích và nhu cầu tự học và tự chủ trong kế<br />
hoạch học tập cá nhân, góp phần nâng cao dân<br />
trí, phát triển nguồn nhân lực, đáp ứng quyền<br />
được học tập của mỗi người dân. Tại các quốc<br />
gia đang phát triển, nơi người dân sống trong<br />
tình trạng kinh tế hạn hẹp và sự cô lập ở vùng<br />
nông thôn, GDTX được xem như là phương<br />
tiện cung cấp cơ hội thứ hai cho những người<br />
không thể theo học tập trung trong hệ thống<br />
giáo dục truyền thống mặt giáp mặt, giảm<br />
thiểu các rào cản về thời gian, địa điểm, hoàn<br />
cảnh kinh tế, tuổi tác và trình độ ban đầu<br />
(Belawati, 2010).<br />
Ở nước ta, hệ thống giáo dục quốc dân<br />
gồm giáo dục chính quy và thường xuyên.<br />
Giáo dục thường xuyên bao gồm hình thức<br />
giáo dục từ xa và vừa làm vừa học. Từ những<br />
năm 1960, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội<br />
và Đại học Bách khoa Hà nội đã tổ chức<br />
những khóa học hàm thụ góp phần đào tạo<br />
nguồn nhân lực ngay tại địa phương, cơ quan<br />
trong thời kỳ chiến tranh. Đến nay ĐTTX đã<br />
có những bước phát triển đáng kể: ngày càng<br />
có nhiều người tham gia học từ xa và ngày<br />
càng có nhiều cơ sở đào tạo ĐTTX, chủ yếu<br />
tập trung vào đào tạo và cấp bằng cử nhân. Cả<br />
nước hiện có 21 trường đại học tổ chức ĐTTX<br />
với ước tính khoảng 161.000 sinh viên đang<br />
theo học 97 ngành đào tạo.<br />
<br />
83<br />
<br />
2. Các thế hệ ĐTTX<br />
Cho đến nay, có thể tổng kết được 4 giai<br />
đoạn ĐTTX (Unesco, 2002). Mỗi giai đoạn có<br />
hình thức tổ chức riêng xuất phát từ phương<br />
tiện hay môi trường truyền tải kiến thức phổ<br />
biến vào thời điểm đó. Thế hệ đầu tiên của<br />
ĐTTX xuất hiện khoảng 2 thế kỷ trước<br />
(Moore, Dickson-Deane & Galyen (2011)), là<br />
đào tạo hàm thụ, vẫn còn được sử dụng rộng<br />
rãi đến ngày nay đặc biệt tại các nước đang<br />
phát triển. Đào tạo hàm thụ dựa vào tài liệu in<br />
ấn kèm theo băng hình, băng tiếng và liên lạc<br />
qua bưu điện và điện thoại. Thế hệ thứ hai sử<br />
dụng hệ thống truyền thanh và truyền hình<br />
trong đào tạo. Bài giảng trong lớp được ghi<br />
hình hay thu âm lại rồi truyền đến cho người<br />
học hay truyền trực tiếp. Hình thức này vẫn<br />
được áp dụng hiện nay và được kết hợp với<br />
internet để gia tăng tương tác giữa thầy và<br />
người học (Hannay & Newvine, 2006). Một số<br />
trường cung cấp thêm hỗ trợ học tập tại lớp.<br />
Thế hệ thứ ba sử dụng hệ thống đa<br />
phương tiện bao gồm tài liệu in ấn, băng hình,<br />
băng tiếng và bài giảng trên mạng. Việc cung<br />
cấp thêm hỗ trợ học tập tại lớp vẫn được thực<br />
hiện. Các chương trình đào tạo thường được<br />
chuẩn bị thông qua nhóm chuyên gia (giảng<br />
viên, kỹ thuật viên,…) để truyền đến cho các<br />
nhóm người học có số lượng lớn. Thế hệ thứ<br />
tư dựa vào internet, hiện ngày càng được áp<br />
dụng rộng rãi trên thế giới. Bài giảng đa<br />
phương tiện (tài liệu, băng hình, băng tiếng và<br />
bài giảng) được số hóa và được truyền đến<br />
từng cá nhân qua máy tính, cùng với việc tiếp<br />
cận cơ sở dữ liệu, thư viện điện tử giúp thực<br />
hiện được việc tương tác giữa thầy - trò, trò trò, cá nhân - cá nhân, cá nhân - tập thể và tập<br />
thể - tập thể, có sự tương tác theo thời gian<br />
thực hay không theo thời gian thực. Chính vì<br />
thế khái niệm ĐTTX cũng thay đổi theo thời<br />
gian. Từ định nghĩa của Honeyman & Mller<br />
(1993) ĐTTX là quá trình đào tạo trong đó<br />
phần lớn hoặc toàn bộ quá trình đào tạo có sự<br />
tách biệt giữa người dạy và người học. Đến<br />
nay ĐTTX theo Keegan (1999) là quá trình<br />
đào tạo tưởng như là có sự cách biệt giữa<br />
người dạy và người học về thời gian và không<br />
gian mà thôi vì với sự hỗ trợ của công nghệ, sự<br />
<br />
84<br />
<br />
TRAO ĐỔI HỌC THUẬT VÀ THÔNG TIN KHOA HỌC<br />
<br />
cách biệt giữa người dạy và người học đang<br />
thu hẹp dần.<br />
3. Lợi ích từ ĐTTX<br />
Lợi ích của ĐTTX ngày càng được xác<br />
lập rõ rệt điển hình qua 4 điểm nổi bật sau: Thứ<br />
nhất, ĐTTX thúc đẩy sự cởi mở của nền giáo<br />
dục quốc dân, tạo cơ hội cho các đối tượng gặp<br />
khó khăn về thời gian, địa điểm, hoàn cảnh<br />
kinh tế, tuổi tác, trình độ tiếp cận tri thức. Hình<br />
thức đào tạo mềm dẽo, linh hoạt này tạo điều<br />
kiện cho việc học tập suốt đời và giáo dục cho<br />
mọi người, góp phần thúc đẩy sự phát triển<br />
kinh tế-xã hội của đất nước. Ngoài ra, ĐTTX<br />
cũng tác động một cách sâu xa đến tất cả các<br />
hệ thống giáo dục và đóng vai trò quyết định<br />
trong việc tạo nên xã hội tri thức toàn cầu<br />
(Unesco, 2002). Thứ hai, ĐTTX nuôi dưỡng và<br />
phát triển việc học tập suốt đời của cá nhân<br />
nhằm hoàn thiện nhân cách, mở rộng hiểu biết,<br />
nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp<br />
vụ để cải thiện chất lượng cuộc sống, tìm việc<br />
làm, tự tạo việc làm và thích nghi với đời sống<br />
xã hội (Luật Giáo dục, 2005).<br />
Thứ ba, ĐTTX giúp sinh viên tiết kiệm<br />
thời gian vì họ không cần phải di chuyển đến<br />
trường. Sinh viên có học theo thời gian biểu tự<br />
chọn phù hợp với hoàn cảnh của họ. Ngoài ra<br />
với việc kiến thức và thông tin thay đổi nhanh<br />
chóng, các nhà chuyên môn có thể luôn cập<br />
nhật với kiến thức mới mà không cần phải di<br />
chuyển xa đến nơi cung cấp các khóa bồi<br />
dưỡng chuyên môn. Thứ tư, ĐTTX giúp tiết<br />
kiệm chi phí. Chi phí giảng dạy cũng có thể<br />
được tiết kiệm vì các cơ sở học khác nhau có<br />
thể có cùng một giảng viên và với những môn<br />
học trên mạng giảng viên có thể giảng dạy cho<br />
nhiều người hơn (Wheatkey & Greer, 1995).<br />
4. Rào cản đối với ĐTTX<br />
Tuy nhiên ĐTTX cũng có những vấn đề,<br />
đặc biệt trong bối cảnh nước ta.Vấn đề thứ<br />
nhất là chất lượng chưa ổn định của ĐTTX.<br />
Thái độ của người quản lý xem ĐTTX như<br />
loại hình đào tạo hạng hai và giảng viên cho<br />
rằng chất lượng lớp dạy từ xa chỉ thường thấp<br />
hơn hoặc bằng chất lượng của lớp học truyền<br />
thống, nên họ không cố gắng để điều chỉnh,<br />
cải tiến CTĐT hay bài giảng cho phù hợp với<br />
giảng dạy từ xa và chấp nhận sự dễ dãi trong<br />
<br />
đào tạo (Valentine, 2002). Hiện tại, ngoài việc<br />
các đại học danh tiếng truyền thống còn có cả<br />
đại học quốc tế tham gia cung cấp các chương<br />
trình ĐTTX. Sự cạnh tranh gay gắt giữa<br />
trường tổ chức ĐTTX có thể khiến các trường<br />
chấp nhận sự dễ dãi để thu hút sinh viên, ảnh<br />
hưởng đến chất lượng ĐTTX về lâu dài (Lê,<br />
2014). Ngoài ra, tài liệu học tập biên soạn<br />
riêng cho người học từ xa còn rất thiếu. Tất cả<br />
những điều này làm cho xã hội chưa đánh giá<br />
cao bằng cấp từ xa. Nó được xem như là một<br />
hình thức đào tạo dễ dãi, không yêu cầu cao ở<br />
người học, kiểm tra nhẹ nhàng và tỷ lệ tốt<br />
nghiệp cao (Lâm, 2009).<br />
Vấn đề thứ hai liên quan đến người học.<br />
Không phải tất cả sinh viên đều phù hợp với<br />
loại hình học tập này.Theo Hannay và<br />
Newvine (2006) khi học từ xa sinh viên có thể<br />
tiếp nhận khó khăn kiến thức liên quan đến kỹ<br />
thuật, khoa học hay định lượng. Ngoài ra,<br />
Threkeld và Brzoska, (Valentine, 2002 trích)<br />
cho rằng người học từ xa thành công cần có<br />
một số tính cách như khả năng chấp nhận sự<br />
mơ hồ, khả năng tự chủ trong học tập và mềm<br />
dẽo, linh hoạt. So với sinh viên chính quy, học<br />
từ xa đòi hỏi người học phải tập trung hơn,<br />
quản lý thời gian tốt hơn, biết sử dụng công<br />
nghệ, có khả năng làm việc độc lập và làm<br />
việc nhóm. Môi trường học tập độc lập có thể<br />
làm người học thiếu tập trung và ngại học.<br />
Trạng thái đơn độc này cũng làm cho người<br />
học dần trở nên thiếu năng động, thiếu tự tin<br />
và suy giảm động lực học tập (Tạ, 2009).<br />
Tóm lại, người học từ xa gặp nhiều khó<br />
khăn trong việc nắm bắt kiến thức mới hơn so<br />
với người học chính quy, và vì thế khả năng<br />
thành công, hoàn tất chương trình học của họ<br />
không cao bằng. Tỷ lệ bỏ học của sinh viên từ<br />
xa hiện ước tính khoảng 30-50%, gấp đôi tỷ lệ<br />
bỏ học của sinh viên chính quy. Riêng tỷ lệ bỏ<br />
học từ xa ở Châu Á có thể lên tới 50%-60%<br />
(Latifah, Sumalee & Ramli, 2009).<br />
4.1. Thách thức đối với tổ chức ĐTTX<br />
ở thế kỷ 21<br />
Thách thức đối với tổ chức ĐTTX trong<br />
thế kỷ 21 chủ yếu ở 3 lĩnh vực xuất phát từ<br />
việc thay đổi đối tượng học từ xa, thay đổi<br />
trong bối cảnh tổ chức đào tạo và sự ra đời của<br />
<br />
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM – SỐ 1 (40) 2015<br />
<br />
hình thức đào tạo mới, mềm dẽo hơn.<br />
4.2. Thách thức: Thay đổi ở đặc điểm<br />
người học từ xa<br />
Đặc điểm người học từ xa đã thay đổi so<br />
với những đặc điểm điển hình của người học<br />
các thập niên trước như lớn tuổi, đang đi làm,<br />
ở xa cơ sở đào tạo, chịu nhiều thiệt thòi trong<br />
cơ hội tiếp cận giáo dục, … (Wallace, 2007).<br />
Người học từ xa ngày nay thích những khóa<br />
học ngắn và chia thành các module kết nối<br />
nhỏ. Ngày càng nhiều người học cư trú tại<br />
thành phố lớn, học toàn thời gian, trẻ hơn, học<br />
nhiều môn hơn/học kỳ, … Họ là những người<br />
giải quyết vấn đề một cách thực tế. Họ có mục<br />
tiêu học tập rõ ràng, biết rõ vì sao phải học<br />
kiến thức cụ thể nào đó, chỉ học những gì liên<br />
quan, mong muốn được phát triển nghề<br />
nghiệp, và làm việc tốt hơn. Họ vẫn bị hạn chế<br />
về thời gian và tiền bạc. Họ cảm thấy không an<br />
tâm có thể hoàn thành học tập từ xa, và luôn<br />
tìm đến cách giảng dạy phù hợp với phong<br />
cách học của họ, có đủ tương tác với giảng<br />
viên, có hệ thống hỗ trợ học tập và hướng dẫn<br />
kỹ thuật (Howell, Williams & Lindsay, 2003).<br />
4.3. Thách thức: Thay đổi trong bối<br />
cảnh tổ chức ĐTTX<br />
Bối cảnh giáo dục thế kỷ 21 thay đổi rất<br />
nhanh do sự phát triển vũ bảo của công nghệ<br />
và nhu cầu xã hội đòi hỏi các cơ sở ĐTTX đáp<br />
ứng một cách hiệu quả để tiếp tục phát triển.<br />
Ngày càng nhiều đại học tổ chức các môn học,<br />
cấp học, thông qua hình thức ĐTTX vì sinh<br />
viên học từ xa ngày nay bao gồm cả sinh viên<br />
học theo hệ đào tạo không chính quy truyền<br />
thống và số lượng ngày càng lớn số sinh viên<br />
trẻ, học chính quy vì các khóa học có sự hỗ trợ<br />
của kỹ thuật số cung cấp cho sinh viên ở lớp<br />
học truyền thống nhiều cơ hội tự học hơn<br />
(Anderson, 2001).<br />
Trong bối cảnh internet hiện trở thành<br />
thống lãnh trong các phương tiện/môi trường<br />
giảng dạy, tổ chức ĐTTX đã và đang dịch<br />
chuyển sự tập trung chủ yếu vào kỹ thuật dựa<br />
và hệ thống mạng và truyền tải dựa vào<br />
internet. Nhu cầu về hệ thống quản lý môn học<br />
hiệu quả và dịch vụ mạng ngày càng tăng do<br />
sự phát triển của đào tạo online. Ngoài ra, yêu<br />
cầu về triển khai chiến lượt học tập và giảng<br />
<br />
85<br />
<br />
dạy khai thác năng lực của công nghệ cũng<br />
ngày càng tăng (Howell, Williams & Lindsay,<br />
2003). Sự phát triển nhanh về công nghệ hứa<br />
hẹn tạo ra cơ hội ứng dụng làm cho việc giảng<br />
dạy hiệu quả hơn và việc nghiên cứu để khai<br />
thác hiệu quả các công nghệ mới đã trở nên<br />
bức thiết.<br />
4.4. Thách thức: Đào tạo mềm dẽo<br />
Với sự thay đổi nhanh chóng trong đặc<br />
điểm người học, công nghệ phục vụ đào tạo,<br />
và sự thay đổi nhanh của nhu cầu xã hội thì<br />
đào tạo mềm dẽo có thể đáp ứng nhu cầu<br />
người học hiện nay hơn đào tạo mở. Đào tạo<br />
mềm dẽo cung cấp cho người học sự chọn lựa<br />
5 lĩnh vực sau trong quá trình học (Tucker &<br />
Morris, 2011): (1) mềm dẽo về nội dung; (2)<br />
mềm dẽo về điều kiện đầu vào; (3) mềm dẽo<br />
về phương pháp giảng dạy; (4) mềm dẽo về tài<br />
liệu học tập và (5) mềm dẽo về phương tiện<br />
truyền tải kiến thức.<br />
Đào tạo mở và đào tạo mềm dẽo đều tập<br />
trung vào thỏa mãn sự chọn lựa của người học,<br />
áp dụng phương pháp giảng dạy lấy người học<br />
làm trung tâm, và loại bỏ các rào cản tiếp cận<br />
học tập để đáp ứng nhu cầu học tập của người<br />
học. Các đại học mở tổ chức đào tạo với một<br />
số đặc điểm mềm dẽo nhất định mà thôi và các<br />
trường cung cấp đào tạo mềm dẽo chưa hẳn đã<br />
có tính chất mở ở đầu vào.<br />
5. Cơ hội đối với tổ chức ĐTTX ở thế<br />
kỷ 21<br />
Mục tiêu hàng đầu của các loại hình đào<br />
tạo trong tương lai cũng là cung cấp cho người<br />
học nhiều lựa chọn và nhiều sự kiểm soát hơn<br />
trong kế hoạch, phương pháp và thời gian học.<br />
Trong bối cảnh hiện nay trên thế giới và cả<br />
nước ta, các chính phủ đều cam kết phát triển<br />
xã hội học tập thì tính chất mở và mềm dẽo<br />
thường xuyên được nhấn mạnh vì những đặc<br />
điểm ưu việt của nó. Những tính chất này<br />
thường đi chung với nhau và có thể dùng thay<br />
thế cho nhau và còn được gọi là học tập mở và<br />
mềm dẽo (OFL). Những tính chất này là đặc<br />
trưng cho khuynh hướng giáo dục mới vì nó<br />
được chấp nhận rộng rãi như là hình thức đào<br />
tạo hiệu quả cao. Một trong những ví dụ điển<br />
hình của loại hình học tập này là sự xuất hiện<br />
của MOOC (khóa học trực tuyến, mở, dành<br />
<br />
86<br />
<br />
TRAO ĐỔI HỌC THUẬT VÀ THÔNG TIN KHOA HỌC<br />
<br />
cho mọi người). Việc xuất hiện của các khóa<br />
học trực tuyến, mở, dành cho mọi người càng<br />
thúc đẩy sự phát triển nhanh và sâu sắc hơn<br />
cũng như làm gia tăng số lượng các trường<br />
truyền thống tham gia tích cực và đào tạo mở.<br />
Các trường truyền thống hiện cũng chú trọng<br />
phát triển chương trình của mình dành cho loại<br />
hình sinh viên không truyền thống, đặc biệt là<br />
những chương trình giáo dục thường xuyên,<br />
với các phương pháp mềm dẽo, đáp ứng yêu<br />
cầu của người học muốn được mềm dẽo hơn<br />
về thời gian, nơi học tập và hình thức học tập.<br />
Khuynh hướng đào tạo trong tương lai là<br />
các đại học mở ngày càng tiến gần hơn đến<br />
đào tạo mềm dẽo và các đại học truyền thống<br />
(chính quy) cũng vậy để tăng dịch vụ giáo dục<br />
và ảnh hưởng. Các đại học mở và đại học<br />
truyền thống hiện đều mở rộng và tăng cường<br />
sự mềm dẽo trong cách truyền tải kiến thức<br />
của mình. Họ có khuynh hướng ngày càng<br />
mềm dẽo trong việc tổ chức đào tạo cho số<br />
sinh viên ngày càng lớn và đa dạng, ứng dụng<br />
công nghệ trong giáo dục, để có được sự linh<br />
hoạt trong đào tạo và giảm chi phí (Panto &<br />
Comas-Quin, 2013). Ranh giới giữa đào tạo<br />
mở và truyền thống ngày càng mờ đi và cả 2<br />
loại hình đào tạo này cũng phải đối mặt với<br />
những thách thức mới từ khuynh hướng này<br />
(Li & Lam, 2014).<br />
6. Khuynh hướng đào tạo trong tương<br />
lai: (Blended learning) Học tập hỗn hợp<br />
Học tập hỗn hợp là hình thức kết hợp<br />
giảng dạy trực tiếp và trực tuyến/qua máy tính,<br />
thiết bị di động (Graham, 2004). Một cách bao<br />
quát hơn, học tập hỗn hợp cơ bản là sự kết hợp<br />
của nhiều hình thức học trong một môn học<br />
(Li & Cheung, 2013). Hoc tập mở và mềm dẽo<br />
đã được dùng để tăng hiệu quả đào tạo cho các<br />
phương pháp hiện hành hay truyền thống<br />
thông qua các hình thức truyền tải hỗn hợp<br />
(Peter & Deimann, 2013). Với ý định tận dụng<br />
<br />
những ưu điểm của hình thức học tập truyền<br />
thống và trực tuyến, học tập hỗn hợp bao gồm<br />
giảng dạy tại lớp và giảng dạy qua mạng thông<br />
qua việc kết hợp sự mềm dẽo của E-learning<br />
và môi trường học tập truyền thống. Học tập<br />
hỗn hợp tập trung cung cấp cho người học<br />
nhiều chọn lựa về cách học tập và phát triển<br />
tính mềm dẽo để có thể đáp ứng đa dạng người<br />
học. Học tập hỗn hợp cung cấp nhiều cơ hội<br />
tương tác giữa thầy và người học hơn, tăng sự<br />
gắn kết của người học vào quá trình học, tăng<br />
sự mềm dẽo trong môi trường dạy và học, và<br />
cơ hội tiếp tục học để phát triển.Với sự phát<br />
triển của kỹ thuật thông tin liên lạc, các trường<br />
sẽ có khả năng tạo nên nhiều mô hình học tập<br />
hỗn hợp hướng đến tăng hiệu quả học tập<br />
nhiều hơn cho người học (Tham & Tham,<br />
2011).<br />
Các mô hình dạy và học dựa vào nguyên<br />
tắc này đang phát triển mạnh, nổi bật là mô<br />
hình học tập linh hoạt (flipped classroom) hiện<br />
được thực hiện thông qua nhiều môi trường<br />
học đa dạng, nhưng chủ yếu bao gồm: (1) hoạt<br />
động tương tác học tập tại lớp và (2) các bài<br />
tập trên máy tính được cá nhân hóa ngoài lớp<br />
học (Bishop & Verleger, 2013) hay bài giảng,<br />
bài tập được ghi hình và truyền qua internet<br />
hay thiết bị di động (SV xem trước khi học và<br />
cũng cố bài sau khi học tại lớp), … (Educause,<br />
2012).Việc thiết kế các loại môi trường học<br />
khác nhau tùy thuộc vào mục tiêu, đối tượng<br />
học, khả năng tiếp cận (tại lớp hay qua mạng<br />
hay cả hai) và nội dung cần truyền tải.<br />
Nhìn chung, các cơ sở tổ chức đào tạo từ<br />
xa ý thức được những thách thức trong giai<br />
đoạn mới và họ đã và đang thay đổi hình thức<br />
tổ chức đào tạo một cách mềm dẽo hơn thông<br />
qua các mô hình học tập hỗn hợp, linh hoạt để<br />
đáp ứng nhu cần học tập đa dạng đến từng cá<br />
nhân và để tiếp tục tồn tại, phát triển và khẳng<br />
định mình trong thế kỷ 21.<br />
<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
Anderson, T. (2001). The hidden curriculum in distance education: An update overview. Change,<br />
33(6), 28-35.<br />
Belawati, T (2010). Conceptual origins. In T. Belawati & J. Baggaley, Policy and Practice in<br />
Asian Distance Education. New Delhi: Sage, 3-11.<br />
<br />