Đâu là sự thật về tông tích của Lý Công Uẩn?
lượt xem 7
download
Sự kiện Lý Công Uẩn không có cha cụ thể, mà con của thần nhân, cùng với những câu thơ sấm kí ở làng Cổ Pháp, rồi những điềm báo có thiên tử ra đời …là biểu hiện của một cuộc vận động chính trị có tổ chức của giới trí thức tam giáo, đứng đầu là nhà sư đầy tài năng Vạn Hạnh, hoàn thành tâm nguyện trăm năm của quần chúng mà đại diện ban đầu là thiền sư Định Không của hương Diên Uẩn. ...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Đâu là sự thật về tông tích của Lý Công Uẩn?
- Đâu là sự thật về tông tích của Lý Công Uẩn? Sự kiện Lý Công Uẩn không có cha cụ thể, mà con của thần nhân, cùng với những câu thơ sấm kí ở làng Cổ Pháp, rồi những điềm báo có thiên tử ra đời …là biểu hiện của một cuộc vận động chính trị có tổ chức của giới trí thức tam giáo, đứng đầu là nhà sư đầy tài năng Vạn Hạnh, hoàn thành tâm nguyện trăm năm của quần chúng mà đại diện ban đầu là thiền sư Định Không của hương Diên Uẩn. Cuộc hôn phối có ý đồ, với đạo diễn kiêm chủ hôn Vạn Hạnh tại chùa Thiên Tâm, núi Tiêu Sơn, giữa bà Phạm thị Ngà với “vị thần nhân dựa cột chùa”, một người họ Lý đang ẩn tích, đã được tiến hành. Thiền sư Vạn Hạnh tạo điều kiện cho bà họ Phạm vào rừng gặp “ thần nhân”, một cuộc hôn nhân bí mật, trong đó cha của Lý Công Uẩn có thể là một người đầy uy vọng của họ Lý vùng Cổ Pháp-Siêu Loại, tức Diên Uẩn-Thổ Lỗi, đang trong thời kì phải mai danh ẩn tích. Sự kiện bà mẹ Lý Công Uẩn phải vào rừng sinh sống, rồi khi đứa bé lên 3, bà phải gửi bé cho nhà sư Lý Khánh Văn nuôi dạy và cuối cùng giao cho sư Vạn Hạnh đào tạo chú bé Lý Công Uẩn thành hoàng đế, có thể là cơ sở của giả thuyết vừa nêu. Còn giả thuyết Lý Công Uẩn là con ruột của sư Vạn Hạnh thì quá ư táo bạo và bị các nhà sử học bác bỏ. Một vùng đất có nhiều phật tử như Cổ Pháp-Siêu Loại, không thể mù quáng đảnh lễ một vị quốc sư, đứng vào hàng tam bảo, lại làm việc phạm giới luật. Cuộc “cách mạng lam”, chuyển giao quyền lực từ họ Lê, đã mất lòng dân, sang họ Lý, phản ánh một xu thế mới là thay chế độ quân trị sang nhân trị. Thực ra, việc Lý Vạn Hạnh lãnh đạo lớp trí thức tam giáo, nòng cốt là trí thức Phật giáo, cùng nhau giáo dưỡng và làm cuộc vận động để đưa Lý Công Uẩn lên ngôi vua, là kế thừa « tâm nguyện » trăm năm kể từ thời thuộc Đường, thế kỷ IX, ấy là « củng cố và phát triển miền Cổ Pháp, đưa những người con cháu của vọng tộc Lý lên ngôi vua, vừa tạo độc lập dân tộc Việt mà cũng chấn hưng đạo pháp » của thiền sư Định Không (730-808). 1/Lý Công Uẩn, người thỏa niềm khát vọng của dân tộc Việt vào cuối thế kỷ X: 1
- Nhà nước Văn Lang sụp đổ, dân tộc Việt phải chịu ách đô hộ của phong kiến phương bắc. Dẫu vài lần dân tộc Việt quật khởi, tưởng chừng nối được quốc thống, nhưng thời gian độc lập quá ngắn, phải lo chống giữ, không đủ vật lực tài lực để vun bồi văn hoá giáo dục, nên dân tộc Việt rất chậm phát triển vào thời Bắc thuộc. Vì lẽ đó mà triều Ngô, chưa có sự nghiệp đáng kể thì đất nước vấp phải loạn thập nhị sứ quân. Triều Đinh cũng chưa tạo được một cộng đồng thuần hậu thì gặp nạn tôi giết vua; để lại di chứng ấy cho Tiền Lê, với Lê Long Đỉnh, giết anh giành ngôi, làm việc lỗi đạo… Các triều vua Đinh Lê, bó hẹp trong vùng núi Ninh Bình, rất lợi thế về quân sự, có quân công trong lịch sử, nhưng không đủ sức tạo nên một kinh đô Hoa Lư phát triển toàn diện ; thậm chí để lại những việc làm quá ư vô đạo! Thời bấy giờ đã có một Phong Khê với bề dày văn hoá Văn Lang, một trung tâm Phật Giáo Luy Lâu-Thuận Thành, phía đông sông Hồng, nam sông Đuống, đã phát triển bền vững…Đại bộ phận nhân dân có nhu cầu bức thiết về văn hoá, có khát vọng về một minh quân, biết đáp ứng lòng dân…Và Lý Công Uẩn đã xuất hiện kịp thời để đáp ứng nhu cầu bức thiết ấy. Lý Công Uẩn không phải l à con thần cháu thánh của truyền thuyết, chẳng phải là thiên tử của vị ngọc hoàng mơ hồ nào đó của cổ tích …mà ngài là một vì vua đươc nhân dân “hoài thai” suốt một thời đau đáu cho tiền đồ dân tộc; được sự giáo dưỡng đầy tâm huyết của lớp trí thức tam giáo tiến bộ của thế kỷ X. 2
- Chùa Cổ Pháp, còn gọi là chùa Dặn, nơi nhà sư Lý Khánh Văn nuôi dưỡng Lý Công Uẩn từ tuổi lên 3 Giới trí thức tiến bộ lúc bấy giờ, đứng đầu là thiền sư Vạn Hạnh, phải chọn lựa một con đường cho dân tộc. Trong tam giáo thì phải thừa nhận Phật giáo là mạnh nhất về cả tinh thần lẫn vật chất. Nho giáo chưa có lực lượng quần chúng rộng lớn như Phật giáo; hơn nữa việc học theo Khổng Mạnh lúc bấy giờ chưa thịnh hành lắm, ít nhiều “đồng loã” với “Tống nho”, đạo của những kẻ xâm lược, bao giờ cũng chủ trương đưa An Nam vào quỹ đạo bình nam của Thiên triều phương bắc. Đại bộ phận dân chúng làm sao quên được cái ách đô hộ nghiệt ngã ấy và làm sao quên được đại quân Tống do Hầu Nhân Bảo chỉ huy, từng giày xéo nước Việt. Những làng xã thuộc lưu vực sông Hồng, đến thế kỉ X đã có rất nhiều chùa lớn, đã đào tạo nhiều thiền sư giỏi giáo lý nhà Phật mà cũng uyên thâm tứ thư ngũ kinh.Vậy đường hướng giáo dục lúc bấy giờ là chọn Phật giáo làm quốc giáo nhưng lồng ghép Nho Lão kiểu tam giáo đồng nguyên vậy. Lý Thái Tổ cùng vị cố vấn tuyệt vời Vạn Hạnh, đã có những quyết sách đúng đắn, biết dụng thời, tuỳ thế đưa đất nước Đại Việt phát triển bền vững, tạo dựng nền móng cho một thời LÝ -TRẦN độc lập tự chủ, được ngẫng cao đầu đối với lân bang, kéo dài khoảng 400 năm. 3
- Tượng Thiền sư Vạn Hạnh ở núi Tiêu sơn. Khi lên ngôi, Lý Thái Tổ cho dựng rất nhiều chùa và độ diệp cho hàng vạn vị sư. Thực ra lúc bấy giờ, chùa là trường học, các sư là thầy giáo của một đường hướng giáo dục lúc ấy. Các phật tử đến chùa trước lễ Phật, sau nghe sư thuyết pháp để trí tuệ được mở mang mà lòng thiện cũng được xiển dương. Chủ trương đúng đắn ấy tạo cho dân tộc Việt một sự nhất thống, trên dưới một lòng; đủ sức chống trả sức mạnh Tống nho. Xây dựng mới là việc cần làm, đào tạo người mới cho công cuộc cải cách mới là khát khao của giới trí thức lãnh đạo lúc bấy giờ. Vùng Ninh Bình, cái nôi của kinh đô Hoa Lư, chỉ thích hợp cho việc thủ hiểm về mặt quân sự, nh ưng nó không thể là đầu mối giao thông, không thể là nơi đắc dụng của thương nghiệp, không là nơi tụ hội những trí 4
- thức giỏi, nghĩa là không đủ tiền đề cho sự mở mang đất n ước . Vì thế cho nên, giới lãnh đạo họ Lý phải dời đô ra thành Đại La mà thôi.Thành Đại La đâu chỉ là cát địa theo thuyết phong thuỷ, mà thành Đại La còn là trung tâm của một vùng văn hoá có bề dày. Dẫu thành Đại La một thời là An nam đô hộ phủ của những quan thứ sử nh ưng nó còn là nơi hội tụ anh tài hoạt động trên mọi lĩnh vực, luôn âm thầm gìn giữ bản sắc dân tộc, lấy triết lý Phật giáo làm kim chỉ nam, lấy chùa chiền làm nơi tu học của mọi giới và tạo những ổ đề kháng chống lại những gì thuộc về ngoại lai, có nguy cơ làm tan rã cộng đồng dân tộc Việt.Vì vậy khi Lý Thái Tổ quyết định rời bỏ Hoa Lư, để ra Đại La thành là một sự bùng vỡ ý thức “cách mạng”, đã nung nấu từ lâu. Kinh đô Thăng Long của Đại Việt tự chủ đã ra đời, hợp lòng người (ý trời), hợp địa lợi ( vật lực tài lực sung mãn của châu thổ sông Hồng ) và đạt lẽ nhân hoà ( cư dân vùng nông nghiệp sông Hồng đã có trình độ văn hoá cao, khá thuần hậu với các minh triết Việt). Lý Công Uẩn đã xuất hiện đầy huyền thoại nhưng cũng vì những huyền thoại ấy mà sự thực về gốc gác của ngài cả ngàn năm sau vẫn là một dấu hỏi nhức nhối ! 2/ Một số vấn đề chưa giải quyết dứt điểm trong việc tìm kiếm tông tích của Lý Công Uẩn : Khi tìm tông tích của Lý Công Uẩn, giới nghiên cứu quan tâm các địa danh Đình Bảng, Dương Lôi, Hoa Lâm. Có thời các nhà nghiên cứu cho rằng Đình Bảng là quê nội và Dương Lôi là quê ngoại của Lý Công Uẩn, hai làng nội ngoại cách nhau bởi rừng Báng, có mộ thiên táng của bà Phạm Thị Ngà (thân mẫu của Lý Công Uẩn) và về sau trở thành vùng đất « Sơn lăng cấm địa »với lăng mộ của các vua triều Lý. Có nhà nghiên cứu cho rằng ở Đình Bảng có Đền Đô thờ 8 vua Lý và như thế cha ruột của Lý Công Uẩn là quốc sư Lý Vạn Hạnh. Tất nhiên giới nghiên cứu đã bác bỏ hướng nghiên cứu này từ vài năm nay. Gần đây lại phát hiện ở đình Dương Lôi thờ 8 vua Lý làm thành hoàng, có đền thờ Lý Thánh mẫu (thờ Minh Đức Thái Hậu Phạm Thị Ngà), Chùa Cha Lư (tức chùa Minh Châu) thờ Phật và thờ bà Phạm Thị Ngà nữa. Lý Công Uẩn chào đời trong một túp lều ở 5
- phía sau chùa Cha Lư (chùa Minh Châu). Một số nhà sử học lại tạm thời kết luận Dương Lôi là quê nội của Lý Công Uẩn, còn Hoa Lâm( Đông Anh) là quê ngo ại.Tuy nhiên làng Dương Lôi hiện còn nhiều người họ Phạm, có mối quan hệ huyết thống với bà Phạm Thị Ngà, trong khi đó ở Hoa Lâm có nhiều người họ Nguyễn (gốc Lý), khiến nhiều nh à nghiên cứu vẫn còn băn khoăn về nguyên quán Hoa Lâm của bà Phạm Thị Ngà. Nhà nghiên cứu Chu Minh Khôi viết : « Khi chúng tôi đề cập về Hoa Lâm, ông Nguyễn Văn Quyết, trưởng thôn Dương Lôi ở Bắc Ninh lại đưa ra quan điểm rất khác với những người ở Hoa Lâm. Theo ông Quyết, ở Dương Lôi vẫn còn dòng họ Phạm nhận là dòng họ của bà Phạm Thị Ngà. Trong khi, ở Hoa Lâm lại có dòng họ Nguyễn nhận là hậu duệ của tôn thất nhà Lý, như vậy chưa đủ khẳng định Hoa Lâm là quê hương bà Phạm Thị Ngà. Bởi Hoa Lâm nằm kề kinh đô Thăng Long, lại ở ngay ngã 3 hợp lưu của sông Hồng và sông Đuống, nên được các vương tôn nhà Lý chọn làm nơi xây cung thất nghỉ ngơi, giải trí, săn bắn. Hoa Lâm chỉ hình thành sau khi nhà Lý đã lên ngôi, như vậy việc tại Hoa Lâm có dòng hậu duệ của các vương tôn nhà Lý còn truyền đến ngày nay là hoàn toàn có thể lý giải được. ».(Giác Ngộ online). Một số nhà sử học dựa vào hai chứng tích để minh chứng rằng Hoa Lâm là quê mẹ của Lý Thái Tổ : Đoạn văn khắc chữ Hán trên bia Lý gia linh thạch (khắc vào năm 1793) "…Đông Ngạn, Hoa Lâm nhân Phạm mẫu, tiêu dao kỳ tự, thường kiến nhất thần hầu… » ở chùa Tiêu và đôi câu đối cổ: "Mạch tụ quân vương truyền thắng địa/Tích lưu Lý mẫu quán danh phương" bảo lưu ở đình thôn Thái Đường ở xã Mai Lâm. Tuy nhiên văn khắc này là do người đời sau khắc vào năm 1793 nên độ tin chưa cao. Cách đây vài năm, ở Hà Nội có tổ chức một hội thảo ngày 27/12/2008 nhằm trao đổi vấn đề tông tích của Lý Công Uẩn, nhưng cuộc hội thảo vẫn chưa khẳng định được gốc gác của Lý Công Uẩn. Điều nổi cộm là các thành viên hội thảo thấy rằng các học giả, nhà nghiên cứu, nhà văn đặt vấn đề Lý Công Uẩn là con ruột của Lý Vạn Hạnh là không thuyết phục. Tuy nhiên công bằng mà nói, cũng qua sự tìm tòi tông tích của Lý Công Uẩn ở Cổ Pháp, Bắc Ninh của các nhà nghiên cứu và đã công bố tại hội thảo, càng ngày càng có thêm dữ kiện giúp các nhà nghiên cứu có hy vọng tìm được dòng dõi của Lý Công Uẩn. 6
- G.S Hoàng Xuân Chinh - Chủ tịch Hội Khảo cổ học Việt Nam nêu ý kiến :“Chưa thể khẳng định chắc chắn rằng, hai làng Dương Lôi và Hoa Lâm là quê hương nhà L ý bởi chứng cứ đưa ra chưa thật đầy đủ, và không phải ngẫu nhiên, Đền Đô lại được xây dựng trên đất Đình Bảng. Tuy nhiên, ý kiến đưa ra tại cuộc tọa đàm này sẽ góp phần gợi mở cho những hướng nghiên cứu tiếp theo”. PGS.TS Tống Trung Tín - Viện trưởng Viện Khảo cổ học Việt Nam gợi ý: “Việc phát hiện lan can sấu đá là minh chứng cho việc tồn tại của công trình kiến trúc cung đình tại Hoa Lâm. Những di vật tìm thấy ở nơi đây cũng cho thấy, đây là nơi cư dân sinh sống liên tục từ thời Hán cho đến Tùy Đường kéo dài tới thời Lê. Riêng về vấn đề gốc tích quê hương nhà Lý cần phải đi sâu và nghiên cứu thêm nữa. Những hiện vật đang ẩn dưới lòng đất sẽ là nguồn tư liệu phong phú và thuyết phục cho những nhận định mới của sử học”. Xét về tình riêng thì vua Lý Thái Tổ cũng có nỗi niềm là con không có cha ruột một cách chính danh, nhưng xét về nghĩa chung của cộng đồng dân tộc Việt thì ngài là đứa con tuyệt vời của quảng đại quần chúng. Ngài được quần chúng có văn hoá thai nghén, đựơc tấm lòng nhất thống của nhân dân nuôi dưỡng và được lớp trí thức tam giáo tôn vinh. Chính Lý Công Uẩn đã ý thức đầy đủ điều ấy, và đã không phụ lòng quần chúng, không phụ lòng lớp trí thức mong mỏi nơi ngài. Khi mới lên ngôi, Lý Công Uẩn chưa vội truy phong cho ông bà nội. Việc này bị sử thần phê phán nhà vua làm không đúng điển lễ . Thực ra, vị cố vấn thông thái Vạn Hạnh thừa biết điều ấy, nhưng chưa truy phong ông bà nội của ngài là vì trước đó đã tạo huyền thoại Lý Công Uẩn là con thần. Đây là một trong những nguyên nhân khiến giới nghiên cứu khó trả lời câu hỏi cha ông của Lý Công Uẩn là ai. Nhưng rồi Lý Công Uẩn cũng phải truy phong cha là Hiển Khánh Vương mà không là Hiển Khánh Đế (?). Dữ kiện này phản ánh một điều sâu kín của Lý triều : Lý Thái Tổ truy phong ngầm cho ông nội của ngài đến bậc đế chăng ? 7
- 3/ Phải chăng Lý Công Uẩn là cháu nội của sứ quân Lý Lãng Công của vùng Siêu Loại ? Nghiên cứu thời loạn thập nhị sứ quân, chúng tôi để ý một vị sứ quân chiếm cứ vùng Siêu Loại , có trung tâm Phật giáo Thuận Thành- Luy Lâu; đó là sứ quân Lý Lãng Công, tức là Lý Khuê, một vị hùng trưởng của miền đất nằm hai bờ sông Đuống. Lý Khuê hay Lý Lãng Công là sứ quân chiếm cứ miền đất Thổ Lỗi, sau gọi là Siêu Loại. Năm 967 ông bị tướng Lưu Cơ của Đinh Bộ Lĩnh ở Hoa Lư đánh bại.Theo thần tích ở xã Bình Sơn (Thuận Thành, Bắc Ninh) thì Lý Khuê đánh nhau với quân Đinh Bộ Lĩnh bị thua và tử trận ở làng Dương Xá.Theo thần tích đền thờ Lưu Cơ, còn ở làng Đại Từ, xã Đại Đồng, tỉnh Hưng Yên (đất Siêu Loại cũ) thì Đại Từ là nơi tướng Lưu Cơ của Đinh Bộ Lĩnh đóng quân và đánh dẹp sứ quân Lý Khuê. Thôn Dương Đanh của làng Dương Xá thờ Lý Lãng Công là thành hoàng của làng. Mộ của vị sứ quân này ở đâu ? Con cháu của Lý Khuê còn không ? Sứ quân Lý Khuê không có mối quan hệ với Phật tử nói chung và Lục Tổ Thiền Ông và thiền sư Vạn Hạnh nói riêng của chùa Lục Tổ hay sao ? 8
- Ảnh chụp vệ tinh làng Dương Xá (có thôn Dương Đanh), nơi Lý Lãng Công đánh nhau với tướng Lưu Cơ của Đinh Bộ Lĩnh và tử trận. Cơ sở của giả thuyết công tác: Miền Siêu Loại, Cổ Pháp xưa là các hương Thổ Lỗi, Diên Uẩn ở hai bờ sông Đuống, có trung tâm Phật Giáo Luy Lâu, trung tâm đào tạo tăng tài Tiêu Sơn, đã phát triển hằng trăm năm với nhiều ngôi chùa cổ, với các vị sư tầm cỡ như Định Không, Thông Thiện, Đinh La Quí An, Thiền Ông, Vạn Hạnh… Sứ quân Lý Khuê đặt bản doanh ở Siêu Loại, đủ biết vị sứ quân này được lực lượng tín đồ tam giáo, đứng đầu là Phật giáo ủng hộ...Chúng ta có thể đoán định sứ quân này dựa vào lực lượng tam giáo, nòng cốt là trí thức và tín đồ Phật giáo lúc bấy giờ vậy. Gần đây trong bài « Đạo Phật và nền văn hóa Việt Nam », đăng ở ấn phẩm mùa Hạ của « Văn hóa Phật Giáo Việt Nam », hòa thượng Thích Minh Châu nhận định : ««Chư tăng là người hiểu biết trong xóm làng, làm cố vấn cho nông thôn trong nhiều công việc v à được nông dân kính trọng. Chính vì vậy, trong cuộc đấu tranh giải phóng đất nước, Phật giáo đã đứng về phía những người yêu nước. Nhiều Tăng sĩ trong hoạt động tôn giáo của mình, đã nhen nhóm một tinh thần tự chủ. Và có những tín đồ Phật giáo đã trực tiếp lãnh đạo nhân dân đứng lên làm cuộc chiến tranh giải phóng » (tr. 8). Sứ quân Lý Khuê lãnh đạo dân chúng miền Siêu Loại, cái nôi của Phật giáo, đòi tự chủ thì ông phải là một Phật tử có uy vọng, và tất nhiên không thể không có liên hệ với chùa Tiêu. Qua Thiền uyển tập anh ngữ lục, được biết Thiền sư ĐỊNH KHÔNG (730-808) thời thuộc Đường, người họ Nguyễn (thực ra là họ Lý), thuộc hương Diên Uẩn, giỏi thuật số, có khát vọng về hương Diên Uẩn của ngài được củng cố và phát triển, họ Lý của ngài sẽ làm vua, nước Việt độc lập và Phật pháp được chấn hưng. Khi sư dựng chùa Quỳnh Lâm ở quê nhà khoảng (785-805), đào được pháp khí cổ, sư giải đoán họ Lý về sau có người làm vua, có ý đổi tên hương Diên Uẩn thành hương Cổ Pháp. Tâm nguyện của thiền s ư được ký gửi qua bài kệ: 9
- Pháp lại xuất hiện Thập khẩu đồng chung Lý thị hưng vương Tam phẩm thành công. Dịch: Pháp khí hiện ra Khánh đồng mười tấm Họ Lý làm vua Công đầu Tam phẩm Trong bài kệ dự đoán, câu cuối “Tam phẩm thành công” được dịch “ Công đầu tam phẩm”phải chăng chưa ổn ? Họ Lý hưng thịnh, quan đến tam phẩm mới lập công thì có gì đáng kể mà phải viết thành kệ rồi “ truyền thừa” cả trăm năm! Ở đây có thể hiểu “Tam phẩm” là “ba đời họ Lý uy vọng” mời thành công nghiệp đế vương. Sư Định Không đã dặn dò đệ tử là thiền sư Thông Thiện: “Ta muốn mở mang hương ấp, nhưng sợ ngày sau gặp nạn, tất có dị nhân đến phá hoại mạch đất của hương ta. Sau khi ta qua đời, ngươi khéo giữ đạo pháp của ta để sau gặp người họ Đinh thì truyền lại. Thế là ý nguyện của ta được toại thành.”. Quả “dị nhân đến phá hoại mạch đất” là Cao Biền. Đệ tử Thông Thiện đã truyền “pháp ý” của sư Định Không cho đệ tử của mình là Trưởng lão Đinh La Quí An (852-936). Thiền sư họ Đinh này đã phá thuật yểm đất của Cao Biền ở hương Diên Uẩn (Cổ Pháp), căn dặn đệ tử là thiền sư Thiền Ông (902-979) (họ Lữ, người hương Cổ Pháp) về những pháp thuật “tài bồi thiên đức” cho vọng tộc Lý của hương Cổ Pháp... Và tất nhiên Thiền Ông đã truyền “tâm nguyện” của các tổ Định Không, Thông Thiện, Đinh La Quí An cho thiền sư Vạn Hạnh(939(?)-1025) và Vạn Hạnh đã hoàn thành rất xuất sắc “sứ mạng” mà các tổ giao phó. Đưa người họ Lý lên làm vua là “ chiến lược trăm năm” được vạch từ thời thiền sư Định Không. Sứ quân Lý Khuê chiếm cứ vùng Siêu Loại, sát hương Cổ Pháp, để trở thành sứ quân Lý Lãng công(966-967) là một mắt xích trong “chiến lược trăm năm”, được thầy trò Thiền Ông- Vạn Hạnh đang ở chùa Tiêu Sơn điều 10
- hợp…Chùa Thiên Tâm trên núi Tiêu Sơn, vào đầu thế kỷ X, theo Thiền uyển tập anh, là nơi tập trung các vị sư, có khát vọng về một vị minh quân ra đời, nhằm chấn hưng xã hội nói riêng và Phật Giáo nói chung và tất nhiên có niềm khát vọng độc lập cho n ước Việt. Trưởng lão Đinh La Quí An của chùa Thiên Tâm, biết phong thủy, giỏi Thái ất đã vận động những người hằng tâm hằng sản, lấp sông, hồ nhằm triệt phá những huyệt yểm của Cao Biền, bổ cứu long mạch đế vương của hương Cổ Pháp (Diên Uẩn), thậm chí đã dự đoán họ Lý hương Cổ Pháp sẽ làm vua. Thật vậy nhà nghiên cứu Nguyễn Minh Khôi từng trích Thiền uyển tập anh: "… Trước khi viên tịch, Trưởng lão Đinh La Quý An gọi đệ tử là Thiền Ông đến dặn rằng, tr ước đây Cao Biền đắp th ành Đại La ở sông Tô Lịch, biết đất Cổ Pháp ta có khí tượng vương giả bèn đào sông Điền Giang, đầm Phù Chẩn để cắt yểm long mạch, tất cả 19 nơi. Nay ta đã khuyên Khúc Lãm đắp lại như cũ. Ta lại trồng một cây gạo ở cách chùa Minh Châu hơn 1 dặm, đúng chỗ bị cắt long mạch, đời sau nơi này ắt có bậc đế vương xuất hiện để vun trồng Chánh pháp… Năm Bính Thân, niên hiệu Thanh Thái thứ 3 thời thuộc Đường (936), khi trồng cây gạo ở chùa Minh Châu, Trưởng lão Đinh La Quý An có đọc bài kệ: Đại Sơn long đầu khởi Cù Vĩ ẩn Minh Châu Thập bát tử định thành Miên thụ hiện long hình Thỏ kê thử nguyệt nội Định kiến nhật xuất thanh" ( Nguyễn Minh Khôi, Đi tìm gốc tích vua Lý Thái Tổ, Giác Ngộ) Nguyễn Minh Khôi viết : « Tương truyền, cố GS sử học Trần Quốc Vượng sinh thời từng dịch bài kệ như sau: "Đầu rồng hiện ở núi lớn/đuôi rồng giấu sự thịnh vượng/Họ Lý nhất định thành/khi cây gạo hiện hình rồng/chỉ trong mấy tháng thỏ, gà, chuột/chắc chắn sẽ thấy mặt trời (vua) anh minh". Ông Nguyễn Đ ình Phúc, Bí thư Đảng 11
- ủy xã Tân Hồng kể: Năm 1992, GS Trần Quốc Vượng điền dã về khảo sát những di tích ở làng Dương Lôi. Khi tận mắt chứng kiến nền chùa Minh Châu và tìm hiểu địa danh trong vùng, biết có ngọn núi Đại Sơn ở cách chùa Minh Châu 1km, GS đã thốt lên: "Tôi đã nhầm khi dịch bài kệ của Trưởng lão họ Đinh!". Sau đó, GS đã chỉnh lại bản dịch 2 câu đầu là: "Đầu rồng hiện ở Đại Sơn/đuôi rồng giấu ở chùa Minh Châu" » . Ảnh chụp vệ tinh núi Đại Sơn, ở bờ bắc sông Đuống, gần làng Dương Lôi, nơi khởi phát (long đầu khởi) của sứ quân Lý Lãng Công. Chúng tôi tiếp cận bài kệ của Truởng lão họ Đinh, hoàn toàn nhất trí với cách diễn giải của cố giáo sư Trần Quốc Vượng với hai câu đầu của bài kệ. Trên bình diện phong thủy, long mạch ở Cổ Pháp với đầu rồng là Đại Sơn, và đuôi rồng (rồng non, tức cù) ở chùa Minh Châu (Dương Lôi). Và đuôi r ồng đã ứng phát cho Lý Công Uẩn, tức họ Lý đ ã trở thành đế vương với Lý Thái Tổ. Thế thì đầu rồng « Đại Sơn » ứng phát vị họ Lý nào ở hương Diên Uẩn? Phải chăng tác giả Thiền Uyển Tập Anh Ngữ Lục, bắt đầu đ ược biên tập vào khoảng trước năm 1134 cho đến đầu thế kỷ thứ mười ba, dựa vào thư tịch ở chùa Thiên Tâm, hoặc truyền ngôn ở vùng Tiêu Sơn, muốn gửi gắm cho hậu thế một chìa 12
- khóa để giải mã bí ẩn tông tích của Lý Công Uẩn ? Rõ ràng con cù (rồng non), đang ẩn ở sau chùa Minh Châu (chùa Cha Lư) là ứng phát cho Lý Công Uẩn, còn thân rồng đang thời « tiềm long » ở Đình Bảng-Dương Lôi ứng phát cho Hiển Khánh Vương, Vũ Đạo Vương, Lý Vạn Hạnh, Lý Khánh Vân…. Còn đầu rồng phải ứng phát một người họ Lý hương Cổ Pháp, đã khởi nghiệp ở Đại Sơn, thuộc Dương Lôi mà thôi. Ngọn núi Đại Sơn này có sông Đuống vờn mặt trước, nhìn về Dương Xá, Đại Từ…của vùng Thuận Thành- Luy Lâu, nơi hoạt động của sứ quân Lý Khu ê, tức Lý Lãng Công vào những năm Bính Dần (966), Đinh Mão (967). Hiện nay tại thôn Dương Đanh, xã Dương Xá còn thờ Lý Lãng Công. Trong khoảng từ 936 đến 974 không có vị nào thuộc họ Lý của hương Diên Uẩn, ngoài Lý Khuê, đã khởi nghĩa !Vậy Lý Lãng Công là ứng với đầu rồng đã khởi, nhưng thất bại, và các con cháu của ngài phải ẩn tu hoặc mai danh ẩn tích, đổi họ Lý thành họ Nguyễn vào thời Đinh (968-991), thời Tiền Lê (991-1009). 13
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam - Đại thắng mùa Xuân 1975: Phần 2
154 p | 179 | 41
-
Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở Việt Nam
5 p | 178 | 20
-
Chính sách trị vì của Trần Thái Tông (1218- 1277) 1
6 p | 105 | 8
-
Đâu chính là sự thật về tông tích của Lý Công Uẩn?
14 p | 96 | 8
-
Stalin những ngày cuối Thế chiến II - Phần 2 - Tehran là địa điểm gặp gỡ tiếp theo
5 p | 81 | 7
-
Lý Thánh Tông (1054- 1072)
6 p | 86 | 4
-
Tìm hiểu về Các quan Đô Đốc, Đô-Hộ, Kinh-Lược-Sứ An-nam, Các quan Thứ- Sử ba quận Giao, Ái, Hoan đời nhà Đường – Phần 2
14 p | 89 | 3
-
Tìm hiểu về Danh nhân lịch sử: LÝ THÁI TÔNG
9 p | 87 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn