intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Dạy học theo tình huống

Chia sẻ: Trần Lê Kim Yến | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

99
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Từ Nhật Bản, Hàn Quốc đến nhiều nước mới phát triển ở Đông Nam Á, trong GD người ta chú trọng đến cách học (phương pháp) nhiều hơn học cái gì (nội dung) Với thầy giáo đúng nghĩa, chức năng chính yếu của họ là dạy cách học (thay vì truyền đạt nội dung).

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Dạy học theo tình huống

  1. Dạy học theo tình huống Từ Nhật Bản, Hàn Quốc đến nhiều nước mới phát triển ở Đông Nam Á, trong GD người ta chú trọng đến cách học (phương pháp) nhiều hơn học cái gì (nội dung) Với thầy giáo đúng nghĩa, chức năng chính yếu của họ là dạy cách học (thay vì truyền đạt nội dung). Với HS đúng nghĩa, nhiệm vụ quan yếu của họ là học cách học (thay vì “dùi mài kinh sử”). Trong cách học, họ đề cao hai điều then chốt: 1. Tự học, 2. Sáng tạo. Hai mặt đó quan hệ mật thiết với nhau: sẽ không có sáng tạo nếu không có tự học tích cực; sẽ không thể tự học hiệu quả nếu không mài sắc trí sáng tạo. Tự học để khám phá nhận thức và khai phá sáng tạo. Sáng tạo để khẳng định sự tìm tòi siêu thoát trong tự học. Các nhà GD Nh ật Bản và Singapore đều cho rằng đó là những kỹ năng “kép” cần cho một người HS hiện đại, để rút ngắn khoảng cách thua kém và để trở thành người chủ thật sự của tương lai. Theo đó, họ không có (hoặc có rất ít) các bài giảng dài dòng lý thuyết. Hầu hết các giờ lên lớp của họ gồm những bài dạy theo cách hướng dẫn tìm tòi và nghiên cứu dựa trên vấn đề (hoặc dựa theo tình huống). Ví dụ dạy về phản ứng sinh học, HS sẽ được tìm hiểu xem cơ thể con người tự chống lại độc tố của rượu bằng cách nào. Giáo viên hướng dẫn HS quan sát và nghiên cứu những thanh thiếu niên say rượu và ngã bệnh, rồi tự tìm ra những lời đáp cho các câu hỏi gợi ý sau đây: - Những biểu hiện thường thấy (về phản ứng sinh học) của người say rượu?
  2. - Những cách thức tự hóa giải (hoặc người khác giúp hóa giải) độc rượu lúc bị say hoặc lúc uống nhiều rượu? - Xem xét tính hiệu quả và phản ứng phụ (nếu có) của các biện pháp hóa giải đó, nhất là với người đã có sẵn mầm bệnh? - Tại sao một số người rất dễ bị say và say nhiều hơn người khác khi cùng uống một loại rượu? - Cùng một mức độ say và cùng một cách giải độc, tại sao có người hóa giải được nhanh, người khác chậm? - Chứng say rượu nhiều lần sẽ ảnh hưởng tiêu cực như thế nào về mặt thể chất, tinh thần và nhân cách? ...Để lý giải các vấn đề trên, ngoài việc tự suy nghĩ, HS có thể tiến hành nghiên cứu theo nhóm và tự tìm kiếm thêm những thông tin được tham khảo từ nhiều nguồn khác nhau. Cuối ngày hoặc cuối tuần, lớp học sẽ dành thời gian để các nhóm cử đại diện trình bày và bảo vệ những điều đã xem xét. Giáo viên tổng kết, điều chỉnh và bổ sung những thông tin quan trọng. Bài học được hoàn chỉnh trên cái sườn cơ bản do HS tự thiết kế và thi công - giáo viên chỉ đóng vai trò quản lý và phê duyệt “công trình” của HS trên cơ sở biểu dương các thành quả sáng tạo trong tìm tòi, học hỏi và ứng dụng. Không nhất thiết bài học nào cũng được tiến hành theo cách đó, nhưng nếu trong một chương trình có 30 bài mà chỉ cần áp dụng cách dạy học đó cho năm bài thôi (1/6 chương trình) cũng là quí lắm. Những bài khác chia thành ba loại: loại dễ để HS tự học lấy, loại vừa cho HS trao đổi nhóm, loại khó để thầy giảng trên cơ sở gợi tình huống, phối hợp với thảo luận tại lớp. (Loại dễ và vừa không tiến hành ở trên lớp, nên không sợ “cháy” chương trình). Những bài học về khoa học xã hội càng có điều kiện dễ dàng khi tiến hành cách dạy học như thế. Nó không đòi hỏi gì nhiều về vật chất, tiền của, thiết bị. Nhưng nó đòi hỏi người thầy phải biết cách tổ chức, hướng dẫn, “cài đặt” tình huống; đồng thời đòi hỏi người học phải luôn có sự tươi mới trong sáng tạo và một
  3. sự năng động trong tự học. Có thể tổng quát cách học như thế theo một tiến trình như sau: Tự tìm tòi - Tự khám phá - Tự khai phá - Tự thử nghiệm - Tự đưa ra luận chứng - Tự đối chứng và phối kiểm - Tự tổng kết cách giải quyết vấn đề. Dưới một góc độ khác, khi tình huống (được cài đặt sẵn trong sách giáo khoa hoặc do sự gia công sư phạm của thầy mà có) được biến thành sự kích thích trí tuệ nơi HS, thì quá trình làm việc của HS dưới sự dẫn dắt của giáo viên sẽ thực hiện theo ba bước: A. Tự đào xới tình huống, để phát hiện vấn đề. B. Tự phân tích tình huống, để lý giải và chứng minh vấn đề. C. Tự tổng hợp dữ liệu, để kết luận vấn đề. Minh họa như tình huống sau đây (do thầy giáo “cài đặt”): Một thợ lắp đặt nắp cống hình vuông tại một địa điểm trên đường lộ. Do nắp cống nặng nề và do vội vàng sơ ý khi đặt xuống, anh ta để nắp cống nghiêng theo đường chéo của miệng cống, nên nắp cống bị lọt xuống cống! Tình huống đó khiến người thiết kế miệng cống và nắp cống phải có cách cải tiến như thế nào cho khỏi xảy ra sự cố khi thi công? HS sẽ lần lượt xem xét và xử lý theo ba bước nói trên: A. Đào xới tình huống: đường chéo miệng cống là một khoảng hở dài hơn cạnh của nắp cống vuông. Đó là lý do nắp cống dễ bị lọt. B. Phân tích tình huống: nếu không sơ ý, người thợ đặt cạnh của nắp cống song song với cạnh của miệng cống sẽ không gặp sự cố như đã xảy ra, vì độ dài của cạnh nắp bao giờ cũng lớn hơn độ dài của miệng cống. Tình hình sẽ ra sao nếu thiết kế miệng cống và nắp cống không theo hình vuông hay một hình bốn cạnh khác, hoặc chỉ ba cạnh thôi? C. Tổng hợp dữ liệu: mọi kiểu hình bốn cạnh (thoi, vuông...) hoặc hình tam giác đều bất lợi cho sự di dời hoặc lắp đặt (dễ gây sự cố, vì thế nào cũng có độ lệch giữa các kích cỡ, nhất là đường chéo). Do vậy, chỉ có nắp cống và miệng cống hình tròn thì... vô tư! Khi đó, người thợ cứ thoải mái xoay chiều nào cũng được, không
  4. sợ lọt; khi cần vận chuyển lại rất dễ, chỉ việc dựng đứng và lăn nó đi, không cần khiêng. Tóm lại, dạy học theo tình huống là một hình thức khoa học về việc dạy cách học, học cách học. Kiểu dạy học đó chẳng tốn kém gì, mà còn có ý nghĩa sư phạm rất lớn, vì nó sinh động, cụ thể, thực tế, đồng thời giúp giáo viên kịp thời phát hiện được những chỗ mạnh, chỗ yếu của HS để điều chỉnh, khích lệ. HS sẽ năng động và dạn dĩ hơn, dần dần sẽ tự nâng mình lên trong nhận thức và hành động sáng tạo. Cách dạy học theo tình huống còn giúp HS cải thiện các kỹ năng sống và làm việc, như hợp tác theo nhóm gắn kết với độc lập suy nghĩ, tìm ra lối thoát và vượt lên chính mình bằng mọi cách sáng tạo. Các nhà GD ở các nước phát triển còn xác định việc dạy học theo tình huống là khâu đột phá căn bản trong xu hướng đầu tư chiều sâu cho yêu cầu đổi mới công nghệ dạy học. Giáo án điện tử nhìn từ nhiều phía. Hiện nay, ở một số trường phổ thông đã có nhiều thầy cô giáo sử dụng PowerPoint để trình chiếu bài giảng trên lớp. Theo ý kiến của các nhà
  5. chuyên môn, bản trình chiếu (presentation) chưa thể gọi là giáo án. Giáo án của một bài học phải bao gồm các phương án và hoạt động của thầy và trò. Bài giảng soạn trên nền PowerPoint (PPT) chỉ là một công cụ đơn giản tăng cường tính trực quan cho một số khái niệm và không thể gọi đó là giáo án điện tử. Kết hợp các phần mềm dạy học Theo TS Phạm Xuân Quế - GV Vật lý ĐH Sư phạm Ha Nội, hiện nay, trên thị trường trong nước và thế giới cũng như trên mạng Internet có nhiều phần mềm dạy học. Ca phần mềm này ghi ở đĩa CD hoặc đưa lên mạng, nghĩa la nó có thể được coi là đối tượng nhận thức, học tập theo hình thức e-learning. Chẳng hạn, trong Vật lý có thể dùng phần mềm Galileo, Crocodile, phần mềm phân tích phim video,... Thực chất phương pháp dạy học được sử dụng ơ đây là thông báo một chiều có sự trợ giúp của máy tính hay mạng máy tính. TS Nguy ễn Trọng Thọ, nguyên là GV Hóa trường THPT chuyên Lê Hồng Phong (TP.HCM), nhận xét: Các phần mềm dạy học thường được mô tả bằng lời, hình ảnh, hình vẽ hay các đoạn video. Nhược điểm của các phần mềm na là không tạo ra khả năng tương tác của người học với đô tượng nhận thức. Nghĩa là người học hoàn toàn thụ động xem những gì diễn ra trên màn hình theo trình tự mà ca tác giả đã sắp đặt. Các phần mềm dạy học do chuyên gia tin học soạn thảo nhưng vì thiếu kiến thức và kinh nghiệm chuyên môn về sư phạm nên phần tác nghiệp giảng dạy của giáo viên nặng tính trình diễn. Mặt khác, tất cả sách giáo khoa đang sử dụng chưa tính tới yếu tố sao cho phù hợp với việc áp dụng giáo án điện tử. Kỹ năng soạn giảng bằng máy tính Để có thể ứng dụng CNTT đạt hiệu quả cao hơn, giáo viên cần có năng lực đề xuất phương án dạy học (project), thực hiện hồ sơ bài dạy theo những quy trình khoa học và các kỹ năng liên quan đến việc phát triển năng lực thực nghiệm trong dạy học bằng máy tính như kỹ năng thu thập số liệu, phân tích và trình bày số liệu; kỹ năng đề xuất phương án kiểm tra kiến thức của học sinh; kỹ năng ứng dụng những
  6. thành tựu của công nghệ phần mềm, sử dụng các phần mềm phù hợp để viết các phần mềm ứng dụng nhằm hỗ trợ việc hiện thực hóa các ý tưởng sư phạm... Muốn thế, bản thân người giáo viên còn cần có niềm đam mê thật sự với việc thiết kế vốn đòi hỏi sự sáng tạo, nhạy bén, tính thẩm mỹ, có hiểu biết nhất định về kỹ thuật vi tính (bố cục, trình bày slide, chèn nhạc, phim, hình, các minh họa động có tính tương tác...). Trước khi bắt tay vào việc soạn bài giảng điện tử, người thầy phải nắm rõ mục tiêu bài giảng, đảm bảo nội dung cô đọng nhưng vẫn đầy đủ ý của bài học. Ngoài nội dung, còn phải lưu ý đến hình thức, màu sắc, kiểu chữ, bố cục phù hợp, các hiệu ứng hợp lý để cho bài giảng sống động. Thế nhưng, ứng dụng CNTT vào bài giảng như thế nào để công cụ hỗ trợ này thật sự tác động vào việc nâng cao chất lượng giáo dục một cách hiệu quả nhất. Một bài giảng điện tử không đơn thuần chỉ là những dòng chữ hoặc công thức lần lượt hiện ra để học sinh ghi lại. Người soạn bài giảng điện tử lại càng không nên quá lạm dụng các hiệu ứng màu sắc, hình ảnh... quá rườm rà làm học sinh mất tập trung, không chú ý nội dung bài học mà chỉ lo quan sát, nghe nhìn. Những nhược điểm ở bước khởi đầu Xin nêu về những lỗi thường gặp ở người mới bắt đầu soạn giảng với PowerPoint. Trước hết là những lỗi ở khâu chuẩn bị. Về nội dung, có thể do chưa biết chắt lọc và tinh giản kiến thức cần trình bày trên các slide hoặc do tâm lý sợ dạy thiếu chương trình, sợ học sinh (HS) không nắm đủ kiến thức. Cũng có thể do không có kinh nghiệm và kỹ năng tóm lược nội dung, hoặc tâm lý sính chữ, khoe khoang. Về cấu trúc, bắt chước nguyên xi cấu trúc bài học trong sách giáo khoa, thiếu sáng tạo ra các cấu trúc mới, đơn giản và hợp với qui luật nhận thức của HS trong môi trường giảng dạy có thiết bị. Dường như việc sử dụng slide là chỉ để minh họa thay cho phấn, bảng. Về tư liệu hình ảnh và multimedia, thường rơi vào hai tình huống,
  7. thừa hoặc thiếu. Quá nhiều thì gây mất tập trung, rườm rà không cần thiết; quá ít hoặc không có thì thà đừng làm PowerPoint. Thứ hai là lỗi ở khâu thiết kế. Số lượng slide thường nhiều hơn mức cần thiết, tốc độ lật nhanh gây cho HS cảm giác không kịp tiếp thu. Trong khi chỉ cần ít slide (10- 12 slide/ tiết) với những nội dung và hình ảnh thật cô đọng và đắt. Slide chứa quá nhiều chữ, kích cỡ nhỏ, người xem không thấy hoặc phải căng mắt ra gây mỏi mệt, học sinh không ghi chép kịp. Việc phối hợp màu sắc không chuẩn và thiếu các nguyên tắc cơ bản về độ sáng/ tối, độ đậm/ nhạt, độ tương phản khiến cho các slide không đạt tới sự hài hòa cần thiết, gây ức chế tâm lý cho học sinh. Lạm dụng các hiệu ứng chuyển động là vấn đề thường gặp nh ất ở các GV mới bắt đầu sử dụng. Các hiệu ứng về text và graphic có thể gây sự “chú ý không chỉ định” nơi học sinh, nếu quá nhiều thì sẽ gây phản tác dụng. Âm thanh là một yếu tố kích thích tốt cho giác quan, nhưng đồng thời cũng là một yếu tố gây nhiễu bài giảng của GV nếu bị lạm dụng. Cuối cùng là lỗi ở khâu dạy học trên lớp, quá phụ thuộc vào thiết bị và công nghệ, đến mức mất khả năng linh hoạt, coi việc chuẩn bị nội dung của mình là cố định, cứ thế mà làm bất kể tình huống trên lớp đòi hỏi phải điều chỉnh thay đổi. Nguyên nhân sâu xa là do chưa làm chủ được công nghệ, ngại dừng lại việc trình chiếu để bổ sung, sửa chữa bài giảng ngay tại lớp, không kết hợp được các phương pháp giảng dạy khác. GV mới sử dụng thường mất nhiều thời gian cho các thao tác kỹ thuật như đấu nối thiết bị máy tính, loa, màn hình,... Lời kết Phương tiện kỹ thuật chỉ hỗ trợ việc giảng dạy chứ không thể thay thế vai trò chủ đạo của người giáo viên trong giờ lên lớp. Máy móc chỉ là phương tiện giúp cho bài giảng hay hơn, sinh động hơn, song nó không là tất cả. Để tiết dạy thật sự đạt hiệu quả cao hơn, cần sử dụng CNTT “đúng lúc, đúng chỗ, đúng mức độ” để tạo hiệu ứng tốt nhất cho tiết giảng. Theo ý kiến của những thầy cô giáo có kinh nghiệm thì để
  8. tiết dạy thật sự đạt hiệu quả, giáo viên cần phối hợp giữa các phương pháp truyền thống và hiện đại để làm mới hơn, hấp dẫn hơn, hiệu quả hơn giờ dạy mà không làm mất đi, hoặc sai lệch về mục đích, mục tiêu giảng dạy trong nhà trường.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0