Đề cương bài giảng học phần: Qui hoạch lãnh thổ và phát triển bền vững
lượt xem 20
download
Mời các bạn cùng tham khảo Đề cương bài giảng học phần: Qui hoạch lãnh thổ và phát triển bền vững để nắm những nội dung chính của môn học. Đây là tài liệu tham khảo hữu ích cho những ai đang theo học môn học này cũng như quan tâm đến môn học Qui hoạch lãnh thổ và phát triển bền vững.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Đề cương bài giảng học phần: Qui hoạch lãnh thổ và phát triển bền vững
- Trường Đại học Khoa học Khoa Khoa học Môi trường & Trái Đất && ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG HỌC PHẦN: QUI HOẠCH LÃNH THỔ VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Số tín chỉ: 02 Đối tượng: Cử nhân Địa lý và Cử nhân Khoa học Môi trường Biên soạn: Th.S Phạm Thị Hồng Nhung 1
- Thái Nguyên, năm 2014 1. Tên môn học: Qui hoạch lãnh thổ và PTBV 2. Tên môn học bằng tiếng Anh: Territorial planning and Sustainable Development 3. Số đơn vị học trình của môn hoc: 2 4. Phân bổ thời gian: 24 tiết lý thuyết 6 tiết thực hành, thảo luận 5. Điều kiện tiên quyết: Sinh viên đã học qua các môn cơ bản như Các khoa học trái đất, Khoa học Môi trường đại cương, Cơ sở Địa lý nhân văn, Cơ sở cảnh quan học . 6. Mục tiêu học phần: Gồm 2 mảng kiến thức: Về qui hoạch lãnh thổ: Cung cấp các kiến thức lý luận cơ bản về tổ chức lãnh thổ và của qui hoạch vùng, chủ yếu ở cấp vùng KTXH; những kiến thức về nội dung, phương pháp tiếp cận qui hoạch, qui hoạch tổng thể ở Việt Nam. Nâng cao nhận thức về vấn đề quản lý, sử dụng lãnh thổ ở một tỉnh, một vùng trong tổng thể quốc gia. Sinh viên có khả năng vận dụng những kiến thức vào thực hiện qui hoạch và quản lý việc phát triển KTXH của một ngành, một lĩnh vực cũng như một lãnh thổ. Trang bị cho sinh viên những kiến thức về mặt lý luận và thực tiễn về phát triển bền vững (PTBV) trên thế giới cũng như Việt Nam. Qua đó làm thay đổi nhận thức, thay đổi nhân sinh quan của người học trong việc vận dụng vào công việc sau này để hướng tới sự PTBV. 7. Tài liệu học tập 7.1. Tài liệu bắt buộc 1. Nguyễn Văn Phú, Qui hoạch vùng và tổ chức lãnh thổ, Nxb Chính trị Quốc gia, 2007. 2. Đinh Văn Thanh. Quy hoạch vùng, NXB Nông nghiệp, Hà Nội, 2005 2
- 7.2. Tài liệu tham khảo 1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Báo cáo các chương trình tổ chức lãnh thổ Việt Nam, 1994. 2. Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000, NXB Sự thật, Hà Nội 1991. 3. Nguyễn Thế Chinh và nnk, Bài giảng về PTBV, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội, 2006. 4. Lưu Đức Hải, Nguyễn Ngọc Sinh, Quản lý môi trường cho sự PTBV, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005. 5. Phạm Kim Giao, Qui hoạch vùng, Nxb Xây dựng, Hà Nội. 6. Nguyễn Hiền, Phân tích hệ thống trong địa lý qui hoạch và tổ chức lãnh thổ, Tập bài giảng Khoa Địa lý, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2008. 7. Nguyễn Văn Phú, Phát triển kinh tế vùng trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá, Nxb Chính trị Quốc gia, 2006. 8. Đinh Văn Thanh, Qui hoạch vùng (Lý luận và phương pháp qui hoạch), Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 2005. 9. Đặng Như Toàn, Lý thuyết tổ chức không gian Kinh tế xã hội, ĐH Kinh tế Quốc dân, Hà Nội 1981. 3
- PHẦN MỘT: QUI HOẠCH VÙNG VÀ TỔ CHỨC LÃNH THỔ MỞ ĐẦU Trong quá trình phát triển kinh tế văn hoá xã hội người ta nhận thấy những hiện tượng sau: + Sự phát triển không đồng đều giữa các vùng kinh tế, tạo nên sự tương phản về mức độ, trình độ phát triển kinh tế văn hoá xã hội giữa đô thị và nông thôn, giữa miền xuôi và miền núi, giữa các vùng – miền, giữa các địa phương với nhau. + Trong khi tiến hành kế hoạch hoá đất nước, có những vùng trọng điểm, có những vùng ưu tiên, nhưng lại có những vùng không hoặc ít được coi trọng, nên việc đầu tư cho phát triển không được đồng đều. Yêu cầu phát triển KTXH bao giờ cũng lớn hơn khả năng thực hiện nên Nhà nước phải có những phương hướng và biện pháp chính xác nhằm làm cho nền kinh tế phát triển có lợi nhất trong mỗi giai đoạn kế hoạch nhất định + Trong khi tiến hành công nghiệp hoá, con người đã phí phạm không ít tài nguyên như mất đất canh tác, thu hẹp và huỷ hoại nguồn tài nguyên rừng, phí phạm nguồn tài nguyên nước, huỷ hoại cảnh quan thiên nhiên v.v. Những hiện tượng đó cùng nhiều hiện tượng khác là nguyên nhân của sự lãng phí tài nguyên kỹ thuật, tài chính, nhân lực v.v., đã đòi hỏi phải quy hoạch vùng lãnh thổ để làm cho sản xuất và đời sống xã hội phát triển nhịp nhàng, cân đối. Qui hoạch vùng phát triển từ thế kỷ thứ XVII trong các công trình phân vùng kinh tế nước Nga và phát triển rực rỡ trong thờ kỳ xây dựng CNXH của Liên Xô. Còn Tổ chức lãnh thổ (TCLT) là bộ môn khoa học ra đời từ cuối thế kỷ XIX và đã trở thành khoa học quản lý lãnh thổ. Tổ chức lãnh thổ được hiểu là nghệ thuật sử dụng lãnh thổ một cách đúng đắn và hiệu quả (Jean Pean Paul De Gaudemar, 1992); là một hành động địa lý học có chủ trương hướng tới một sự công bằng về mặt không gian giữa trung tâm và ngoại vi, giữa các cực và các không gian ảnh hưởng, nhằm giải quyết sự ổn định về công ăn việc làm, cân đối giữa quần cư nông thôn và quần cư thành thị, bảo vệ môi trường sống. Lĩnh vực này đã phát triển mạnh về lý luận và đã đem lại những kết quả tốt đẹp cho quá trình phát triển ở các nước phương Tây, song còn mới mẻ ở Việt Nam. Tuy nhiên, 4
- trong bối cảnh hội nhập phát triển hiện nay của nước ta, vấn đề quản lý lãnh thổ như thế nào để có sự cân đối trong phát triển giữa các ngành, các vùng là vấn đề cấp thiết. Do vậy, TCLT góp phần giải quyết các đòi hỏi khách quan của thực tiễn. CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUI HOẠCH VÙNG VÀ TỔ CHỨC LÃNH THỔ 1.1. Các khái niệm chung về lãnh thổ, vùng 1.1.1. Khái niệm về lãnh thổ a, Lãnh thổ Theo nghĩa rộng lãnh thổ là một phần bề mặt của Trái Đất có giới hạn gồm cả đất liền, nước và không gian. Thông thường nó được xem là thuộc sở hữu của một cá nhân, tổ chức, đoàn thể, quốc gia và có khi kể cả của loài vật. Về địa lí, chính trị và hành chính, lãnh thổ là một phần đất nằm dưới sự quản lí của cơ quan chính quyền của một quốc gia. Lãnh thổ cũng được dùng theo nghĩa "không gian hoạt động của một cộng đồng người". Đối với loài vật thì là vùng địa lý sinh sống và tự vệ của một con hay một đàn vật chống lại những con vật khác cùng loài hay khác loài. Là một bộ phận của bề mặt đất thuộc quyền sở hữu của một quốc gia nhất định bao gồm đất liền và lãnh hải. Giới hạn lãnh thổ là đường biên giới quốc gia (Từ điển bách khoa về các khái niệm địa lý, tiếng Nga, 1968). Hay theo định nghĩa của Pierre George trong “Dictionnaire de la Géographie”: “Lãnh thổ là một không gian địa lý, được gọi theo pháp luật như lãnh thổ Quốc gia, hoặc theo các đặc thù về thiên nhiên hoặc văn hóa như lãnh thổ (vùng, miền) núi, lãnh thổ ngôn ngữ. Nó gắn liền với việc xác định các ranh giới. Khái niệm lãnh thổ cũng gắn liền với những ranh giới đó. Người ta cũng có thể quan niệm lãnh thổ như một thể thống nhất, hay nói chung là một thực thể (Entity) được cấu trúc và tổ chức bởi các cộng đồng xã hội (Chamusy và nnk, 1977). Đây là một thực thể không gian, nơi sinh sống của một cộng đồng xã hội, được cộng đồng này chiếm lĩnh để đảm bảo sự cung cấp các nhu cầu thiết yếu của nó và sự tái sinh của chính nó. Để đảm bảo được 5
- việc này, cộng đồng xã hội phải quyết định một số hành động can thiệp nhằm tổ chức lại không gian cho phù hợp với đường lối chính trị, kế hoạch phát triển các điều kiện công nghệ và kỹ thuật, kể cả tâm lý dân tộc, khiếu thẩm mỹ vốn có nữa. * Về mặt hành chính chính trị: Lãnh thổ với ý nghĩa rộng hơn quốc gia: Là toàn bộ bao gồm hết các vùng đất và vùng nước (nước sông hồ trong vùng đất và vùng nước biển), vùng trời, khoảng không và lòng đất nằm trên, dưới vùng đất và vùng nước đó của một quốc gia, kể cả những vùng đã thực hiện chủ quyền hoặc trong vòng tranh chấp. Lãnh thổ trong khái niệm hẹp: + Lãnh thổ phụ thuộc một quốc gia: là những vùng đất xa xôi với thường là các cựu thuộc địa trước đây. Mặc dầu có tổ chức chính quyền địa phương nhưng hiến pháp quốc gia chưa được áp dụng (hoặc nếu có chỉ có một phần nhỏ) tại những phần đất này. Ví dụ như Quần đảo Virgin thuộc Mỹ (người dân có quốc tịch Mỹ nhưng không được trực tiếp bầu Tổng thống Mỹ). + Lãnh thổ bên trong quốc gia Vùng đất rộng nhưng có quá ít người ở để thành lập nên một đơn vị hành chính cấp bang (như tỉnh bang của Canada hay tiểu bang của Hoa Kỳ) và vì vậy được chính quyền trung ương trực tiếp quản lý và điều hành như các lãnh thổ sau đây: Lãnh thổ Yukon, Lãnh thổ Nunavut và Lãnh thổ Tây Bắc của Canada; Lãnh thổ miền Bắc của Úc... Những đặc khu kinh tế, chính trị quan trọng, khu vực hành chính của chính phủ trung ương, vùng quanh thủ đô quốc gia như Lãnh thổ Thủ đô Úc, Lãnh thổ Jervis Bay của Úc. Vùng đất có dân tộc thiểu số chiếm đa số hoặc có tỉ lệ đáng kể, thường được gọi là khu hay lãnh thổ tự trị như Nội Mông, Tân Cương, Tây Tạng, Quảng Tây và Ninh Hạ ở Trung quốc. b, Các lãnh thổ khu biệt Đây là những lãnh thổ có đặc điểm và ý nghĩa lớn lao đối với sự phát triển KTXH của các vùng và của cả nước. Các đơn vị này được vận dụng sáng 6
- tạo ở nước ta trong một hai thập kỷ đã qua tiêu biểu như các vùng kinh tế trọng điểm, các tam giác tăng trưởng, các đặc khu kinh tế,... Các thành phố, thị trấn, các lãnh thổ khu biệt có quan hệ với nhau trong một không gian; có sức hút và có sức lan toả ra xung quanh. * Vùng kinh tế trọng điểm 7
- Là lãnh thổ quy mô lớn trong các đơn vị tổ chức lãnh thổ khu biệt, thông thường có xu hướng phát triển nhất, có ý nghĩa trung tâm, có lợi thế so với các vùng khác. Khung 1.1. Vùng kinh tế trọng điểm Việt Nam Tổng quan về quá trình hình thành các vùng kinh tế trọng điểm Một trong những nhân tố đột phá then chốt để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là có những chính sách hợp lý nhằm đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, bao gồm cơ cấu ngành, cơ cấu thành phần kinh tế và cơ cấu vùng kinh tế. Yêu cầu đổi mới cơ cấu kinh tế của đất nước là một yêu cầu khách quan cấp thiết trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Từ nghiên cứu các đặc điểm về vị trí địa lý; điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên; đặc điểm và thực trạng kinh tế - xã hội của mỗi tỉnh/thành phố trong cả nước; các yếu tố tác động từ bên ngoài đến nền kinh tế của đất nước như: bối cảnh kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội của các nước trong khu vực và trên thế giới cũng như xu hướng toàn cầu hoá nhằm rút ra kết luận về những lợi thế, thời cơ phát triển cũng như những hạn chế, thách thức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi tỉnh/thành phố trong cả nước nhằm giúp cho việc hoạch định những chính sách phát triển mang tính đột phá trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế quốc dân. Để thúc đẩy sự phát triển chung của cả nước cũng như tạo mối liên kết và phối hợp trong phát triển kinh tế - xã hội giữa các vùng kinh tế, Chính phủ Việt Nam đã và đang cố gắng lựa chọn một số tỉnh/ thành phố để hình thành nên vùng kinh tế trọng điểm quốc gia có khả năng đột phá, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của cả nước với tốc độ cao và bền vững, tạo điều kiện nâng cao mức sống của toàn dân và nhanh chóng đạt được sự công bằng xã hội trong cả nước. Việc hình thành các vùng kinh tế trọng điểm là nhằm đáp ứng những nhu cầu của thực tiễn nói chung và đỏi hỏi của nền kinh tế nước ta nói riêng. Theo hướng đó, cuối năm 1997 và đầu năm 1998, Thủ tướng Chính phủ đã lần lượt phê duyệt các quyết định số 747/1997/QĐ-TTg, 1018/1997/QĐ-TTg và Quyết định số 44/1998/QĐ-TTg về Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội ba vùng kinh tế trọng điểm quốc gia đến năm 2010, bao gồm vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ, Trung bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Trong 3 vùng kinh tế trọng điểm này, có 13 tỉnh/thành phố được xếp vào quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội các vùng kinh tế trọng điểm. Ngày 16 tháng 4 năm 2009, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án thành lập vùng kinh tế trọng điểm vùng đồng bằng sông Cửu Long gồm 4 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là:thành phố Cần Thơ, tỉnh An Giang, tỉnh Kiên Giang và tỉnh Cà Mau. Theo đó, xây dựng Vùng kinh tế trọng điểm vùng đồng bằng sông Cửu Long trở thành vùng phát triển năng động, có cơ cấu kinh tế hiện đại, có đóng góp ngày càng lớn vào nền kinh tế của đất nước, góp phần quan trọng vào việc xây dựng cả vùng đồng bằng sông Cửu Long giàu mạnh, các mặt văn hoá, xã hội tiến kịp mặt bằng chung của cả nước; bảo đảm ổn định chính trị và an ninh quốc phòng vững chắc. Các vùng kinh tế trọng điểm của Việt Nam hiện nay gồm : Vùng kinh tế trọng điểm là vùng có ranh giới “cứng” và “mềm”. Ranh giới cứng bao gồm một số đơn vị hành chính cấp tỉnh và ranh giới mềm là khu nhân, gồm các đô thị và phạm vi ảnh hưởng của nó. 8
- Lãnh thổ được gọi là vùng kinh tế trọng điểm phải thỏa mãn các yếu tố sau: + Có tỉ trọng lớn trong tổng GDP của quốc gia và trên cơ sở đó, nếu được đầu tư tích cực sẽ có khả năng tạo ra tốc độ phát triển nhanh cho cả nước. + Hội tụ các điều kiện thuận lợi và ở mức độ nhất định, đã tập trung tiềm lực kinh tế (kết cấu hạ tầng, lao động kỹ thuật, các trung tâm đào tạo và nghiên cứu khoa học cấp quốc gia và vùng, có vị thế hấp đẫn các nhà đầu tư, có tỷ trọng lớn trong GDP của cả nước...). + Có khả năng tạo tích lũy đầu tư để tái sản xuất mở rộng: đồng thời, có thể tạo nguồn vốn thu ngân sách lớn. Trên cơ sở đó, vùng này không những chỉ tự đảm bảo cho mình, mà còn có khả năng hỗ trợ một phần cho các vùng khác khó khăn hơn. + Có khả năng thu hút những ngành công nghiệp mới và các ngành dịch vụ then chốt để rút kinh nghiệm về mọi mặt cho các vùng khác trong phạm vi cả nước. Từ đây, tác động của nó là lan truyền sự phân bố công nghiệp ra các vùng xung quanh với chức năng là trung tâm của một lãnh thổ rộng lớn. Như vậy, vùng kinh tế trọng điểm là một bộ phận lãnh thổ quốc gia, hội tụ đầy đủ nhất các điều kiện phát triển, có tiềm lực kinh tế lớn, gữ vai trò động lực, đầu tàu thúc đẩy sự phát triển chung của cả nước. Lãnh thổ được gọi là vùng kinh tế trọng điểm phải có vị thế hấp dẫn các nhà đầu tư, tập trung tiềm lực kinh tế, có khả năng cao tạo tích luỹ đầu tư để tái sản xuất mở rộng. * Hành lang kinh tế, vành đai kinh tế: Là một không gian kinh tế xã hội, hình thành dựa trên một tuyến trục giao thông huyết mạch và sự tập trung các cơ sở công nghiệp và dịch vụ dọc hai bên tuyến trục đó. Nó là một không gian kinh tế có giới hạn về chiều dài và chiều rộng, liên vùng lãnh thổ hoặc liên quốc gia, dựa trên việc thành lập một hoặc nhiều tuyến giao thông kết hợp với những chính sách kinh tế nhất định để thúc đẩy phát triển kinh tế trên toàn không gian đó. Hành lang kinh tế thường được thành lập để đẩy mạnh sự hội nhập về kinh tế giữa những vùng kém phát triển hơn và thường là vùng sâu vùng xa với 9
- những vùng phát triển hơn và thường là vùng duyên hải. .Do có sự phát triển tập trung các cơ sở kinh tế, lợi dụng triệt để việc vận chuyển thuận lợi nên các hoạt động kinh tế đem lại hiệu qua cao hơn. Đây là hình thức tổ chức kinh tế theo lãnh thổ có triển vọng. Hành lang kinh tế bao gồm các yếu tố sau đây: Tuyến giao thông huyết mạch kết nối các cực phát triển; Các cơ sở kinh tế, nhất là các doanh nghiệp công nghiệp, du lịch, thương mại, dịch vụ khác phân bố lân cận hành lang. Các doanh nghiệp đó được lợi do có được điều kiện vận tải dễ dàng, các điểm dân cư và những khu vực sản xuất nông, lâm nghiệp bổ trợ. Ví dụ: hành lang Đông Tây gồm khu vực đường 9 của Việt Nam, Lào, qua Thái Lan và Mianma đang góp phần tạo ra tuyến lực phát triển kinh tế nối khu vực ven biển Thái Bình Dương với duyên hải Ấn Độ Dương. * Khu kinh tế Là khu vực có không gian kinh tế riêng biệt với môi trường đầu tư và kinh doanh đặc biệt thuận lợi cho các nhà đầu tư, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập, tổ chức hoạt động theo các điều kiện, trình tự và thủ tục theo luật định. Khu kinh tế được phép tổ chức thành 2 khu chức năng: Khu thuế quan và khu phi thuế quan. Khu phi thuế quan gồm có khu công nghiệp, khu chế xuất, khu giải trí, khu du lịch, khu đô thị, khu dân cư, khu hành chính và các khu chức năng khác phù hợp với đặc điểm từng khu kinh tế. Khu thuế quan gồm khu thương mại, khu mậu dịch tự do. Khu kinh tế cửa khẩu: Khu vực có vị trí địa lý thuận lợi cho giao thương giữa các quốc gia , nghĩa là hình thành ở khu vực biên giới đất liền có cửa khẩu quốc tế hoặc cửa khẩu chính; được Chính phủ cho phép xây dựng và phát triển, vận hành bởi khung pháp lý có tính ưu đãi, mở cửa theo các thông lệ quốc tế. Ở đó có môi trường đầu tư, kinh doanh, buôn bán phù hợp với cơ chế thị trường, được hưởng quy chế ưu đãi hơn các vùng khác. Các quốc gia xây dựng các khu kinh tế như thế đều có chung mục đích là tạo nên sự giao thương thông thoáng, nơi thu hút mạnh đầu tư nước ngoài và thông qua đó thúc đẩy kinh tế trong nước 10
- phát triển nhanh. Ngày nay, các quốc gia có xu hướng hình thành các khu kinh tế phát triển hơn là các khu kinh tế tự do. Khu kinh tế ven biển: Là một lãnh thổ có không gian kinh tế riêng biệt với môi trường đầu tư và kinh doanh đặc biệt thuận lợi cho các nhà đầu tư, có ranh giới địa lý xác định, hình thành chủ yếu ở khu vực ven biển, được thành lập theo qui định của Thủ tướng Chính phủ. Những điểm phân biệt khu kinh tế ven biển khác với “khu công nghiệp”, “khu chế xuất”, “khu kinh tế cửa khẩu” ở chỗ được hinhfthanhf ở khu vực ven biển, có chức năng kinh tế tổng hợp, mà trong đó các dự án, công trình nòng cốt có ý nghĩa quan trọng của quốc gia thuộc một hay nhiều lĩnh vực như công nghiệp, du lịch, thương mại, khu phi thuế quan, đô thị giữ vai trò động lực thúc đẩy tăng trưởng, xuất khẩu của các vùng, miền. Sự phát triển của khu kinh tế được đảm bảo bằng các cơ chế, chính sách ưu đãi đặc thù do Thủ tướng Chính phủ quyết định. Khung 1.2. Một số khu kinh tế của Việt Nam Khu kinh tế mở Chu Lai (Quảng Nam) sẽ phát triển theo mô hình "khu trong khu". Đây cũng là khu kinh tế mở duy nhất được xây dựng và phát triển để thử nghiệm thể chế, chính sách mới, tạo môi trường đầu tư phù hợp với các thông lệ quốc tế cho các loại hình kinh doanh của các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước. Khu kinh tế Dung Quất (Quảng Ngãi) sẽ phát triển thành một khu kinh tế tổng hợp đa ngành với các chính sách ưu đãi, khuyến khích ổn định lâu dài. Tại đây sẽ tập trung phát triển công nghiệp lọc dầuhoá dầuhoá chất, từng bước phát triển các ngành công nghiệp cơ khí, đóng sữa chữa tàu biển, luyện cán thép, sản xuất xi măng, sản xuất container…bên cạnh đó sẽ phát triển hệ thống giao thông liên khu với 10 bến cảng dầu khí, khu cảng tổng hợp, đê chắn Ở Trung Quốc, các đặc khu kinh tế đã được xây dựng theo mô hình khu kinh tế tự do tổng hợp như Thâm Quyến, Chu Hải, Hạ Môn, Hải Nam. Trên lãnh thổ Việt Nam đang nghiên cứu hình thành khu kinh tế phát triển Chu Lai thuộc tỉnh Quảng Nam và khu kinh tế mở Dung Quất thuộc tỉnh Quảng Ngãi, khu kinh tế mở Phú Quốc thuộc tỉnh Kiên Giang. * Khu công nghiệp, khu chế xuất và khu công nghệ cao: 11
- Khu công nghiệp: Là khu chuyên sản xuất hàng hóa công nghiệp và thực hiện các dịch vụ sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập, tổ chức hoạt động theo các điều kiện, trình tự và thủ tục qui định của Nghị định, không có dân cư sinh sống. Xu hướng hiện đại là phát triển các công viên công nghiệp. Khu chế xuất: Là khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng hóa xuất khẩu, thực hiện dịch vụ cho sản xuất hàng hóa xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập, tổ chức hoạt động theo các điều kiện, trình tự và thủ tục qui định của Nghị định, không có dân cư sinh sống Khu công nghệ cao: Là khu tập trung các doanh nghiệp công nghệ cao và các đơn vị hoạt động phục vụ cho phát triển công nghệ cao gồm nghiên cứu triển khai khoa học công nghệ, nhằm ươm tạo các doanh nghiệp công nghệ cao, đào tạo nhân lực công nghệ cao và các dịch vụ liên quan; được thành lập, tổ chức hoạt động theo các điều kiện, trình tự và thủ tục qui định của Nghị định; có ranh giới xác định. Đối với Việt Nam khu công nghệ cao do Chính phủ thành lập. Mục tiêu của khu công nghệ cao là thu hút công nghệ cao của nước ngoài, tiếp nhận chuyển giao công nghệ cao, kinh doanh công nghệ cao và phát triển công nghệ cao trong nước để nhân rộng ra. Hiện nay, một số khu công nghệ cao đang được xây dựng ở Tp.Hồ Chí Minh và ở Hà Nội. 1.1.2. Khái niệm về vùng và vùng kinh tế a, Khái niệm vùng Vùng là một không gian lãnh thổ xác định, là một phần của bề mặt Trái Đất có sự phân biệt với vùng lân cận. Nó là một miền, một khu vực rộng, một khoảng đất rộng như vùng đồng bằng, vùng núi, vùng quê, vùng mỏ… hay thậm chí là một khu ruộng lớn gồm nhiều thửa. Là một thực thể hay hệ thống tự nhiên, KTXH. Ranh giới này có ý nghĩa pháp lý được xác định bởi một văn bản pháp qui và cũng có thể chỉ là ước lệ. Lãnh thổ đó là vùng hữu hạn về phạm vi, ở đó có các yếu tố tự nhiên, nơi sinh sống của cộng đồng xã hội có những tác động tích cực vào tự nhiên, trực tiếp tổ chức KTXH cho phù hợp với đường lối chính trị và phát triển KTXH của đất nước. 12
- Các ngành khoa học khác nhau có cách hiểu về vùng không đồng nhất: Vùng Địa lý học Kinh tế học Chính trị, hành chính Xã hội học Là một đơn vị Một không gian, Lãnh thổ hành chính Nơi tập trung dân cư địa lý của bề một lãnh thổ để thực hiện sự có những đặc trưng mặt Trái Đất kinh tế tương quản lý hành chính xã hội tương đồng đối hoàn chỉnh của một loại người nào đó (ngôn ngữ, dân tộc..) Hình 1.1. Quan niệm vùng của các ngành khoa học Trên giác độ quản lý Nhà nước, vùng được quan niệm là cấp trung gian giữa quốc gia và tỉnh, một cấp phân vị cao của lãnh thổ quốc gia có những đặc điểm về mặt tự nhiên và KTXH làm cho nó có thể phân biệt với các vùng khác (theo GS Lê Bá Thảo trong “Việt Nam Lãnh thổ và vùng địa lý”). Nó là khoảng không gian liên tục nằm trong ranh giới một lãnh thổ xác định. Nó là duy nhất, không lặp lại và được đặc trưng bằng những nét riêng biệt cho phép phân biệt nó với bất kỳ vùng nào khác. * Bản chất: Là một khái niệm không gian, có hình thức kết cấu của vùng đất chiếm một không gian nhất định trên bề mặt trái đất, dựa vào điều kiện vật chất khác nhau làm đối tượng. Nó phải có những thuộc tính cơ bản sau: (1) Một phần của bề mặt trái đất, chiếm không gian nhất định (không gian 3 chiều), có thể là không gian tự nhiên, không gian kinh tế, không gian xã hội… (2) Có một phạm vi và giới hạn nhất định. Phạm vi lớn, hay nhỏ là căn cứ vào các yêu cầu khác nhau, hệ thống chỉ tiêu khác nhau để phân chia. Ranh giới thường mang tính quá độ, là một “dải đất” biến đổi cả về lượng và về chất, chúng có khi liên tục (liền khoảnh), có khi không liên tục (không liền khoảnh). (3) Có hình thức kết cấu hệ thống nhất định có tính phân cấp hoặc tính nhiều cấp, tính phân tầng nên có mối quan hệ trên và dưới, dọc và ngang. 13
- (4) Là một thực tại khách quan. Là cái mà mọi người căn cứ theo yêu cầu và đối tượng khác nhau để phân chia, là phản ánh chủ quan đối với khách quan. * Quan niệm về vùng ở Việt Nam Các chuyên gia nghiên cứu về qui hoạch quản lý và phát triển vùng đều thống nhất quan điểm cho rằng vùng là một bộ phận lãnh thổ quốc gia. Sự tồn tại và phát triển của nó gắn bó chặt chẽ với các bộ phận lãnh thổ khác. Nó hoạt động như một hệ thống do những mối quan hệ tương đối chặt chẽ giữa các thành phần cấu tạo nên nó cũng có mối quan hệ chọn lọc với không gian các cấp bên ngoài. Đặc điểm cơ bản: + Có ranh giới xác định (hoặc mang tính pháp lý hoặc mang tính ước lệ). + Tồn tại các điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, mạng lưới giao tông, cơ sở vật chất kỹ thuật mà con người tạo dựng và các điểm dân cư. + Có qui mô rất khác nhau, có tính khách quan và tính lịch sử. + Là cơ sở để hoạch định các chiến lược, các kế hoạch phát triển theo lãnh thổ cũng như để quản lý các quá trình phát triển KTXH trên mỗi vùng của đất nước. b, Vùng kinh tế xã hội * Định nghĩa: Có nhiều định nghĩa khác nhau về vùng kinh tế, song hiện nay đa số các nhà khoa học Liên Xô (cũ) và các nước XHCN trong đó có Việt Nam chấp nhận định nghĩa của “UB về vấn đề phân vùng kinh tế nước Nga” do Kalinin chỉ đạo, được coi là những nguyên tắc chỉ đạo toàn bộ công tác lý thuyết và thực tiễn trong phân vùng kinh tế. Theo đó vùng kinh tế “Là một khu vực đặc thù hoàn chỉnh về kinh tế. Khu vực đó nhờ sự kết hợp các tài nguyên thiên nhiên, các di sản văn hóa trước đây, dân cư, văn hóa, có kỹ năng sản xuất trở thành một mắt khâu trong sợi dây chuyền chung của nền kinh tế quốc dân”. Là một thực thể tồn tại khách quan, nội dung, trình độ và mức độ phát triển của vùng là do sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định. 14
- Vùng kinh tế được coi là một cơ thể kinh tế hoàn chỉnh. Hoàn chỉnh không có nghĩa là tự cấp tự túc, khép kín mà gạt bỏ dứt khoát mọi tư tưởng bế quan tỏa cảng. Tất cả mọi vùng đều là những bộ phận kinh tế của một cơ thể Nhà nước thống nhất, thực hiện những nhiệm vụ chung nhất thông qua những ngành chuyên môn hóa của chúng là sự phù hợp với sự phân công lao động tự nhiên giữa các vùng. * Về bản chất: Vùng kinh tế là một bộ phận lãnh thổ nguyên vẹn của nền kinh tế quốc dân với những dấu hiệu sau: Chuyên môn hóa những chức năng kinh tế quốc dân cơ bản… Sản xuất chuyên môn hóa là quá trình tập trung sản xuất một hay một vài sản phẩm có lợi nhất, có hiệu quả kinh tế cao nhất, phù hợp với điều kiện khách quan của vùng, tạo ra nguồn sản phẩm hàng hóa cao nhất không những thỏa mãn nhu cầu nội vùng mà còn cả ngoại vùng (vùng khác, cả nước và xuất khẩu). Tính tổng hợp: được hiểu theo nghĩa rộng như là mối quan hệ qua lại giữa các thành phần quan trọng nhất trong cơ cấu kinh tế và cơ cấu lãnh thổ vùng… Vì thế, coi vùng như một hệ thống toàn vẹn, một đơn vị có tổ chức trong bộ máy quản lý lãnh thổ nền kinh tế quốc dân. Như vậy, phát triển tổng hợp là phát triển tất cả các ngành sản xuất có liên quan, ràng buộc với nhau; khai thác, sử dụng đầy đủ mọi tiềm năng sản xuất trong vùng để phát triển toàn diện, cân đối, hợp lý nền kinh tế vùng trong sự phối hợp tốt nhất giữa các ngành chuyên môn hoá sản xuất, các ngành bổ trợ chuyên môn hóa sản xuất và các ngành sản xuất phụ của vùng, tạo cho vùng một cơ cấu sản xuất hợp lý nhất. * Cơ sở hình thành và phát triển vùng Là các yếu tố tạo vùng, trong đó yếu tố tiền đề là sự phân công lao động. Sự phân công lao động theo ngành kéo theo sự phân công lao động theo lãnh thổ. Yếu tố phân công lao động theo lãnh thổ là yếu tố lý giải quá trình tạo vùng dưới góc độ triết học và kinh tế chính trị học, do việc luận chứng và kích thích cơ bản sự phân bố lực lượng sản xuất một cách hợp lý. * Nội dung của vùng kinh tế: Bao gồm cơ cấu ngành và cơ cấu lãnh thổ: 15
- Cơ cấu ngành của vùng là mối quan hệ giữa các ngành chuyên môn hóa, ngành phát triển tổng hợp (gồm các ngành phục vụ, hỗ trợ cho chuyên môn hóa, cấu trúc hạ tầng). Cơ cấu lãnh thổ: Là những mối quan hệ giữa hạt nhân với lớp vỏ trong và lớp vỏ ngoài. Đó là quan hệ giữa trung tâm với ngoại vi và ranh giới vùng. Sức hút của trung tâm tới đâu thì ngoại vi tới đó. * Qui mô: Gồm các cấp (1) Cấp cao:Vùng KTXH (vùng lớn): Bao gồm nhiều tỉnh hoặc nhiều huyện của nhiều tỉnh, hoặc gồm nh ững dải lãnh thổ theo chiều dọc (dải miền núi, dải ven biển…). Đặc điểm: có tính đồng nhất cao về tự nhiên, có sự hình thành vùng sản xuất hàng hóa bao quát trên nhiều tỉnh, mạng lưới kết cấu hạ tầng cũng trải rộng. Trên cơ sở đó cần phải có hệ thống chính sách phát triển chung cho nhiều tỉnh, tạo ra sự thống nhất trên phạm vi lãnh thổ lớn. Yêu cầu: Xác định về ranh giới, tên gọi và luận chứng trong qui hoạch phát triển KTXH lãnh thổ. Nó là đối tượng để tổ chức lãnh thổ quốc gia và lập qui hoạch phát triển. (2) Cấp thứ 2: Vùng là tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương Cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi tắt là tỉnh) là cấp hành chính có qui định trong Hiến pháp 1992. Đây là cấp có bộ máy quản lý Nhà nước về lãnh thổ tỉnh. Là đơn vị nằm trong vùng lớn và phải có đầy đủ các điều kiện tự nhiên, KTXH để làm tròn nhiệm vụ chuyên môn hóa và phát triển tổng hợp nền kinh tế Là đối tượng của qui hoạch phát triển KTXH lãnh thổ và là cấp qui hoạch quan trọng, tại vì: + Phục vụ công tác điều hành và chỉ đạo vĩ mô về phát triển kinh tế và cung cấp các căn cứ cần thiết cho hoạt động KTXH và các nhà đầu tư. + Căn cứ khoa học cho các nhà lãnh đạo đưa ra các chủ trương, các kế hoạch cũng như các giải pháp hữu hiệu để chỉ đạo, điều hành, quản lý quá trình phát triển KTXH của tỉnh. 16
- + Nhân dân, các nhà đầu tư hiểu rõ tiềm năng, cơ hội đầu tư và yêu cầu phát triển KTXH của tỉnh. Số lượng cấp vùng phụ thuộc vào sự thay đổi địa giới hành chính cấp tỉnh. Khung 1.3. Sự thay đổi số lượng các tỉnh, thành phố qua các thời kỳ Những năm 1975 1980: có 40 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và đã xây dựng qui hoạch phát triển nông, lâm nghiệp và công nghiệp chế biến của các tỉnh. Thời kỳ 1982 1984: có 44 tỉnh, thành phố; xây dựng Tổng sơ đồ phân bố lực lượng sản xuất trên phạm vi cả nước. Từ năm 1989 đến nay: chia tách 49 tỉnh, 53 tỉnh, 61 tỉnh và nay là 64; đã xây dựng được các qui hoạch tổng thể phát triển KTXH và có sự rà soát, điều chỉnh các qui hoạch trên phạm vi các tỉnh. 17
- (3) Cấp thứ 3 cấp huyện (hay liên huyện) Là những đơn vị hành chính KTXH cấp huyện. c, Vùng ngành Vùng kinh tế ngành là vùng kinh tế của một ngành mà phân bố sản xuất phần lớn của một ngành nhất định ví dụ như vùng công nghiệp, vùng nông nghiệp, vùng du lịch… Vùng kinh tế ngành cũng có tính chất tổng hợp và quá trình phát triển của nó cũng mang tính chất khách quan và bị chi phối bởi sự phân công lao động theo lãnh thổ. Có hai dạng: Vùng kinh tế ngành tổng hợp bao gồm các dạng sản xuất của một loại ngành chung như vùng công nghiệp, vùng nông nghiệp… 18
- Vùng kinh tế ngành cụ thể là những loại vùng ngành nhỏ nằm trong vùng kinh tế ngành tổng hợp như vùng trồng cây công nghiệp, vùng trồng cây lương thực, vùng khai thác khoáng sản… Khung 1.4. Các vùng công nghiệp Việt Nam Có sáu vùng công nghiệp tại Việt Nam được quy hoạch từ nay đến năm 2020: Vùng 1 gồm 14 tỉnh Bắc Kạn, Bắc Giang, Cao Bằng, Điện Biên, Hòa Bình, Hà Giang, Lai Châu, Lạng Sơn, Lào Cai, Phú Thọ, Sơn La, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái tập trung phát triển thủy điện, chế biến nông, lâm sản, khai thác và chế biến khoáng sản, hóa chất, phân bón, luyện kim, sản xuất vật liệu xây dựng, công nghiệp cơ khí phục vụ nông nghiệp và công nghiệp chế biến. Vùng 2 gồm 14 tỉnh, thành Bắc Ninh, Hà Nội, Hà Tĩnh, Hải Dương, Hải Phòng, Hà Nam, Hưng Yên, Nam Định, Ninh Bình, Nghệ An, Quảng Ninh, Thái Bình, Thanh Hóa, Vĩnh Phúc) được định hướng tập trung phát triển ngành cơ khí, nhiệt điện, phát triển ngành điện tử và công nghệ thông tin, hóa chất, luyện kim, khai thác và chế biến khoáng sản, sản xuất vật liệu xây dựng, tiếp tục phát triển nhanh công nghiệp dệt may, da giầy phục vụ xuất khẩu, công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản. Vùng 3 gồm 10 tỉnh, thành Bình Định, Đà Nẵng, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Phú Yên, Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quảng Trị, Thừa ThiênHuế tập trung phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm, hải sản, lọc và hóa dầu, cơ khí chế tạo, sản xuất vật liệu xây dựng và dệt may, da giầy, ngành điện tử và công nghệ thông tin. Vùng 4 gồm 4 tỉnh Đắk Lắk, Đắk Nông, Gia Lai, Kon Tum tập trung phát triển thủy điện, công nghiệp chế biến nông, lâm sản và khai thác, chế biến khoáng sản. Vùng 5 gồm 8 tỉnh, thành Bà RịaVũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước, Bình Thuận, Đồng Nai, Lâm Đồng, thành phố Hồ Chí Minh, Tây Ninh) tập trung phát triển công nghiệp khai thác và chế biến dầu khí, điện, chế biến nông, lâm, hải sản và đặc biệt là công nghiệp cơ khí, điện tử, công nghiệp phần mềm, hóa chất, hóa dược, phát triển công nghiệp dệt may, da giầy chất lượng cao phục vụ xuất khẩu, phát triển công nghiệp trên cơ sở áp dụng công nghệ cao, phát triển các sản phẩm có hàm lượng tri thức cao. Vùng 6 gồm 13 tỉnh, thành An Giang, Bạc Liêu, Bến Tre, Cần Thơ, Đồng Tháp, Hậu Giang, Kiên Giang, Long An, Cà Mau, Sóc Trăng, Tiền Giang, Trà Vinh, Vĩnh Long tập trung phát triển ngành công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản hướng vào xuất khẩu, các ngành công nghiệp sử dụng khí thiên nhiên, ngành cơ khí phục vụ nông 19
- Khung 1.5. Các vùng nông nghiệp của Việt Nam Lãnh thổ trên đất liền của Việt Nam có thể chia thành tám vùng theo hệ sinh thái nông nghiệp: 1. Vùng Tây Bắc: gồm 4 tỉnh Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hoà Bình. 2. Vùng Đông Bắc: gồm 11 tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Quảng Ninh, Bắc Giang, Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang, Phú Thọ. 3. Vùng đồng bằng sông Hồng: gồm 11 tỉnh Hải Phòng, Hải Dương, Bắc Ninh, Hưng Yên, Hà Nội, Hà Tây, Thái Bình, Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình, Vĩnh Phúc. 4. Vùng Bắc Trung bộ: gồm 6 tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế. 5. Vùng Nam Trung bộ: gồm 5 tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà. 6. Vùng Tây Nguyên: gồm 5 tỉnh Lâm Đồng, Đắk Nông, Đắc Lắc, Gia Lai, Kon Tum. 7. Vùng Đông Nam bộ: gồm 6 tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Thành phố Hồ Chí Minh, Ninh Thuận, Bình Thuận. 8. Vùng Tây Nam bộ: gồm 13 tỉnh Long An, Bến Tre, Đồng Tháp, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Cần Thơ, Hậu Giang, Tiền Giang, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang, An Giang, Trà Vinh 1.2. Quan niệm về tổ chức lãnh thổ và qui hoạc vùng 1.2.1. Về tổ chức lãnh thổ và tổ chức lãnh thổ kinh tế xã hội a, Những quan niệm cơ bản Tổ chức lãnh thổ là việc tìm ra mối liên kết không gian, là việc bố trí hợp lý các cơ sở kinh tế trên một lãnh thổ nhất định, sao cho việc sử dụng lãnh thổ ấy đạt hiệu quả cao nhất về mặt kinh tế, xã hội và môi trường. Ở các nước phương Tây khái niệm tổ chức lãnh thổ (Territorial organistation) được dùng từ cuối thế kỷ XIX cả trong lý thuyết cũng như ứng dụng trong thực tiễn. Song khái niệm này chỉ bắt đầu được nêu ra ở Liên Xô 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Đề cương bài giảng: Vật lý chất rắn
33 p | 305 | 51
-
Bài giảng học về Toán rời rạc
58 p | 238 | 33
-
Bài giảng Tin sinh học đại cương - Chương 5: Tiến hóa phân tử và cây phân loại
21 p | 173 | 33
-
Bài giảng Địa chất đại cương: Chương 2 - Thành phần vật chất của trái đất
20 p | 206 | 30
-
Đề thi kết thúc học phần: Kỹ thuật thuỷ khí Đề số: 3
1 p | 275 | 24
-
Đề cương bài giảng Giải tích cổ điển
120 p | 144 | 21
-
Đề cương bài giảng học phần Cơ sở cảnh quan học - Th.S Phạm Thị Hồng Nhung
140 p | 102 | 14
-
Đề thi kết thúc học phần: Kỹ thuật thuỷ khí Đề số: 1106
1 p | 137 | 11
-
Đề cương bài giảng Cơ sở cảnh quan học
140 p | 158 | 10
-
Đề thi kết thúc học phần: Kỹ thuật thuỷ khí Đề số: 1107
1 p | 130 | 9
-
Bài giảng học Kỹ thuật môi trường
36 p | 95 | 8
-
Đề thi kết thúc học phần: Kỹ thuật thuỷ khí Đề số: 11010
2 p | 119 | 8
-
Đề thi kết thúc học phần: Kỹ thuật thuỷ khí Đề số: 1108
2 p | 136 | 8
-
Bài giảng học phần Vi sinh vật học đại cương
28 p | 54 | 8
-
Đề thi kết thúc học phần: Kỹ thuật thuỷ khí Đề số: 1109
2 p | 130 | 7
-
Đề cương bài giảng Xác suất thông kê
3 p | 111 | 6
-
Đề cương chi tiết học phần (Dùng cho sinh viên chuyên ngành Dược Thú y): Vi sinh vật đại cương
7 p | 88 | 6
-
Đề thi kết thúc học phần học kì 1 môn Lý luận và phương pháp giảng dạy môn Hóa đại cương năm 2019-2020 có đáp án - Trường ĐH Đồng Tháp
2 p | 12 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn