Đề cương môn Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước VN về các lĩnh vực của đời sống XH
lượt xem 61
download
Đề cương môn Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước VN về các lĩnh vực của đời sống XH gồm 7 câu hỏi lý thuyết giúp bạn làm quen với hình thức thi của môn học, hệ thống lại kiến thức qua các câu hỏi, bài tập và tự đánh giá năng lực của mình. Mời bạn cùng tham khảo.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Đề cương môn Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước VN về các lĩnh vực của đời sống XH
- Đề cương Môn: Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước VN về các lĩnh vực của đời sống XH – Đinh Huy Câu 1: Trình bày tính chất tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc? (Bài 4) Câu 2: Những chính sách xã hội đã và đang giải quyết những vấn đề cấp bách trong xã hội. Trong những vấn đề cấp bách đó theo anh, chị vấn đề nào cầu ưu tiên giải quyết nhất? Vì sao? (Bài 6) Câu 3: Cơ sở lý luận và thực tiễn đường lối chính sách của dân tộc của Đảng và Nhà nước? (Bài 7) Câu 4: Quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước Việt nam về vấn đề dân tôc và giải quyết vấn đề dân tộc. Trong những quan điểm đó theo anh, chị quan điểm nào là quan trọng nhất? Vì sao? (Bài 7) Câu 5: Quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước Việt Nam về quyền con người. Trong những quan điểm đó theo anh, chị quan điểm nào là quan trọng nhất? Vì sao? (Bài 8) Câu 6: Trình bày những nhiệm vụ cơ bản của chiến lược bảo vệ Tổ quốc Việt nam XHCN trong giai đoạn hiện nay. Theo anh, chị trong những nhiệm vụ trên là quan trọng nhất? Vì sao? (Bài 10) Câu 7: Tại sao nói kết hợp giữa phát triển kinh tế xã hội với tăng cường quốc phòng an ninh là tất yếu? (Bài 11)
- Đề cương Môn: Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước VN về các lĩnh vực của đời sống XH – Đinh Huy Câu 1: Trình bày tính chất tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc? (Bài 4) Đảng ta luôn quan tâm và đánh giá cao vai trò, vị trí của văn hóa đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, trong đó nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong thời kỳ mới là một nhiệm vụ quan trọng. Để hiểu rõ nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, trước hiểu ta tìm hiểu: Văn hóa là gì? Tính chất tiên tiến của nền văn hóa Việt Nam là gì? Văn hóa là tất cả giá trị vật chất và tinh thần do con người tạo ra. Tính chất tiên tiến của nền văn hóa Việt Nam là một sự vật hiện tượng luôn luôn đi trước và biểu hiện trình độ cao về văn minh, vật chất lẫn tinh thần. Là sự hòa huyện giữa giá trị truyền thống và tinh hoa văn hóa nhân loại đáp ứng yêu cầu xã hội đem lại hạnh phúc cho con người. Trong thời kỳ đổi mới, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, Đảng ta đã xác định nền văn hóa mà chúng ta tiến tới là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trình độ tiên tiến của nền văn hóa không mâu thuẫn với bản sắc văn hóa dân tộc, ngược lại, hai đặc tính thống nhất biện chứng với nhau, tác động qua lại và quy định lẫn nhau. Ở đây, chúng ta tách thành 2 nội dung đặc trưng “tiên tiến” và “bản sắc dân tộc” để nghiên cứu sâu sắc hon và đầy đủ hơn theo phương pháp trừu tượng hóa khoa học. Tính chất tiên tiến của nền văn hóa Việt Nam được thể hiện như sau: Thứ nhất, nền văn hóa tiên tiến là nền văn hóa thể hiện tinh thần yêu nước và tiến bộ. Đặc trưng tiên tiến của nền văn hóa hiện đại dựa trên các giá trị văn hóa cao đẹp và tiến bộ của dân tộc và thời đại. Đó là chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cơ sở chỉ đạo đời sống tinh thần dân tộc và là thành tố quan trọng của văn hóa. Dưới ánh sáng của hệ tư tưởng tiến bộ trên, tính “tiên tiến” của nền văn hóa Việt Nam thể hiện ở mục tiêu mà nền văn hóa hướng tới là “độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội và nền văn hóa mới ở nước ta hiện nay là một quá trình thống nhất không thể tách rời. Chế độ xã hội tiên tiến quy định tính tiên tiến của nền văn hóa, đồng thời nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là iộng lực của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và phát triên kinh tế xã hội của đất nước. Nghị quyêt Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII của Đảng nhấn mạnh: “Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”. Thứ hai, nền văn hóa tiên tiến phải thể hiện tinh thần nhân văn cách mạng. Xây dựng nền văn hóa nhân văn là hướng tới con người, giải phóng con người, phát triển và hoàn thiện con người. Chủ nghĩa MácLênin là hệ tư tưởng duy nhất lấy việc giải phóng con người làm mục tiêu cao cả của mình. Giải phóng con người không chỉ là làm cho con người thoát khỏi mọi hình thức bóc lột, áp bức bất công về thể xác mà còn là giải phóng con người về mặt tinh thần, giải phóng mọi tiềm năng sáng tạo, mở ra những điều kiện xã hội tốt đẹp cho con người phát triển toàn diện về nhân cách. Chủ nghĩa MácLênin là chủ nghĩa nhân văn “trực tiếp nhằm vào hành động” đê giải phóng con người theo ý nghĩa cách mạng cao quý đó. Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhấn mạnh tinh thần giải phóng con người như là mục đích tối thượng của chủ nghĩa MácLênin “muốn chủ nghĩa cộng sản thực hiện được, mọi người đều được phát triển hết khả năng của mình”. Thứ ba, nền văn hóa tiên tiến là nền văn hóa mang tinh thần dân chủ. Dân chủ là đặc trưng cơ bản của nền văn hóa tiên tiên (tiến bộ), dân chủ là yếu tố làm thay đổi nhiều mặt đời sống văn hóa dân tộc. Dân chủ là nguồn sữa nuôi dưỡng nền văn hóa, là tiền đề quan trọng cho sự phát triển văn hóa. Dân chủ là động lực cho sự phát triển tài năng, nhu cầu sáng tạo của quần chúng nhân dân góp phần làm phong phú, đa dạng nền văn hóa dân tộc để phục vụ cho con người. Dân chủ gắn liền với tự do sáng tạo, tôn trọng cá tính sáng tạo, ý kiến cá nhân, giá trị cá nhân trong văn hóa và mọi hoạt động của đời sống xã hội. Thứ tư, nền văn hóa tiên tiến bao gồm tính hiện đại. Ngoài yếu tố hệ tư tưởng thành tố quan trọng của nền văn hóa tiên tiến thì các yếu tố khác của nó cũng đòi hỏi phải có trình độ hiện đại: trình độ giáo dục, khoa học công nghệ, v.v... Phải dẩn dần tiến kịp và hòa nhập với trình độ hiện đại của thế giới, phải hướng tới cuộc cách mạng khoa học và công nghệ để công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đòi hỏi sự vận dụng sáng tạo và làm chủ các tri thức khoa học và công nghệ để xây dựng đất nước. Nâng cao trình độ tư duy khoa học, duy lý trong mọi hoạt động kinh tế xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường, giải quyết các vân đê dân tộc đặt ra trên tâm thời đại. Nen văn hóa mới phải tạo ra những phẩm chất, đạo đức, tâm hồn, lối sống con người Việt Nam hiện đại ngang tầm với sự nghiệp đổi mới đất nước. Thứ năm, nền văn hóa tiên tiến thể hiện ở hình thức biểu hiện, phương tiện chuỵển tải nội dung. Sử dụng các hình thức sáng tạo mới bằng các công nghệ hiện đại làm sâu sắc, phong phú và đa dạng các sản phẩm văn hóa dân tộc. Có cách thức và phương pháp tiên tiến để chuyển đổi nội dung và làm mới các giá trị văn hóa cổ truyền cho phù hợp với thời đại. Đồng thời phải xây dựng kết cấu hạ tầng của xã hội và văn hóa từng bước hiện đại hóa. Đầu tư để xây dựng cơ sở vật chất kỳ thuật, trang thiết bị cho hoạt động văn hóa tiến kịp trình độ khoa học công nghệ hiện đại. Có như vậy mới giúp cho sự sáng tạo tốt hơn, sự truyền bá nhanh hon, rộng rãi hơn đáp ứng được nhu cầu văn hóa ngày càng tăng và càng cao của nhân dân.
- Đề cương Môn: Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước VN về các lĩnh vực của đời sống XH – Đinh Huy Bản sắc dân tộc của nền văn hóa mới Trong văn kiện Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: “Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc; tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân gia đình làng xã Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống. Bản sắc văn hóa dân tộc còn đậm nét cả trong các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo”. Nền văn hóa tiên tiến phải có sắc thái riêng, cái độc đáo của truyền thống, tâm hồn, cốt cách, lối sống, v.v... của một dân tộc chứa đựng những tinh hoa của quá khứ kết hợp với những cái tốt đẹp của hiện đại. Nền văn hóa đó phải phát triển trên nền những sắc thái riêng đã trở thành bản sắc của chính nó. Nếu không, trước xu hướng toàn cầu hóa, xu hướng áp đặt văn hóa được truyền bá bởi sức mạnh vật chất và phương tiện kỹ thuật hiện đại sẽ biến văn hóa của các quốc gia dân tộc thành “bản sao” của nền văn hóa khác. Để xây dựng nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, chúng ta cần: + Kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc, đổi mới bản sắc dân tộc phù hợp với yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đem lại hạnh phúc cho nhân dân. + Phát triển văn hóa dân tộc đi đôi với giao lưu văn hóa với nước ngoài, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại làm giàu đẹp thêm văn hóa Việt Nam. Ngăn chặn và đấu tranh chống sự xâm nhập của những sản phẩm văn hóa, phản giá trị, chống lại âm mưu “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng của các thế lực phản động hiện nay. Văn hóa là nền tảng, là động lực mục tiêu, là cái gốc của dân tộc, gốc của con người. Sự nghiệp cách mạng vẻ vang đòi hỏi Đảng và nhân dân ta phải quyết tâm xây dựng nền văn hóa mới tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Đứng trước những khó khăn và thách thức mới, mỗi người dân Việt Nam chúng càng phải nhận thức được vai trò của bản thân trong xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc theo định hướng đã đề ra. Chúng ta hãy cố gắng học tập, rèn luyện bản thân thật tốt để mỗi người đều trở thành một bông hoa đẹp có ích, qua đó thể hiện được bản sắc văn hoá dân tộc trong từng lời nói, hành động. Làm được điều đó có nghĩa là chúng ta đã góp phần xây dựng hình ảnh đất nước Việt Nam thân thiện và đẹp đẽ trong mắt bạn bè quốc tế. Với riêng bản thân tôi, để góp phần sức lực nhỏ bé của mình, không ngừng học tập nâng cao trình độ chuyen môn, trình độ chính trị, hoàn thành xuất ắc các nhiệm vụ được giao; gương mẫu đi đàu trong các hoạt động địa phương, từ đó tuyên truyền, vận động người thân, gia đình tham gia xây dựng đời sống văn hóa mới như các phong trào xây dựng Gia đình văn hóa, khu dân cư văn hóa, củng cố tình làng nghĩa xóm, nêu cao tinh thần doàn kết tương trợ lẫn nhau; tích cực tham gia cùng mặt trận, hội đoàn thể địa phương tổ chức vận động nhân dân xây dựng đời sống văn hóa, bài trừ hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan, kịp thời góp ý phản biện để Đảng, Nhà nước có những sửa đổi cho phù hợp, góp phần đưa chủ trương chính sách của Đảng vào cuộc sống. Bonus: Cần phải làm gì để giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay? Giữ gìn, phát huy, làm giàu bản sắc văn hóa dân tộc càng ngày càng trở thành nhu cầu, nhiệm vụ của văn hóa và của tất cả mọi người. Để làm tốt nhu cầu và nhiệm vụ nặng nề này, cần phải thấm nhuần quan điểm: chỉ có phát triển mạnh mẽ văn hóa các dân tộc với bản sắc riêng của chúng, văn hóa nhân loại mới trở nên phong phú, đa dạng. Nếu văn hóa của tất cả các dân tộc trên thế giới đều bị mất đi bản sắc riêng hoặc bị đồng hóa bởi một nền văn hóa... thì chắc chắn kho tàng văn hóa nhân loại sẽ nghèo nàn, đơn điệu. Cho nên cái chung của văn hóa nhân loại chỉ phong phú khi cái riêng của văn hóa từng dân tộc được coi trọng. Đảng ta chỉ rõ xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đặc đậm bàn sắc dân tộc, gìn gi ữ bản sắc văn hóa dân tộc trong giao lưu quốc tế là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân. Giữ gìn bản sắc văn hóa không có nghĩa là loại bỏ các yếu tố văn hóa ngoại lai. Các yếu tố văn hóa bản địa trước đây đã từng dung hợp với các yếu tố văn hóa ngoại nhập nhưng vẫn tạo ra những nét văn hóa bản sắc. Vấn đề là phải dung hợp như thế nào và điều đó phải trở thành nhận thức, ý thức thường trực trong tiếp nhận và sử dụng. Thực tế cho thấy nhiều người có ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa Việt Nam rất quan ngại khi các yếu tố văn hóa ngoại nhập đã làm xâm phạm và làm lu mờ những giá trị văn hóa truyền thống. Gần đây trang phục và diễn xuất của nhiều ca sĩ, diễn viên trên sân khấu đã tạo ra sự phản cảm, trở thành một vấn đề nhức nhối khiến cho một bộ phận không nhỏ khán giả quay lưng với nghệ thuật sân khấu. Giữ gìn bản sắc văn hóa là một yêu cầu vừa lâu dài vừa cấp thiết. Do đó, chúng ta cần phải: Kế thừa và phát huy truyền thống văn hóa của tất cà các dân tộc trong nước, sự đa dạng, phong phú của văn hóa tộc người, vùng, miền, địa phưong. khẳng định giá trị, giữ' gìn tinh hoa di sàn văn hóa dân tộc. Phát triển văn hóa dân tộc đi liền với giao lưu văn hóa quốc tế; tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại để làm giàu đẹp văn hóa dân tộc; đồng thời đề cao bản lĩnh văn hóa dân tộc, đấu tranh chống sự thâm nhập của văn hóa độc hại. Chuyển đổi, bổ sung những thiêu hụt cùa văn hóa cổ truyền trước yêu cầu mới của thời đại, làm cho bản sắc văn hóa dân tộc càng giàu có, phong phú, có sự đồi mới phù hợp với thời đại tiên tiến, với việc đầy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Đề cương Môn: Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước VN về các lĩnh vực của đời sống XH – Đinh Huy Phát huy thế giới quan của chủ nghĩa Mác Lê nin, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh như sự kết tinh t ốt đẹp nhất của tinh hoa văn hóa dân tộc và nhân loại thời hiện đại. Tạo một môi trường quốc gia về văn hóa thật sự lành mạnh và thuận lợi cho việc giữ gìn, phát huy bàn sắc văn hóa dân tộc. Môi trường này thể hiện ờ cấu trúc văn hóa (gia định, làng (phố, nước); những cơ quan làm văn hóa; ở không khí nhiệt tình sáng tạo của nhũng lực lượng sưu tầm, nghiên cứu, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, nhũng lực lượng tiếp nhận văn hóa nước ngoài và tính tích cực tham gia văn hóa ờ trình độ dân trí cao và sự am hiểu văn hóa dân tộc của toàn dân; đưa giáo dục văn hóa văn nghệ vào nhà trường, từ mẫu giáo. Tổ chức, vật chất hóa quá trình gìn giữ, phát huy các giá trí văn hóa cổ truyền và hiện đại bằng cách đầy mạnh phương châm xã hội hóa sự nghiệp văn hóa. kết họp sự tìm tòi, đóng góp. đầu tư của Nhà nước, nhân dân và các nguồn quí quốc tế Một mặt táng cường hoạt động giao lưu văn hóa với nước ngoài, trong giao lưu chú ý tiếp thu tinh hoa, ngăn chặn độc tố; mặt khác tăng cường phát huy bản sắc văn hóa dân tộc góp phần vào kho tàng văn hóa thế giới... Giữ gìn, phát huy, làm giàu bàn sắc văn hóa dân tộc trong giao lưu quốc tế là một nhiệm vụ hết sức nặng nề, rất cần sự chung sức, chung lòng của Đàng, Nhà nước, nhân dân, mới có thể làm tốt được. _____________________________________
- Đề cương Môn: Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước VN về các lĩnh vực của đời sống XH – Đinh Huy Câu 2: Những chính sách xã hội đã và đang giải quyết những vấn đề cấp bách trong xã hội. Trong những vấn đề cấp bách đó theo anh, chị vấn đề nào cầu ưu tiên giải quyết nhất? Vì sao? (Bài 6) Trong tiến trình phát triển kinh tế thị trường, vấn đề an sinh xã hội ngày càng có ý nghĩa quan trọng nhằm bảo đảm an toàn cho đời sống các thành viên trong xã hội trước những biến động khó lường, như những rủi ro trong kinh tế thị trường, những rủi ro về xã hội, những tác động xấu của môi trường thiên nhiên. Vậy chính sách xã hội được hiểu như thế nào? Trước hết ta tìm hiểu: Xã hội được hiểu theo nghĩa rộng là những cái liên quan đến con người, liên quan đến quan hệ giữa con người với con người, là những cái không thuộc của tự nhiên. Hay hiểu theo nghĩa hẹp, xã hội là những vấn đề xã hội liên quan đến: nghèo đói; phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo; Thất học, bất bình đẳng trong giáo dục; Chăm sóc sức khỏe, đảm bảo sự bình đẳng trong hưởng thụ dịch vụ y tế; Giải quyết vấn đề dân số, kế hoạch hóa gia đình, dân số phát triển; giải quyết việc làm, chống thất nghiệp; Tệ nạn xã hội, an toàn giao thông; Ô nhiễm môi trường tự nhiên; Sự phức tạp của môi trường xã hội; Trẻ em lang thang, trẻ em phải lao động sớm và bị bốc lột, bất bình đẳng dân tộc, … Chính sách là những quy định, quyết định được nhà nước thể chế hóa nhằm điều chỉnh quan hệ kinh tế chính trị, xã hội của con người để giải quyết những vấn đề đang đặt ra, thực hiện mục tiêu đã được xác định trước. Như vậy, chính sách xã hội là những quy định, quyết định được thể chế hóa bởi nhà nước, trở thành công cụ để tác động vào những quan hệ xã hội nhằm giải quyết những vấn đề xã hội đang đặt ra, góp phần thực hiện bình đẳng, công bằng, tiến bộ xã hội và phát triển toàn diện con người. Chính sách xã hội nhằm chia sẻ trách nhiệm trong cộng đồng, hướng tới công bằng xã hội. Vì vậy, hiệu quả của chính sách an sinh xã hội đang trở thành một thước đo của sự phát triển kinh tế xã hội. Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, có một số vấn đề xã hội nổi lên rất gay gắt và bức xúc cần phải có chính sách giải quyết, nếu không sẽ dẫn đến quá trình phát triển kinh tế và chính sách mở cứa hội nhập quốc tế đã và đang có tác động sâu sắc làm thay đồi giá trị, chuẩn mực xâ hội và chuyển biển các phân hệ cơ cấu xã hội . Giải quyết các vấn đề xã hội ấy không chỉ dừng lại ở những khẩu hiệu vận động chung chung mà nó còn đòi hỏi phải áp dụng đ ồng thời nhiêu chính sách xã hội. Xuất phát từ đó, Đảng, Nhà nước đã đưa ra một số chính sách xã hội nhằm giải quyết một số vấn đề xã hội cấp bách hiện nay như sau: Một là, chính sách dân số Mục tiêu tống quát của chính sách dân số là thực hiện gia đình ít con, khỏe mạnh, tạo điều kiện để có cuộc sống ấm no, hạnh phúc; nâng cao chất lượng dân số, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, góp phần vào sự phát triển nhanh và bền vững đất nước. Mục tiêu cụ thể: là mỗi gia đình chỉ có 1 hoặc 2 con, để tới năm 2015 bình quân trong toàn xã hội mồi cặp vợ chồng có 2 con, tiến tới ổn định quy mô dân số từ giữa thế kỷ XXI, nâng chất lượng dân số về thể chất, trí tuệ và tinh thần, chất lượng chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em, giảm tỷ lệ viêm nhiễm, bệnh lây truyền qua đường sinh dục (HIV), v.v... Hai là, chính sách xã hội nhằm giải quyết tệ nạn xã hội Theo các cơ quan chức năng, hiện nay tình hình hoạt động mại dâm thường rất đa dạng với nhiều hình thức biến tướng và sử dụng các thủ đoạn mới, tinh vi. Trong đó, chủ yếu vẫn là lợi dụng các dịch vụ như ăn, nghỉ, vũ trường, karaoke, tẩm quất, v.v... Đặc biệt, trong những năm gần đây tệ nạn ma túy và tội phạm ma túy ở nước ta diễn biến rất phức tạp. Ma tủy đã vào trường học, rình rập từng nhà, từng ngõ ngách gây ra những cái chết dần, chết mòn không những cho người nghiện mà cả gia đình họ. Nghiện ma túy cũng là nguyên nhân gây ra những tệ nạn xã hội khác. Đa số người nghiện ma túy, để có tiền mua ma túy đều phạm tội trộm cắp, cướp giật, lừa đảo. Theo một số nguồn tin, khoảng 75% các tội phạm hình sự có nguyên nhân bắt nguồn từ những người nghiện ma túy. Đa số những người bị nhiễm HIV/AIDS là những người nghiện ma túy. Những tệ nạn này gia tăng đến mức l o ngại, cần huy động sức mạnh của toàn dân, tất cả các ngành, các cấp chính quyền để đẩy lùi, ngân chặn. Đồng thời phải sừ dụng dư luận xã hội để phòng chống, ngăn ngừa vá tăng cường giáo dục, tuyên truyền chống tệ nạn này trong toàn xâ hội, tang cường các biện pháp cưỡng bức hành chính, xử lý nghiêm minh những tên buôn bán ma tuý, tồ chức mại dâm tham nhũng. Ba là, chính sách giải quyết việc làm Những con số thống kê, Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên ước tính đến ngày 112014 là 53,65 triệu người, tăng 864,3 nghìn người so với cùng thời điểm năm trước; Lực lượng lao động trong độ tuổi lao dộng ước tính đến 1 12014 là 47,49 triệu người, tăng 409,2 nghìn người so với cùng thời điểm năm 2013 ; Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong các ngành kinh tế năm 2013 ước tính 52,40 triệu người, tăng 1,36% so với năm 2012; Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên trong độ tuổi 1524 năm 2013 ước tính 6,36%, trong đó khu vực thành thị là 11,11%, tăng 1,94 điểm phần trăm so với năm trước; khu vực nông thôn là 4,87%, tăng 0,62 điểm phần trăm ; Tỷ lệ thất nghiệp của lao động từ 25 tuổi trở lên năm 2013 ước tính 1,21%, trong đó khu vực thành thị là 2,29%, tăng 0,19 điểm phần trăm so với năm trước; khu vực nông thôn là 0,72%, tăng 0,06 điểm phần trăm... Nhìn chung, tỷ lệ thất nghiệp có xu hướng
- Đề cương Môn: Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước VN về các lĩnh vực của đời sống XH – Đinh Huy tăng lên do sản xuất vẫn gặp khó khăn làm ảnh hưởng đến việc làm của người lao động. Từ thực tiễn trên đòi hỏi phải tiếp tục hoàn thiện và thực hiện tốt các chính sách hồ trợ phát triển sản xuất, tạo việc làm, học nghề, đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài, ưu tiên người nghèo, người dân tộc thiểu số thuộc các huyện nghèo, xã nghèo, tliôn bản đặc biệt khó khăn. Xây dựng và triển khai Luật Việc làm; khẩn trương nghiên cứu xây dựng Chương trình việc làm công. Phấn đấu đến năm 2020, tỷ lệ thất nghiệp chung dưới 3%; tỷ lệ thất nghiệp thành thị dưới 4%. Bốn là, chính sách xã hội dành cho hệ thống giáo dục, y tế Bảo đảm giáo dục tối thiểu: Tổng chi ngân sách nhà nước cho giáo dục và đào tạo được hào đảm. Trong thời gian tới sẽ tiếp tục thực hiện các chiến lược, chương trình, đề án về giáo dục. Mở rộng và tăng cường các chế dộ hỗ trợ, nhất là đối với thanh niên, thiếu niên thuộc hộ nghèo, người dân tộc thiểu số ở các huyện nghèo, xã, thôn bản đặc biệt khó khăn để bảo đảm phổ cập giáo dục bền vững. Tăng số lượng hục sinh trong các trường dân tộc nội trú, mở rộng mô hình trường hán trú; xây dựng và củng cố nhà trẻ trong khu công nghiệp và vùng nông thôn. Xây dựng đề án phổ cập mầm non cho trẻ dưới 5 tuổi. Nâng cao chất lượng phổ cập trung học cơ sở, đặc biệt là đối với con em hộ nghèo, dân tộc thiểu số và trẻ em có hoàn cảnh khó khăn. Phấn đấu đến năm 2020 có 99% trẻ em đi học đúng độ tuổi ở bậc tiểu học, 95% ở bậc trung học cơ sở; 98% người trong độ ỉuổi tò 15 trở lên biết chữ; trên 70% lao động qua đào tạo. Bảo đảm y tế tối thiểu: Tiếp tục triển khai chiến lược, các chương trình, đề án về y tế, nhất là đề án khắc phục quá tải ở các bệnh viện. Cải thiện dịch vụ chăm sóc sức khỏe nhân dân ở các tuyến cơ sở, ưu tiên các huyện nghèo, xã nghèo, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đến năm 2020, trên 90% trẻ dưới 1 tuổi được tiêm chủng đầy đủ; tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi thể nhẹ cân 10%. Nâng cao hiệu quả sử dụng bảo hiếm y tế đối với đồng bào dân tộc thiểu số, vùng miền núi, các hộ nghèo. Sửa đổi, bổ sung Luật Bảo hiếm y tế, đổi mới công tác quản lý nhà nước về bảo hiểm y tế, có chính sách khuyến khích người dân, nhất là người có thu nhập dưới mức trung bình tham gia bảo hiểm y tế. Đen năm 2020, phấn đấu ưên 80% dân số tham gia bảo hiểm y tế, v.v… Năm là, chính sách xóa đói giảm nghèo Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững đạt kết quả tích cực. Thành tựu giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội ma Việt Nam được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Trong thời gian sắp tới chính sách xóa đói giảm nghèo sẽ được thực hiện theo hướng: thực hiện đồng bộ, lồng ghép các chương trình, chính sách hiện hành có điều chỉnh, bao gồm: (1) Chính sách hỗ trợ lao động nghèo, người thất nghiệp và thiếu việc làm ở nông thôn có việc làm, thu nhập ổn định và tham gia thị trường lao động; hỗ trợ dân cư nông thôn dễ dàng tiếp cận đến các dịch vụ xã hội cơ bản; (2) Tuyên truyền, hỗ trợ đối với 40% dân số nông thôn hiện nay chưa tham gia bảo hiểm y tế; (3) Bổ sung nhóm đối tượng nghèo kinh niên được hưởng chính sách trợ giúp xã hội thường xuyên; (4) Tiếp tục xây dựng, thực hiện Nghị quyết về định hướng giảm nghèo thời kỳ 20112020. Chú trọng các chính sách giảm nghèo đối với các huyện nghèo, ưu tiên người nghèo là đồng bào dân tộc thiểu số thuộc huyện nghèo, xã biên giới, xã an toàn khu, xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn, vùng bãi ngang ven biển, hải đảo, thu hẹp chênh lệch về mức sống và an sinh xã hội so với bình quân cả nước. Phấn đấu đến năm 2020, thu nhập bình quân đầu người của hộ nghèo tăng trên 3,5 lần so với năm 2010, tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm 1,52%/năm; các huyện, xã có tỷ lệ nghèo cao giảm 4%/năm theo chuẩn nghèo từng giai đoạn. Trong tiến trình phát triển kinh tế thị trường, vấn đề an sinh xã hội ngày càng có ý nghĩa quan trọng nhằm bảo đảm an toàn cho đời sống các thành viên trong xã hội trước những biến động khó lường, như những rủi ro trong kinh tế thị trường, những rủi ro về xã hội, những tác động xấu của môi trường thiên nhiên. Chính sách xã hội nhằm chia sẻ trách nhiệm trong cộng đồng, hướng tới công bằng xã hội. Vì vậy, các chính sách xã hội hiện nay của Đảng, Nhà nước đều cần giải quyết cấp bách. Nhưng theo tôi: Chính sách giải quyết việc làm cần được ưu tiên giải quyết trước, với những lý do sau: Việc làm là một phạm trù tồn tại khách quan trong nền sản xuất xã hội, phụ thuộc vào các điều kiện hiện có của nền sản xuất. Người lao động được coi là có việc làm khi chiếm giữ một vị trí nhất định trong hệ thống sản xuất của xã hội. Nhờ có việc làm mà người lao động mới thực hiện được quá trình lao động tạo ra sản phẩm cho xã hội, cho bản thân. Việc làm là: “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm”. Việc làm có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, nó không thể thiếu đối với từng cá nhân và toàn bộ nền kinh tế, là vấn đề cốt lõi và xuyên suốt trong các hoạt động kinh tế, có mối quan hệ mật thiết với kinh tế và xã hội, nó chi phối toàn bộ mọi hoạt động của cá nhân và xã hội. Trong giai đoạn hiện nay, nước ta đang trên đà phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Việt Nam luôn là điểm sáng thu hút các nhà đầu tư nước ngoài như Hàn Quốc, Đài Loan, và đặc biệt là Nhật Bản. Là bộ phận trực tiếp tham gia vào các quy trình sản xuất vì thế mà việc phát triển nguồn nhân lực cũng đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc phát triển kinh tế của doanh nghiệp. Ở khía cạnh cung cầu lao động, việc làm mất cân đối lớn, cung lớn hơn cầu. Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị giảm chậm, tỷ lệ sử dụng lao động ở nông thôn thấp. (Tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên trong độ tuổi 1524 năm 2013 ước tính 6,36%, trong đó khu vực thành thị là 11,11%, tăng 1,94 điểm phần trăm so với năm trước; khu vực nông
- Đề cương Môn: Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước VN về các lĩnh vực của đời sống XH – Đinh Huy thôn là 4,87%, tăng 0,62 điểm phần trăm. Tỷ lệ thất nghiệp của lao động từ 25 tuổi trở lên năm 2013 ước tính 1,21%, trong đó khu vực thành thị là 2,29%, tăng 0,19 điểm phần trăm so với năm trước; khu vực nông thôn là 0,72%, tăng 0,06 điểm phần trăm). Ở khía cạnh quản lý nhà nước đối với thị trường lao động, việc làm và vai trò điều tiết của Nhà nước đối với quan hệ cung cầu lao động còn hạn chế. Sự kiềm soát, giám sát thị truờng lao động, việc làm chưa chặt chẽ. Chua phát huy được vai trò cùa “tòa án lao động” trong giãi quyết ứanh châp lao động. Cải cách hành chính hiệu quả thấp đối vởi bản thân người lao động và cả xã hội. Cơ cấu lao động chưa phù hợp với sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. (Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc năm 2013 của khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 46,9% tổng số, giảm 0,5 điểm phần trăm so với năm trước; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 21,1%, giảm 0,1 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ chiếm 32,0%, tăng 0,6 điểm phần trăm ). Tỷ lệ lao động qua đào tạo và đào tạo nghề thấp. Kỹ năng tay nghề, thể lực còn yếu, kỷ luật lao động, tác phong làm việc công nghiệp chưa cao. Hiện nay, chúng ta đang phải đối mặt với những thách thức to lớn. Cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt từ cấp độ sản phẩm, doanh nghiệp đến toàn nền kinh tế, từ bình diện trong nước đến ngoài nước. Một bộ phận doanh nghiệp không thích nghi kịp có nguy cơ phá sản, người lao động có nguy cơ thất nghiệp cao, thiếu việc làm, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp. Chất lượng nguồn lực lao động nước ta chưa đáp ứng yêu cầu, gây trở ngại trong quá trình hội nhập. Di chuyển lao động tự phát từ nông thôn ra thành thị, vào các khu công nghiệp tập trung và di chuyển ra nước ngoài kéo theo nhiều vấn đề xã hội nhạy cảm như "chảy máu chất xám, tình trạng buôn bán phụ nữ và trẻ em qua biên giới”... Từ những thực trạng trên, đòi hỏi Đảng, Nhà nước phải: Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất, tạo việc làm, học nghề, đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài, ưu tiên người nghèo, người dân tộc thiểu số thuộc các huyện nghèo, xã nghèo, tliôn bản đặc biệt khó khăn. Chú trọng giáo dục ý thức tổ chức, kỷ luật, kỹ năng lao động, tay nghề Xây dựng chiến lược truyền thông quốc gia về định hướng nghề nghiệp và việc làm cho nông thôn. Cần tập trung vào các chính sách đối với lao động nông thôn bị mất việc làm, thiếu việc làm. Xây dựng và triển khai Luật Việc làm; khẩn trương nghiên cứu xây dựng Chương trình việc làm công. ______________________________
- Đề cương Môn: Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước VN về các lĩnh vực của đời sống XH – Đinh Huy Câu 3: Cơ sở lý luận và thực tiễn đường lối chính sách của dân tộc của Đảng và Nhà nước? (Bài 7) Ngay từ thời dựng nước, Việt Nam đã là quốc gia thống nhất đa dân tộc (tộc người). Trong tiến trình phát triển hàng ngàn năm, các dân tộc luôn luôn sát cánh bên nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc với truyền thống: “Bầu ơi thương lấy bí cùng; tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”. Cái “giàn” mà ông cha ta đã tổng kết chính là Tổ quốc Việt Nam của tất cả chúng ta. Ngay từ khi mới thành lập, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định vấn đề dân tộc có vai trò và vị trí đặc biệt quan trọng đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Quán triệt những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin về vấn đề dân tộc, ngay từ đầu, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra những nguyên tắc và định hướng chiến lược về chính sách dân tộc ở Việt Nam, đó là đoàn kết, bình đẳng, tương trợ giữa các dân tộc. Với quan điểm cách mạng là sáng tạo không ngừng, trong thời kỳ đổi mới, chính sách dân tộc của Đảng ta vừa đảm bảo tính nhất quán, vừa đổi mới trước yêu cầu phát triển và hội nhập nhằm giải quyết thành công vấn đề dân tộc ở nước ta hiện nay và trong tương lai. Dân tộc được hiểu là một cộng đồng ổn định có chung về lãnh thổ hoạt động kinh tế, về một ngôn ngữ giao tiếp và một nền văn hóa hay còn gọi là dân tộc quốc gia. Các dân tộc sống trong một dân tộc quốc gia có ba đặc trưng về tiếng mẹ đẻ (ngôn ngữ riêng), về nền văn hóa riêng và ý thức tự giác riêng thì gọi là dân tộc tộc người. Theo quan điểm của chủ nghĩa MácLênin, vấn đề dân tộc là một vấn đề rộng lớn, phức tạp. Việc đề ra chính sách dân tộc cùa Đảng Cộng sản Việt Nam dựa trên các cơ sở lý luận và thực tiễn cũng như các điều kiện lịch sử cụ thể của từng dân tộc sinh sống trên đất nước Việt Nam. Về cơ sở lý luận Thứ nhất, đó là việc dựa trên các quan điểm của chủ nghĩa MácLênin về khái n iệm và những đặc trưng cơ bản của dân tộc. Dân tộc được hiếu là một khái niệm để chỉ một công đồn g người on định, được thành và phát triển trong những điều kiện lịch sử nhất định, với những đặc trưng cơ bản đỏ là có chung lãnh thổ, có một phương thức sinh hoạt kinh tế chung, một ngôn ngữ giao tiếp chung và một nền văn hóa chung biểu hiện trong tâm lý dân tộc. Từ khái niệm này, chúng ta có thể xem dân tộc là một cộng đồng người ổn định, hình thành và phát triển trong lịch sử với ba đặc trưng cơ bản sau: + Cộng đồng về ngôn ngừ. Ngôn ngữ chung của cộng đồng có thể bao gồm ngôn ngữ nói và viết. Đây là nhân tố quan trọng giúp cho quá trình cố kết cộng đồng. Tuy nhiên, không phải có bao nhiêu ngôn ngữ nói là có bấy nhiêu dân tộc. + Có những đặc điếm chung thuộc bản sắc văn hóa. Những đặc điểm chung này có thể là văn hóa vật chất, có thể là văn hóa l i n h thần phản ánh truyền thống, phong tục, tập quán, tín ngưỡng lon giáo của dân tộc. + Có ý thức tự giác tộc người. Đây là nhân tố quan trọng kháng định sự tồn tại và phát triển của dân tộc, đồng thời là tiêu t hí để phân định giữa dân tộc này với dân tộc khác. Các yếu tố cư dân, kinh tế, địa bàn có thể thường xuyên biến đổi, song ý thức tộc người có tính bền vững tương đối và thường gắn với lịch sir dựng và giữ nước của cả dân tộc. Thứ hai, việc đề ra chính sách dân tộc còn dựa trên lý luận về 2 xu hướng khách quan trong phong trào dân tộc và quan hệ dân tộc. Nghiên cứu vấn đề dân tộc trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản chủ nghĩa MácLênin đã phát hiện ra 2 xu hướng khách quan: + Xu hướng phân lập. Đây là xu hướng phản ánh sự chín muồi về ý thức dân tộc, sự thức tỉnh về các quyền sống của dân tộc và phát triển thành phong trào dân tộc. Các cộng đồng cư dân muốn tách ra để thành lập các quốc gia dân tộc độc lập. Trony, giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, hàng loạt các dân tộc vùng lên đấu tranh để lập nên các quốc gia dân tộc độc lập; xác lập quyền lựa chọn chế độ chính trị và con đường phát triển của dân tộc mình. + Xu hướng liên hiệp. Đây là xu hướng mà các dân tộc ớ từng quốc gia hoặc nhiều quốc gia liên hiệp với nhau, xóa bở sự biệt lập khép kín, phá vỡ hàng rào ngăn cách giữa các dân tộc đế thành lập các quốc gia đa dân tộc độc lập, thúc đẩy sự xích lại gần nhau giữa các dân tộc. Thứ ba, dựa trên cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa MácLênin. Những năm đầu của thế kỷ XX, dựa trên sự vận dụng và phân tích sâu sắc lý luận của C.Mác về mối quan hệ giữa vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc, 2 xu hướng khách quan của phong trào dân tộc, kinh nghiệm thế giới và kinh nghiệm của nước Nga, V.I.Lênin đã nêu ra Cương lĩnh dân tộc: các dân tộc hoàn toàn bình đẳng; các dân tộc được quyền tự quỵêt, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc lại. Cương lĩnh dân tộc của V.I.Lênin có 3 nội dung: + Một là, các dân tộc hoàn toàn bình đẳng. Bình đẳng dân tộc là quyền thiêng liêng của các dân tộc trong mối quan hệ giữa các dân tộc. Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng có nghĩa là các dân tộc dù lớn hay nhỏ, không phân biệt trình độ cao hay thấp đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau, không một dân tộc nào được giữ đặc quyền đặc lợi và đi áp bức dân tộc khác.
- Đề cương Môn: Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước VN về các lĩnh vực của đời sống XH – Đinh Huy + Hai là, các dân tộc được quyền tự quyết. Quyền dân tộc tự quyết là quyền làm chủ của mồi dân tộc đối với vận mệnh của dân lọc mình, trong đó có quyền quyết định chế độ chính trị xã hội và con đường phát triển của dân tộc mình; quyền tự do độc lập về chính trị tách ra thành một quốc gia dân tộc độc lập vì lợi ích của các dân tộc; quyền tự nguyện hiệp lại với các dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi để có sức mạnh chống nguy cơ xâm lược từ bên ngoài, giữ vững độc lập chủ quyền và có thêm những điều kiện thuận lợi cho sự phát trien quốc gia, dân tộc. + Ba là, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc. Đây là tư tưởng cơ bản trong Cương lĩnh dân tộc của V.I.Lênin, phản ánh bản chất quốc tế của phong trào công nhân, đồng thời phản ánh sự thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp. Nó đảm bảo cho phong trào dân tộc có đủ sức mạnh để giành thắng lợi. Thứ tư, dựa trên Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc có nguồn gốc từ nhiều yếu tố và được hình thành trên cơ sở kế thừa và phát triển chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đoàn kết của dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, đặc biệt là đã vận dụng và phát triển sáng tạo, chủ nghĩa Mác Lênin phù hợp với tình hình và điều kiện cụ thể của Việt Nam trong từng giai đoạn cách mạng. Về cơ sở thực tiễn Trên phương diện thực tiễn, việc đề ra chính sách dân tộc hiện nay của Đảng ta trước hết xuất phát từ thực tiễn vấn đề dân tộc và quá trình giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam những năm qua. Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, các dân tộc ở Việt Nam có một quá trình gắn bó và một ý thức dân tộc được hình thành trong suốt chiều dài lịch sử dựng và giữ nước của cả cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Theo các nhà nghiên cứu, các dân tộc ở Việt Nam có các đặc điểm đáng chú ý về tộc người và quan hệ giữa các tộc người sau: Một là, các dân tộc ở Việt Nam cư trú, sinh sống xen kẽ nhau và có sự chênh lệch khá lớn về nhiều mặt. Nhìn chung, việc các dân tộc sống và cư trú xem kẽ, đang xen từ lâu đã trở thành tình trạng chủ yếu ở mọi vùng, miền, tình thành trong cả nước. Không có dân tộc nào có lãnh thổ riêng biệt hoặc sống biệt lập. Trên một địa bàn có thể có nhiều dân tộc cùng sinh sống, cư trú. Hơn thế nữa cùng một dân tộc có thể cư trú, sinh sống trên nhiều địa bàn, tỉnh thành khác nhau. Cả nước có 54 dân tộc anh em, riêng vùng Tây Nguyên đã có tới hơn 40 dân tộc cùng sinh sống đan xen nhau. Việc cư trú, sinh sống xen kẽ nhau một mặt sẽ tạo điều kiện thuận lợi để các dân tộc giao lưu về kinh tế, văn hóa, xã hội, v.v... ké thừa và phát huy các yếu tố tốt đẹp của các dân tộc khác, các giá trị về mặt đạo đức, phong tục tập quán của nhau và phát huy các giá trị bản sắc dân tộc; mặt khác cũng sẽ xuất hiện các vấn đề náy sinh trong các quan hệ dân tộc đòi hỏi Đảng, Nhà nước và chính quyền địa phương phải đương đầu giải quyết. Về địa bàn cư trú, ngoại trừ người Kinh chủ yếu sống ở các thành phố, vùng đồng bằng, trung du nơi có những điều kiện sống thuận lợi hon, còn hầu hết các dân tộc thiểu số ở nước ta cư trú ở các vùng núi, biên giới, hải đảo, v.v... nơi có những điều kiện sống không thuận lợi và nhiều khó khăn. Chính những điều kiện sống khác nhau này đã dẫn tới trình độ phát triển về các mặt kinh tế, xã hội và văn hóa không đều nhau. Trong các dân tộc thiểu số, có những dân tộc đã đạt đến tình độ kinh tế hàng hóa phát triển, song cũng còn không ít các dân tộc kinh tế hàng hóa mới hình thành. Tình trạng nói trên đã và đang đặt ra cho Đảng \ à Nhà nước ta những nhiệm vụ hết sức bức thiết, nặng nề đó là khắc phục và thu hẹp dần khoảng cách về mọi mặt giữa miền núi với miền xuôi, vùng cao với vùng thấp. Hai là, các dân tộc ở Việt Nam có truyền thống đoàn kết,. tương thân tương ái, gắn bó lâu đời trong quá trình đấu tranh dựng và giữ nước của dân tôc. Đây là một truyền thống được hun đúc gắn liên với quá trình đấu tranh chống thiên nhiên và chống giặc ngoại xâm nhiều thế kỷ. Chính quá trình gắn bó lâu dài, chung lưng đấu cật, chia ngọt sẻ bùi của các dân tộc anh em đã lạo nên truyền thống đoàn kết, yêu nước của cả cộng đồng dân lộc Việt Nam. Ba là, các dân tộc ở Việt Nam đều có bản sắc văn hóa riêng tụo nên sự thống nhất trong đa dạng của văn hóa Việt Nam. Bản sắc văn hóa là tổng thể các giá trị đặc trưng của văn hóa ilân tộc, được hình thành, tồn tại và phát triển cùng với quá trình lịch sử lâu dài của đất nước. Bản sắc văn hóa có các giá trị đặc trirng mang tính bền vững, trường tồn, trừu tượng và tiềm ẩn. Đe nhận biết chúng phải thông qua vô vàn sắc thái văn hóa với tư cách là sự biểu hiện của bản sắc văn hóa ấy. Nghị quyết Hội nghị 1'rung ương 5 khóa VIII của Đảng đã chỉ rõ: Bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam bao gồm những gia trị bền vững, những tinh hoa vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước trở thành những nét đặc sắc của cộng đồng dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, tính cộng đồng gắn kết cá nhân, gia đình, làng nước, lòng nhân ái bao dung, trọng nghĩa tình đạo lý, đầu óc thực tế, tinh thần cần cù, sáng tạo trong lao động, tế nhị trong ứng xử, giản dị trong lối sống. Có thể hiểu bản sắc văn hóa của các dân tộc ở nước ta như là yếu tố cốt lõi tạo nên bản sắc dân tộc Việt Nam, tới lượt nó, bản sắc dân tộc góp phần tạo nên bản lĩnh dân tộc, sức sống và sự từng trải của dân tộc, nhờ đó mà dân tộc có thể vững vàng, trường tồn trước thử thách khắc nghiệt của lịch sử. Bốn là, xuất phát từ thực tiễn đã và đang đặt ra hiện nay của vấn đề dân tộc ở nước ta. vấn đề dân tộc thực chất là quan hệ giữa các tộc người trong một quốc gia đa dân tộc. Mối quan hệ ấy thế hiện trên tất cả các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ đời sống chính trị, kinh tế đến đời sống xã hội, văn hóa và tinh thần. Thực tiễn những năm qua cho thấy, vấn đề dân tộc và quan hệ giữa các dân tộc ở nước ta đang nổi lên những vấn đề lớn sau đây:
- Đề cương Môn: Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước VN về các lĩnh vực của đời sống XH – Đinh Huy Đời sống kinh tế xã hội và an ninh, quốc phòng vùng dân tộc thiểu số có không ít những vấn đề cộm cán, phức tạp. Hiện nay mặc dù đã được Đảng và Nhà nước đầu tư, quan tâm, song đời sống kinh tế vùng dân tộc thiểu số vẫn còn quá nhiều khó khăn, kinh tế hàng hóa chưa theo kịp trình độ chung, tỷ lệ hộ đói, nghèo vẫn còn cao. Các vụ việc phức tạp và điểm nóng về dân tộc, tôn giáo vẫn tiếp tục phát sinh ở Tây Nguyên, Tây Bắc, Tây Nam Bộ. An ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội vẫn còn nhiều phức tạp tiềm ấn, nhất là vùng núi, hải đảo, vùng dân tộc thiểu số. Đây là những vấn đề đã, đang và sẽ còn đặt ra trong thời gian tới đòi hỏi chúng ta phải quan tâm giải quyết và giải quyết đồng bộ. Cần phải có một chiến lược và tập trung khắc phục khoảng I .uli chênh lệch về nhiều mặt giữa các vùng miền, giữa các I lun tộc trong cả nước. Thời gian qua chúng ta đã tập trung để giải quyết vấn đề nan giải này, song hiệu quả chưa cao, khoáng cách và sự chênh lệch về kinh tế, văn hóa, mức sống vẫn còn lớn. Vì vậy, mục tiêu và chủ trương đưa miền núi tiến kịp miền xuôi vẫn tiếp tục được đặt ra. Ở cấp độ vĩ mô, quốc gia dân lọc cần phát huy sức mạnh đoàn kết dân tộc vì lợi ích và mục tiêu chung là độc lập dân tộc và dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh. Ở cấp độ dân tộc, quan hệ giữa các tộc người I ủn phải phát huy năng động tính của từng dân tộc và quan tâm tạo những điều kiện hỗ trợ, giúp đỡ các tộc người cả về vật chất và tinh thần để nhanh chóng xóa đói, giảm nghèo, tiến kịp trình độ chung. Cần cảnh giác, đấu tranh chống mọi âm mưu lợi dụng vấn đề dân tộc, chia rẽ dân tộc của các thế lực thù địch, vấn đề dân tộc được Đảng ta coi là vấn đề chiến lược, gắn với chính sách đại đoàn kết dân tộc. Chính vì vậy, các thế lực thù địch luôn tộp trung công phá, kích động, chia rẽ các dân tộc. Các vụ bạo loạn ở Tây Nguyên, Tây Bắc thời gian qua đều có bàn tay kích động, chia rẽ của các thế lực xấu lợi dụng vấn đề dân tộc và tôn l',iáo, lợi dụng các sơ hở, thiếu sót của ta trong thực hiện chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo. Thực tiễn đó vẫn đang và sẽ đặt ra cho Đảng và Nhà nước, các ngành, các cấp, cho từng tộc người trong phạm vi cả nước nhiều vấn đề cần phải giải quyết. Do đó việc giải quyết vấn đề dân tộc, thực hiện chính sách dân tộc trong những năm tới không thể không tính đến tác động nói trên. Chính sách dân tộc của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới chính là sự kế thừa và phát triển chính sách dân tộc của Đảng đã được vạch ra cùng với sự ra đời và trưởng thành của Đảng; là sự vận dụng sáng tạo các quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc. Cơ sở lý luận và thực tiễn là tiền đề, là điều kiện quan trọng nhất để giải quyết thành công vấn đề dân tộc ở nước ta trên hành trình đổi mới. __________________________
- Đề cương Môn: Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước VN về các lĩnh vực của đời sống XH – Đinh Huy Câu 4: Quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước Việt nam về vấn đề dân tôc và giải quyết vấn đề dân tộc. Trong những quan điểm đó theo anh, chị quan điểm nào là quan trọng nhất? Vì sao? (Bài 7) Ngay từ thời dựng nước, Việt Nam đã là quốc gia thống nhất đa dân tộc (tộc người). Trong tiến trình phát triển hàng ngàn năm, các dân tộc luôn luôn sát cánh bên nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc với truyền thống: “Bầu ơi thương lấy bí cùng; tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”. Cái “giàn” mà ông cha ta đã tổng kết chính là Tổ quốc Việt Nam của tất cả chúng ta. Ngay từ khi mới thành lập, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định vấn đề dân tộc có vai trò và vị trí đặc biệt quan trọng đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Quán triệt những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin về vấn đề dân tộc, ngay từ đầu, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra những nguyên tắc và định hướng chiến lược về chính sách dân tộc ở Việt Nam, đó là đoàn kết, bình đẳng, tương trợ giữa các dân tộc. Với quan điểm cách mạng là sáng tạo không ngừng, trong thời kỳ đổi mới, chính sách dân tộc của Đảng ta vừa đảm bảo tính nhất quán, vừa đổi mới trước yêu cầu phát triển và hội nhập nhằm giải quyết thành công vấn đề dân tộc ở nước ta hiện nay và trong tương lai. Dân tộc được hiểu là một cộng đồng ổn định có chung về lãnh thổ hoạt động kinh tế, về một ngôn ngữ giao tiếp và một nền văn hóa hay còn gọi là dân tộc quốc gia. Các dân tộc sống trong một dân tộc quốc gia có ba đặc trưng về tiếng mẹ đẻ (ngôn ngữ riêng), về nền văn hóa riêng và ý thức tự giác riêng thì gọi là dân tộc tộc người. Ngay từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Đảng ta đà khẳng định: vấn đề dân tộc là vấn đề có tính chất chiến lược của cách mạng Việt Nam. Chính từ quan điểm này mà Đảng ta luôn coi trọng và quan tâm giải quyết vấn đề dân tộc. Vận dụng các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa MácLênin về vấn đề dân tộc vào thực tiễn cách Việt Nam, Đảng ta tiếp tục bổ sung và phát triển các quan điểm cơ bản của mình nhằm giải quyết tốt vấn đề dân tộc. Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa IX và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu rõ những quan điểm cơ bản về vấn đề dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc ở nước ta như sau: Một là, vấn đề dân tộc và đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược. Đó là vấn đề cơ bản, lâu dài, song cũng là vấn đề cấp bách của cách mạng Việt Nam. Hai là, các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển, phấn đấu thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Ba là, phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và củng cố an ninh quốc phòng trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi; gắn tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện tốt chính sách dân tộc. Bốn là, ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế xã hội các vùng dân tộc và miền núi, trước hết, tập trung vào phát triển giao thông và cơ sở hạ tầng, xóa đói, giảm nghèo; khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, đi đôi với bảo vệ bền vững môi trường sinh thái. Năm là, phát huy nội lực, tinh thần tự lực, tự cường của đồng bào các dân tộc, đồng thời tăng cường sự quan tâm hỗ trợ của Trung ương và các địa phương trong cả nước. Sáu là, quan tâm phát triển, bồi dưỡng nguồn nhân lực; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiếu số; giữ gìn và phát huy những giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống các dân tộc thiểu số Iiong sự nghiệp phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam thống nhất. Bảy là, kiên quyết đấu tranh với mọi âm mưu và hoạt động chia rẽ dân tộc, lợi dụng vấn đề dân tộc của các thế lực thù địch, giữ gìn chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, an ninh chính trị và trật tự an loàn xã hội vùng dân tộc, biên giới, hải đảo. Tám là, công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ và trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị, của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành trong cả nước. Các quan điểm và những nhiệm vụ cấp bách, cơ bản trên tiếp tục được khẳng định và làm rõ thêm tại Đại hội lần thứ X của Đảng. Văn kiện Đại hội chỉ rõ: “Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; cùng nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Phát triển kinh tế, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, xóa đói giảm nghèo, nâng cao trình độ dân trí, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, tiếng nói, chữ viết và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế xã hội ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, vùng căn cứ cách mạng; làm tốt công tác định canh, định cư và xây dựng vùng kinh tế mới. Quy hoạch, phân bổ, sắp xếp lại dân cư, gắn phát triển kinh tế với bảo đảm an ninh, quốc phòng. Củng cố và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số; động viên, phát huy vai trò của những người tiêu biểu trong các dân tộc. Thực hiện chính sách ưu tiên trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trí thức là người dân tộc thiểu số. Cán bộ công tác ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi phải gần gũi, hiểu phong tục tập quán, tiếng nói của đồng bào dân tộc, làm tốt công tác dân vận. Chống các biểu hiện kỳ thị, hẹp hòi, chia rẽ dân tộc’’ (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Sđd, tr.121122).
- Đề cương Môn: Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước VN về các lĩnh vực của đời sống XH – Đinh Huy Sau khi tìm hiểu quan điểm về dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay, theo tôi quan điểm: “ Vấn đề dân tộc và đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược. Đó là vấn đề cơ bản, lâu dài, song cũng là vấn đề cấp bách của cách mạng Việt Nam.” là quan trọng nhất. Với những lý do sau: Ở Việt Nam chính sách dân tộc được đánh giá như là một vấn đề xã hội mang tính đặc thù, thể hiện rõ quan điểm giai cấp, của Đảng và các cơ quan cầm quyền. Văn kiện Hội nghị Trung ương 7, khóa IX của Đảng đã khẳng định: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam”. Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Phần lớn các dân tộc thiểu số sống ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới hải đảo. Đây là những địa bàn có vị trí chiến lược về kinh tế, chính trị, quốc phòng, an ninh, giao lưu quốc tế. Nhận thức được điều đó nên từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn coi việc hoạch định và thực hiện đúng chính sách dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược. Chính vì vậy trên cơ sở kế thừa những quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và xuất phát từ thực tế đặc điểm, tình hình dân tộc ở nước ta Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra chính sách dân tộc đúng đắn qua từng thời kỳ cách mạng nhằm củng cố tình đoàn kết dân tộc, thống nhất lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc. Từ sau năm 1975, cả nước bước vào thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. công tác dân tộc một lần nữa được khẳng định bổ sung cụ thể hóa trong nghị quyết Đại hội IV của Đảng (1976): Thực hiện triệt để quyền bình đẳng về mọi mặt các dân tộc đoàn kết giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Năm 1986, đất nước tiến hành công cuộc đổi mới. Quan điểm về vấn đề dân tộc và công tác dân tộc trong thời kỳ này được tập trung vào nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, vùng đồng bằng dân tộc thiểu số và miền núi… Vấn đề phát triển kinh tế xã hội được coi trọng trong công tác dân tộc là một trong những yếu tố tiên quyết có ý nghĩa trước mắt và lâu dài, là cơ sở để thực hiện các mục tiêu và nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp nhau cùng phát triển. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đưa ra nhiều chương trình mục tiêu quốc gia nhằm bảo đảm chính sách dân tộc như: định canh định cư, phủ xanh đất trống đồi trọc, xóa đói giảm nghèo… Nhờ những chính sách dân tộc đúng đắn, vùng đồng bào dân tộc đã đạt được những thành tựu rất quan trọng: Về giáo dục: 100% xã đặc biệt khó khăn có trường học, nhà mẫu giáo và các lớp bán trú dân nuôi. Các bản xa trung tâm đều có lớp cắm bản, tình trạng học ca 3 được xóa bỏ, tỉ lệ trẻ em trong độ tuổi đến trường đạt 90 95%, 71% xã đặc biệt khó khăn hoàn thành phổ cập tiểu học đúng độ tuổi và 80% xã đặc biệt khó khăn hoàn thành phổ cập trung học cơ sở. Về giao thông: Việc phát triển giao thông nông thôn, đặc biệt khu vực đồng bào dân tộc miền núi có ý nghĩa quan trọng. Nó là cầu nối giúp ngắn khoảng cách giữa miền xuôi và miền ngược. Là điều kiện quan trọng để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp ở nông thôn. Điện lưới quốc gia: Đã được phủ khắp cả nước, đem ánh sánh văn minh dành cho bà con thôn bản. Đến nay, có 98% số huyện, 64% số xã có điện lưới quốc gia và trên 50% số hộ dân dùng điện. Gần 90% xã có điện thoại, 100% xã có tổ chức cơ sở đảng, gần 90% thôn bản có chi bộ, tỉ lệ cán bộ người dân tộc thiểu số trong hệ thống chính trị ở các cấp ngày càng đông. Về y tế: Công tác y tế được triển khai rộng rãi, hiện nay 100% huyện đã có trung tâm y tế và bác sĩ, 90% số xã miền núi vùng sâu, vùng xa có trạm y tế xã trong đó có hơn 80% số trạm đã được xây dựng củng cố. Trong lịch sử cũng như hiện nay, vấn đề dân tộc là một vấn đề mang tính thời sự diễn biến hết sức phức tạp. Vì thế nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước ta là cần đẩy nhanh hơn nữa trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở những vùng khó khăn, vùng dân tộc ít người. Mặt khác, cần chăm lo đến sức khỏe, đời sống tinh thần của đồng bào dân tộc, phấn đấu làm theo lời dạy của Bác Hồ: “Phải đoàn kết các dân tộc anh em, cùng nhau xây dựng Tổ quốc. Phải ra sức làm nhiều cho miền núi tiến kịp miền xuôi, vùng cao tiên kịp vùng thấp”. _________________________________
- Đề cương Môn: Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước VN về các lĩnh vực của đời sống XH – Đinh Huy Câu 5: Quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước Việt Nam về quyền con người. Trong những quan điểm đó theo anh, chị quan điểm nào là quan trọng nhất? Vì sao? (Bài 8) Ai sinh ra trên thế giới đều được hưởng món quà của tạo hóa đó là quyền con người, đây không còn là khái niệm xa lạ trong lịch sử pháp luật của nhân loại. Tư tưởng này được thể hiện trong bản tuyên ngôn độc lập của nước Mĩ năm 1776 đã được chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh trong trong bản tuyên ngôn độc lập nước ta, được đọc vào ngày 2/9/1945 trước toàn thế giới: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Quyền con người (hay còn gọi là nhân quyền) là một vấn đề rộng lớn, phức tạp, nên luôn có các cách hiếu khác nhau. Kế thừa nhận thức chung và trên quan điểm mácxít, có thể hiểu: Quyền con người là quyền của tất cả mọi người; đó là những nhu cầu xuất phát từ nhân phẩm vốn có của con người, được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Theo định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên Hiệp Quốc, nhân quyền là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những tự do cơ bản của con người. Quan điểm về quyền con người của Đảng và Nhà nước ta dựa trên nền tảng tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, truyền thống văn hoá dân tộc và xem xét, chọn lọc những tiêu chuẩn về quyền con người được thế giới thừa nhận rộng rãi. Đảng và Nhà nước ta khẳng định, con người và quyền con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của cách mạng Việt Nam. Mục tiêu của chúng ta là xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đóng góp vào cuộc đấu tranh chung vì mục tiêu hoà bình và tiến bộ xã hội của nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới. Nội dung quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam về quyền con người đó là: Một là, Quyền con người là giá trị chung của nhân loại Quyền con người khởi nguồn từ phẩm giá con người. Quyền con người có nội dung phong phú như ngày nay là thành quả chung của nhân loại. Lịch sử cho thấy, tư tưởng và thực tiễn bao vệ nhân quyền là sự đóng góp chung của mọi dân tộc, ở mọi thời kỳ lịch sử. Quyền con người gắn liền với các hình thái kinh tế xã hội, với văn minh nhân loại; mỗi bước tiến của lịch sử nhân loại đều làm sâu sắc hơn nhân quyền. Quyền con người vừa là sản phẩm của văn minh nhân loại, vừa là sản phẩm của cuộc dấu tranh chổng lại áp bức, bóc lột. Ngày nay, các nguyên tắc và quy định của luật nhân quyền quốc tế được xác định là mục tiêu phấn đấu của các quốc gia; Là giá trị chung nên tất cả các dân tộc không phân biệt chế độ chính trị, trình độ phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa đều có quyền thụ hưởng và có nghĩa vụ bảo vệ, phát triển giá trị xã hội cao quý này. Hai là, Trong xã hội có phân chia giai cấp, quyền con người mang tính giai cấp sâu sắc. Con người, xét về bản chất vốn có đặc quyền. Đó là những quyền tự nhiên, gắn với con người và chỉ có ở con người. Các quyền này biểu hiện dưới dạng nhu cầu, do phẩm giá con người quy định. Nhưng để trở thành quyền, những nhu cầu ấy cần phải được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Mặt khác, lịch sử luôn là sự kế thừa, tiếp nối những giá trị tốt đẹp của các giai đoạn trước đó và vận động theo hướng nhân đạo, văn minh. Tính giai cấp, do đó, luôn gắn liền với tính nhân loại của nhân quyền. Trong phạm vi quốc gia, quan điểm giai cấp thể hiện ở việc bảo vệ chế độ xã hội và lợi ích của giai cấp cầm quyền. Trên phạm vi quốc tế, tính giai cấp của quyền con người thể hiện trong cuộc đấu tranh giữa lực lượng cách mạng với các lực lượng phản tiến bộ. Ngày nay cuộc đấu tranh này biểu hiện dưới hình thức chống lại âm mưu “diễn biến hòa bình”, bạo loạn, lật đổ của các thế lực phản động. Nhận rõ tính chất giai cấp của nhân quyền, song cần tránh khuynh hướng tuyệt đối hóa vấn đề này, vì sẽ cản trở sự hợp tác, tăng đối đầu trên lĩnh vực nhân quyền. Trong xã hội Việt Nam, tính giai cấp của quyền con người thống nhất với tính nhân loại, tính phổ biến của quyền con người. Ba là, Quyền con người là giá trị phổ biến song có tính đặc thù Quyền con người là giá trị được kết tinh từ những đặc sắc trong việc bảo vệ quyền con người của mồi quốc gia và chính nét đặc thù của mỗi quốc gia lại làm phong phú thêm giá trị nhân quyền. Do sự phát triển không đồng đều của thế giới, nên quyền con người cũng không thể được đáp ứng như nhau giữa các quốc gia, mà luôn phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa của mỗi nước. Chính cộng đồng quốc tế cũng thừa nhận thực tế này, như việc cho phép bảo lưu khi tham gia công ước, hoặc có các nghị định thư bổ sung cho một công ước, v.v... thể hiện việc thừa nhận sự “chưa ngang bằng” giữa các quốc gia. Quyền con người là giá trị phổ biến, nhưng đối với các nước đang phát triển, thực hiện đầy đủ các chuẩn mực nhân quyền là quá trình lâu dài. Mỗi quốc gia có quyền lựa chọn các giải pháp tối ưu trong việc cân bằng giữa ổn định xã hội với đảm bảo đầy đủ nhân quyền, có quyền xây dựng lộ trình trong việc thực hiện cam kết đối với các điều ước quốc tế về nhân quyền. Tuy nhiên, không được tuyệt đối hóa tính đặc thù, mà cần phải hướng tới sự phát triển tiến bộ, văn minh, tôn trọng nhân phẩm của tất cả mọi người. Việc khắng định tính đặc thù của quyền con người tạo cơ sở bác bỏ mọi sự sao chép, áp đặt các mô hình dân chủ, nhân quyền; đồng thời đòi hỏi phải chủ động, sáng tạo trong việc bảo đảm các quyền con người phù hợp với thực tiễn mỗi quốc gia. Bốn là, Quyền con người gắn với độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia
- Đề cương Môn: Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước VN về các lĩnh vực của đời sống XH – Đinh Huy Lịch sử đã cho thấy, đất nước bị nô lệ thì người dân không thể có tự do, nhân quyền sẽ bị chà đạp nghiêm trọng. Có thể nói, độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia là điều kiện tiên quyết đô bảo đảm quyền con người. Không có độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, không thể nói đến nhân quyền. Bảo đảm quyền con người trước hết và chủ yếu thuộc trách nhiệm của mỗi quốc gia. Ngày nay, nhân quyền đã được quốc tế hóa về nhiều mặt, nhưng việc bảo đảm quyền con người chủ yếu vẫn thuộc thẩm quyền của các quốc gia; các cơ chế nhân quyền quốc tế chỉ nhằm bổ sung chứ không thể thay thế các cơ chế đang vận hành tại mỗi quốc gia. Độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia là điều kiện cần thiết, nhưng nhà nước phải sử dụng các điều kiện này để đem lại cuộc sống hạnh phúc cho mọi thành viên của quốc gia. Điều này th ể hiện mối quan hệ biện chứng giữa quyền dân tộc tự quyết với quyền con người và trở thành định hướng chính trị quan trọng trong hoạt động bảo vệ nhân quyền của mọi nhà nước. Năm là, Quyền con người phải được pháp luật bảo vệ Thực tiễn cho thấy, đảm bảo bằng pháp luật là một trong những điều kiện quan trọng nhất để các quyền con người được thực hiện. Mọi nhu cầu hay yêu sách về quyền nếu không được pháp luật ghi nhận và bảo vệ thì không thể có bất cứ một quyền con người nào. Quyền con người khi được pháp luật ghi nhận trở thành ý chí của toàn dân, buộc cả xã hội phải phục tùng và nhà nước bảo vệ. Sau khi Liên hợp quốc ra đời, quyền con người được bảo vệ bởi hệ thống pháp luật quốc tế. Các văn kiện nhân quyền quốc tế luôn nhấn mạnh là nhân quyền phải được bảo vệ bằng nhà nước pháp quyền, theo các nguyên tắc pháp quyền. Trong phạm vi quốc gia, pháp luật bảo vệ nhân quyền thể hiện ở việc ghi nhận quyền trong pháp luật, hoàn thiện các thiết chế, bộ máy nhằm bảo vệ ngày càng tốt hơn trên thực tế. Ở mọi quốc gia, nhân quyền đều được chi nhận và bảo vệ bằng các hình thức pháp luật khác nhau. Quan điểm này là cơ sở để bác bỏ mặt phiến diện của thuyết nhân quyền tự nhiên; khẳng định vai trò của pháp luật trong việc hảo vệ nhân quyền. Sáu là, Quyền con người gắn liền với nghĩa vụ công dân C.Mác từng viết: “Không có quyền lợi nào mà không có nghĩa vụ, không có nghĩa vụ nào mà không có quyền lợi”. Trên thực tế, ở bất cứ quốc gia nào, người dân cũng phải thực hiện những nghĩa vụ nhất định, theo quy định của pháp luật. Điều 29 Tuyên ngôn thế giới về quyền con người cũng ghi nhận: “Mỗi người đều có những nghĩa vụ đối với cộng đồng mà chính trong đó nhân cách của bản thân có thể phát triển tự do và đầy đủ”; các văn kiện nhân quyền khác cũng đều nhấn mạnh, mỗi cá nhân trong khi được hưởng thụ các quyền cần tôn trọng tự do của người khác và tôn trọng trật tự xã hội, lợi ích của cộng đồng. Ọuan điểm này có ý nghĩa hết sức quan trọng, vì chỉ ra được cách giải quyết một trong những mối quan hệ cơ bản nhất của nhân lịuyền, khắc phục được cách hiểu phiến diện, cực đoan về vấn đề nhân quyền. Bảy là, Quyền con người là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa Thực tiễn cho thấy, nhân quyền là giá trị lớn của nhân loại, nhưng đó chỉ là một trong những giá trị mà nhân loại đã giành được từ cuộc đấu tranh chống lại mọi áp bức dân tộc, giai cấp. Mặc dù nhân quyền đã tạo ra bước tiến lớn lao và đó là động lực thúc đẩy mọi quá trình phát triển, nhưng nhân quyền mới tạo lập được sự binh đẳng về mặt xã hội tức giúp tất cả mọi người được bình đẳng về cơ hội để đạt tới tự do, chứ chưa khắc phục đượ c bất bình đẳ ng về mặt sở hừu tư nhân về tư liệu sản xuất và phân phối của cải xã hội. Đó là một trong những cách thức để tạo ra môi trường, điều kiện cho việc hiện thực hóa đầy đủ các quyền con người. Quan điểm này cũng nhằm khẳng định lại mục tiêu mà những người cộng sản theo đuổi là xóa bỏ nguồn gốc sâu xa nhất của mọi vi phạm nhân quyền đó là ách áp bức dân tộc, giai cấp sinh ra bởi chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Đồng thời xác định rõ, việc bảo đảm tối đa quyền con người là thuộc về bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, là mục tiêu hướng tới của các nhà nước do những người cộng sản lãnh đạo. Tám là, Mở rộng đối tác, đối thoại hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quyền con người. Hợp tác và hội nhập quốc tế là một chủ trương nhất quán và xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta trong công cuộc Đổi mới đất nước. Nghị quyết 22NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 1042014 về hội nhập quốc tế xác định những định hướng chủ yếu của quá trình hội nhập quốc tế, trong đó nhấn mạnh “chủ động và tích cực tham gia các thể chế đa phương, góp phần xây dựng trật tự chính trị và kinh tế công bằng, dân chủ, ngăn ngừa chiến tranh, xung đột, củng cố hòa bình, đẩy mạnh hợp tác cùng có lợi”. Trong lĩnh vực hợp tác quốc tế về quyền con người, ngay từ khi bắt đầu sự nghiệp đổi mới, Đảng ta đã đề ra những tư tưởng chỉ đạo, trong đó nêu rõ sẵn sàng tỏ thiện chí hợp tác trong quan hệ quốc tế về quyền con người, đồng thời đấu tranh với những âm mưu lợi dụng vấn đề này để chống phá ta. Quan điểm này được thể hiện xuyên suốt và từng bước được phát triển thêm qua các kỳ đại hội của Đảng. Từ chỗ “sẵn sàng tỏ thiện chí hợp tác”, đến nay ta “sẵn sàng đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan về vấn đề dân chủ, nhân quyền; chủ động, kiên quyết đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị của Việt Nam”. Quyền con người cần được xử lý thông qua đối thoại và mở rộng hợp tác quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bình đẳng, cùng có lợi, đồng thời kiên quyết đấu tranh chống việc lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền để can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta.
- Đề cương Môn: Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước VN về các lĩnh vực của đời sống XH – Đinh Huy Đảng và Nhà nước ta, trước sau như một, đều nhất quán khẳng định sự quan tâm, chăm lo, bảo vệ quyền con người; luôn đề cao sự tôn vinh, tôn trọng quyền con người và thực hiện có hiệu quả quyền con người. Tất cả các quan điểm của Đảng, Nhà nước nói trên, quan điểm nào cũng quan trọng. Tuy nhiên theo tôi, quan điểm: “Quyền con người phải được pháp luật bảo vệ” là quan trọng nhất. Với những lý do sau: Mặc dù về cơ bản, pháp luật nước ta không mâu thuẫn với các tiêu chuẩn quốc tế về nhân quyền và việc bảo đảm các quyền con người trên thực tế là phù hợp, thậm chí ở mức tiến bộ, so với thông lệ quốc tế; tuy nhiên, trong việc bảo đảm quyền con người ở nước ta hiện nay vẫn còn một số vấn đề tồn tại nhất định. Thực tế cho thấy, hiểu biết về nhân quyền ở nước ta hiện nay còn nhiều hạn chế, dẫn đến có những hành động cố ý hoặc vô ý vi phạm các quyền hợp pháp của công dân, đặc biệt là ở một số cơ quan công quyền và một số cơ quan tư pháp. Sự hạn chế như vậy có nguyên nhân từ công tác tuyên truyền, giáo dục về nhân quyền. Các phương tiện thông tin đại chúng ở nước ta hiện nay chủ yếu đề cập đến vấn đề nhân quyền dưới dạng phê phán sự xuyên tạc, lợi dụng nhân quyền để chống phá ta của các thế lực phản động, thù địch. Nhân quyền được coi là một vấn đề nhạy cảm, ít khi những vấn đề nhân quyền trong nước được đề cập một cách trực tiếp trên các phương tiện thông tin đại chúng. Nước ta vẫn chưa có một cơ quan chuyên trách về vấn đề thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền; chưa có một quy chế chặt chẽ trong việc xử lý các tố cáo và vi phạm nhân quyền. Và một số vấn đề khác. Bắt nguồn, từ thực tiễn và những vấn đề còn tồn tại về quyền con người, Đảng, Nhà nước đã có những thể chế về quyền con người, như: Trong Hiến pháp năm 2013, chế định về quyền con người, quyền công dân được đưa lên Chương II, ngay sau chương chế định về chế độ chính trị (so với vị trí thứ 5 trong Hiến pháp năm 1992). Đây không chỉ đơn thuần là kỹ thuật lập hiến, mà còn phản ánh sự thay đổi trong nhận thức lý luận về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Bằng cách đó, đã đi đến khẳng định: Nhà nước được lập ra là để bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người, quyền công dân; việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân gắn bó mật thiết với việc bảo đảm chế độ chính trị. Chương III của Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định trách nhiệm của Nhà nước và xã hội trong lĩnh vực lao động, việc làm, an sinh xã hội, y tế, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, phát triển con người (từ Điều 57 đến Điều 60); đồng thời, bổ sung quy định về trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động, người sử dụng lao động và tạo điều kiện xây dựng quan hệ lao động tiến bộ, hài hòa và ổn định (Điều 57). Điều 20 HIến pháp 2013, lần đầu tiên trong lịch sử hiến pháp nước ta, đã chế định về cấm tra tấn nói riêng và cấm bất kỳ hình thức bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của mọi người. Quy định này cụ thể, rõ ràng và rộng hơn so với quy định cũ, cả về hành vi bị cấm, cả về chủ thể được bảo vệ. Quyền tiếp cận thông tin quy định ở Điều 25 của Hiến pháp năm 2013, trong khi Điều 21 của Hiến pháp này mới chủ yếu quy định phạm vi thông tin (về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình) và nội dung thông tin (thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác) trong quyền được bảo vệ thông tin. Theo Luật Nhân quyền quốc tế và hiến pháp của nhiều nước trên thế giới, quyền tiếp cận thông tin thường bao gồm ba quyền phái sinh là: quyền được thông tin, quyền được tìm kiếm thông tin, quyền được phổ biến thông tin. Do đó, cần xây dựng luật để bảo đảm đầy đủ quyền tiếp cận thông tin, trên cơ sở đã được quy định trong Hiến pháp năm 2013. Bào đảm các quyền con người, quyên công dân là việc tạo ra các tiền đề, điều kiện về chính trị, kinh tế, xã hội, pháp lý và tổ chức để cá nhân, công dân, các tồ chức của công dân thực hiện được các quyền, tụ do, lợi ích chính đáng của họ đã được pháp luật ghi nhận. Các quyển con người, quyền công dân rất đa dạng, được bào đảm, bảo vệ bằng cả hệ thống pháp luật: Từ Hiến pháp, Luật hành chính, Luật hình sự... đến Luật dân sự, Luật lao động, Luật hôn nhân gia đình. Mỗi lĩnh vực pháp luật bào đàm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân bằng những phương thức, cách thức chuyên biệt riêng có của mình. _______________________
- Đề cương Môn: Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước VN về các lĩnh vực của đời sống XH – Đinh Huy Câu 6: Trình bày những nhiệm vụ cơ bản của chiến lược bảo vệ Tổ quốc Việt nam XHCN trong giai đoạn hiện nay. Theo anh, chị trong những nhiệm vụ trên là quan trọng nhất? Vì sao? (Bài 10) Đảng xác định: “Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững hòa bình, ổn định chính trị và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta”. Để hiểu rõ nhiệm vụ chiến lược bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, trước hết ta làm rõ: chiến lược bảo vệ Tổ quốc là mưu lược (kế sách) của Đảng và Nhà nước xác định mục tiêu, quy tụ lực lượng và lựa chọn giải pháp có tính khả thi, nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp thực hiện thắng lợi đường lối, nhiệm vụ quốc phòng an ninh để bảo vệ vừng chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; giữ vững hòa bỉnh, ốn định đất nước; ngăn chặn, đẩy lùi chiến tranh, làm thất hại mọi âm mưu “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, ly khai, can thiệp, xâm lược của giặc ngoài, thù trong, phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Hay thực chất là sự cụ thể hóa (lường lối “tăng cường quốc phòng an ninh” do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã đề ra, nhằm thực hiện có kết quả nhiệm vụ bảo vệ Tố quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới. Chiến lược bảo vệ Tổ quổc trong thời kỳ mới là chiến lược mang tính tổng hợp toàn diện về bảo vệ Tổ quốc, do cơ quan lãnh đạo tối cao của Đảng, Nhà nước hoạch định, dựa trên cơ sở của việc nhận định, đánh giá đúng đắn các điều kiện khách quan và chủ quan về bối cảnh quốc tế, về thực trạng tình hình trong nước; về dự báo các nguy cơ, khả năng và tình huống chiến lược có thể xảy ra đối với đất nước, cũng như những yêu cầu mới đặt ra của nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay. Xuất phát và hiểu rõ những nội dung trên, Đảng đã đưa ra một số nhiệm vụ cơ bản của chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay: Một là, Giữ vững hòa bình, ổn định để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đât nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Giữ vững môi trường quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Duy trì nền hòa bình lâu dài và sự ổn định chính trị, ngăn chặn và giải quyết nhanh gọn bạo loạn chính trị; không để tình hình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” bất lợi. Ngăn chặn, đẩy lùi “diễn biến hòa bình”, nguy cơ can thiệp quân sự và xung đột vũ trang, xâm phạm chủ quyền, thống nhất, toàn yen lãnh thổ của nước ta. Hai là, Xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, kêt hợp chặt chẽ với bảo vệ Đảng, bảo vệ vững chăc an ninh chính trị nội bộ. Chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức; cả về đạo đức, lối sống và phương thức lãnh đạo; giữ vững bản chất và vai trò lãnh đạo của Đảng, đồng thời củng cố và đổi mới, nâng cao hiệu lực, hoạt động của cả hộ thống chính trị. Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo vững vàng về chính trị, có đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Đẩy mạnh nghiên cứu lý luận và giáo dục chính trị tư tưởng; kiên quyết đấu tranh với các quan điểm sai trái, giữ vững trận địa tu tưởng, bảo vệ chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và bản sắc văn hóa dân tộc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ và nhân dân. Ba là, Phát triển kinh tế gắn với giải quyết tốt các vấn đề xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; đồng thời chủ động hội nhập quốc tế. Phát triển kinh tế xã hội gắn liền với giải quyết tốt các vấn đề xã hội. Đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tạo sức mạnh tự thân, không lệ thuộc vào nước ngoài, là điều kiện để bảo vệ To quốc vững chắc nhất. Bốn là, Phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa đi đôi vói việc tăng cường trật tự, kỷ cương; chú trọng giải quyết các vẩn đề dân tộc, tôn giáo, nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ Tố quốc Phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc tạo ức mạnh to lớn trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Mở rộng dân chủ xã hội đi đôi với việc tăng cường trật tự kỷ cương, chú trọng giải quyết các vấn đề dân tộc, tôn giáo; ngăn chặn sự lợi dụng vấn đề “dân tộc”, “tôn giáo, “nhân quyền” để chống Đảng, chống Nhà nước ta. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có vai I lò to lớn trong việc tập hợp, cổ vũ, động viên các thành viên lliực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Năm là, Tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước và nhân dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt.
- Đề cương Môn: Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước VN về các lĩnh vực của đời sống XH – Đinh Huy Tiếp tục xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Củng cố, hoàn thiện thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân. Xây dựng các cơ quan nội chính, pháp luật trong sạch, vững mạnh. Chuẩn bị các phương án chủ động xử trí các tình huống xấu. Sáu là, Tiếp tục triển khai thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, mở rộng, đa dạng hóa, đa phương hóa. “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh”. Ưu tiên phát triển sự hợp tác với các nước láng giềng, chú trọng thúc đẩy quan hệ với các nước lớn. Từ những nhiệm vụ cơ bản trên, nhiệm vụ nào cũng quan trọng, mỗi nhiệm vụ có một vai trò, mục tiêu khác nhau, nhưng theo tôi nhiệm vụ: “Xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, kêt hợp chặt chẽ với bảo vệ Đảng, bảo vệ vững chăc an ninh chính trị nội bộ” là quan trọng nhất. Vì các yếu tố sau: Hiện nay, Đảng đã thường xuyên quan tâm xây dựng, kiện toàn, nâng cao chất lượng hệ thống tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở; điều chỉnh, bổ sung, quy định chức năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt động và lề lối làm việc của các tổ chức đảng theo hướng: tăng tính chủ động, sáng tạo, tự chịu trách nhiệm của mỗi cấp. Việc xây dựng, củng cố tổ chức đảng gắn với xây dựng hệ thống chính trị cơ sở bước đầu tạo nên một số chuyển biến tích cực, xuất hiện nhiều mô hình tốt và kinh nghiệm mới. Công tác phát triển đảng viên được quan tâm chỉ đạo và đạt được một số kết quả, nhất là ở những vùng trọng yếu, những nơi có ít hoặc chưa có đảng viên. Công tác cán bộ được tiến hành theo đúng quan điểm, chủ trương của Đảng; đồng thời, tuân thủ chặt chẽ nguyên tắc, thủ tục, Quy chế, bảo đảm cho Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được các cấp uỷ, tổ chức đảng quan tâm chỉ đạo, góp phần bảo vệ Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Công tác kiểm tra, giám sát có nhiều chuyển biến; tập trung vào những vấn đề trọng tâm, trọng điểm, những lĩnh vực, địa bàn có vấn đề phức tạp. Việc xử lý nghiêm đối với một số cán bộ, đảng viên có sai lầm (kể cả cán bộ cao cấp), có tác dụng giáo dục, răn đe, được nhân dân đồng tình, ủng hộ... Bên cạnh những thành tựu và ưu điểm, công tác xây dựng Đảng vẫn còn những khuyết điểm, yếu kém. Tình trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, giáo điều, bảo thủ, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận không nhỏ CB,ĐV còn diễn ra nghiêm trọng. Công tác xây dựng, củng cố, kiện toàn tổ chức cơ sở đảng (TCCSĐ) chưa được quan tâm chỉ đạo đúng mức; nhiều tổ chức cơ sở đảng bị tê liệt, thiếu sức chiến đấu và không đủ năng lực lãnh đạo, chỉ đạo để giải quyết những vấn đề phức tạp nảy sinh. Công tác tư tưởng, lý luận còn nhiều bất cập và tính thuyết phục, tính chiến đấu chưa cao; chưa làm sáng tỏ được một số vấn đề quan trọng đặt ra trong thực tiễn công cuộc đổi mới. Công tác tổ chức và cán bộ còn bộc lộ nhiều mặt yếu kém; nguyên tắc tập trung dân chủ chưa thực hiện nghiêm; nền nếp, chế độ sinh hoạt đảng, nội dung sinh hoạt chi bộ chậm được đổi mới; chất lượng và hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát chưa cao; tự phê bình và phê bình yếu; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực còn xảy ra ở nhiều nơi nhưng chậm được phát hiện, ngăn chặn, đẩy lùi. Việc đánh giá tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên của một số tổ chức đảng chưa đúng thực chất; công tác kết nạp đảng viên còn chú ý nhiều đến số lượng, chưa chú trọng đúng mức đến chất lượng... Thực trạng trên do nhiều nguyên nhân, song vấn đề cơ bản là: Đảng ta “chậm đổi mới tư duy về công tác xây dựng Đảng trong điều kiện mới. Nhận thức chưa đầy đủ và sâu sắc, có mặt chưa rõ, chưa thống nhất một số vấn đề quan trọng ở tầm quan điểm, chủ trương; chưa cụ thể hoá và tổ chức thực hiện kịp thời, đồng bộ một số quan điểm lớn, đúng đắn về xây dựng Đảng đã đề ra trong Cương lĩnh và các nghị quyết của Đảng. Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng còn chậm, chưa thống nhất, chưa đồng bộ với đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị, đổi mới kinh tế”... Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt các cấp, thiếu ý thức tu dưỡng rèn luyện về phẩm chất đạo đức, lối sống và năng lực công tác, chạy theo chủ nghĩa cá nhân, không hoàn thành nhiệm vụ, nhưng chưa được xử lý kịp thời... Với riêng bản thân tôi, cũng như tại chi bộ, để góp phần nhỏ bé thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng, không ngừng học tập nâng cao trình độ lý luận chính trị, học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao; từ đó tuyên truyền, lựa chọn quần chúng có đủ phẩm chất, năng lực, đặc biệt là về đạo đức để giới thiệu vào đội ngũ của Đảng, góp phần đưa chủ trương chính sách của Đảng vào cuộc sống. ______________________________________
- Đề cương Môn: Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước VN về các lĩnh vực của đời sống XH – Đinh Huy Câu 7: Tại sao nói kết hợp giữa phát triển kinh tế xã hội với tăng cường quốc phòng an ninh là tất yếu? (Bài 11) Phát triển kinh tế xã hội đi đôi với tăng cường củng cố quốc phòng an ninh là hai nhiệm vụ chính trị quan trọng xuyên suốt luôn đồng hành với nhau trong mọi thời kì giai đoạn của lịch sử. Trong đó, quốc phòng an ninh là một trong những nhiệm vụ chiến lược quan trọng trong quá trình đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi tình hình thế giới, tình hình khu vực có nhiều biến động phức tạp, sự tranh chấp chủ quyền biên giới, biển và đảo đang diễn ra gay gắt, gắn phát triển kinh tế xã hội với củng cố quốc phòng an ninh là rất quan trọng, cần thiết. Vậy kinh tế là gì? Quốc phòng là gì? Kết hợp kinh tế với quốc phòng tạo nên những gì? Kinh tế là hoạt động cơ bản thường xuyên gắn liền và quyết định sự tồn tại, phát triển của xã hội loài người. Đó là quá trình sản xuất và tái sản xuất ra của cải vật chất phục vụ cho nhu cầu đời sống của con người. Quốc phòng là công việc giữ nước của một quốc gia, bao gồm tổng thể các hoạt động đối nội và đối ngoại trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóaxã hội nhằm mục đích bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ môi trường thuận lợi để xây dựng đất nước. Kết hợp kinh tế với quốc phòng là sự gắn kết giữa kinh tế với quốc phòng trong một thể thống nhất, nhằm bổ sung, tạo điều kiện thúc đẩy cùng nhau phát triển. Kinh tế phát triển tạo nên sức mạnh của quốc phòng, quốc phòng vững mạnh, bảo vệ được độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, nếu chiến tranh xảy ra thì đánh thắng, tạo sự ổn định cho kinh tế phát triển. Sự gắn kết chặt chẽ giữa quốc phòng an ninh với phát triển kinh tế xã hội là phù hợp với mối quan hệ biện chứng duy vật lịch, là quy luật khách quan của sự phát triển bền vững của mọi quốc gia dân tộc. Sự kết hợp đó dựa trên cơ sở chính là sự tổng hòa, toàn diện về cả trên hai phương hướng: đúc kết lí luận và tổng kết từ thực tiễn công tác xây dựng và bảo vệ Tổ quốc qua các thời kì của lịch sử dân tộc. Về cơ sở lý luận: Học thuyết của chủ nghĩa MácLênin đã chỉ rõ giữa kinh tế với quốc phòng, an ninh là những lĩ nh vực khác nhau, vận động theo những quy định đặc thù riêng, song giữa kinh tế và quốc phòng, an ninh có mối quan hệ biện chứng tác động qua lại lẫn nhau. Trong mối quan hệ đó kinh tế bao giờ cũng giữ vai trò quyết định, là cơ sở của sức mạnh quốc phòng, an ninh; quốc phòng, an ninh chịu sự chi phối và phụ thuộc vào kinh tế nhưng có tác dụng tích cực trở lại đổi với kinh tế, bảo vệ và thúc đẩy kinh tế phát triển. Mặc dù phát triển kinh tế xã hội và quốc phòng, an ninh thống nhất ở mục đích chung, nhưng lại có sự chế ước lẫn nhau (theo quy luật riêng), vì thế việc gắn kết đó phải được thực hiện một cách khoa học, họp lý, cân đối và hài hòa thì cả 2 lĩnh vực kinh tế xã hội và quốc phòng, an ninh mới có thể cùng phát triển mạnh lên được. Kết hợp kinh tế với quốc phòng là yêu cầu khách quan, là quy luật chung của lịch sử được thực hiện trong mọi quốc gia có độc lập chủ quyền. Đảng ta luôn xác định: xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam, vì thế phát triển kinh tế xã hội gắn với quốc phòng, an ninh chính là sự cụ thế hóa hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam xuyên suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đây cũng chính là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa MácLênin, là tiếp nối, kê thừa và phát triển kinh nghiệm truyền thống "dựng nước phải đi đôi với giữ nước" là quan điểm chiến lược của cách mạng nước ta (văn kiện Đảng từ trước đến nay luôn khẳng định vấn đề này). Về cơ sở thực tiễn: Ngày nay, việc phát triển kinh tế xã hội gắn với quốc phòng, an ninh đã trở thành quy luật phổ biến ở mọi quốc gia, dân tộc độc lập có chủ quyền. Ở nước ta, phát triển kinh tế xã hội gắn với quốc phòng, an ninh không những là một tất yếu khách quan, là vấn đề có tính quy luật, mà còn là một truyền thống trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Dựng nước đi đôi với giữ nước, tổ tiên ta luôn kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng (“tích cốc phòng cơ”; “ngụ binh ư nông”; “vừa làm ăn, vừa đánh giặc”; “động binh, tịnh dân” …) Trong cuộc kháng chiến chống Pháp (19451954), Đảng đề ra chủ trương "vừa kháng chiến vừa kiến quốc"; tiến hành phát triển kinh tế ở hậu phương với tiến hành chiến tranh nhân dân rộng khắp ở mọi nơi địch đến; xây dựng "làng kháng chiến", địch đến thì đánh, địch lui ta lại tăng gia sản xuất. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (19541975), việc phát triển kinh tế xã hội gắn với tăng cường quốc phòng, an ninh được Đảng ta chỉ đạo thực hiện ở mồi miền với các hình thức, nội dung và biện pháp thích hợp. Miền Bắc tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ vững chắc chế độ xã hội chủ nghĩa, xây dựng hậu phương lớn. Miền Nam gắn kết chặt chẽ giữa đánh địch với củng cố, mở rộng hậu phương, xây dựng căn cứ địa vững mạnh. Từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đến nay với tư duy mới về kinh tế và quốc phòng, an ninh, việc phát triển kinh tế xã hội gắn với tăng cường quốc phòng, an ninh trên phạm vi cả nước ở nước ta hiện nay đã đạt được nhiều thành tựu, nhưng vẫn còn những khó khăn, hạn chế như sau:
- Đề cương Môn: Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước VN về các lĩnh vực của đời sống XH – Đinh Huy Thành tựu: + Đổi mới kinh tế, kinh tế tăng trưởng phát triển làm cơ sở cho việc tăng cường quốc phòng, an ninh; nhận thức và hành động có những đổi mới. + Hầu hết các bộ ngành, địa phương đã nhận thức và thực hiện được nội dung kết hợp kinh tế quốc phòng trong một số lĩnh vực quan trọng (xây dựng vùng kinh tế, gắn với xây dựng vùng chiến lược). + Dự án lớn đều có thẩm định của Bộ quốc phòng, Bộ công an. Nhiều dự án kinh tế quốc phòng được đầu tư xây dựng đưa vào sử dụng có ý nghĩa. + Có nhiều nổ lực đáp ứng các yêu cầu của quốc phòng, an ninh giúp cho các cơ sở công nghiệp quốc phòng phát triển. + Quân đội làm kinh tế có những kết quả tốt. + Các lực lượng vũ trang tham gia xây dựng hệ thống chính trị cơ sở nơi đứng chân, hình thành khu dân cư kết hợp kinh tế quốc phòng. Hạn chế: + Chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc. + Nhận thức, quan điểm chưa cao, chưa thật sâu sắc + Nội dung, phương thức kết hợp còn nhiều thiếu sót + Chính sách thì chưa đồng bộ + Cơ chế lãnh đạo, quản lý điều hành, tổ chức thực hiện còn nhiều sơ hở, thiếu chặt chẽ. + Cơ quan tham mưu chưa phát huy đầy đủ trách nhiệm, vai trò. Những hạn chế nói trên đã ảnh hưởng không ít đến hiệu lực, hiệu quả trong tổ chức thực hiện chủ trương phát triển kinh tế xã hội gắn với quốc phòng, an ninh, thậm chí đã có lúc, có nơi sơ hở để các thế lực thù địch lợi dụng khoét sâu phá hoại. Neu không nhanh chóng khắc phục triệt để những tồn tại đó thì chắc chắn cả lĩnh vực kinh tế xã hội và quốc phòng, an ninh bảo vệ Tổ quốc khó có thể vượt qua được những thách thức đang đặt ra trước mắt chúng ta trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong giai đoạn hiện nay Tình hình thế giới: phức tạp khó lường, tiềm ẩn nguy cơ chiến tranh Tình hình trong nước: đòi hỏi phải thực hiện thật tốt sự kết hợp này, đây là nhu cầu thường xuyên mang tính cấp thiết, cấp bách của mọi người, mọi ngành, nhà nước đầu tư cho phát triển cũng có nghĩa là đầu tư cho quốc phòng, an ninh và ngược lại. Như vậy, tăng cường quốc phòng an ninh phải đi đôi với phát triển kinh tế xã hội, phát triển kinh tế xã hội phải gắn với tăng cường quốc phòng an ninh. Đây là hai nhiệm vụ then chốt, quan trọng mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta luôn nhận thức sâu sắc trong tiến trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng với bối cảnh thế giới đầy biến động, tiềm ẩn nhiều bất trắc, phức tạp, khó lường. Các thế lực thù địch vẫn không ngừng tăng cường thực hiện âm mưu, hoạt động “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Công sản Việt Nam. Trong khi đó ở trong nước còn tồn tại, phát sinh nhiều vấn đề tiêu cực, tình trạng tham nhũng, quan liêu, hách dịch, biểu hiện xa rời mục tiêu, lí tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”… đã và đang tác động ảnh hưởng đến vai trò, uy tín lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta. Chính vì vậy, kết hợp giữa phát triển kinh tế xã hội với tăng cường quốc phòng an an ninh là tất yếu nhằm khai thác, sử dụng mọi tiềm năng, nguồn lực của đất nước; tạo môi trường quốc tế và trong nước thuận lợi thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng công nghiệp quốc phòng; góp phần tạo nên sức mạnh tổng hợp quốc gia, phát triển và có tích lũy. _________________________________
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Đề cương Môn học Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
64 p | 848 | 439
-
Đề cương bài giảng môn Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt
79 p | 908 | 423
-
Tài liệu Đề cương chi tiết môn Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
44 p | 927 | 336
-
Đề cương môn đường lối Đảng cộng sản Việt Nam
15 p | 667 | 270
-
Đề cương Ôn tập môn Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
13 p | 804 | 144
-
Đề cương môn Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
35 p | 435 | 125
-
Đề cương ôn tập môn Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam (Năm 2015)
13 p | 424 | 107
-
Đề cương ôn tập môn đường lối cách mạng
44 p | 472 | 62
-
Đề cương môn đường lối đảng cách mạng của đảng cộng sản việt nam
26 p | 276 | 60
-
Giáo trình Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam (Dùng cho hệ đào tạo từ xa): Phần 1
77 p | 308 | 59
-
Câu hỏi ôn tập môn Đường lối Đảng Cộng sản Việt Nam
7 p | 218 | 54
-
Bài giảng môn Đường lối cách mạng đảng cộng sản Việt Nam
38 p | 164 | 21
-
Gợi ý đáp án và thang điểm môn Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam
2 p | 200 | 14
-
Kiến thức môn đường lối chính trị 1
5 p | 96 | 12
-
Đề cương môn học: Giáo dục nghề nghiệp và công tác xã hội
8 p | 110 | 4
-
Đề cương môn học Quan hệ quốc tế (Khung chương trình mới)
58 p | 109 | 4
-
Đề cương môn Quốc phòng an ninh 1
48 p | 16 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn