intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài: tài chính quốc tế

Chia sẻ: Lê Thị Hiền | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:18

72
lượt xem
13
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong một thập niên trở lại đây, nền kinh tế thế giới đã phát triển một cách chóng mặt, đặc biệt là sự tăng trưởng “nóng” của các nước đang phát triển. Sự xuất hiện thêm nhiều lĩnh vực và ngành nghề kinh doanh đã tạo cơ hội làm giàu cho các nhà đầu tư, tuy nhiên nền kinh tế thế giới cũng đang đứng trước rất nhiều nguy cơ khủng hoảng, mà một trong những nguyên nhân lớn nhất chính là mức lạm phát quá cao. Điều này đã buộc các NHTW ở các nước phải tìm ra một cơ chế chính sách tiền tệ...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài: tài chính quốc tế

  1. BÁO CÁO THỰC TẬP Đề tài: Tài chính quốc tế
  2. M ỤC L ỤC MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu 2.Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu 2.1.Mục tiêu nghiên cứu 2.2.Phạm vi nghiên cứu 3.Phương pháp nghiên cứu 4.Nguồn dữ liệu thứ cấp PHẦN 1:CHÍNH SÁCH MỤC TIÊU LẠM PHÁT VÀ KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG CỦA NÓ Ở CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN. 1.Tổng quan về chính sách mục tiêu lạm phát 1.1 Các khái niệm 1.2 Các điều kiện để thực hiện chính sách mục tiêu lạm phát 2.Bài học kinh nghiệm rút ra từ các nước phát triển 3.Tính khả thi thực hiện chính sách mục tiêu lạm phát ở các nước đang phát triển PHẦN 2:LIÊN HỆ VIỆT NAM 1.Nh ìn l ại m ột s ố di ễn bi ến kinh t ế ở Vi ệt Nam 1. Đánh giá khả năng áp dụng IT ở Việt Nam hiện nay 2. Những đề xuất nhằm hoàn thiện các điều kiện tiền đề cho lộ trình tiến tới áp dụng IT ở Việt Nam KẾT LUẬN
  3. M Ở ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu. Trong một thập niên trở lại đây, nền kinh tế thế giới đã phát triển một cách chóng mặt, đặc biệt là sự tăng trưởng “nóng” của các nước đang phát triển. Sự xuất hiện thê m nhiều lĩnh vực và ngành nghề kinh doanh đã tạo cơ hội làm giàu cho các nhà đầu tư, tuy nhiên nền kinh tế thế giới cũng đang đứng trước rất nhiều nguy cơ khủng hoảng, mà một trong những nguyên nhân lớn nhất chính là mức lạm phát quá cao. Điều này đã buộc các NHTW ở các nước phải tìm ra một cơ chế chính sách tiền tệ phù hợp với tùng điều kiện cụ thế của quốc gia, làm sao cho vừa ổn định được giá cả vừa đảm bảo được mục tiêu tăng trưởng kinh tế trong dài hạn ,giảm thất nghiệp. Theo nguyên tắc cơ bản trong chính sách tiền tệ, “ổn định giá cả là phương tiện để đạt được mục tiêu cuối cùng là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế một cách vững chắc”. Bởi vì khi mặt bằng giá cả tăng sẽ làm tăng đáng kể chi phí cho nền kinh tế, lạ m phát làm phát sinh :  Làm tăng sự không chắc chắn về tính hiệu quả của các quyết đinh kinh doanh cũng như khả năng sinh lời của dự án.  Ảnh hưởng tiêu cực lên chi phí vốn như là kết quả của sự tác động lẫn nhau giữa lạm phát và hệ thống thuế.  Làm giảm tính hiệu quả của giá cả và hệ thống thị trường.  Đặc biệt phát tín hiệu sai lệch kích thích các quyết định đầu tư vào những lĩnh vực không hiệu quả. Để đạt được mục tiêu ổn định giá cả lâu dài thì các NHTW đã từng sử dụng các chính sách tiền tệ như chính sách tiền tệ dựa vào chế độ tỷ giá cố định, dựa vào khối lượng tiền cung ứng hay dựa vào lượng hóa mục tiêu lạ m phát.Mỗi chính sách đều có những ưu nhược điểm riêng nhưng IT nổi lên như một chỉ tiêu định lượng có mối quan hệ tốt nhất với ổn định giá cả.Vì vậy chính sách mục tiêu lạ m phát đang trở thành xu hướng số một trên thế giới. Nghĩa là ngày càng có nhiều quốc gia thừa nhận: “Để đạt được mục tiêu cuối cùng là có một nền kinh tế phồn thịnh trong tương lai thì mục tiêu duy nhất của CSTT phải là ổn định giá cả trong dài
  4. hạn, và chiếc neo tốt nhất để neo giữ giá cả ổn định chính là bằng mọi cách đạt được mức lạm phát mục tiêu hợp lý”. 2.Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu 2.1.Mục tiêu nghiên cứu 2.2.Phạm vi nghiên cứu 3.Phương pháp nghiên cứu PHẦN 1 1.Các khái niệ m và các điều kiện tiên quyết để thực hiện chính sách mục tiêu làm phát. 1.1 Các khái niệ m: 1.1.1Khái niệm chính sách tiền tệ: Chính sách tiền tệ là quá trình quản lý hỗ trợ đồng tiền của chính phủ hay ngân hàng trung ương để đạt được những mục đích đặc biệt- như kiềm chế lạm phát, duy trì ổn định tỷ giá hối đoái, đạt được toàn dụng lao động hay tăng trưởng kinh tế. Chính sách lưu thông tiền tệ bao gồm việc thay đổi các loại lãi suất nhất định, có thể trực tiếp hay gián tiếp thông qua các nghiệp vụ thị trường mở; qui định mức dự trữ bắt buộc; hoặc trao đổi trên thị trường ngoại hối. Từ trước đến nay,một số công cụ của chính sách tiền tệ đã được sử dụng như:công cụ tái cấp vốn,công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc,công cụ nghiệp vụ thị trường mở,công cụ lãi suất tín dụng,công cụ hạn mức tín dụng…Mỗi công cụ đều có những ưu nhược điểm riêng,do vậy tùy điều kiện cụ thể của từng nước để được công cụ thích hợp,phát huy được hiệu quả của nó 1.1.3Khái niệm chính sách mục tiêu lạm phát (IT): IT là một khung cơ bản cho chính sách tiền tệ mà trong đó Ngân hàng Trung Ương công khai công bố chỉ số lạm phát trong dài hạn(mục tiêu đã được lượng hóa)và cam kết sẽ duy trì mục tiêu này để nhằm đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế ổn định và tỷ lệ thất nghiệp thấp.
  5. 1.2Điều kiện tiên quyết để thực hiện khuôn khổ lạm phát mục tiêu. *Yêu cầu đầu tiên phải được thỏa mãn là Ngân hàng Trung Ương có khả năng thực hiện chính sách tiền tệ của nó với một độ độc lập.(Điều này không có nghĩa là phải đặt NHTW của đất nước đó trong vấn đề hoàn toàn độc lập) *Yêu cầu thứ hai là không có bất kì cam kết nào của NHTW nhằm vào mục tiêu danh nghĩa của các biến số khác như tiền lương hay tỷ giá,có thể xung đột v ới lạm phát mục tiêu Một quốc gia, về nguyên tắc, thoả mãn hai yêu cầu cơ bản trên có thể thực hiện chính sách tiền tệ của nó một cách phù hợp với IT. Để làm như vậy, các nhà chức trách sẽ cần phải đưa vào đặt một khuôn khổ cho chính sách tiền tệ có bốn yếu tố cần thiết: "(i) định lượng một cách rõ ràng cho các chỉ tiêu về tỷ lệ lạm phát một khoảng thời gian sắp tới, (ii) chỉ ra một cách rõ ràng và rành mạch về sự đạt được của tỉ lệ lạm phát mục tiêu là mục tiêu quan trọng hơn cả tất cả các mục tiêu khác; (iii) một phương pháp luận ("mô hình") đưa ra các dự báo lạm phát có sử dụng một số lượng biến và các chỉ số có chứa thông tin về lạ m phát trong tương lai; và (iv) thủ tục vận hành ở tương lai nơi mà việc thiết lập các công cụ chính sách phụ thuộc vào sự đánh giá của áp lực lạm phát và dự báo lạm phát được sử dụng như là mục tiêu trung gian chính. 2. Bài học kinh nghiệm từ các nước phát triển,những nước đã áp dụng IT Bắt đầu từ những năm 90,một số các nước công nghiệp vừa và nhỏ đã quyết định tiến hành chính sách tiền tệ bằng cách áp dụng khuôn khổ lạm phát mục tiêu.Quốc gia đầu tiên áp dụng một cách rõ ràng khuôn khổ này là Newzeland,và mẫu hình của nó đã được áp dụng nhanh sau này dù không sao chép chính xác ở Canada,Anh,Phần Lan,Thụy Điển,Úc,Tây Ban Nha.Sau đây là một số tính năng phổ biến của kinh nghiệm áp dụng lạm phát mục tiêu ở các nền kinh tế tiến bộ. Tính năng phổ biến đầu tiên ,hiển nhiên nhưng cơ bản,đó là lạm phát mục tiêu liên kết cao độ với tính linh hoạt của tỷ giá hối đoái.Thật vậy,ở nhiều nước ,lạm
  6. phát mục tiêu được áp dụng giải quyết hậu quả của nổ lực thất bại khi sử dụng chính sách neo đậu tỷ giá. Một chi tiết phổ biết thứ hai nữa là các nước đã áp dụng IT đều có biện pháp đo đạc sự tự do của các ngân hàng, cụ thể là: (i) mối liên hệ giữa ngân hàng trung ương và việc tài trợ các khoản ngân sách của chính phủ ( mức độ ảnh hưởng của chính sách tài chính), và (ii) khả năng ngân hàng trung ương có thể tự điều hành các biện pháp thực hiện chính sách tiền tệ (sự tự do của các biện pháp). Thêm nữa, trên thực tế, ngân hàng trung ương của tất cả các nước đã áp dụng IT đều coi lãi suất ngắn hạn là biện pháp điều chỉnh chủ yếu và dựa vào các thị trường tài chính đã rất phát triển để truyển tải những ảnh hưởng của sự thay đổi vào nhu cầu và lạ m phát. Chi tiết thứ ba là mục tiêu lạm phát của tất cả các quốc gia đều đã được đặt trước, không phải bởi vì cam kết quyết tâm ngăn chặn mọi bất ngờ từ việc lạm phát dao động giữa mục tiêu với giá trị thực tế, mà là lời hứa để bù đắp các ảnh hưởng tới từ các dự báo lạm phát trong quãng thời gian một tới hai năm. Cũng nên chú ý rằng trong mọi trường hợp, mục tiêu lạm phát đều được đề cập đến dưới dạng dự đoán hoặc trong một quãng “có thể chấp nhận được” hơn là một điể m xác định. Thứ tư, tất cả các quốc gia đều coi IT là một công cụ để xây dựng uy tín của các chủ trương kinh tế vĩ mô. Trong hầu hết các trường hợp, nhiệ m vụ này được bổ trợ bởi sự đồng thuận của cả các nhà điều hành chính sách tài chính cũng như tiền tệ, dẫn tới việc người dân không còn hiểu nhầm về những bất đồng trong mục tiêu của các chính sách kinh tế. Hơn thế nữa, IT còn được sử dụng như một biện pháp sư phạ m để giải thích tác dụng của các chính sách tiền tệ cho dân chúng và cho trách nhiệ m ngày càng cao của các nhà điều hành tiền tệ . Sử dụng IT cho những mục đích như vậy đã tiên đoán trước một ảnh hưởng đáng kể tới uy tín ban đầu, khiến ngân hàng trung ương có thể tạo ra một tầm ảnh hưởng nhất định tới dự đoán của dư luận khi những tuyên bố và phân tích chính thức được đưa ra cũng như sự am hiểu về kinh tế của người dân. Cuối cùng, một chi tiết quan trọng là mục tiêu lạm phát đã không được đưa ra khi lạm phát ở mức trung bình hoặc cao, mà là khi chỉ số lạm phát đang khá thấp ( ít hơn 10% ở mọi quốc gia). Có nhiều khả năng rằng điều này góp phần tạo dựng uy tín ban đầu của chủ trương, giảm nguy cơ hoặc phải tuyên bố cắt giả m đột ngột
  7. lạm phát ( có thể gây ra thiệt hại về sản lượng và lợi nhuận) hoặc khiến dư luận hiểu nhầ m rằng ngân hàng trung ương chấp nhận một chỉ số lạ m phát quá cao. 3.Tính khả thi của việc thực hiện IT ở các nước đang phát triển 3.1 Phân tích các điều kiện để thực hiện khung lạ m phát mục tiêu ở các nước đang phát triển *Nhóm điều kiện thứ nhất là Ngân hàng Trung Ương có khả năng thực hiện chính sách tiền tệ của nó với một độ độc lập. Vấn đề lạm phát mục tiêu ở những nước đang phát triển Nỗ lực gần đây để mở rộng chương trình nghị sự nghiên cứu về sự độc lập ngân hàng trung ương (CBI) ở các nước đang phát triển đã phải những vấn đề trên. Một kết quả chung của tất cả các nghiên cứu này là, ngân hàng trung ương ở các nước đang phát triển phải đối mặt với môi trường khác nhau hoàn toàn so với những nước phát triển. Đặc biệt, các nghiên cứu kết luận rằng nhiều sự can thiệp của chính quyền đối với CBI đã hạn chế trong bối cảnh các nước đang phát triển bởi vì cơ hội cho ngân hàng trung ương thực thi chính sách tiền tệ trong những nền kinh tế đó có khuynh hướng bị kiềm hãm bởi sự hiện diện của ban nhân tố : sự phụ thuộc rất lớn vào thuế đúc tiền, thị trường vốn nhỏ hẹp, và hệ thống ngân hàng yếu ớt. Các sự phụ thuộc vào thuế đức tiền có lẽ là biểu hiện đơn giản nhất và phổ biến nhất của sự kiểm soát tài chính. Sự liên kết giữa khả năng của chính phủ để nâng cao doanh thu từ các nguồn thông thường với sự tài trợ của các khoản thu từ thuế đúc tiền và thuế lạm phát là minh chứng rất tốt cho cà trong phân tích và thực nghiệm (Phelps (1973); Fischer (1982)). Ở các nước đang phát triển sự liên kết đó thường lớn hơn, và do đó sự phụ thuộc vào thuế đúc tiền cũng lớn hơn so với các nền kinh tế tiên tiến do một số đặc tính cấu trúc (ví dụ, các nguồn thu thuế tập trung và không ổn định, thủ tục chọn lọc đánh thuế nghèo nàn, phân phối thu nhập không tương xứng và bất ổn chính trị), cũng như khuynh hướng của những các quốc gia lạm dụng nguồn thu này, trái với việc phát hành nợ hoặc cắt giảm chi tiêu chính phủ, trong thời kỳ khủng hoảng (Easterly et al. (1994)).
  8. Thị trường vốn nhỏ hẹp cũng là một nhân tố, dù nhỏ nhưng quan trọng, trong biểu hiện của kiểm soát tài chính. Chúng thường là đề án của chính phủ để có doanh thu từ hệ thống tài chính thông qua các hình thức áp chế tài chính bao gồm, trần lãi suất, yêu cầu tỷ lệ dự trữ cao, chính sách tín dụng ngành và vị trí cần thiết của nợ công (McKinnon (1991) ;. Fry và cộng sự (1996)).Tuy nhiên, ở một số nước có thu nhập thấp, thị trường vốn chưa phát triển có thể là nguyên nhân cũng như hệ quả của sự kiểm soát tài chính. Nền kinh tế hội nhập không hoàn hảo vào thị trường vốn quốc tế, tính linh hoạt tài chính hạn chế, mức độ thấp của sự tích lũy trong nước và một hệ thống tài chính nhỏ hẹp đã hạn chế năng lực của chính phủ phát hành nợ trong nước để tài trợ cho thâm hụt tài chính ngắn hạn, dẫn đến việc sử dụng thuế đúc tiền và các hình thức áp chế tài chính như là lựa chọn duy nhất . Tuy nhiên, bất kể nguyên nhân trên, bằng chứng về tác hại của áp chế tài chính đối với sự phát triển của thị trường vốn trong nước và hiệu quả kinh tế tổng thể là không thể tranh cãi (McKinnon (1991); Levine (1997)), và do đó là một thực tế là việc thực hiện chính sách tiền tệ trong bối cảnh kiếm soát tài chính khắt khe về cơ bản gần như trở thành một hoạt động tài chính thực sự cần thiết(Fry (1993)). Hệ thống ngân hàng yếu kém là một trong những hậu quả của việc kéo dài áp chế tài chính. Nhưng nét nổi bậc trong hậu quả của việc cải cách các nhân tố tài chính là chúng gây nên những ảnh hưởng độc lập trong việc thực thi chính sách tiền tệ ở các nước đang phát triển. Đó là những nơi các cuộc xung đột giữa mục tiêu của việc đạt được sự ổn định giá cả và việc khôi phục (duy trì) mảng lợi nhuân ngân hàng đạt tỷ lệ hiếm thấy quan sát được ở các nền kinh tế tiên tiến. Trong thực tế, một số nghiên cứu gần đây thấy rằng cuộc khủng hoảng hệ thống ngân hàng ở các quốc gia đang phát triển cao hơn những quốc gia công nghiệp, với ước tính chi phí khắc phục lên đến 25 phần trăm của GDP trong một số trường hợp nghiêm trọng (Goldstein và Turner (1996)), và thường được kết hợp với sự cân bằng của các vấn đề thanh toán (Kaminsky và Reinhart (1996)). Bằng chứng này đưa ra một cân nhắc trong việc sắp xếp và sự xếp hạng rõ ràng của các yếu tố chính là vô cùng quan trọng trong giai đoạn đầu của tự do hóa tài chính, khi ngân hàng trung ương trên thực tế đã hạn chế cơ hội cho lập trường tiền tệ dựa trên lãi suất thực cao (McKinnon (1991)).
  9. * Nhóm điều kiện thứ hai liên quan đến vấn đề đảm bảo mục tiêu lạ m phát là mục tiêu chính, không phải là mục tiêu hỗ trợ cho mục tiêu khác. Các cơ quan chức năng sẽ không cam kết bất cứ điều gì về sự thay đổi của bất kỳ mục tiêu nào khác, chẳng hạn như tiền lương hoặc tỷ giá danh nghĩa. Về lý thuyết, một tỷ giá hối đoái danh nghĩa mục tiêu có thể cùng tồn tại với một mục tiêu lạm phát “miễn là điều này được xác định rõ ràng rằng mục tiêu lạm phát được ưu tiên nếu có xung đột phát sinh “(Leiderman và Svensson (1995)). Nhóm này bao gồ m các điều kiện: - Chính sách tiền tệ không bị chi phối bởi các ưu tiên về ngân sách Chính phủ; Chính phủ tăng ngân sách bằng việc huy động các nguồn vốn trên thị trường tài chính và hạn chế tuyệt đối việc cấp tín dụng cho Chính phủ. Tuy nhiên trên thực tế ta thấy ở những nước đang phát triển thường khó đáp ứng được điều kiện này vì nguồn thu của chính phủ không đáp ứng đủ cho nhu cầu chi tiêu. Nhu cầu vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng là rất lớn trong khi nguồn thu từ thuế bị hạn chế vì nền kinh tế mới bắt đầ phát triển, trái phiếu của chính phủ chưa thật sự là một lĩnh vực thu hút được giới đầu tư (do mức lãi suất thấp và không được điều chỉnh khi có lạm phát ), do đó một biện pháp có thể đưa ra để giải quyết vấn đề thâm hụt ngân sách là yêu cầu ngân hàng trung ương cấp tín dụng. khi đó điều kiện này bị vi phạ m và khó có thể thực hiện được theo khuôn khổ IT - Vị thế bên ngoài đủ mạnh để đảm bảo cho chính sách tiền tệ theo đuổi mục tiêu lạm phát là mục tiêu hàng đầu. Bằng nhiều công cụ và mục tiêu hỗ trợ chính sách tiền tệ khác, ngân hàng trung ương có thể theo đuổi mục tiêu lạ m phát của mình. Với một vị thế tài chính đủ mạnh, việc phát hành trái phiếu ra thị trường thế giới là khá dễ dàng, với nguồn dự trữ ngoại hối dồi dào ngân hàng trung ương có thể điều chỉnh mức tỷ gia hợp lý để kiềm chế lạm phát, hay tăng dự trữ bắt buộc với tiề m lực của mình. Tuy nhiên những điều này thật khó mà thực hiện được đối với những nước đang phát triển. - Khi bắt đầu thực hiện khuôn khổ lạm phát mục tiêu thì lạm phát cần ở mức thấp để đảm bảo cho sự điều chỉnh kiểm soát tiền tệ thích hợp. Trong một nền kinh tế có mức lạm phát cao trong nhiều năm liền, các biến danh nghĩa sẽ có xu hướng hiển thị một mức cao độ của quán tính và không đồng bộ do đó các biến sẽ mất đi ý nghĩa thống kê và chính sách tiền tệ sẽ có những điều chỉnh đáng kể. Một khi chính sách tiền tệ có những thay đổi thì liệu mục tiêu lạm phát còn giữ vững được nữa không? Liệu rằng các nước phát triển có đáp ứng được điều kiện này hay không ?câu trả lời chắc chúng ta đã rõ. Một ví dụ điển hình làm nổi bật điều kiện này chính là kinh nghiệm của Israel trong những năm 1991. Trong một vài năm Israel đã sử dụng cả hai mục tiêu lạm phát và tỷ giá trong việc xây dựng chính sách tiền tệ, Ngân hàng của Israel đã nhấn mạnh một năm trước biên độ kéo lê tỷ giá cân bằng của NHTW, đó là điều khác biệt giữa mục tiêu lạm phát của các nhà cầm quyền năm đó và ước tính lạm phát của các đối tác thương mại quốc tế của Israel. Sự thống nhất cũ giữa mục tiêu lạm
  10. phát và mục tiêu tỷ giá đã nhiều lần che phủ sự căng thẳng và gay gắt đặc biệt, tuy nhiên nó thực sự được phơi bày khi xảy ra việc dòng vốn nước ngoài chảy vào ồ ạt khiến cho tỷ giá hạ thấp. Điều này buộc ngân hàng của Israel phải lựa chọn hoặc là bơm nội tệ vào lưu thông và rút bớt ngoại tệ thừa để nâng tỷ giá lên hoặc duy trì lãi suất ở cấp độ phù hợp với mục tiêu lạm phát. Tuy nhiên vấn đề chính sách cuối cùng được giải quyết có lợi cho mục tiêu lạm phát và biên độ tỷ giá đã được mở rộng dần dần, mặc dù tiềm năng cho cuộc xung đột vẫn còn. Leiderman và Bufnan(1996) cho rằng thành tích của Israel một phần được giải thích theo đường vòng, trong đó mục tiêu lạm phát đã được thông qua,”…tình trạng của mục tiêu lạm phát ở Israel là khá mơ hồ, nghĩa là cho dù đó là một dự báo chính thức hoặc cam kết ràng buộc bởi một chính sách , sự mơ hồ này một phần có thể do sự thiếu minh bạch khi các chính sách được thông qua lần đầu tiên”. Họ đi đến kết luận rằng : trong nhiều trường hợp, một cuộc xung đột xung có thể phát triển giữa các chính sách cần thiết để bảo vệ một chế độ tiền tệ và để đạt được mục tiêu lạm phát. 3.2 Đặc điểm kỹ thuật của mục tiêu lạm phát: -Ở các nước đang phát triển không co sự đồng thuận giữa một tỷ lệ lạm phát tôi ưu với sự ổn định giá cả.Bởi vì các lợi ích của lạm phát thấp và ổn định trong nền kinh tế hiếm khi được định lượng hay liên quan đến một số giá trị chính xác cho tỷ lệ lạm phát.Khi tình trạng này vẫn còn tiếp diễn thì bất kì sự lựa chọn nào của một hạn mục lạm phát trung bình cho các quốc gia này là tùy ý.Tuy nhiên ,có một Giả định chung là hạn mức trung bình của lạm phát ở các nước đang phát triển có phần cao hơn so với các nước công nghiệp,và được phép dao động trong biên độ lớn hơn để đáp ứng những cú số cung lớn hơn. -Nói về tốc độ mà các lạm phát mục tiêu trung hạn nên đạt được, ở các nước đang phát triển khi đã đạt đến một tỷ lệ lạm phát trung bình thấp(thấp hơn 15%/năm) thì nên áp dụng một cách tiếp cận thận trọng và dần dần để giảm lạm phát thêm. -Sự lựa chọn chỉ số giá trên cơ sở đó để thực hiện các mục tiêu lạm phát ở các nước đang phát triển cũng gặp nhiều vấn đề hơn.Thực tế là các nước đang phát triển có xu hướng gặp nhiều cú sốc hơn và việc tăng cường uy tín và tính minh bạch của chính sách tiền tệ sẽ giúp cho việc xác định chỉ số mục tiêu được sử dụng rộng rãi nhất trong công chúng để theo dõi diễn biến giá cả và lạm phát kì vọng(thông thường là chỉ số CPI) -Cuối cùng, ở các nước đang phát triển kiểm soát giá là một thành phần quan trọng của chỉ số giá tổng hợp,do đó là của hành vi lạm phát ngắn hạn.Một dự báo lạm phát đúng thủ tục sẽ cần có sự kết hợp các giả định rõ ràng về thời gian và cường độ thay đổi giá,và có một mức đọ phối hợp cao hơn giữa các cơ quan tài chinh và tiền tệ trong việc xác định phần lớn giá cả thị trường. 3.3 Khuôn khổ thực hiện chính sách lạm phát mục tiêu của các nước đang phát triển
  11. 3.3.1, Đặc điểm chung của các nước đang phát triển: Các nước đang phát triển có những điếm giống và khác nhau riêng biệt, đặc biệt là trong CSTT và thị trường vốn. Một mặt, các nước có chung sự thay đổi: cải tổ thị trường vốn, mở cửa tham gia vào các thị trường vốn quốc tế, nâng cao tác dụng các công cụ gián tiếp của CSTT v.v... Mặt khác, các nước khác nhau rõ rệt về các chỉ số như: tỷ lệ lãi suất, mức độ phát triển thị trường vốn nội địa, thu nhập trên đầu người v.v... Như vậy sẽ rất khó khăn không chỉ trong việc đánh giá khả năng áp dụng lạm phát mục tiêu, thậm chí không thể phân nhóm một cách thoả đáng đối với các nước đang phát triển. những tiền đề cần thiết của lạm phát mục tiêu là tính độc lập với ngân sách và trách nhiệm bắt buộc của NHTƯ đối với các chỉ tiêu khác Trong một nước, nếu lạm phát kinh niên ở mức độ cao (tăng 30 - 40%/năm) đã đặt lên vai CSTT gánh nặng rất nhiều vấn đề phải giải quyết. Trong tình thế này, mục tiêu ưu tiên của những nước này là cần phải giảm thiểu thâm hụt ngân sách và hạ thấp dần lạm phát trong dài hạn. Ngoài ra, khi xem xét đến khả năng áp dụng lạm phát mục tiêu tại các nước đang phát triển, những trở ngại cơ bản nhất là thu nhập của chính phủ dựa vào nguồn in tiền, thị trường tài chính trong nước yếu kém và hệ thống ngân hàng không ổn định.  Nguồn thu chủ yếu dựa vào nguồn in tiền  Dựa vào in tiền. Chú trọng vào nguồn thu từ in tiền là một bằng chứng đơn giản và rõ ràng nhất của ngân sách chi phối - khi mà chính phủ không đủ khả năng nâng cao và mở rộng cơ sở nguồn thu của mình. Đối với các nước đang phát triển, việc thường xuyên sử dụng in tiền làm nguồn thu chính là nguyên nhân làm biến dạng cấu trúc hệ thống thuế. Sự biến dạng này làm cho nguồn thu thuế mất ổn định và tệ hại hơn, nó làm mất cân đối trong việc phân chia gánh nặng thuế v.v... Việc ''dựa dẫm'' này còn làm tăng ''sức ì'' của các cơ quan quản lý - điều hành nhà nước và giảm lòng tin của công chúng vào chính phủ. Tuy nhiên, thông thường không điều gì có thể giới hạn được chính phủ sử dụng in tiền, đặc biệt khi các nước trong giai đoạn khủng hoảng.  Thị trường tài chính. Thị trường tài chính yếu kém cũng có thể là một minh chứng cho việc ngân sách chi phối. Không hiếm khi tại các nước đang phát triển, thị trường tài chính trở thành ''sản phẩm phụ'' của việc xây dựng cấu trúc thị trường để bơm nguồn vốn từ hệ thống tài chính vào ngân sách. Một cách bơm vốn tương tự cũng có thể được diễn ra qua hiện tượng trấn áp tài chính và giới hạn thu nhập của khu vực ngân hàng. Ví dụ, hình thành giới hạn mức lãi suất trần và thực thi
  12. chính sách tín dụng nhằm kích thích đầu tư vào khu vực sản xuất để tăng nguồn thu từ thuế. Việc làm này dần dần sẽ dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống tài chính. Một cách thức đơn giản nhất thể hiện sự yếu kém của hệ thống tài chính, ở những nơi xuất hiện ngân sách chi phối, và buộc trách nhiệm của ngân hàng vào việc phát hành giấy tờ có giá Chính phủ.  Hệ thống ngân hàng. Một vấn đề nữa gây khó khăn cho việc áp dụng lạm phát mục tiêu tại các nước đang phát triển là hệ thống ngân hàng dễ đổ vỡ đây là một hệ quả rõ rệt của trấn áp tài chính dài hạn. Sẽ cần thiết củng cố khu vực ngân hàng cũng có thể dẫn đến xung đột nguyên tắc ổn định giá cả. Để nâng cao tính thanh khoản cho hệ thống ngân hàng, điều thường xảy ra tại các nước đang trong giai đoạn chuyển đổi việc "rót vốn'' sẽ làm tăng tổng tiền cung ứng ngoài kế hoạch, và cuối cùng nó sẽ phá tan mọi kế hoạch duy trì giá cả ổn định của NHTƯ. Mặt khác cũng cần ghi nhận rằng, sau khi cải tổ khu vực tài chính thì hệ thống Ngân hàng có thể sẽ độc lập tương đối, với những tác động của CSTT và như vậy xung đột giữa hai mục tiêu sẽ xảy ra: ổn định giá cả và phục hồi thu nhập của khu vực ngân hàng. Chỉ có thể tránh khỏi điều này chỉ bằng một con đường - đặt mục tiêu ổn định kinh tế lên trước thời kỳ tự do hóa tài chính. 3.3.2. Xung đột với các mục tiêu khác Tại những nước đang phát triển có thị trường tài chính hoạt động tương đối tốt, lạm phát ở mức vừa phải và không có dấu hiệu cho thấy tình trạng ngân sách chi phối, thì sự độc lập của CSTT phụ thuộc chủ yếu vào chế độ tỷ giá hối đoái và khả năng dịch chuyển của các luồng vốn. Mặc d ù hiện nay, chế độ tỷ giá cố định đã ngày càng ít nhưng chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn trên thực tế cũng không được áp dụng phổ biến. Thông thường các quốc gia lựa chọn thực hiện chế độ tỷ giá có quản lý và các nước đang phát triển cũng không ngoại lệ. Trong những thập kỷ 90, trào lưu áp dụng tỷ giá linh hoạt được rất nhiều nước đang phát triển áp dụng. Nhưng chế độ tỷ giá linh hoạt mà nhiều nước đang phát triển áp dụng tại không làm cơ quan quản lý tiền tệ đánh giá thấp hơn tầm quan trọng đối với mục tiêu tỷ giá hoặc chấm dứt việc sử dụng tỷ giá như một công cụ cơ bản của CSTT. Và như vậy, NHTƯ rơi vào tình thế ''tránh vỏ dưa, gặp vỏ dừa'': từ bỏ chế độ tỷ giá cố định và bảo vệ tính ổn định của cơ chế tỷ giá hối đoái. Điều này dẫn đến gánh nặng cho CSTT bởi như chúng ta đã biết: một điều kiện cần thiết của lạm phát mục tiêu là ưu tiên mục tiêu lạm phát hơn các mục tiêu chính sách khác, hay nói cách khác, chỉ số lạm phát mục tiêu chiếm ưu thế hơn tất cả các mục tiêu còn lại của CSTT. Theo
  13. như trên, duy trì ổn định tỷ giá hối đoái sẽ xung đột với nguyên tắc lạm phát mục tiêu. Đến lúc đó mục tiêu lạm phát sẽ tồn tại cùng những mục tiêu khác của CSTT và hiển nhiên, hiệu quả của lạm phát mục tiêu sẽ ở mức thấp nhất. Một lối thoát có thể chấp nhận được trong tình trạng này là có thể đưa ra chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn, điều này cũng đồng nghĩa với việc huỷ bỏ việc kiểm soát với các luồng vốn. Đối với các nước đang phát triển, điều này không được mong đợi vì những hậu quả không thể lường trước. Qua những vấn đề nêu trên ta có thể rút ra kết luận rằng: cần phải xem xét rất thận trọng khả năng áp dụng lạ m phát mục tiêu tại các nước đang phát triển và có nền kinh tế chuyển đổi. Khả năng ứng dụng cơ chế này chỉ có thể xảy ra trong trường hợp hoặc có được sự hội tụ đầy đủ điều kiện để thực thi và có thể xem xét đến khuôn khổ sau đây: cơ chế LPMT bao gồm năm thành tố: (1) Công bố rộng rãi về những mục tiêu lạm phát trong trung hạn bằng những con số cụ thể; (2) Cam kết (bằng thể chế, tức là cam kết của các cơ quan chức năng có quyền lực) về việc coi bình ổn giá cả là mục tiêu hàng đầu của CSTT, còn các mục tiêu khác xếp sau về thứ tự quan trọng; (3) Có chiến lược tập trung thông tin, trong đó nhiều biến số (không chỉ là các số liệu về cung ứng tiền hoặc tỉ giá) được xem xét để quyết định sử dụng các công cụ chính sách; (4) Tăng cường tính minh bạch của CSTT thông qua đối thoại với công chúng, với thị trường về các kế hoạch, mục tiêu và quyết định của các cơ quan quản lý tiền tệ; và (5) tăng cường trách nhiệm của ngân hàng trung ương (NHTW) trong việc hướng tới các mục tiêu lạm phát. Cơ chế LPMT trở nên phức tạp hơn ở các quốc gia thị trường mới nổi và bởi vậy nó không phải là một phương thuốc chữa bách bệnh. Tuy nhiên, một khuôn khổ LPMT được vận hành đúng có thể là một công cụ có tác động mạnh mẽ để giúp tăng cường sự ổn định kinh tế vĩ mô tại các quốc gia thị trường mới nổi. PHẦN 2:LIÊN HỆ vIỆT NAM 1.Nhìn lại một số diễn biến kinh tế của Việt Nam trong thời gian qua: Năm 2008, lạm phát tính theo cuối kỳ đã lên tới 19.89% và bình quân trong năm là 22.97%, đây là mức cao nhất kể từ năm 1992 đến nay. Lý giải cho lạ m phát cao năm 2008 là do sự tăng mạnh của giá cả nhiều hàng hóa đặc biệt là lương thực, thực phẩm và năng lượng. CPI của lương thực, thực phẩm đã tăng lên rất mạnh trong năm 2008, đỉnh điể m là CPI lương thực, thực phẩm tăng 45.5% (YoY) vào tháng 6/08. Kết thúc năm 2008 CPI lương thực tăng 31.86%. Trong rổ hàng hóa tính CPI của Việt Nam, mặt hàng lương thực chiế m tỷ trọng
  14. 43% nên CPI lương thực ảnh hưởng mạnh đến CPI chung. CPI cơ bản (không bao gồ m lương thực, thực phẩm) năm 2008 chỉ tăng 10.92%. CPI lương thực đã tăng chậm lại, thâm chí giả m kể từ tháng 10 năm 2008. Tính đến tháng 11/2009 CPI lương thực và CPI cơ bản lần lượt là 3.51% và 4.98% so với cùng kỳ năm ngoái. Như vậy, có thể thấy lạm phát trong những tháng vừa qua chỉ tăng ở mức thấp do CPI lương thực đã tăng chậm lại Năm 2009, lạm phát ở mức thấp mặc dù tăng trưởng tín dụng và cung tiền tăng khá mạnh kể từ mức đáy hồi đầu năm. Tháng 12/2010, so với cùng kỳ, lạm phát giá tiêu dùng lên tới 11,75%, mức cao nhất trong 22 tháng. Tiền đồng Việt Nam suy yếu. Tất cả những yếu tố này đang khiến nhà đầu tư ngại nắ m giữ tài sản tiền đồng và dòng vốn đang rời Việt Nam. Xu thế này có thể sẽ tiếp diễn nếu các công ty Việt Nam chậ m trả nợ. Tháng 12/2010, Vinashin đã không hoàn thành được việc trả khoản nợ 600 triệu USD. Tháng 7/2010, Fitch hạ xếp hạng nợ của Việt Nam. Đến tháng 12/2010, Moody và S&P đưa ra quyết định tương tự. Suy thoái kinh tế toàn cầu xảy ra, áp lực lạm phát dịu bớt thế nhưng khi lãi suất cơ bản được điều chỉnh giả m và tín dụng được khuyến khích tăng trưởng, áp lực lạm phát cao hơn. b.chính sách tiền tệ năm 2011 ở Việt Nam "Năm 2011, NHNN sẽ điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt và thận trọng nhằm mục tiêu hàng đầu là kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô, góp phần tăng trưởng kinh tế." Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Giàu nhấn mạnh: năm 2011, NHNN sẽ điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt và thận trọng nhằm mục tiêu hàng đầu là kiể m soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô, góp phần tăng trưởng kinh tế. “Các công cụ chính sách tiền tệ và các biện pháp điều hành sẽ được thực hiện phù hợp với nguyên tắc thị trường và điều kiện thực tế của nền kinh tế và thị trường tài chính- tiền tệ Việt Nam.” Thủ tướng đã chỉ đạo, nhiệm vụ trọng tâm năm 2011 là ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, trong đó hết sức chú ý các chính sách tiền tệ, chính sách tài chính.
  15. 2. Đánh giá khả năng áp dụng IT ở Việt Nam Với những phân tích trên, câu hỏi được đặt ra là Việt Nam có nên theo đuổi chính sách lạ m phát mục tiêu hay không ? Để trả lời câu hỏi trên chúng ta hãy so sánh tình hình hiện nay của ngân hàng nhà nước (NHNN) Việt Nam với các điều kiện tiên quyết trên. Thông qua việc so sánh, nhóm cho rằng hiện tại Việt Nam không thích hợp cho việc thực hiện chính sách lạm phát mục tiêu vì nhiều nguyên nhân như sau: Ngân hàng trung ương chưa có sự độc lập trong việc quản lý, điều hành chính sách tiền tệ. Ngân hàng nhà nước hiện nay là một cơ quan trực thuộc chính phủ vì vậy mọi chính sách tiền tệ phụ thuộc vào mức tăng trưởng đề ra, cân đối ngân sách nhà nước, bù đắp một phần bội chi. Ngân hàng nhà nước đang theo đuổi đồng thời cả hai mục tiêu là tăng trưởng và lạm phát trong đó tăng trưởng được ưu tiên hơn còn lạm phát chỉ cẩn kiề m chế ở mức chấp nhận được. Điều này trái với những yêu cầu được đưa ra ở trên là lạm phát phải là mục tiêu hàng đầu. Việc ưu tiên cho tăng trưởng sẽ dẫn đến mở rộng cung tiền làm cho việc giữ lạ m phát ở mức mục tiêu trở nên khó khăn. Chúng ta không thể đồng thời vừa tăng cung tiền vừa cắt giảm lạ m phát trong trường hợp cần thiết. Từ đó dẫn đến việc NHNN rơi vào tình trạng bị động trong việc quản lý và điều hành. Bằng chứng rõ nét nhất là trong năm 2008 NHNN đã liên tục thay đổi các mục tiêu từ việc tăng lãi suất và dự trữ bắt buộc đầu năm để kiề m chế lạm phát sang mở rộng tiền tệ vào cuối năm để đối phó với suy thoái đồng thời làm lạm phát tăng trở lại. Thị trường tài chính trong nước còn hạn chế, hệ thống ngân hàng chưa thật vững chắc, công việc xây dựng chỉ số lạm phát cơ bản chưa hoàn thiện... Hơn nữa, việc kiể m soát lạm phát cần được dựa trên nền tảng tăng trưởng tiềm lực kinh tế, khả năng điều tiết cao của các công cụ chính sách tiền tệ và phải có lộ trình đưa ra các biện pháp điều chỉnh lạ m phát phù hợp, nếu không việc thực hiện lạm phát mục tiêu sẽ khiến chúng ta phải trả giá rất đắt ( lãi suất, tình trạng thất nghiệp tăng cao…) Mặt khác, Việt Nam là một nước có nền kinh tế chuyển đổi và đang phát triển, chúng ta không nên đánh đổi giai đoạn ''bứt phá'' cần thiết cho việc tăng trưởng
  16. kinh tế để áp dụng lạm phát mục tiêu ngay. Ngoài ra, đầu vào của nền sản xuất hàng hóa nội địa phần lớn dựa vào giá nguyên vật liệu thô nhập khẩu, với giá thế giới biến động bất thường như hiện nay khiến chúng ta càng nên cẩn trọng. 3.Những đề xuất nhằ m hoàn thiện các điều kiện tiền đề cho lộ trình tiến tới áp dụng IT ở Việt Nam Theo nhóm, thời điểm thích hợp để chúng ta có thể thực hiện chính sách lạm phát mục tiêu là từ năm 2020 khi nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp. Để có thể thực hiện tốt chính sách này, ngay từ bây giờ chúng ta cần chuẩn bị đầy đủ các điều kiện và tiếp tục theo dõi học tập kinh nghiệm các nước đã đang và sẽ thực hiện chính sách này. NHTƯ hoàn toàn có khả năng thực thi cơ chế lạm phát mục tiêu trong điều kiện có một sự độc lập tương đối, một nền sản xuất hàng hóa nội địa vững chắc, lạm phát dao động ở mức hợp lý, cơ sở nguồn thu của ngân sách được mở rộng và hệ thống tài chính - ngân hàng phát triển. Biện pháp thực hiện như sau: Từ nay đến năm 2020, chúng ta nên tiếp tục củng cố năng lực phát triển kinh tế và cần tập trung kiể m soát lạm phát dao động ổn định trong giới hạn dưới 7%/ năm. Đây là mức lạm phát hợp lý để chúng ta tiếp tục quá trình chuyển đổi kinh tế và tạo đà tăng trưởng. Sau đó hạ thấp dần tỷ lệ lạm phát xuống và duy trì trong thời gian tối thiểu 5 năm tiếp theo. Đồng thời chúng ta cần phải thực hiện các biện pháp sau: - Tăng cường quyền hạn quản lý nhà nước về tiền tệ cho NHNN để có thể kiểm soát và điều tiết tất cả các kênh bơm/hút tiền cũng như nâng cao tính độc lập của NHNN trong việc xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ; - Phát triển thị trường tài chính đủ mạnh về quy mô cũng như khối lượng giao dịch, tương xứng với nhu cầu vốn cho sự phát triển kinh tế trong tương lai, đặc biệt chú trọng vào thị trường chứng khoán. - Củng cố hệ thống các tổ chức tín dụng một cách lành mạnh và hiệu quả hoàn thành tiến độ cổ phần hóa các ngân hàng thương mại nhà nước; nâng cao năng lực quản trị rủi ro, kỹ năng quản trị điều hành và hiện đại hóa công nghệ của các tổ chức tín dụng; Nâng cao năng lực giám sát của NHNN trên cơ sở tiến tới áp dụng căn bản các chuẩn mực quốc tế về thanh tra, giám sát ngân hàng.
  17. - NHTƯ và Tổng cục Thống kê cần phối hợp nghiên cứu, sớm hoàn thành phương pháp tính toán lạ m phát cơ bản và nâng cao khả năng dự báo lạm phát để làm cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế, tạo thế chủ động trong việc điều hành chính sách tiền tệ và nâng cao niề m tin của các chủ thể kinh tế. - Tăng cường hiệu lực và khả năng điều chỉnh của các công cụ chính sách tiền tệ. NHNN cần tăng cường phát triển các nghiệp vụ tạo môi trường cho lãi suất cơ bản, lãi suất chiết khấu tác động thực sự đối với lãi suất trên thị trường. NHNN cần nâng cấp thị trường tiền tệ, hoàn thiện công cụ điều hành lãi suất, linh hoạt trong việc sử dụng các công cụ khác tương xứng với xu thế và tiến độ hội nhập. NHTƯ cần nâng cao hơn nữa tính thị trường của công cụ lãi suất để tạo cơ sở chuyển dần ''neo'' bằng tỷ giá sang ''neo'' bằng lãi suất trong điều hành CHÍNH SÁCH TIềN Tệ. - Nâng cao tính minh bạch của chính sách tiền tệ : công khai những thay đổi của chính sách tiền tệ và giải thích nguyên nhân của sự thay đổi đó. Tính công khai và minh bạch sẽ giúp NHTƯ nâng cao hiệu quả thực thi chính sách , tác động nhanh đến các chủ thể kinh tế, giả m bớt độ trễ của chính sách cũng như phản ứng tiêu cực từ phía thị trường. 5.Kết luận Bài nghiên cứu đã cung cấp cho ta một cách khái quát những hiểu biết ban đầu về các chính sách tiền tệ được áp dụng trên thế giới, vì sao lạm phát mục tiêu là công cụ quan trọng được rất nhiều nước áp dụng để hướng tới mục tiêu tăng trưởng lâu dài. Các nước đã từng áp dụng IT cho chúng ta một số kinh nghiệm đáng học hỏi, không phải bất cứ quốc gia nào cũng áp dụng được IT, IT sẽ đưa đến thành công trong trường hợp các nước đáp ứng đủ hai điều kiện đã nêu ở trên và tùy theo từng điều kiện cụ thể của từng quốc gia mà có những thay đổi cho phù hợp. Đặc biệt là các nước đang phát triển, khi nền kinh tế đang trong giai đoạn hội nhập sâu và rộng, việc lựa chọn một chính sách tiền tệ là rất quan trọng bởi những nền kinh tế mới nổi này dễ bị tác động bởi những sự biến động không đáng kể của thị trường, chính điều này sẽ tác động lên nền kinh tế toàn cầu và dễ dẫn đến nguy cơ khủng hoảng.Tuy nhiên trên thực tế chúng ta thấy rằng những điều kiện được đưa ra đó có lẽ là “quá khó” với những nước đang phát triển. Điều này đã được kiểm chứng tại một số nước điển hình như Chile, Colombia, mexico, Indonesia và Philippin.
  18. Nền kinh tế Việt Nam những năm lại đây có nhiều sự biến động đánh chú ý, đặc biệt là lạm phát cao từ năm 2008 trở lại đây. Chưa có một lời giải thích nào trình bày vấn đề này, và nó cũng buộc các nhà làm chính sách phải đưa ra một giải pháp cụ thể nào đó để kiềm chế lạm phát ở mức thấp nhất có thể. Bài nghiên cứu cũng đã chỉ ra rằng Việt Nam chưa có đủ điều kiện để thực hiên IT, tuy nhiên để hướng tới việc sử dụng IT một cách có hiêu quả thì chúng ta cũng phải có những bước chuẩn bị làm nền móng TÀI LIỆU THAM KHẢO -H ọc vi ện ng ân h àng:”Ch ính s ách m ục ti êu l ạm ph át”,ch ủ bi ên TS.Nguy ễn Du ệ -“Ch ính s ách m ục ti êu l ạm ph át,kinh nghi ệm qu ốc t ế v ành ững g ợi ý cho
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2