intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài: Bản chất và vai trò của các công ty xuyên quốc gia

Chia sẻ: Le Dinh Thao | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:21

465
lượt xem
182
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Các công ty xuyên quốc gia ra đời là kết quả phát triển lâu dài của nền sản xuất và quan hệ kinh tế quốc tế. Chúng bắt nguồn từ sự tích tụ và tập trung sản xuất cao độ. Đó là sự phát triển ngày càng hoàn thiện của các hình thức tổ chức xã hội từ hình thức phân xưởng thợ thủ công đến hình thức các công trường thủ công, từ hình thức công xưởng tới hình thức xí nghiệp lớn, rồi đến các loại hình công ty với nhiều hình thức khác nhau. Sự xuất hiện của các công ty xuyên quốc...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài: Bản chất và vai trò của các công ty xuyên quốc gia

  1. BÁO CÁO TỐT NGHIỆP Đề tài Bản chất và vai trò của các công ty xuyên quốc gia
  2. MỤ C L Ụ C LỜI NÓI ĐẦU ................................ ................................ ................................ ............. 3 PHẦN I: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CÁC CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA ............... 4 1.1. Khái niệm công ty xuyên quốc gia ............................................................................... 4 1.2. Sự hình thành và phát triển của các công ty xuyên quốc gia. ........................................ 5 PHẦN II: BẢN CHẤT VÀ VAI TRÒ CỦA ................................ ................................ . 8 CÁC CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA. ................................ ................................ ........ 8 2.1. Bản chất của các công ty xuyên quốc gia. .................................................................... 8 2.2. Vai trò của các công ty xuyên quốc gia. ......................................................................10 2.2.1. Thúc đẩy thương mại quốc tế......................................................................................................... 10 2.2.2. Thúc đẩy đầu tư nước ngoài. ......................................................................................................... 11 2.2.3. Phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm. ................................................................................. 11 2.2.4. Tăng cường nghiên cứu và phát triển........................................................................................... 12 2.2.5. Chuyển giao công nghệ. ................................................................................................................. 13 HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA TẠI VIỆT NAM........... 16 3.1. Những tác động của các công ty xuyên quốc gia đối với nền kinh tế Việt Nam. ..........16 3.1.1. Những tác động tích cực của các công ty xuyên quốc gia đối với nền kinh tế Việt Nam ...... 16 3.1.2. Những tác động tiêu cực của các công ty xuyên quốc gia đối với nền kinh tế Việt Nam ...... 18 3.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các công ty xuyên quốc gia tại Việt Nam. ..........................................................................................................................19 3.2.1. Tạo lập đối tác đầu tư trong nước................................................................................................. 19 3.2.2. Hoàn thiện, đổi mới cơ chế quản lý, tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực quản lý vĩ mô của nhà nước. ..................................................................................................................................................... 19 3.2.3. Phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật. .................................................................................. 20 3.2.4. Phát triển nguồn nhân lực. ............................................................................................................. 21 KẾT LUẬN ................................ ................................ ................................ ................ 22 MỤC LỤC ................................ ................................ ................................ ................. 23
  3. LỜI NÓI ĐẦU Trong xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, xự xuất hiện của các công ty xuyên quốc gia trong tất cả các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế đã có ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển của nền kinh tế các nước nói chung và của Việt Nam nói riêng. Ở Việt Nam sự hoạt động của các công ty xuyên quốc gia rộ lên kể từ khi Việt Nam ban hành luật đầu tư trực tiếp nước ngoài (tháng 12/1987), kể từ đó đến nay đã có hàng trăm đoàn doanh nghiệp trên khắp thế giới đã tiếp cận vào thị trường Việt Nam. Sự hoạt động của các công ty xuyên quốc gia ở Việt Nam đã đem đến sự khởi sắc cho nền kinh tế Việt Nam, nhưng bên cạnh đó chúng cũng đem lại một số tác động tiêu cực đến sự phát triển kinh tế của Việt Nam. Để nâng cao hiệu quả hoạt động của các công ty xuyên quốc gia thì trước hết chúng ta phải tìm hiểu, nghiên cứu về các công ty xuyên quốc gia; đặc biệt đi sâu phân tích về bản chất và vai trò của chúng. Trên cơ sở đó đưa ra các kiến nghị nhằm thu hút và nâng cao hiệu quả hoạt động của các công ty xuyên quốc gia tại Việt Nam. Nhận thấy rõ được sự cần thiết của việc nghiên cứu về các công ty xuyên quốc gia tác giả đã chọn đề tài: “Bản chất và vai trò của các công ty xuyên quốc gia” cho bài tiểu luận của mình. Nội dung của bài viết bao gồm ba phần: Phần I: Giới thiệu chung về các công ty xuyên quốc gia. Phần II: Bản chất và vai trò của các công ty xuyên quốc gia. Phần III: Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các công ty xuyên quốc gia.
  4. Do trình độ và thời gian có hạn nên bài viết còn nhiều thiếu sót, rất mong sự góp ý của thầy cô và các bạn đề bài viết được hoàn thiện hơn. Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn PGS.TS.Mai Hữu Thực đã hướng dẫn và giúp em hoàn thiện bài viết của mình. PHẦN I: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ CÁC CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA 1.1. Khái niệm công ty xuyên quốc gia Các công ty xuyên quốc gia ra đời là kết quả phát triển lâu dài của nền sản xuất và quan hệ kinh tế quốc tế. Chúng bắt nguồn từ sự tích tụ và tập trung sản xuất cao độ. Đó là sự phát triển ngày càng hoàn thiện của các hình thức tổ chức xã hội từ hình thức phân xưởng thợ thủ công đến hình thức các công trường thủ công, từ hình thức công xưởng tới hình thức xí nghiệp lớn, rồi đến các loại hình công ty với nhiều hình thức khác nhau. Sự xuất hiện của các công ty xuyên quốc gia đã được đánh giá là một tiến bộ của lịch sử, và ngày nay các công ty này hoạt động khắp mọi nơi trên thế giới. Nó được coi là một thực thể kinh tế linh hoạt, hoạt động có hiệu quả, có tiềm lực kinh tế và công nghệ to lớn. Theo khái niệm chung nhất, công ty xuyên quốc gia là công ty có quá trình sản xuất kinh doanh vượt ra khỏi biên giới quốc gia và có quan hệ kinh tế chặt chẽ với nhiều nước thông qua việc thiết lập các chi nhánh ở nước ngoài. Cũng có quan niệm cho rằng công ty xuyên quốc gia là công ty tư bản độc quyền có tư bản thuộc về chủ tư bản của một nước nhất định nào đó. Theo quan niệm này, người ta đã nhấn mạnh tới tính chất sở hữu và tính quốc tịch của tư bản. Chủ tư bản ở một nước cụ thể nào đó có công ty mẹ và thực hiện kinh doanh trong và ngoài nước bằng cách lập các công ty con ở nước ngoài.
  5. Theo các chuyên gia của Liên Hợp Quốc thì công ty xuyên quốc gia là những công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc vô hạn bao gồm các công ty mẹ v à các công ty chi nhánh nước ngoài của chúng. Qua các khái niệm trên ta có thể hiểu các công ty xuyên quốc gia là một cơ cấu tổ chức kinh doanh quốc tế, dựa trên cơ sở kết hợp giữa quá trình sản xuất quy mô lớn của nhiều thực thể kinh doanh quốc tế với quá trình phân phối và khai thác thị trường quốc tế nhằm đạt được kết quả tối ưu, trên cơ sở đó thu được lợi nhuận độc quyền cao. 1.2. Sự hình thành và phát triển của các công ty xuyên quốc gia. Như trên đã nói, các công ty xuyên quốc gia được hình thành dựa trên sự phát triển lâu dài của nền sản xuất và quan hệ kinh tế quốc tế. Về thực chất chúng là sự phát triển cao của chế độ xí nghiệp tư bản chủ nghĩa, là sự vận động mở rộng và sâu sắc hơn của các quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, khi các mối quan hệ kinh tế đó vượt dần ra khỏi phạm vi quốc gia và gia nhập vào guồng máy sản xuất kinh doanh quốc tế thì nó ngày càng được phát triển. Chế độ xí nghiệp tư bản chủ nghĩa xuất hiện và ngày càng được hoàn thiện trên cơ sở sự ra đời và phát triển của nền sản xuất dựa trên máy móc, và cạnh tranh tự do chính là nguyên nhân ra đời của nền sản xuất đó. Chế độ xí nghiệp tư bản chủ nghĩa ra đời đã thúc đấy phân công lao động mở rộng từ nội bộ quốc gia sang địa bàn quốc tế, từ đó làm cho tích tụ và tập trung tư bản, sản xuất phát triển lên cao độ và nhờ vậy mà các tổ chức độc quyền có điều kiện thuận lợi để ra đời và phát triển. C.Mác và Ph. Ăngghen cũng đã khẳng định độc quyền sinh ra từ tự do cạnh tranh nhưng không phủ định nó. Trong quá trình tích tụ và tập trung tư bản, nhân tố tín dụng có vai trò vô cùng quan trọng, theo C.Mác thì nhân tố này đã đẩy nhanh tốc độ phát triển vật chất của các lực lượng sản xuất và sự hình thành một thị trường thế giới.
  6. Khi xuất hiện quá trình tích tụ và tập trung sản xuất cao độ sẽ dẫn đến hình thành các công ty cực lớn thống trị các ngành và đồng thời cũng xuất hiện quá trình liên hiệp hoá. Cùng với nó là quá trình chuyên môn hoá, đó là kết quả của sự phát triển phân công lao động xã hội đã tạo điều kiện cho sự phát triển của những công ty độc quyền chủ chốt trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền. Các công ty độc quyền chủ chốt đã thâu tóm toàn bộ các xí nghiệp vừa và nhỏ bao quanh chúng mà nhờ nó giới độc quyền Nhà Nước có thể huy động được toàn bộ lực lượng lao động và mọi tiềm năng của xã hội vào quá trình sản xuất, tạo ra sự hỗ trợ trong việc cải tổ cơ cấu sản xuất, kỹ thuật trong nước. Sự khác biệt về tiền lương và bảo hiểm của chúng tạo điều kiện cho các công ty độc quyền chủ đạo kiếm thêm được giá trị thặng dư. Khi tích tụ và tập trung sản xuất có bước phát triển mới thì xuất khẩu tư bản cũng được đẩy mạnh và nó trở thành cơ sở kinh tế quan trọng cho việc mở rộng phạm vi hoạt động quốc tế của các công ty xuyên quốc gia được hình thành nên từ các tổ chức độc quyền sau này. Từ thập kỷ 60, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật, khoa học – công nghệ, các công ty xuyên quốc gia đã phát triển một cách nhanh chóng. Để tổ chức một hệ thống công nghệ mới và điều tiết được lợi ích trong trao đổi, phân phối những sản phẩm mới giữa những nhà sản xuất độc lập đã buộc các xí nghiệp phải chiếm lĩnh các ngành và khu vực kinh tế mới, điều đó dẫn đến sự trưởng thành nhanh chóng của các công ty xuyên quốc gia, đặc biệt là ở các quốc gia phát triển. Khi sự cạnh tranh trên toàn cầu ngày càng khốc liệt thì các công ty xuyên quốc gia bắt đầu điều chỉnh lại hoạt động kinh doanh phân tán của nó, xây dựng hệ thống phân công lao động quốc tế, kết hợp liên kết theo chiều ngang và chiều dọc trong nội bộ công ty. Cơ cấu tổ chức toàn cầu của công ty xuyên quốc gia tương ứng cũng ra đời. Các công ty xuyên quốc gia trở thành hình thức hoàn thiện điển hình của chế độ xí nghiệp tư bản chủ nghĩa thích ứng với sự phân công và trao đổi quốc tế hiện đại.
  7. Tóm lại, sự xuất hiện của các công ty xuyên quốc gia đi từ tích tụ và tập trung sản xuất, rồi hình thành các công ty cổ phần, các công ty kinh doanh lớn như sau: Quá trình tích tụ và tập trung sản xuất diễn ra song song với quá trình tích tụ quyền lực kinh tế. Tích tụ và tập trung sản xuất tạo ra những công ty cực lớn bao gồm trong đó rất nhiều các công ty với công ty mẹ đứng đầu và các công ty con có quan hệ phụ thuộc về tài chính, kỹ thuật,... với công ty mẹ. Sự thâu tóm và kiểm soát về mọi mặt như tài chính, kỹ thuật... của công ty mẹ đối với công ty con đã tạo điều kiện thuận lợi để tăng quy mô sản xuất và cho tư bản sinh lời. Quá trình tích tụ và tập trung sản xuất dẫn đến sự hình thành các tổ chức độc quyền. Sự liên kết theo chiều dọc và chiều ngang được đẩy mạnh dẫn đến quá trình liên kết đa ngành và bành trướng quyền lực. Từ đó dẫn đến hình thành các công ty xuyên quốc gia với mạng lưới thị trường rộng khắp. Quá trình tích tụ và tập trung sản xuất trong nông nghiệp ngày càng được đẩy mạnh dẫn đến việc xuất hiện các hình thức công ty liên hợp nông – công nghiệp, nông – thương nghiệp. Cùng với sự tác động của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật đã làm cho cấu tạo hữu cơ tăng lên và mối liên hệ giữa công – nông nghiệp ngày càng phát triển. Như vậy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất đã tạo ra cơ sở vật chất cho sự bành trướng, giúp cho các tập đoàn tư bản có khả năng hiện thực vượt ra khỏi biên giới quốc gia, thực hiện việc đầu tư vào các nước khác dưới nhiều hình thức, thỏa mãn mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận cao. Trên cơ sở đó hình thành các công ty xuyên quốc gia. Theo số liệu của hội nghị Liên Hợp Quốc về thương mại và phát triển, hiện nay trên thế giới có khoảng 60 nghìn công ty xuyên quốc gia mẹ và có khoảng trên 500 nghìn công ty con đang hoạt động trong tất cả các ngành, lĩnh
  8. vực của nền kinh tế quốc dân.Các công ty mẹ phần lớn ở các nước phát triển và tập trung chủ yếu ở Đức, Đan Mạch, H àn Quốc, Nhật Bản và Mỹ... PHẦN II: BẢN CHẤT VÀ VAI TRÒ CỦA CÁC CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA. 2.1. Bản chất của các công ty xuyên quốc gia. Như chúng ta đã biết quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, tư bản đã dẫn đến những biến đổi quan trọng về lượng và chất trong các mặt quan hệ sản xuất mà khâu quan trọng nhất là quan hệ sở hữu. Do đó khi nghiên cứu về bản chất của các công ty xuyên quốc gia chúng ta nghiên cứu trên hai mặt, đó là về hình thức sở hữu và tổ chức quản lý tại các công ty xuyên quốc gia. Về hình thức sở hữu: Kể từ khi cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật b ùng nổ mạnh mẽ đã tạo ra những sự thay đổi các quan hệ pháp lý của các chủ sở hữu trong các công ty xuyên quốc gia. Ngày nay, hình thức sở hữu tại các công ty xuyên quốc gia tồn tại chủ yếu dưới hai nhìn thức sở hữu sau: Thứ nhất là hình thức sở hữu độc quyền siêu quốc gia, đây là hình thức sở hữu hỗn hợp đã được quốc tế hoá. Hình thức sở hữu này mang tính khách quan tạo nên bởi quá trình tích tụ, tập trung hoá và xã hội hoá sản xuất trên quy mô quốc tế của chủ nghĩa tư bản, dưới sự tác động mạnh mẽ và sâu sắc của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ và của các quy luật cạnh tranh, quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản. Theo hình thức sở hữu này các công ty xuyên quốc gia tồn tại dưới hình thức các tổ hợp đa ngành khác nhau và các xí nghiệp chi nhánh của nó là các xí nghiệp liên doanh với số lượng cá thể đồng sở hữu từ hai đến bốn nước hoặc nhiều hơn nhưng với tỷ lệ vốn góp khác nhau. Điều này đã
  9. phản ánh tính chất đa dạng, phức tạp và tính chất hỗn hợp của loại hình sở hữu tại các công ty xuyên quốc gia. Thứ hai là hình thức sở hữu hỗn hợp, hình thức sở hữu này được tạo ra do sự thay đổi về căn bản địa vị và vai trò của những người công nhân, trí thức làm việc trực tiếp trong các ngành nghề khác nhau, đặc biệt là các ngành nghề có hàm lượng khoa học và công nghệ cao và nó có tác động lớn tới chất lượng của lao động và sản xuất. Loại hình sở hữu này diễn ra theo hướng phát triển số người có cổ phần trong các công ty xuyên quốc gia nhưng với tỷ trọng sở hữu cổ phần trong tổng số vốn kinh doanh không lớn. Như vậy, dù theo hình thức sở hữu nào thì các công ty xuyên quốc gia cũng không còn là sở hữu của một người hay một nước mà là sở hữu hỗn hợp quốc tế. Nhưng trong đó sở hữu của các nhà tư bản vẫn giữ vị trí trọng yếu, còn sở hữu của những người lao động chỉ chiếm mộttỷ lệ nhỏ. Về tổ chức quản lý: việc tổ chức quản lý sản xuất và các hoạt động kinh tế đã dịch chuyển từ kiểu đại trà, được tiêu chuẩn hoá hàng loạt sang kiểu sản xuất loạt nhỏ và linh hoạt theo đơn đặt hàng. Đồng thời có sự dịch chuyển từ các tổ chức có quy mô lớn được liên kết theo chiều dọc sang phi liên kết kiểu mạng lưới theo chiều ngang giữa các đơn vị kinh tế trong nước và nước ngoài. Điều đó đã làm xuất hiện sự liên kết mới giữa các công ty xuyên quốc gia, đó là kiểu liên kết mà trong đó có các vệ tinh xoay quanh một công ty gốc tạo nên một mạng lưới phủ lên thị trường các nước. Phương thức tổ chức quản lý sản xuất tại các công ty xuyên quốc gia ngày nay luôn biến đổi theo các xu thế sau: Thứ nhất là phi hàng loạt hoá và đa dạng hoá sản các phẩm: việc tổ chức quản lý sản xuất các sản phẩm được tiến hành theo loạt nhỏ hay đơn chiếc theo đúng yêu cầu và thị hiếu đa dạng của khách hàng. Thứ hai là phi chuyên môn hoá: việc sản xuất sản phẩm được tổ chức quản lý theo phương thức cấu tạo tổ hợp các khối cấu kiện, phụ kiện.
  10. Thứ ba là phi tập trung hoá: quá trình sản xuất được phân bố và được tổ chức quản lý trên diện rộng trong các chi nhánh và đơn vị sản xuất nhỏ và vừa với các nguồn nhân lực, vật lực và tài lực phân tán trên qui mô quốc gia và quốc tế. Nhờ vậy mà các công ty xuyên quốc gia giảm được chi phí vận chuyển, tránh được các hàng rào bảo hộ và chuyển giao năng lực thiết kế và phát triển sản phẩm. Thứ tư là tổ chức quản lý từ xa: dưới tác động của sự phát triển ngành khoa học viễn thông, tổ chức quản lý từ xa ngày càng được ứng dụng rộng rãi, đặc biệt là tại các công ty xuyên quốc gia. Áp dụng hình thức quản lý này sẽ tiết kiệm được thời gian, chi phí cho các nhà quản lý. Thứ năm là quốc tế hoá và toàn cầu hoá hoạt động tổ chức quản lý. Như vậy việc tổ chức và quản lý các hoạt động sản xuất, kinh doanh, thương mại và dịch vụ trong các công ty xuyên quốc gia đã được quốc tế hoá và đang được toàn cầu hoá trong quá trình thâm nhập qua lại giữa các hoạt động kinh tế và nền kinh tế của các quốc gia trên quy mô thế giới. 2.2. Vai trò của các công ty xuyên quốc gia. Các công ty xuyên quốc gia đã có vai trò hết sức to lớn đến sự phát triển của kinh tế thế giới nói chung cũng như nền kinh tế của từng quốc gia nói riêng. Vai trò đó được thể hiện: 2.2.1. Thúc đẩy thương mại quốc tế. Đây là vai trò nổi bật của các công ty xuyên quốc gia. Tỷ trọng trao đổi của các công ty xuyên quốc gia ngày càng lớn trong tổng giá trị thương mại quốc tế. Sản phẩm trao đổi của chúng phần lớn là hàng hoá chế tạo và hướng vào xuất khẩu do các công ty xuyên quốc gia có tiềm lực to lớn về vốn, công nghệ sản xuất ra. Vì vậy các nước đang phát triển nên chú trọng thu hút các công ty xuyên
  11. quốc gia lớn vào các ngành công nghiệp chế tạo và hướng sản phẩm của họ vào xuất khẩu. Tuy nhiên các quốc gia đang có các công ty xuyên quốc gia hoạt động tại đó cũng cần có các biện pháp tăng cường sự kiểm soát hoạt động của các công ty xuyên quốc gia để hạn chế việc các công ty này sử dụng các biện pháp cạnh tranh không lành mạnh. Sự hoạt động của các công ty xuyên quốc gia đã giúp các quốc gia gắn chính sách khuyến khích đẩy mạnh xuất khẩu với các chính sách khuyến khích đầu tư, phát triển dịch vụ nhằm thu hút các công ty xuyên quốc gia vào hoạt động ở nước mình. 2.2.2. Thúc đẩy đầu tư nước ngoài. Thực tế cho thấy hầu hết các hoạt động đầu tư nước ngoài đều được thực hiện thông qua kênh các công ty xuyên quốc gia. Các công ty xuyên quốc gia luôn tích cực đầu tư ra nước ngoài nhằm tối đa hoá lợi nhuận trên phạm vi toàn cầu do chúng có lợi thế là nhiều vốn, có kỹ thuật hiện đại, quản lý tiên tiến và có một mạng lưới thị trường rộng khắp trên thế giới. Đặc biệt nó có vai trò quan trọng đối với việc thúc đẩy dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các nước đang phát triển. Hơn thế sự xuất hiện của các công ty xuyên quốc gia đã thúc đẩy nhanh tiến trình tự do hoá đầu tư nước ngoài thông qua việc tham gia rộng vào quá trình quốc tế hoá sản xuất. Việc tháo bỏ những rào cản để đẩy mạnh tự do hoá đầu tư đã được nhiều quốc gia hưởng ứng và ngày càng trở thành hiện thực. 2.2.3. Phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm. Các công ty xuyên quốc gia đã tác động đến việc phát triển nguồn nhân lực theo cả hai cách trực tiếp và gián tiếp. Thông qua các dự án đầu tư, các công ty xuyên quốc gia đã đào tạo lực lượng lao động địa phương để phục vụ cho nhu
  12. cầu hoạt động của công ty mình. Đồng thời sự hoạt động của chúng cũng đ ã tạo ra rất nhiều cơ hội, động lực cho sự phát triển của lực lượng lao động theo đuổi mục tiêu có thu nhập cao. Đặc biệt đối với các nước đang phát triển thì vai trò của các công ty xuyên quốc gia lại càng trở nên quan trọng hơn, nó giúp các nước này phát triển nguồn lực lao động, nhất là đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật và quản lý, từ đó tạo tiền đề quan trọng để nâng cao năng suất lao động tại các nước này. Ngoài ra, các công ty xuyên quốc gia thường có các hoạt động trợ giúp tài chính cho các chương trình nghiên cứu và đào tạo nguồn nhân lực, cung cấp các thiết bị khoa học phục vụ cho việc đào tạo. 2.2.4. Tăng cường nghiên cứu và phát triển. Công nghệ là một vấn đề hết sức quan trọng đối với các công ty xuyên quốc gia. Đi đầu trong công nghệ cũng có nghĩa là tiến trước đối thủ cạnh tranh và chiếm lĩnh thị trường. Vì vậy, sự phát triển công nghệ đối với mỗi công ty xuyên quốc gia là yếu tố sống còn và hoạt động nghiên cứu và phát triển luôn là hướng ưu tiên trong chính sách của tất cả các công ty xuyên quốc gia trên thế giới. Ngày nay khâu nghiên cứu và phát triển tại các công ty xuyên quốc gia đang được quốc tế hoá mạnh mẽ. Công nghệ mới ra đời không chỉ ở các phòng thí nghiệm, các viện nghiên cứu mà còn ngay từ chính các xĩ nghiệp, cơ sở sản xuất của các công ty xuyên quốc gia. Trước đây hoạt động nghiên cứu và phát triển tại các công ty xuyên quốc gia được thực hiện chủ yếu ở các công ty mẹ, nhưng dưới áp lực của cạnh tranh thì hoạt động này ngày càng được tiến hành nhiều ở nước ngoài. Điều đó đã tạo ra các sản phẩm và các quy trình công nghệ có hiệu suất vượt hiệu suất nghiên cứu và phát triển trong nước. Hoạt động nghiên cứu và phát triển được thu hút chủ yếu và các khu vực có nguồn tri thức đặc biệt và tập trung ở các nước phát triển. Còn ở các nước đang phát triển mới
  13. trong quá trình xây dựng và phát triển các cơ sở đào tạo chuyên sâu, các trung tâm nghiên cứu... và chúng trở thành những nước nhận đầu tư vào các ngành sử dụng các đầu vào công nghệ cao. Hiện nay, để nâng cao hiệu quả nghiên cứu và phát triển, các công ty xuyên quốc gia đã tiến hành liên kết với nhau trong khâu này. Sự liên kết này sẽ giúp các công ty xuyên quốc gia giảm được chi phí nghiên cứu và phát triển, đồng thời tăng cường khả năng đổi mới của các công ty và tránh được cạnh tranh. Tuy nhiên sự hợp tác giữa các công ty xuyên quốc gia ở các nước phát triển và ở các nước đang phát triển có nhiều điểm khác biệt. Các công ty xuyên quốc gia ở các nước đang phát triển đang dần trở thành đối tác tiềm tàng trong hoạt động nghiên cứu và phát triển. Đây là chiếc cầu nối giữa các công ty ở các nước đang phát triển với nền tảng tri thức bên ngoài. Sự liên kết này đã giúp các nước đang phát triển theo kịp mặt trận công nghệ phát triển nhanh, có khả năng thúc đẩy nguồn nghiên cứu và phát triển riêng, xây dựng uy tín nhằm thu hút các đối tác và khách hàng trong nước và nước ngoài. Việc các công ty xuyên quốc gia tăng cường đầu tư vào nghiên cứu và phát triển sẽ giúp cho chúng có thể làm chủ được công nghệ mới, tạo ra lợi thế cạnh tranh cho mình thông qua công nghệ. Các công ty này có thể bành trướng ra thế giới, duy trì ảnh hưởng và bám rễ sâu vào từng khu vực thị trường trên toàn cầu nhờ việc thực hiện độc quyền cao về công nghệ. Đồng thời việc nghiên cứu và phát triển của các công ty xuyên quốc gia đã có những tác động mạnh mẽ tới các nước tiếp nhận công nghệ, đặc biệt là các nước đang phát triển. 2.2.5. Chuyển giao công nghệ. Dưới làn sóng toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ, các công ty xuyên quốc gia đang ngày càng vươn ra thế giới một cách mạnh mẽ, thâm nhập và kiểm soát hầu hết các khu vực của nền kinh tế quốc dân. Các công ty xuy ên quốc gia luôn biết sử dụng công nghệ của mình một cách hữu hiệu nhất để phục vụ cho
  14. mục tiêu phát triển ổn định lâu dài của mình. Chính sách chuyển giao công nghệ tại các công ty xuyên quốc gia cũng là một trong rất nhiều chính sách của chúng hướng vào mục tiêu này. Chính sách chuyển giao công nghệ của các công ty xuyên quốc gia đã có những tác động mạnh mẽ tới hầu hết các nước trên thế giới, nó giúp nâng mặt bằng trình độ công nghệ của nhiều nước mà các công ty này có mặt ở đó. Chính sách chuyển giao công nghệ được thực hiện khác nhau đối với các nước có trình độ phát triển khác nhau. Đối với các nước phát triển thì các công ty xuyên quốc gia thường chuyển giao công nghệ cao theo phương thức bán đứt, có kèm theo điều kiện phục vụ cho các công ty này mở cửa thị trường các nước phát triển khác và các điều kiện phục vụ cho mục đích chính trị và an ninh. Còn đối với các nước đang phát triển, các công ty xuyên quốc gia lại thường chuyển giao các công nghệ lạc hậu hơn nhằm mục đích chuyển dịch cơ cấu nội tại của chúng, tránh cạnh tranh và tận dụng được nguồn nhân lực ở các nước đang phát triển. Tuy nhiên ở các nước đang phát triển thì việc tiếp nhận công nghệ đó đã giúp các nước này đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế, đồng thời họ cũng tiếp nhận đ ược những phương pháp quản lý, marketing tiên tiến, hiện đại. Bên cạnh đó, việc tiếp nhận chuyển giao công nghệ đã làm cho các nước đang phát triển ngày càng bị phụ thuộc chặt chẽ, nhất là về công nghệ vào các công ty xuyên quốc gia; các nền kinh tế của các nước đang phát triển bị giảm sút tính năng động, thích ứng có với các biến đổi của nền kinh tế thế giới. Khi các công ty xuyên quốc gia quyết định thâm nhâp vào một thị trường nào đó thì họ biết chắc rằng công nghệ đó là phù hợp, trong khi đó quốc gia tiếp nhận công nghệ lại rất thiếu hiểu biết về vấn đề này. Mà một quốc gia muốn phát triển không thể bỏ qua một số ngành công nghiệp then chốt như công nghiệp nặng, giao thông vận tải..., đây là những ngành phụ thuộc lớn vào khoa học công
  15. nghệ nước ngoài. Chính vì vậy mà các quốc gia thường thu hút sự đầu tư của các công ty xuyên quốc gia vào các ngành công nghiệp chế biến, khai khoáng với nguồn tài nguyên dồi dào và chi phí nhân công rẻ tại các nước này. Điều đó giúp các nước này tăng khả năng xuất khẩu, từ đó tăng thu nhập ngoại tệ và nguồn ngoại tệ lại được sử dụng đầu tư ngược lại trong việc nhận chuyển giao công nghệ phục vụ các ngành then chốt theo mục tiêu mỗi quốc gia.
  16. PHẦN III: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA TẠI VIỆT NAM 3.1. Những tác động của các công ty xuyên quốc gia đối với nền kinh tế Việt Nam. 3.1.1. Những tác động tích cực của các công ty xuyên quốc gia đối với nền kinh tế Việt Nam Thứ nhất, sự hiện diện của các công ty xuyên quốc gia đã cung cấp một nguồn vốn quan trọng cho sự nghiệp công nghiệp hoá của đất nước. Việt Nam tiến hành công nghiệp hoá trong điều kiện tích luỹ còn thấp, nhu cầu về vốn lớn đòi hỏi phải khai thác cả trong và ngoài nước dưới mọi hình thức. Các công ty xuyên quốc gia đã không chỉ đáp ứng nhu cầu về vốn mà còn cung cấp cả các thiết bị và công nghệ cho Việt Nam. Nhờ đó nhiều nguồn lực của nước ta như vốn nhàn rỗi trong dân cư, doanh nghiệp... được khơi dậy, nâng cao khả năng cạnh tranh ngay trên thị trường nội địa. Việt Nam đã coi đây là một bộ phận quan trọng của tổng đầu tư xã hội và thông qua các chính sách thì nguồn vốn đầu tư từ các công ty xuyên quốc gia vào nước ta ngày càng chiếm tỷ trọng lớn. Thứ hai, các công ty xuyên quốc gia đã đóng góp phần tích cực trong việc thực hiện sự dịch chuyển có cấu kinh tế theo yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Yêu cầu của công nghiệp hoá là tăng nhanh tỷ trọng của sản xuất công nghiệp, đặc biệt là của các ngành dịch vụ trong tổng thu nhập quốc dân, đồng thời tăng trưởng xuất khẩu để nhanh chóng hội nhập vào thị trường quốc tế. Các công ty xuyên quốc gia, nhất là các công ty có công nghệ và tài chính hùng hậu hoàn toàn có thể giúp Việt Nam thực hiện được những yêu cầu này. Các công ty xuyên quốc gia đã chiếm một tỷ trọng cao trong nhiều ngành sản xuất công nghiệp, tạo ra nhiều ngành công nghiệp mới cho nước ta đã góp phần tạo ra
  17. một bước ngoặt quan trọng trong sự phát triển của các ngành kinh tế quốc dân. Cùng với sự phát triển của các ngành công nghiệp, các ngành sản xuất và cung cấp dịch vụ cũng được phát triển theo. Hiện nay đã có nhiều nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài ở Việt Nam trên nhiều lĩnh vực như tài chính, bảo hiểm, viễn thông...Bên cạnh đó, sự hiện diện của các công ty xuyên quốc gia còn làm cho các doanh nghiệp Việt Nam phải tự thay đổi để thích ứng và cạnh tranh tốt. Có thể nói các công ty xuyên quốc gia đã góp phần đưa Việt Nam tham gia vào sự phân công lao động quốc tế, đồng thời giúp các doanh nghiệp Việt Nam thích ứng cao nhất với các đòi hỏi của nền kinh tế thị trường mở cửa và hội nhập. Thứ ba, các công ty xuyên quốc gia đã tham gia tích cực vào việc duy trì nhịp độ tăng trưởng cao và ổn định cho nền kinh tế, mở rộng xuất khẩu, tăng nguồn thu ngân sách. Các công ty xuyên quốc gia đều có tốc độ tăng trưởng cao kể cả thời kỳ nền kinh tế Việt Nam phải chịu nhiều sự tác động nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực. Bên cạnh đó các công ty xuyên quốc gia cũng góp phần tạo ra nhiều sản phẩm công nghệ và chất lượng cao, trong đó có nhiều hàng thay thế nhập khẩu nên tiết kiệm ngoại tệ cho đất nước Thứ tư, các công ty xuyên quốc gia đã tiến hành giải quyết số lượng lớn lao động, tham gia phát triển nguồn nhân lực cho đất nước. Sự hoạt động của các công ty xuyên quốc gia đã thu hút hàng ngàn lao động Việt Nam vào làm việc. Những người lao động làm việc cho các công ty này thường được tuyển chọn kỹ lưỡng, được bồi dưỡng tay nghề, công việc gắn với công nghệ mới, với tác phong công nghiệp hiện đại và trình độ quản lý tiên tiến, do đó họ trở thành những người lao động lành nghề, có kỹ năng và tính kỷ luật cao. Thứ năm, sự có mặt của các công ty xuyên quốc gia đã và đang là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự nghiệp chuyển đổi sang kinh tế thị trường mở cửa và hội nhập quốc tế của Việt Nam. Mỗi công ty quốc gia có nguồn gốc từ một nước, sự hiện diện của chúng tại Việt Nam đồng nghĩa với việc chúng ta xác lập và tăng
  18. cường quan hệ kinh tế với quốc gia đó. Mặt khác, khi lựa chọn quốc gia để đầu tư, các công ty xuyên quốc gia thường căn cứ vào mức độ hoà nhập vào thị trường thế giới. Vì vậy muốn thu hút được họ chúng ta phải hội nhập thực sự và thị trường khu vực và thế giới. 3.1.2. Những tác động tiêu cực của các công ty xuyên quốc gia đối với nền kinh tế Việt Nam Bên cạnh những tác động tích cực, sự hoạt động của các công ty xuyên quốc gia cũng đã gây ra một số các ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế Việt Nam. Thứ nhất, mục tiêu của các công ty xuyên quốc gia là lợi nhuận, thị phần, doanh số, ưu thế cạnh tranh và phát triển ổn định. Nó thường xuyên mâu thuẫn với mục tiêu, chiến lược chung về phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam là tăng trưởng đồng đều, cao và bền vững. Vì vậy các công ty xuyên quốc gia thường lựa chọn đầu tư vào các lĩnh vực có thị trường, bảo toàn được vốn và thu được lợi nhuận cao; còn các ngành có lãi suất thấp, yêu cầu đầu tư vốn lớn, chuyển vốn chậm lại không thu hút được các công ty xuyên quốc gia đầu tư vào. Thứ hai, một số công ty xuyên quốc gia đã lạm dụng các ưu thế về vốn, công nghệ để thao túng và gây hậu quả xấu cho liên doanh, thậm chí có một số công ty xuyên quốc gia còn gây sức ép với các cơ quan quản lý nhà nước. Hiện tượng khai khống thiết bị và công nghệ để tính tăng giá đầu vào, đánh tụt xuất khẩu để hạ thấp giá đầu ra của các công ty xuyên quốc gia đã là hiện tượng phổ biến khiến cho không ít các doanh nghiệp liên doanh bị thua lỗ, giải thể. Có một số doanh nghiệp vi phạm luật lao động của Việt Nam đã gây không ít trở ngại cho trật tự an toàn xã hội và cho tiến trình sản xuất. Ngoài ra, có một số công ty xuyên quốc gia đã lên án mạnh mẽ các chính sách của Việt Nam như nặng về bảo hộ, có phân biệt đối xử... khi xin cấp phép đầu tư; nhưng khi đã được cấp phép thì họ lại là những người đòi bảo hộ mạnh mẽ nhất để hướng tới độc quyền.
  19. 3.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các công ty xuyên quốc gia tại Việt Nam. 3.2.1. Tạo lập đối tác đầu tư trong nước. Đối tác đầu tư có năng lực và biết làm ăn với nước ngoài chính là một nhân tố hấp dẫn các công ty xuyên quốc gia, giúp cho chúng ta có thể quan hệ bình đẳng với họ và tăng thêm thế thương lượng của nước mình. Bên cạnh đó, khi đầu tư vào một nước để hạn chế rủi ro, các nhà đầu tư thường tìm kiếm đối tác là các công dân nước chủ nhà. Vì vậy việc tạo lập đối tác đầu tư trong nước là vô cùng quan trọng. Để tạo lập các đối tác đầu tư trong nước chúng ta cần tiếp tục củng cố và phát triển các doanh nghiệp, xây dựng các tập đoàn kinh tế mạnh. khuyến khích đầu tư phát triển các thành phần kinh tế và nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Cùng với sự nỗ lực của nhà nước, bản thân các doanh nghiệp cũng cần phải không ngừng phấn đấu vươn lên, quyết tâm đổi mới tổ chức quản lý, tự chủ, năng động, sáng tạo trong hoạt động sản xuất kinh doanh để trở thành các đối tác tương xứng, liên doanh có hiệu quả với các công ty xuyên quốc gia. 3.2.2. Hoàn thiện, đổi mới cơ chế quản lý, tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực quản lý vĩ mô của nhà nước. Cơ chế quản lý và năng lực quản lý của Nhà nước giữ vai trò quyết định trong việc tạo lập môi trường đầu tư. Cơ chế quản lý ngày càng hoàn thiện, được thực hiện bởi một bộ máy quản lý mạnh sẽ tạo được sự tin tưởng của các công ty xuyên quốc gia vào sự ổn định và cởi mở của môi trường đầu tư. Như vậy muốn thu hút được các công ty xuyên quốc gia thì chúng ta phải quan tâm đến việc xây dựng và hoàn thiện cơ chế quản lý và bộ máy quản lý của mình. Việc xây dựng bộ máy quản lý đầu tư cần được thực hiện theo hướng:
  20. Toàn bộ quá trình tiếp nhận cho đến việc cấp phép đầu tư phải thực hiện theo nguyên tắc một cửa, một đầu mối. Tăng cường kiểm tra, giám sát tiến độ thực hiện đầu tư để kịp thời hỗ trợ, điều chỉnh hoạt động đầu tư khi cần thiết. Phân cấp cấp giấy phép đầu tư và quản lý hoạt động đầu tư, nhưng cần có cơ chế điều phối kiểm soát hữu hiệu để đảm bảo quản lý thống nhất nhằm hạn chế tiêu cực và cạnh tranh không lành mạnh. Tăng cường công tác thông tin, tư vấn, tận dụng thành quả cuộc cách mạng khoa học - công nghệ trên thế giới. Nâng cao năng lực chuyên môn, phẩm chất của đội ngũ cán bộ quản lý. 3.2.3. Phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật. Kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật đ ược coi là hệ thống xương cốt, bắp thịt của nền kinh tế để tiếp nhận, thu hút đầu tư nước ngoài, đặc biệt là thu hút các công ty xuyên quốc gia. Trong điều kiện nước ta hiện nay chưa cho phép chi những khoản đầu tư lớn vào lĩnh vực này, chúng ta cần đầu tư vào cơ sở hạ tầng theo hướng sau: Cố gắng giải quyết tốt các mối quan hệ về kinh tế, chính trị với các quốc gia, các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức kinh tế để có được những khoản hỗ trợ phát triển chính thức đầu tư vào phát triển cơ sở hạ tầng. Xây dựng và phát triển các đặc khu kinh tế để tiếp nhận các nguồn vốn và kỹ thuật cao của nước ngoài. Có kế hoạch dài hạn và trung hạn để huy động các tiềm năng của to àn dân cho xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật. Quan tâm xây dựng thể chế kinh tế, chính trị theo hướng khuyến khích thu hút đầu tư nước ngoài. Quan tâm tới giáo dục, đặc biệt là công tác giáo dục chính
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2