intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài " ĐẦU TƯ TỪ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC "

Chia sẻ: | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:10

74
lượt xem
15
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Theo tổng cục thống kê, “vốn đầu tư là toàn bộ những chi tiêu để làm tăng hay duy trì tài sản vật chất trong một thời kỳ nhất định. Vốn đầu tư thường được thực hiện qua các dự án đầu tư và một số chương trình mục tiêu quốc gia với mục đích chủ yếu là bổ sung tài sản cố định và tài sản lưu động”. Có hai nhận xét nhỏ về định nghĩa trên. Thứ nhất, từ “vốn” trong thuật ngữ “vốn đầu tư” của định nghĩa trên có thể gây ra sự lẫn lộn. Trong...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài " ĐẦU TƯ TỪ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC "

  1. ĐẦU TƯ TỪ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC 1 Nguyễn Quang A Theo tổng cục thống kê, “vốn đầu tư là toàn bộ những chi tiêu để làm tăng hay duy trì tài sản vật chất trong một thời kỳ nhất định. Vốn đầu tư thường được thực hiện qua các dự án đầu tư và một số chương trình mục tiêu quốc gia với mục đích chủ yếu là bổ sung tài sản cố định và tài sản lưu động”. Có hai nhận xét nhỏ về định nghĩa trên. Thứ nhất, từ “vốn” trong thuật ngữ “vốn đầu tư” của định nghĩa trên có thể gây ra sự lẫn lộn. Trong kinh tế học không có khái niệ m “vốn đầu tư”. Vốn (capital) là khái niệ m mang tính khối tích lũy (stock) và có thể được xác định tại một thời điểm (thí dụ 31 tháng 12 hay bất cứ thời điểm nào của năm), còn “đầu tư” (investment) mang tính dòng, luồng, lượng chảy (flow) trong một khoảng thời gian nhất định (thí dụ, trong một tháng, một quý hay một năm chứ không phải tại một thời điểm). Vốn tại một thời điể m (thí dụ 31-12 năm nay) bằng vốn ở thời điể m trước (chẳng hạn 30- tháng 6 năm đó) cộng với (+) đầu tư trong thời gian từ thời điể m trước đến thời điểm đang nói đến, trừ đi (-) hao mòn trong cùng khoảng thời gian đó. Vốn và đầu tư, tuy có liên hệ với nhau nhưng là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau. Vì thế “vốn đầu tư” là vô nghĩa và gây lẫn lộn. Chính vì thế nên bỏ chữ “vốn” trong từ “vốn đầu tư” cho khỏi lẫn lộn. Thứ hai, định nghĩa trên chỉ nói đến những chi tiêu “để làm tăng hay duy trì tài sản vật chất” mà không nói đến các chi tiêu để duy trì, nâng cao sức khỏe, và sự hiểu biết của con người (cũng như để duy trì, và tăng cường mạng lưới các mối quan hệ tin cậy trong nền kinh tế, chẳng hạn các định chế thích hợp) tức là duy trì hay làm tăng “vốn con người” (cũng như “vốn xã hội”). Đấy là điều dễ hiểu vì tập quán thống kê phổ biến hiện hành (theo hệ thống tài khoản quốc gia của Liên Hiệp Quốc) là như vậy. Với hai sự hạn chế nêu trên, trong báo cáo này chúng ta dựa hoàn toàn vào các số liệu chính thức về “vốn đầu tư”, cũng như về quyết toán ngân sách nhà nước của Tổng cục thống kê để phân tích. Đầu tư từ ngân sách nhà nước là một phần của đầu tư của khu vực nhà nước. Đầu tư của khu vực nhà nước lại là một phần của đầu tư của toàn xã hội. Để có bức tranh về quy mô và tầm quan trọng của đầu tư từ ngân sách, trước tiên hãy xem xét cơ cấu đầu tư của toàn xã hội (Bảng 1). Có thể thấy từ bảng này rằng đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước (trong đó có đầu tư từ ngân sách) chiếm tỷ lệ khá cao, gần 50% trong các năm giữa 1990, rồi tăng rất nhanh trong các năm sau đó với đỉnh điểm gần 60% trong các năm 1999-2001, rồi giả m 1 Báo cáo tại Hội thảo “Tái cơ cấu đầu tư công trong bối cảnh đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cấu trúc nền kinh tế” do Ủy Ban Kinh tế của Quốc hội và Viện Khoa học xã hội Việt Nam tổ chức, Huế - 28-29/12/2010
  2. dần đến mức thấp nhất gần 34% vào năm 2008, và từ đó lại có xu hướng tăng nhanh. T ỷ lệ đầu tư của khu vực nhà nước khoảng gần hay trên 50% tổng đầu tư suốt mười năm (1996-2005), và có thể thấy rõ sự biến động theo chính sách “kích cầu” nhằm đối phó với tác động của khủng hoảng tài chính khu vực năm 1997-1998 và khủng hoảng toàn cầu 2007-2008. Bảng 1: Cơ cấu vốn đầu tư phân theo thành phần kinh tế (%) Chia ra Khu vực có vốn Tổng số Kinh tế Kinh tế ngoài đầu tư nước Nhà nước nhà nước ngoài 1995 100,0 42,0 27,6 30,4 1996 100,0 49,1 24,9 26,0 1997 100,0 49,4 22,6 28,0 1998 100,0 55,5 23,7 20,8 1999 100,0 58,7 24,0 17,3 2000 100,0 59,1 22,9 18,0 2001 100,0 59,8 22,6 17,6 2002 100,0 57,3 25,3 17,4 2003 100,0 52,9 31,1 16,0 2004 100,0 48,1 37,7 14,2 2005 100,0 47,1 38,0 14,9 2006 100,0 45,7 38,1 16,2 2007 100,0 37,2 38,5 24,3 2008 100,0 33,9 35,2 30,9 Sơ bộ 2009 100,0 40,6 33,9 25,5 Nguồn: Tổng cục Thống kê Đầu tư từ ngân sách là một phần của đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước. Bảng 2 cho ta biết tỷ lệ của đầu tư từ ngân sách trong tổng đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước. Có thể thấy đầu tư từ ngân sách nhà nước luôn chiếm trên 40% của tổng đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước, thấp nhất là 40,4% năm 1998 và từ đó tăng gần như liên tục (với ngoại lệ của năm 2002) lên mức 64,4 % trong năm 2009. Lấy (tỷ lệ đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước trong tổng đầu tư xã hội) (x) nhân với (tỷ lệ đầu tư từ ngân sách trên tổng đầu tư của khu vực kinh tế nhà nước) cho ta tỷ lệ của đầu tư từ ngân sách nhà nước trên tổng đầu tư xã hội. Tỷ lệ này (các số trong ngoặc) cũng được trình bày trong Bảng 2 ở cột “vốn ngân sách nhà nước”. Những con số này 2
  3. cho ta cảm nhận về vai trò của đầu tư từ ngân sách nhà nước trong tổng đầu tư xã hội. Trừ năm 1995, đầu tư từ ngân sách luôn chiếm hơn 1 phần 5 tổng đầu tư xã hội, trong đó gần một thập kỷ (9 năm) tỷ lệ này là gần hay hơn 1/4. Bảng 2: Cơ vốn cấu đầu tư của khu vực kinh tế Nhà nước theo nguồn vốn (%) Chia ra Vốn của các Tổng số Vốn ngân sách doanh nghiệp Nhà Vốn vay Nhà nước nước và nguồn vốn khác 1995 100,0 44,6 (18,7) 19,9 35,5 1996 100,0 45,6 (22,4) 19,3 35,1 1997 100,0 44,0 (21,7) 23,7 32,3 1998 100,0 40,4 (22,4) 28,3 31,3 1999 100,0 41,3 (24,2) 32,1 26,6 2000 100,0 43,6 (25,8) 31,1 25,3 2001 100,0 44,7 (26,7) 28,2 27,1 2002 100,0 43,8 (25,1) 30,4 25,8 2003 100,0 45,0 (23,8) 30,8 24,2 2004 100,0 49,5 (23,8) 25,5 25,0 2005 100,0 54,4 (25,6) 22,3 23,3 2006 100,0 54,1 (24,9) 14,5 31,4 2007 100,0 54,2 (20,2) 15,4 30,4 2008 100,0 61,8 (21,0) 13,5 24,7 Sơ bộ 2009 100,0 64,3 (26,1) 14,1 21,6 Nguồn: Tổng cục Thống kê (số trong ngoặc là tỷ lệ đầu tư từ ngân sách trên tổng đầu tư xã hội) Tỷ lệ đầu tư từ ngân sách trên tổng đầu tư xã hội tăng nhanh sau khủng hoảng 1997-1998 và đạt đỉnh điể m 26,7% năm 2001 và giả m dần xuống mức 20,2% năm 2007 rồi lại có xu hướng tăng nhanh, cũng vẫn phản ánh việc đối phó với các cuộc khủng hoảng. Bảng 3 cho chúng ta thấy khối lượng đầu tư, theo giá thực tế, từ ngân sách nhà nước. Theo Tổng cục Thống kê, trong mười một tháng của năm 2010, vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước thực hiện đạt 131,1 nghìn tỷ đồng, bằng 102,2% kế hoạch năm. Trong cột thứ ba của Bảng 3 cũng cho thấy độ lớn của đầu tư từ ngân sách bằng bao nhiêu phần trăm của GDP. Từ năm 2000 đến nay, đầu tư từ ngân sách nhà nước bằng gần hay trên 10% của GDP (8,8% năm 2000 và 11,2% năm 2009). 3
  4. Bảng 3: Đầu tư của khu vực kinh tế Nhà nước Chia ra Vốn của các Tổng số Vốn ngân sách doanh nghiệp Nhà Vốn vay Nhà nước nước và nguồn vốn khác Giá thực tế, tỷ đồng; (% GDP) 13575 (5,9%) 1995 30447 6064 10808 19544 (7,2%) 1996 42894 8280 15070 23570 (7,5%) 1997 53570 12700 17300 26300 (7,3%) 1998 65034 18400 20334 31763 (7,9%) 1999 76958 24693 20502 39006 (8,8%) 2000 89417 27774 22637 45594 (9,5%) 2001 101973 28723 27656 50210 (9,4%) 2002 114738 34937 29591 56992 (9,3%) 2003 126558 38988 30578 69207 (9,7%) 2004 139831 35634 34990 87932 (10,5%) 2005 161635 35975 37728 100201 (10,3%) 2006 185102 26837 58064 107328 (9,4%) 2007 197989 30504 60157 129203 (8,7%) 2008 209031 28124 51704 184941 (11,2%) Sơ bộ 2009 287534 40418 62175 Nguồn: Tổng cục Thống kê; (đầu tư từ ngân sách nhà nước/GDP, phần trăm) Chúng ta cũng có thể xem xét để có cảm nhận về đầu tư từ ngân sách qua các số liệu quyết toán ngân sách nhà nước. Theo Luật ngân sách, chi ngân sách được phân thành ba lĩnh vực chính: - 1. Chi thường xuyên. - 2. Chi đầu tư phát triền. - 3. Chi trả nợ và chi khác. 1. Chi thường xuyên. Các khoản chi thường xuyên mang tính chất là các khoản chi cho tiêu dùng 4
  5. xã hội và gắn liền với chức năng quản lý xã hội của nhà nước. 1.1. Chi sự nghiệp 1.2. Chi quán lý nhà nước 1.3. Chi quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội. 1.4. Trợ giá theo chính sách của Nhà nước 1.5. Các khoản chi thường xuyên khác theo quy định của pháp luật 2. Chi đầu tư phát triển. 2.1. Chi đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. 2.2. Chi đầu tư và hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, các tổ chức tài chính của nhà nước. 2.3. Chi góp vốn cổ phần, góp vốn liên doanh vào các doanh nghiệp thnộc lĩnh vực cần thiết có sự tham gia của nhà nước. 2.4. Chi cho quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia. 2.5. Chi bổ sung dự trữ nhà nước. 3. Chi trả nợ gốc và lãi các khoản tiền do Chính phủ vay và chi khác - Trả nợ trong nước - Trả nợ nước ngoài - Chi khác 5
  6. Như thế có thể thấy vốn đầu tư từ ngân sách có liên quan đến chi đầu tư phát triển, nhưng hai thứ không hoàn toàn như nhau, và các số liệu đầu tư từ ngân sách (Bảng 3) và chi đầu tư phát triển trong quyết toán chi ngân sách nhà nước (Bảng 4) không trùng nhau. Chúng tôi sao số liệu về vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước lấy từ Bảng 3 vào giữa dòng “Chi đầu tư phát triển” và dòng “Trong đó: Chi XDCB” của quyết toán ngân sách nhà nước để dễ so sánh. Theo quy định như trên về chi đầu tư phát triển, chúng ta kỳ vọng chi ngân sách nhà nước về đầu tư phát triển không thể ít hơn đầu tư từ ngân sách nhà nước (vì một phần của mục chi này có thể không là đầu tư). Thế nhưng từ năm 2000 đến 2002 vốn đầu tư từ ngân sách luôn lớn hơn chi đầu tư phát triển (tương ứng cho các năm đó là 9.328; 5.358 và 4.992 tỷ), cũng như các năm 2004-2006 (lớn hơn 3.093; 8.733 và 11.860 tỷ). Còn trong các năm 2003, 2007-2008 thì vốn đầu tư từ ngân sách ít hơn chi đầu tư phát triển (và độ chênh lệch tương ứng của các năm đó là -2.637; -4.832 và - 6.708 tỷ); sự chênh lệch là từ vài ba ngàn tỷ đến gần 12 ngàn tỷ (bằng từ khoảng 4,5% của đầu tư ngân sách vào các năm 2003, 2004, 2007 đến gần hay trên 10% vào các năm 2001, 2002, 2005 và 2006, đặc biệt sự chênh lệch lên đến 24% năm 2000). Đấy là những điều cần có sự lý giải. Bảng 4: Quyết toán chi ngân sách Nhà nước Tỷ đồng 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 TỔNG CHI 108961 129773 148208 181183 214176 262697 308058 399402 494600 Trong tổng chi Chi đầu tư phát triển 29624 40236 45218 59629 66115 79199 88341 112160 135911 Đầu tư từ ngân sách (từ Bảng 3) 39006 45594 50210 56992 69207 87932 100201 107328 129203 Trong đó: Chi XDCB 26211 36139 40740 54430 61746 72842 81078 107440 124664 Chi phát triển sự nghiệp kinh tế xã hội 61823 71562 78039 95608 107979 132327 161852 211940 258493 Trong đó: Chi sự nghiệp giáo dục, đào tạo 12677 15432 17844 22881 25343 28611 37332 53774 63547 Chi sự nghiệp y tế 3453 4211 4656 5372 6009 7608 11528 16426 19918 6
  7. Chi dân số kế họach hoá gia đình 559 434 841 666 397 483 489 612 1072 Chi sự nghiệp khoa học và CNMT 1243 1625 1852 1853 2362 2584 2540 7604 7744 Chi sự nghiệp văn hoá, thông tin 919 921 1066 1258 1584 2099 1874 2346 2713 Chi sự nghiệp phát thanh, truyền hình 717 838 681 1056 1325 1464 1184 1410 1550 Chi sự nghiệp thể dục, thể thao 387 483 586 648 883 879 956 1005 1126 Chi lương hưu, đảm bảo xã hội 10739 13425 13221 16451 17282 17747 22157 36597 50265 Chi sự nghiệp kinh tế 5796 6288 7987 8164 10301 11801 14212 16145 21538 Chi quản lý hành chính 8089 8734 8599 11359 15901 18761 18515 29214 32855 Chi bổ sung quĩ dự trữ tài chính 846 849 535 111 78 69 135 185 152 Nguồn: Tổng cục Thống kê (Dòng đầu tư từ ngân sách (từ Bảng 3) được đưa them để so sánh) Có thể thấy vốn đầu tư từ ngân sách có quan hệ với chi đầu tư phát triển. Lấy vốn đầu tư từ ngân sách (Bảng 3) chia cho tổng chi ngân sách (Bảng 4) chúng ta sẽ biết đầu tư từ ngân sách chiếm bao nhiêu phần trăm của tổng chi ngân sách. Các số liệu này được chèn vào Bảng 5 về cơ cấu chi ngân sách (dòng “Đầu tư từ ngân sách” được chèn vào giữa dòng “Chi đầu tư phát trển” và dòng “Trong đó: Chi XDCB” trong Bảng 5). Bảng 5: Cơ cấu chi ngân sách Nhà nước % 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 TỔNG CHI 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 Trong tổng chi Chi đầu tư phát triển 27,19 31,00 30,51 32,91 30,87 30,15 28,68 28,08 27,48 Đầu tư từ ngân sách 35,80 35,13 33,88 31,46 32,31 33,47 32,53 26,87 26,12 Trong đó: Chi XDCB 24,06 27,85 27,49 30,04 28,83 27,73 26,32 26,90 25,21 Chi phát triển sự nghiệp kinh tế xã hội 56,74 55,14 52,66 52,77 50,42 50,37 52,54 53,06 52,26 Trong đó Chi sự nghiệp giáo dục, đào tạo 11,63 11,89 12,04 12,63 11,83 10,89 12,12 13,46 12,85 Chi sự nghiệp y tế 3,17 3,24 3,14 2,96 2,81 2,90 3,74 4,11 4,03 Chi dân số kế họach hoá gia đình 0,51 0,33 0,57 0,37 0,19 0,18 0,16 0,15 0,22 Chi sự nghiệp khoa học và CNMT 1,14 1,25 1,25 1,02 1,10 0,98 0,82 1,90 1,57 Chi sự nghiệp văn hoá, thông tin 0,84 0,71 0,72 0,69 0,74 0,80 0,61 0,59 0,55 Chi sự nghiệp phát thanh, truyền hình 0,66 0,65 0,46 0,58 0,62 0,56 0,38 0,35 0,31 Chi sự nghiệp thể dục, thể thao 0,36 0,37 0,40 0,36 0,41 0,33 0,31 0,25 0,23 Chi lương hưu, đảm bảo xã hội 9,86 10,34 8,92 9,08 8,07 6,76 7,19 9,16 10,16 7
  8. Chi sự nghiệp kinh tế 5,32 4,85 5,39 4,51 4,81 4,49 4,61 4,04 4,35 Chi quản lý hành chính 7,42 6,73 5,80 6,27 7,42 7,14 6,01 7,31 6,64 Chi bổ sung quĩ dự trữ tài chính 0,78 0,65 0,36 0,06 0,04 0,03 0,04 0,05 0,03 Nguồn: Tổng cục Thống kê Có thể thấy đầu tư từ ngân sách nhà nước chiế m từ hơn 26% (năm 2008) đến gầ n 34% (năm 2002) của tổng chi ngân sách của năm tương ứng. So sánh với chi cho sự nghiệp giáo d ục đào tạo (khoảng từ 11 đến 13 % tổng chi ngân sách) và chi cho sự nghiệp y tế (từ khoảng 3 đến 4% của tổng chi ngân sách), chúng ta có thể thấy đầu tư cho “tài sản vật chất” lớn hơn rất nhiều so với chi cho “tài sản con người”. Đó là chưa kể đến phần vốn vay (Bảng 2 và Bảng 3) cũng là để “để làm tăng hay duy trì tài sản vật chất” mà các khoản vay này sẽ phải được chi trả trong tương lai dưới tiêu đề “chi trả nợ lãi và gốc” trong quyết toán chi ngân sách. Nếu tính cả phần vay để đầu tư, thì có thể nói đầu tư cho “tài sản vật chất” quá lớn so với cho “tài sản con người”. Để phát triển kinh tế – xã hội tất cả các nước đều dựa vào ba nguồn lực chính: con người, tài nguyên thiên nhiên (mà kinh tế học gọi chung là “đất đai”) và vốn. Tăng trưởng kinh tế của chúng ta những năm gần đây phụ thuộc quá nhiều vào vốn (phần đóng góp của vốn cho tăng trưởng kinh tế lên đến trên 60%), trong khi vốn của chúng ta chưa nhiều nên phải dựa nhiều vào vốn vay và vốn đầu tư nước ngoài. Dùng vốn vay không khéo, kém hiệu quả có thể đẩy đất nước lâm vào cảnh nợ nần. Tài nguyên thiên nhiên không tái tạo được, nên có hạn. Việc khai thác tài nguyên thiên nhiên như rừng tự nhiên, dầu thô, các khoáng sản khác, nước, không khí, … sẽ làm cho tài nguyên thiên nhiên cạn kiệt và xuống cấp nghiêm trọng do ô nhiễm môi trường. Nguồn nhân lực là tài nguyên lớn nhất, quan trọng nhất và có thể tái tạo được của đất nước. Nhưng phải đầu tư cho nó: chăm sóc sức khỏe để người dân được khỏe mạnh, cường tráng; giáo dục và đào tạo để người dân có hiểu biết, có kỹ năng để có thể trở thành người lao động có hiệu quả. Để có phát triển bền vững việc nuôi dưỡng, phát triển và sử dụng tài nguyên quan trọng nhất, tái tạo được của đất nước - tài nguyên con người - phải là ưu tiên số một, dài lâu và liên tục. Chính sách của nhà nước về lĩnh vực này phải là các chính sách quan trọng nhất, cần sự quan tâm nhiều nhất của chính phủ và của toàn dân. Chính vì thế các chính sách giáo dục, đào tạo và các chính sách chăm sóc sức khỏe cho toàn dân phải là quốc sách. Đấy là những điều đơn giản, dễ hiểu tưởng chừng ai cũng biết. Người ta có vẻ hiểu những điều đơn giản trên. Người ta rao giảng về các quốc sách hàng đầu: giáo dục- đào tạo, chăm sóc sức khỏe. Thế nhưng, các con số biết nói nêu trên về đầu tư từ ngân 8
  9. sách nhà nước (và từ vốn vay mà sẽ phải được tính vào chi ngân sách tương lai) chỉ để “duy trì hay làm tăng tài sản vật chất” cao hơn rất nhiều chi cho tài nguyên con người. Tổng chi cho y tế của Việt Nam thuộc loại cao, bằng 6,6% của tổng thu nhập quốc nội (GDP) [Indonesia: 2,5%; Thái Lan: 3,5%; Ấn Độ: 3,6%; Philippine: 3,8%; Lào: 4%; Malaysia: 4,3%; Trung Quốc: 4,6%; Hàn Quốc: 6,4%]. Tuy vậy, phần chi công trong tổng chi (gồm: từ ngân sách nhà nước 18%, bảo hiểm y tế 11%, viện trợ 2,2%, chi khác 8%) của Việt Nam còn khá ít, chỉ chiếm 39%. Nói cách khác, 61% là do các hộ gia đình chi từ tiền túi của mình. Nếu tỷ lệ chi của các hộ gia đình trên 50% thì hệ thống y tế là cực kỳ không công bằng, nói chi đến 61%. Chi ngân sách nhà nước cho y tế của Việt Nam, Bảng 5, chỉ khoảng 3-4% tổng chi ngân sách nhà nước (Trung Quốc và Hàn Quốc có tỷ lệ gấp đôi hoặc hơn). Như thế vấn đề lớn là phải tăng tỷ lệ chi công lên trên 50% tổng chi phí, giảm tỷ lệ chi của các hộ gia đình một cách đáng kể mới có thể có hệ thống chăm sóc sức khỏe công bằng hơn, không đẩy nhiều gia đình bị đói nghèo vì bệnh tật. Đấy là một đòi hỏi bức bách. Bức tranh cũng tương tự với giáo dục. Tổng chi cho giáo dục của chúng ta cũng cao, nhưng phần chi từ ngân sách chưa tương xứng, phần chi từ các hộ gia đình cao và là gánh nặng nhất là đối với các gia đình nghèo. Theo đánh giá của ông Vũ Quang Việt trong bài “Chi tiêu cho giáo dục: Những con số ‘giật mình’!” trên Vietnamnet thì tổng chi cho giáo dục của Việt Nam như sau. Bảng 6: Tổng chi cho giáo dục ở Việt Nam 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Năm Tổng chi cho giáo dục (tỷ đồng) 23.219 25.882 34.088 37.552 54.223 68.968 5,4 Tỷ lệ chi/GDP (%) 5,3 7,8 6,1 7,6 8,3 Tỷ lệ ngân sách cho giáo dục /GDP 3,2 3,2 4,7 3,7 4,6 5,0 Tỉ lệ cấp tài chính của ngân sách nhà nước và của khu vực tư, theo ông Việt, như sau. Bảng 7: Chi tiêu cho giáo dục, so sánh quốc tế Việt Nam Mỹ Nhật Pháp OCDE Hàn Quốc Chi tiêu cho giáo dục/GDP (%) 8,3 7,2 6,1 4,7 7,1 6,1 Từ ngân sách 5 5,3 5,7 3,5 4,2 4,9 Từ dân và các nguồn khác 3,3 1,9 0,4 1,2 2,9 1,2 T ỷ lệ chi tiêu cho giáo dục (%) 9
  10. Từ ngân sách 60 74 93 74 59 80 Từ dân và các nguồn khác 40 26 7 26 41 20 Nói cách khác, hệ thống y tế và giáo dục của Việt Nam vô cùng KHÔNG CÔNG BẰNG (và kém hiệu quả), phần chi từ ngân sách quá ít đẩy gánh nặng chăm sóc sức khỏe và giáo dục lên các hộ gia đình. Có các chính sách tạo ra những khuyến khiến chi tiêu kém hiệu quả trong chi tiêu y tế (thí dụ chi phí cho thuốc chiếm đến trên 60% tổng chi xã hội cho y tế, biệt dược có giá cao hơn 40 lần giá tham khảo quốc tế cao hơn mức giá ở Thái Lan khoảng trên 10 lần và biệt dược được dung quá nhiều) và trong chi tiêu giáo dục. Phải phân bổ phần lớn hơn nhiều trong tổng chi ngân sách cho giáo dục, cho chăm sóc sức khỏe và bớt phần đầu tư từ ngân sách và phần vay để duy trì và tăng “tài sản vật chất”. Cần có thay đổi cơ bản trong tư duy phát triển: từ bỏ sự đam mê số lượng tăng trưởng GDP mà (giảm đầu tư từ ngân sách nhà nước) tăng chi tiêu cho giáo dục đào tạo và chăm sóc sức khỏe; tức là phân bổ lại nguồn lực để có thể đảm bảo cho sự phát triển bền vững, giảm thâm hụt ngân sách. Khi đó không đam mê theo đuổi con số tăng trưởng GDP, thì vẫn có sự tăng trưởng cao và bền vững. Tất nhiên, còn phải bàn đến tính hiệu quả của chi ngân sách nhà nước và của đầu tư từ ngân sách nhà nước và làm sao để có thể tăng hiệu quả để có sự phát triển bền vững mà vẫn nhanh, (có những chính sách tạo ra các những khuyến khiến đầu tư kém hiệu quả khá giống như trong y tế và giáo dục) nhưng đó là chủ đề của một nghiên cứu khác. 10
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
9=>0