intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài khái quát lịch sử hình thành phát triển của cư dân Tam Kỳ

Chia sẻ: Bui Thu Ba | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:45

152
lượt xem
31
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Văn hoá là sức mạnh nội tại của mỗi dân tộc. Văn hoá làng là những đặc trưng văn hoá đặc thù, được bảo lưu lâu dài trong cộng đồng dân cư... Và đình làng ra đời được xem như nơi “hội tụ văn hóa” trong làng xã Việt Nam cổ truyền. Đình không những là cơ quan tối cao điều hành toàn bộ mọi hoạt động của làng xã mà đây còn là nơi thể hiện rõ tài năng nghệ thuật của những người dân quê chân chất, hiền lành. Chính vì thế, ngôi đình đã trở thành biểu tượng linh thiêng mỗi làng xã...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài khái quát lịch sử hình thành phát triển của cư dân Tam Kỳ

  1. Đề tài tốt nghiệp - Tìm hiểu hệ thống đ ình làng ở thành phố Tam Kỳ Đề tài khái quát lịch sử hình thành phát triển của cư dân Tam Kỳ GVHD: Th.S Nguyễn Thị Vĩnh Linh SVTH: Bùi Thị Thu Ba -1-
  2. Đề tài tốt nghiệp - Tìm hiểu hệ thống đ ình làng ở thành phố Tam Kỳ A. MỞ ĐẦU B. NỘI DUNG Chương 1. Khái quát về lịch sử hình thành và cư dân Tam Kỳ 1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và xã hội 1.2. Lịch sử hình thành 1.2.1. Địa giới hành chính qua các thời kỳ 1.2.2. Sự ra đời của danh xưng Tam Kỳ và ý nghĩa tên gọi 1.3. Sinh hoạt văn hoá của người dân 1.3.1. Kinh tế 1.3.2. Văn hoá Chương 2. Những đình làng tiêu biểu trên địa bàn thành phố 2.1. Đình làng Hương Trà 2.1.1. Khái quát về quá trình ra đời của làng Hương Trà 2.1.2. Quá trình ra đời của đình làng Hương Trà 2.1.3. Lễ hội tại đình làng Hương Trà 2.2. Đình làng Mỹ Thạch 2.2.1. Quá trình thành lập làng Mỹ Thạch 2.2.2. Quá trình ra đời của đình làng Mỹ Thạch 2.2.3. Lễ hội chính tại đình làng Mỹ Thạch 2.3. Đình làng Phương Hoà 2.3.1. Quá trình thành lập làng Phương Hoà 2.3.2. Quá trình ra đời của đình làng Phương Hoà GVHD: Th.S Nguyễn Thị Vĩnh Linh SVTH: Bùi Thị Thu Ba -2-
  3. Đề tài tốt nghiệp - Tìm hiểu hệ thống đ ình làng ở thành phố Tam Kỳ 2.3.3. Lễ hội tại đình làng Phương Hòa 2.4. Đình Vĩnh Bình 2.4.1. Quá trình thành lập làng Vĩnh Bình 2.4.2. Quá trình ra đời đình làng Vĩnh Bình 2.4.3. Lễ hội tại đình làng Vĩnh Bình Chương 3. Giá trị đình làng trong đời sống hiện nay của người dân thành phố Tam Kỳ 3.1. Giá trị của đình làng trong đời sống hiện nay 3.2. Một số giải pháp để giữ gìn, phát triển đình làng và những giá trị văn hoá gắn chặt với nó C. KẾT LUẬN GVHD: Th.S Nguyễn Thị Vĩnh Linh SVTH: Bùi Thị Thu Ba -3-
  4. Đề tài tốt nghiệp - Tìm hiểu hệ thống đ ình làng ở thành phố Tam Kỳ A. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài V ăn hoá là sức mạnh nội tại của mỗi dân tộc. Văn hoá làng là những đặc trưng văn hoá đặc thù, được bảo lưu lâu dài trong cộng đồng dân cư... Và đình làng ra đời được xem như nơi “hội tụ văn hóa” trong làng xã Việt Nam cổ truyền. Đình không những là cơ quan tối cao điều hành toàn bộ mọi hoạt động của làng xã mà đây còn là nơi thể hiện rõ tài năng nghệ thuật của những người dân quê chân chất, hiền lành. Chính vì thế, ngôi đình đã trở thành biểu tượng linh thiêng mỗi làng xã Việt Nam cổ truyền. Song hiện nay cùng với quá trình đô thị hóa nhanh chóng thì hình ảnh thân thuộc đó đang dần trở nên xa lạ, lạc lõng với nơi mà nó đã tồn tại hàng trăm năm. Tam Kỳ (Quảng Nam) cũng không nằm ngoài tiến trình lịch sử đó. Là một vùng đất mới mở của người Việt (thế kỷ XV), Tam Kỳ nói riêng và Quảng Nam nói chung là nơi kết tinh giá trị văn hóa Việt – Chăm để tạo ra nét văn hóa đặc thù riêng của mình. Trong quá trình di dân, lập ấp ấy, những ngôi đ ình cũng dần xuất hiện trên m ảnh đất Quảng Nam như một minh chứng cho sự gắn kết trong cộng đồng làng. Hiện nay, những yếu tố văn hóa làng xã Việt Nam cổ truyền ở Quảng Nam nói chung và Tam Kỳ nói riêng đang dần biến mất. Tam Kỳ - thành phố tỉnh lỵ cũng là m ột trong những địa phương có tốc độ đô thị hóa nhanh nhất. Hàng lo ạt các công trình hiện đại được xây dựng đã tạo ra sự biến đổi không thể phục hồi lại của những ngôi làng với những nét văn hóa đặc trưng. Trong dòng GVHD: Th.S Nguyễn Thị Vĩnh Linh SVTH: Bùi Thị Thu Ba -4-
  5. Đề tài tốt nghiệp - Tìm hiểu hệ thống đ ình làng ở thành phố Tam Kỳ chảy ấy, đình làng Tam Kỳ cũng dần hoang phế vì không được bảo tồn, dần bị phá bỏ vì không được chú ý. Vì vậy, tôi chọn đề tài này, hi vọng thông qua hệ thống đình ở Tam Kỳ nắm bắt rõ hơn văn hoá truyền thống dân tộc, góp phần nâng cao ý thức người dân trong việc bảo tồn phát huy các giá trị văn hoá, giáo dục lối sống cho người dân, nhất là thế hệ trẻ cũng như tình hình thực trạng đời sống văn hoá của người dân, của lớp trẻ hiện nay ở quê hương m ình, góp phần vào bảo tồn các giá trị, lưu giữ thuần phong mỹ tục. Là sinh viên nghành Việt Nam học, là người con của thành phố Tam Kỳ tôi muốn góp phần nhỏ vào việc bảo vệ, khôi phục những giá trị văn hoá truyền thống, lấy nó làm nền tảng cho quá trình phát triển của quê hương. 2. Đ ối tương nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là hệ thống các đình tiêu biểu trên địa b àn thành phố Tam Kỳ. 3. Lịch sử nghiên cứu đề tài Đình làng là đ ề tài được khá nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, cho đến nay có khá nhiều bài viết về đề tài này như Toan Ánh với “Làng xóm Việt Nam” (trong bộ Nếp cũ, NXB Trẻ 2004), Nguyễn Thế Long với “Đình và Đền H à Nội” (NXB Văn Hoá Thông Tin 2005)... tuy nhiên các công trình này chỉ đề cập đến vai trò của đình làng trong làng xã Việt cổ truyền nói chung, cách sắp đặt một số ngôi đ ình cũng như tín ngưỡng thờ Thành Hoàng của đình làng Việt. Hiện nay, chưa có một công trình nghiên cứu nào về hệ thống đình làng ở thành phố Tam Kỳ, đề tài tôi viết dưới đây chủ yếu dựa trên kết quả điền dã thực tế bản thân, thông qua lời kể của các vị cao niên. Ngoài ra, tôi cũng tham khảo những bài viết về kiến trúc, niên đại thành lập của một số đình làng như Mỹ Thạch, Phương Hoà thông qua cuốn “Di tích và Danh thắng Quảng Nam” với sự góp mặt của nhiều nhà nghiên cứu do Sở VHTT tỉnh Quảng Nam xuất bản. Vì đ ây là những ngôi đình đã được công nhận là di tích Lịch sử- V ăn hoá- Kiến trúc nghệ thuật cấp tỉnh nên Trung tâm Quản lý DT&DT Quảng Nam cũng GVHD: Th.S Nguyễn Thị Vĩnh Linh SVTH: Bùi Thị Thu Ba -5-
  6. Đề tài tốt nghiệp - Tìm hiểu hệ thống đ ình làng ở thành phố Tam Kỳ lưu trữ hồ sơ di tích với bảng mô tả kiến trúc trước đây và hiện tại sau khi đã được trùng tu theo ngân sách của tỉnh. Ban trị sự các ngôi đình gồm những cụ già trong làng cũng có b ài viết về sự hình thành và kiến trúc đ ình làng mình thông qua lời kể và những gì “tai nghe mắt thấy”. 4. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài 4.1. Mục tiêu: Tìm hiểu một cách khái quát hệ thống đình trên địa b àn thành phố Tam K ỳ ở nhiều khía cạnh khác nhau như văn hoá, chính trị, tín ngưỡng...Từ đó, làm nổi bật những giá trị của hệ thống đình làng trong đời sống nhân dân Tam Kỳ hiện nay. 4.2. Nhiệm vụ: Tìm hiểu lịch sử ra đời của thành phố Tam Kỳ - không gian của đề tài. Tìm hiểu quá trình xuất hiện của các đình làng tiêu biểu tại thành phố Tam Kỳ. Làm rõ giá trị về nhiều mặt của đình làng như lịch sử, kiến trúc - nghệ thuật, văn hoá... Từ đó, có cách nhìn biện chứng về vai trò của đình làng trong đời sống hiện nay. 5. Giới hạn của đề tài Thời gian: Đ ề tài tập trung nghiên cứu những đình làng tiêu biểu của thành phố Tam Kỳ ra đời vào khoảng đầu thế kỷ 19. Không gian: Các xã, phường thuộc thành phố Tam Kỳ mà tiêu biểu là các phường Hoà Thuận, Tân Thạnh, Hoà Hương và xã Tam Thăng. 6. Đ iểm mới của đề tài Góp phần làm sáng tỏ lịch sử h ình thành và phát triển làng xã thành phố Tam K ỳ và đời sống văn hoá của người dân. Nêu bật giá trị về mọi mặt của đình làng trong đời sống người dân Tam Kỳ nay. Góp phần bảo tồn, phát huy các giá trị văn hoá truyền thống. 7. Phương pháp nghiên cứu Để hoàn thành đề tài tôi sử dụng những phương pháp sau: GVHD: Th.S Nguyễn Thị Vĩnh Linh SVTH: Bùi Thị Thu Ba -6-
  7. Đề tài tốt nghiệp - Tìm hiểu hệ thống đ ình làng ở thành phố Tam Kỳ 7.1. Phương pháp luận: Sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của triết học Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh với những yêu cầu về phương pháp luận như gắn lý luận với thực tiễn, tính chính xác và tính khách quan... 7.2. Phương pháp cụ thể: + Phương pháp điền dã. + Phương pháp tổng hợp, phân tích các nguồn thông tin. + Phương pháp thu thập, tìm hiểu thông tin từ Internet, sách báo và một số tư liệu từ Trung tâm Quản lý Di tích và Danh thắng Quảng. 8. Cấu trúc của đề tài Đề tài ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, mục lục được thiết kế gồm các chương sau: Chương 1: Khái q uát về lịch sử hình thành và cư dân Tam Kỳ. Chương 2: Những đ ình làng tiêu biểu trên địa bàn thành phố. Chương 3: Giá trị của đ ình làng Tam Kỳ trong đời sống hiện nay. GVHD: Th.S Nguyễn Thị Vĩnh Linh SVTH: Bùi Thị Thu Ba -7-
  8. Đề tài tốt nghiệp - Tìm hiểu hệ thống đ ình làng ở thành phố Tam Kỳ B. NỘI DUNG Chương 1. Khái quát về lịch sử hình thành và cư dân Tam Kỳ 1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và xã hội Thành phố Tam Kỳ thuộc tỉnh Quảng Nam được thành lập tại Nghị định số 113 ngày 29/9/2006 của chính phủ. N ằm ở vị trí trung lộ của cả nước, thành phố Tam Kỳ phía Bắc giáp huyện Thăng Bình và huyện Phú Ninh, phía nam giáp huyện Núi Thành, phía Tây giáp huyện Phú Ninh, phía Đông giáp biển Đông. Tam Kỳ cách Hà Nội cũng như thành phố Hồ Chí Minh một quãng đ ường gần như ngang bằng nhau khoảng 880km. Thành phố Tam Kỳ là trung tâm hành chính - văn hoá - khoa học kỹ thuật của tỉnh Quảng Nam và là vùng trọng điểm kinh tế ven biển miền Trung. H iện nay, Tam K ỳ có 9.263,56 ha diện tích tự nhiên, dân số khoảng 103.730 người, trong đó hầu hết là người Kinh và một số ít người Hoa (người Minh Hương) sống tập trung ở phường Phước Hoà. Trong dân tộc Kinh, có một số người Minh Hương mà tổ tiên lâu đời là người Trung Quốc và cũng có những người thuộc các họ: Ông, Ma, Trà, Chế mà tổ tiên là người Chiêm Thành. Nằm ở đồng bằng ven biển, Tam Kỳ hình thành ba vùng rõ rệt: vùng ven biển gồm các xã dọc sông Trường Giang và phía Đông; vùng đồng bằng gồm các xã nằm dọc đường quốc lộ 1A; vùng giáp ranh trung du và miền núi (bán sơn địa). Tam Kỳ có nhiều núi thấp xen kẻ với đồng ruộng và khu dân cư: núi đất Quảng Phú, An Hà (Tam Phú ), núi Quánh (Tam Ngọc). Bờ biển Tam Kỳ tương đối bằng và thẳng, bên ngoài thềm lục địa nông thuận lợi cho khai thác thuỷ sản. Có nhiều sông, vũng đầm như sông Bàn Thạch nối liền vùng đầm An Hà với sông Ba Kỳ, sông Cây Trâm nối liền sông Tam Kỳ với sông Ông Bộ, sông Trường Giang nối hai cửa biển An Hoà và Cửa Đại chạy dọc theo bờ biển. Các sông ở Tam Kỳ không có đầu nguồn xa lại có độ dốc cao, mùa nắng mau cạn và bị nước triều từ biển dâng vào sâu; Tam K ỳ có đầm An H à (thuộc xã GVHD: Th.S Nguyễn Thị Vĩnh Linh SVTH: Bùi Thị Thu Ba -8-
  9. Đề tài tốt nghiệp - Tìm hiểu hệ thống đ ình làng ở thành phố Tam Kỳ Tam Phú và Tam Thăng). Vào thời mà “bộ khôn b ằng ngựa, thuỷ khôn bằng thuyền” thì bến đ ò Ba Bến (hay còn gọi là bến Tam Phú ở Tam Phú) luôn tấp nập ghe thuyền, người người qua lại, tại đây ngược sông Ba Kỳ lên tận Trường Xuân, Tư Yên..., theo đường sông vào Cửa Lỡ, An Hoà (Kỳ Hoà) hay ra Thu Bồ n, Cửa Đại... Tam K ỳ thuộc vùng khí hậu duyên hải, nhiệt độ trung b ình hàng năm là 25,6 0C, nhiệt độ cao nhất vào tháng 6: 28,90C và tháng thấp nhất là tháng 1: 21,4 0C. Lượng mưa trung bình hàng năm kho ảng 2585,8mm, cao nhất là vào tháng 10: 709,3mm, thấp nhất là vào tháng 3: 37,2mm. Giờ nắng trung bình trong ngày là 5 -9 giờ, độ ẩm trung bình trong năm khoảng 82%. Đây cũng là vùng chịu ảnh hưởng nhiều của thời tiết, hàng năm bảo lụt thường xảy ra, gây nhiều tổn thất không nhỏ cho đời sống kinh tế- x ã hội cho địa phương. 1.2. Lịch sử hình thành 1.2.1. Địa giới hành chính qua các thời kỳ Địa giới thành phố Tam Kỳ nay vốn là hai châu Ô, Rí của người Chămpa xưa, năm 1306 vùng đất này được vua Simhavarman III (Chế Mân) dùng làm của lễ hồi môn dâng cho Đại Việt để được cưới Huyền Trân công chúa. Năm 1402, sau chiến thắng của vua Hồ Hán Thương (1401-1407), người Việt đã chiếm lại được Thuận Châu (từ Quảng Bình đến Quảng Trị ngày nay), Hoá Châu (vùng đất từ phía nam Thừa Thiên cho đến bờ bắc Thu Bồn ngày nay) và còn chiếm thêm vùng Cổ Luỹ (vùng đất phía bắc tỉnh Quảng Ngãi ngày nay) của Chiêm Thành. N hư vậy, vùng đ ất phía nam tỉnh Quảng Nam ngày nay, trong đó có thành phố Tam Kỳ đ ã thuộc lãnh thổ Đại Việt, sau đó nhà Hồ đã lập châu Thăng (tương ứng với huyện Thăng Bình và Duy Xuyên ngày nay) và châu Hoa (tương ứng với thành phố Tam Kỳ, các huyện Núi Thành, Phú Ninh, Tiên Phước, Trà My, Phước Sơn ngày nay). Dưới thời nhà Hồ (1402-1407), châu Hoa được chia thành 3 huyện: Huyện Vạn Yên: vùng đất thuộc thành phố Tam Kỳ và vùng ven biển huyện Núi Thành ngày nay Huyện Cu Hy: tương ứng với các vùng nguồn Chiên Đàn. GVHD: Th.S Nguyễn Thị Vĩnh Linh SVTH: Bùi Thị Thu Ba -9-
  10. Đề tài tốt nghiệp - Tìm hiểu hệ thống đ ình làng ở thành phố Tam Kỳ Huyện Lễ Đễ: tương ứng với các vùng nguồn H ữu Bang (tức cùng Tiên Phước, Trà My nay). Như vậy, dưới thời nhà Hồ vùng đất Tam Kỳ ngày nay thuộc huyện Vạn Yên của châu Hoa. Năm 1471 vua Lê Thánh Tông đã thành lập Đạo Thừa tuyên Quảng Nam, châu Thăng và châu Hoa hợp nhất với nhau thành phủ Thăng Hoa. Theo “ Thiên Nam Dư H ạ Tập”- bộ tùng thư mang tính điển chế do Lê Thánh Tông giao cho các văn thần biên soạn năm 1483[4] thì đ ến năm 1490 vua Lê Thánh Tông đã đổi tên Đạo Thừa tuyên Quảng Nam thành X ứ Quảng Nam và chia phủ Thăng Hoa thành 3 huyện: Huyện Hà Đông: tương ứng với huyện Vạn Yên dưới nhà Hồ Huyện Lệ Giang: tương ứng với huyện Thăng Bình ngày nay Huyện Hy Giang: tương ứng với huyện Duy Xuyên ngày nay Như vậy, dưới thời nhà Hậu Lê, thành phố Tam Kỳ thuộc huyện Hà Đông. Dưới thời Chúa Tiên Nguyễn Ho àng (1604) phủ Thăng Hoa chỉ còn lại 2 huyện: Huyện Lễ Dương: tên mới của huyện Lệ Giang Huyện Hà Đông: bao gồm phần đất của thành phố Tam Kỳ ngày nay. Tuy nhiên địa danh Tam Kỳ chưa xuất hiện trong cơ cấu hành chính. Dưới thời Tây Sơn (1788-1801), theo sách “Hoàng Việt Long Hưng Chí” thì Đ ạo Thừa tuyên Quảng Nam được chia thành 2 phủ và 5 huyện [4 ] Phủ Điện Bàn quản lãnh 2 huyện: Diên Phước và Hoà Vang Phủ Thăng Hoa quản lãnh 3 huyện: Phong Dương, Duy Xuyên và Hà Đông trong đó có vùng đ ất của Tam Kỳ ngày nay. Vào đầu thế kỷ XIX, năm 1801 vua Gia Long tách phủ Điện Bàn và phủ Thăng Hoa để lập dinh Quảng Nam. Năm 1827 dưới thời vua Minh Mạng đổi thành trấn Quảng Nam rồi đến năm 1832 đổi thành tỉnh Quảng Nam cho đến ngày nay. GVHD: Th.S Nguyễn Thị Vĩnh Linh S VTH: Bùi Thị Thu Ba - 10 -
  11. Đề tài tốt nghiệp - Tìm hiểu hệ thống đ ình làng ở thành phố Tam Kỳ Theo địa bạ thời Gia Long, dinh Quảng Nam gồm 2 phủ, 5 huyện, 29 tổng, 973 làng xã. Trong đó huyện Hà Đông gồm 4 tổng 2 thuộc 153 làng (tổng Chiên Đàn Trung (4 làng), tổng Đức Hoà Trung (6 làng), tổng Tiên Giang Thượng (6 làng), tổng Vinh Hoa Trung (3 làng), thuộc Hội Sơn Nguyên (2 làng), thuộc Liêm Hạ (133 làng)).[4 ] Thành phố Tam Kỳ ngày nay thuộc tổng Chiên Đàn Trung. Năm 1906 theo đạo dụ của vua Thành Thái, huyện Hà Đông đư ợc đổi thành phủ H à Đông và sau đó là phủ Tam Kỳ (bao gồm thành phố Tam Kỳ, huyện Núi Thành, Phú Ninh, Tiên Phước, Trà My, Phước Sơn ngày nay). Năm 1920, thực dân Pháp đã cắt bớt một số xã ở phía Tây phủ Tam Kỳ và sáp nhập vào một số xã vùng thấp của huyện Trà My đ ể thành lập huyện Tiên Phước. Phủ Tam Kỳ gồm 7 tổng, 157 xã và lần đầu tiên xuất hiện địa danh Tam Kỳ là một xã thuộc tổng Chiên Đàn. Sau Cách mạng Tháng 8 -1945, theo quyết định của Uỷ ban Kháng chiến hành chính tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, huyện Tam Kỳ tiến hành hợp x ã lần thứ nhất, từ 157 xã cũ thành 52 xã mới, trong đó vẫn có xã Tam K ỳ. Năm 1949, huyện Tam Kỳ tiến hành hợp xã lần thứ hai, từ 52 xã cũ thành 15 xã mới. Trong Thời kỳ kháng chiến chống Pháp, theo Nghị định số 241- MNS ngày 30/1/1951 của Uỷ ban Kháng chiến hành chính miền Nam Trung Bộ, thị xã Tam K ỳ đ ược thành lập, là tỉnh lỵ của tỉnh Quảng Nam- Đà N ẵng. Ngày 1/11/1951 Uỷ ban Kháng chiến hành chính miền Nam Trung Bộ đã ra nghị định đổi tên thị x ã Tam K ỳ thành Xã đặc biệt Tam Kỳ, trực thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Từ giữa năm 1956 - 1958, tỉnh Quảng Nam gồm có 2 thị x ã, 10 huyện, 4 nha. Vào thời kỳ này, Tam Kỳ không còn là một thị x ã nữa mà chỉ là một huyện. Ngày 24/6/1958 Bộ Trưởng Bộ Nội vụ Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà chia tỉnh Quảng Nam thành 12 đơn vị quân quản gọi là quận. Quận Tam Kỳ gồm một quận lỵ và 23 xã, lúc này Tam Kỳ chỉ là quận lỵ của quận Tam K ỳ. GVHD: Th.S Nguyễn Thị Vĩnh Linh S VTH: Bùi Thị Thu Ba - 11 -
  12. Đề tài tốt nghiệp - Tìm hiểu hệ thống đ ình làng ở thành phố Tam Kỳ Đến ngày 31/7/1962, Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà ra sắc lệnh số 162 - NV chia tỉnh Quảng Nam thành 2 đơn vị hành chính: tỉnh Quảng Nam ở phía Bắc và tỉnh Quảng Tín ở phía Nam. Thị xã Tam Kỳ là tỉnh lỵ của tỉnh Quảng Tín, quận Tam Kỳ gồm thị xã Tam Kỳ và 19 xã. Sau đó, Khu uỷ khu V đ ã chia Quảng Nam thành hai tỉnh là Quảng Đ à (ở phía Bắc) và Quảng Nam (ở phía Nam). Tỉnh Quảng Nam bao gồm một thị xã là Tam Kỳ và 6 huyện. Ngày 4/4/1975 UBND Cách mạng Nam Trung Bộ đã ra Quyết định số 119 -QĐ sáp nhập tỉnh Quảng Nam và Quảng Đà thành tỉnh Quảng Nam - Đ à Nẵng. Năm 1984 tỉnh Quảng Nam - Đà N ẵng gồm 16 đ ơn vị hành chính, 1 thành phố là Đà Nẵng và 2 thị xã là Tam Kỳ và Hội An, 13 huyện. Huyện Tam Kỳ tách thành hai đơn vị hành chính là thị xã Tam Kỳ (7 phường, 13 xã) và huyện Núi Thành (1 thị trấn, 13 xã). Ngày 6/11/1996 tỉnh Quảng Nam - Đ à Nẵng đ ược tách thành hai đơn vị hành chính độc lập là thành phố Đ à N ẵng và tỉnh Quảng Nam. Tỉnh Quảng Nam gồm 2 thị xã (Tam K ỳ và Hội An) và 12 huyện. Thị xã Tam K ỳ gồm 7 phường và 13 xã như cũ. Ngày 5/1/2005 một phần thị xã Tam Kỳ được tách ra để thành lập huyện Phú Ninh, sau khi tách 10 xã để thành lập huyện Phú Ninh, thị xã Tam K ỳ có cơ cấu đơn vị hành chính gồm 9 phường và 4 xã. Đến ngày 29/9/2006 thành phố Tam Kỳ được thành lập, hiện nay gồm 13 đơn vị hành chính (9 phường và 4 xã). Thành phố Tam Kỳ là tỉnh lỵ, là trung tâm hành chính - văn hoá - khoa học kỹ thuật của tỉnh Quảng Nam cho đến nay. Các xã, phường hiện nay của thành phố Tam Kỳ gồm: - Phường Phước Hoà. - Phường An Sơn. - Phường An Mỹ. - Phường Ho à Hương. - Phường An Xuân. - Phường Ho à Thuận. - Phường Trường Xuân (một phần xã Kỳ Hương cũ 1954 -1975). GVHD: Th.S Nguyễn Thị Vĩnh Linh S VTH: Bùi Thị Thu Ba - 12 -
  13. Đề tài tốt nghiệp - Tìm hiểu hệ thống đ ình làng ở thành phố Tam Kỳ - Phường Tân Thạnh (một phần xã Kỳ H ương cũ 1954-1975). - Phường An Phú (một phần xã K ỳ Phú cũ). - Xã Tam Phú (tách ra từ xã Kỳ Phú cũ). - Xã Tam Thanh (tách ra từ x ã K ỳ Phú cũ). - Xã Tam Ngọc (tách ra từ xã Tam Thái cũ). - Xã Tam Thăng (xã K ỳ Anh cũ). 1.2.2. Sự ra đời của danh xưng Tam Kỳ và ý ngh ĩa tên gọi Thế kỷ XI- X VIII chiếm một vị trí quan trọng trong tiến trình lịch sử Việt Nam bởi nó chứa đựng một biến động to lớn, sâu sắc về sự phát triển lãnh thổ và văn hoá của dân tộc. Vùng Thuận Hoá với sự cai trị của Nguyễn Hoàng, một chế độ cai trị khoan hòa “Chúa thường vỗ về thu dùng hào kiệt, sưu thuế nhẹ nhàng, được dân mến phục, thường gọi là chúa Tiên”[2], đã lôi kéo được nhiều người đến với vùng Thuận Hoá (đây là vùng đất cũ của Champa, được sáp nhập dần dần vào lãnh thổ Đại Việt, bắt đầu từ thời Lý) để sinh sống, làm ăn. Xứ Quảng Nam thời kỳ này bao gồm dải đất miền Trung từ đèo H ải Vân đến đèo Cù Mông, năm 1471 dưới thời Lê Thánh Tông đèo Cù Mông trở thành biên giới phía N am của Đại Việt. Cục diện Nam - Bắc triều với hai chính quyền Đàng Trong là vùng đất Thuận - Q uảng, Đ àng Ngoài là chính quyền vua Lê chúa Trịnh. Đ àng Trong với chính sách cai trị mềm dẻo, mở cửa phát triển kinh tế, đời sống người dân tăng thì ở Đ àng Ngoài “dân nghèo ngày một xiêu d ạt dần, cùng khốn quá lắm”. V ì vậy mà từ thế kỷ XI đến thế kỷ XV đã có nhiều lớp cư dân từ miền Bắc m à chủ yếu là vùng Thanh - N ghệ vào đây sinh cơ lập nghiệp, ngoài ra một số cựu thần nhà Minh “phản Thanh phục Minh” bị thất bại cũng chạy sang nương nhờ chúa Nguyễn Phúc Nguyên và đ ược ông giúp đỡ. Địa danh Tam Kỳ xuất hiện dưới thời nhà Nguyễn, bắt nguồn từ tên gọi của một vùng đất xưa nằm dọc con sông Ba Kỳ chảy qua vùng Phú Ninh, Trường Cửu..., một quần cư đông đúc với những hoạt động tấp nập dưới thời kỳ đó, vì vậy mà năm 1906 vua Thành Thái đã lấy địa danh Tam Kỳ đặt thay địa danh phủ Hà Đông thành phủ Tam Kỳ. GVHD: Th.S Nguyễn Thị Vĩnh Linh S VTH: Bùi Thị Thu Ba - 13 -
  14. Đề tài tốt nghiệp - Tìm hiểu hệ thống đ ình làng ở thành phố Tam Kỳ Có khá nhiều giả thiết giải thích cho sự ra đời của danh xưng Tam Kỳ nhưng đáng tin cậy nhất vẫn là giai thoại gắn liền với quá trình nam tiến của dân tộc. Trong cuộc hành trình mở cõi của mình, dưới thời Lê Trung Hưng (từ năm 1602) những đợt di dân ào ạt từ những cư dân Thanh - N ghệ - Tĩnh vào đây để khai khẩn, m ưu tìm đ ất sống. Họ liều lĩnh vượt biển vào xứ Quảng Nam, từ biển Đông nhìn vào đất liền những lưu dân này nhìn thấy ba mô đất nhô cao lên thành hình tam giác, đó là núi An Hà, núi Quảng Phú và dãy núi Trà Cai, thuyền họ tìm đường được vào đến đoạn sông Đò Ba Bến (nơi hợp lưu của sông Bàn Thạch với hai nhánh sông Tam Kỳ xưa). Nhận thấy đất đai màu mỡ, nước sông thuận lợi nên họ quyết định an cư tại đây, để định vị cho vị trí của mình họ tự đặt tên cho vùng đất này là đ ất Ba Gò, sau đổi dần thành Ba K ỳ và cuối cùng là Tam K ỳ. Chữ “Kỳ” trong gốc Hán có nhiều cách viết khác nhau và vì vậy cũng có nhiều nghĩa khác nhau. Tuy nhiên, căn cứ vào những sử liệu chính thống và gia phả của các tộc họ lớn ở địa phương như tộc Lê, Trần, Nguyễn, Ngô... thì dù “Tam Kỳ x ã” hay “Tam Kỳ phủ” đều có sự thống nhất trong cách viết chữ Kỳ , trong chữ Kỳ này có bộ “sơn” đứng trước nên còn có nghĩa là mô đất, gò đất cao, hay trong dân gian vẫn lưu truyền câu nói “Nước cạn cháy, cá chạy b ày kỳ”. 1.3. Sinh hoạt văn hoá của người dân 1.3.1. Kinh tế Đời sống của người dân Tam Kỳ xưa chủ yếu là nông nghiệp kết hợp với ngư nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, sản xuất và trao đổi hàng hoá dưới dạng nhỏ lẻ. Nghề đánh bắt cá, chế biến mắm, làm muối có từ lâu đời nhưng do tổ chức còn lạc hậu nên sản lượng thấp, nông nghiệp chịu nhiều ảnh hưởng của thiên tai nên đời sống của người dân còn khá bấp bênh. Nghề thủ công truyền thống cũng có từ khá sớm như nghề khai quặng, nấu sắt, rèn nông cụ ...ở Hồng Lư (Hoà Hương), nghề trồng bông dệt vải ở Bãi Dương, cây Duối (Tam Phú), nghề ươm tơ dệt lụa ở xóm Hàng (Hòa Hương), nghề trồng lát dệt chiếu ở Thạch GVHD: Th.S Nguyễn Thị Vĩnh Linh S VTH: Bùi Thị Thu Ba - 14 -
  15. Đề tài tốt nghiệp - Tìm hiểu hệ thống đ ình làng ở thành phố Tam Kỳ Tân (Tam Thăng), nghề trồng và làm thuốc lá ở Trường Xuân... Ngày nay, trong dân gian vẫn còn lưu giữ câu ca: “ Ai qua chợ Vạn, xóm Hàng Bên anh dệt lụa, b ên nàng quay tơ Quay tơ phải giữ mối tơ Một trăm mối kén còn chờ mối anh” [12] Tương truyền đô đốc Lê Văn Long quê ở Phú Xuân Trung (nay là Tam Ngọc) đã trang bị cho cơ đội mình vũ khí được rèn tại Hồng Lư trước khi ra Bắc. Trong kháng chiến chống Pháp, nghề dệt ở Xóm Hàng đã kết hợp với bà con Duy Xuyên, Điện Bàn tản cư vào đây đã lập nên xưởng may bà Tân, sản xuất những quân phục vệ quốc quân thời đó với màu xám tro giản dị. Hiện nay, đa phần các làng nghề đó đã b ị mai một, chỉ còn lại một ít nghề vẫn còn đ ược lưu giữ nhưng ở quy mô khá nhỏ như nghề rèn ở H ồng Lư (phường Ho à Hương) , nghề dệt chiếu cói ở Thạch Tân ... Tam K ỳ xưa còn được biết đến như một vùng đất của nhiều tài nguyên sản vật phong phú như chè, hạt tiêu, thuốc lá, tôm, mực, rau câu, cá... Vùng núi thì có các loại gỗ quý, trầm hương, dược liệu. Vì vậy mà trong người dân vẫn còn lưu truyền câu “thơm Chiên Đàn, chè Đức Phú, mức chợ Chùa, nước mắm An Hoà, thuốc lá Trường Xuân”. Ngày nay, Tam Kỳ đã và đ ang d ần chuyển mình, đ ời sống vật chất của người dân nơi đây đ ang d ần được cải thiện, Tam Kỳ đ ã có những bước phát triển mạnh mẽ và rõ nét, cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng tích cực và bền vững, quy hoạch và phát triển đô thị cũng như vùng ven có nhiều khởi sắc, cả thành phố đang phấn đấu cho một tương lai tốt đẹp hơn. Tình hình kinh tế - xã hội tháng 4 và 4 tháng đầu năm 2010 tiếp tục duy trì kết quả khá và tương đối toàn diện trên các mặt. Trong đó, sản xuất công nghiệp tăng khá (tăng 5,2% so với tháng 3, giá trị sản xuất ước đạt 2.896 tỷ đồng, đạt 27% kế hoạch năm, tăng 27,4% so với cùng kỳ); các lo ại hình dịch vụ tiếp tục phát triển, du lịch chuyển biến tích cực, giá cả thị trường tương đối ổn định, sức mua tăng khá; sản xuất nông nghiệp đảm bảo tiến độ gieo trồng; xuất GVHD: Th.S Nguyễn Thị Vĩnh Linh S VTH: Bùi Thị Thu Ba - 15 -
  16. Đề tài tốt nghiệp - Tìm hiểu hệ thống đ ình làng ở thành phố Tam Kỳ khẩu có nhiều khởi sắc (ước đạt 18,4 triệu USD, tăng 12,6% so với cùng kỳ, riêng khu vực liên doanh và đầu tư nước ngoài tăng 41%); khối lượng giải ngân các nguồn vốn đầu tư tăng khá; các mục tiêu văn hóa - xã hội đều đạt (hoàn thành và bàn giao nhà ở cho hộ nghèo), trật tự xã hội được đảm bảo (Báo Quảng Nam). Công tác quy hoạch và quản lý đô thị đạt được những kết quả nhất định, đã hình thành được các khu, cụm công nghiệp Trường Xuân, Thuận Yên, Tam Thăng, khu phố mới Tân Thạnh, các khu dân cư và đ ặc biệt là tập trung xây dựng các công trình giao thông, kè sông, kè biển Tam Thanh, trung tâm thương mại, siêu thị... Từ những thành tựu trên, tháng 10/2005 Tam Kỳ được công nhận là đô thị loại III và phấn đấu trở thành đô thi loại II trong năm 2010. Đến tháng 10/2006 Tam K ỳ trở thành thành phố trực thuộc tỉnh Quảng Nam, liên tục trong hai năm liền 2004- 2005 Tam Kỳ đ ược Chính phủ tặng cờ thi đua xuất sắc, được Chủ tịch nước tặng Huân chương Lao động hạng nhì. 1.3.2. Văn hoá Trải qua bao biến thiên của lịch sử, những thế hệ người dân Tam Kỳ vẫn giữ được cho m ình những nét văn hoá độc đáo, vừa mang nét chung của “con Lạc cháu Hồng” vừa mang nét riêng của những con người miền Trung hay “ ăn to nói lớn”, thật thà, dung dị. Cũng như nhiều địa phương khác, Tam Kỳ cũng có tín ngưỡng thờ thần làng hay còn gọi là thờ Thành Hoàng làng, các bậc tiền hiền đã có công khai khẩn đất hoang dựng nên làng. Ở khắp các thôn xóm đều có đình, miếu để thờ các vị có công và hàng năm cứ đến rằm tháng giêng (hoặc giữa tháng giêng) lại tổ chức lễ hội để tỏ lòng tri ân như: ở khối phố 4 phường Trường Xuân cứ đến 18 tháng giêng âm lịch hàng năm lại tổ chức lễ cúng linh đình, nhằm tỏ lòng biết ơn với vị tướng Lê Tấn Trung - một vị tướng đời Lê đ ã có công khai canh lập làng Trường Xuân trong lịch sử. Hay ở đình làng Mỹ Thạch (phường Tân Thạnh) hàng năm vẫn diễn ra lễ tế Bổn xứ Thành Hoàng để nhớ ơn tổ tiên khai khẩn vùng đất, khai cơ sự nghiệp cày cấy ở đây. GVHD: Th.S Nguyễn Thị Vĩnh Linh S VTH: Bùi Thị Thu Ba - 16 -
  17. Đề tài tốt nghiệp - Tìm hiểu hệ thống đ ình làng ở thành phố Tam Kỳ Cho đến nay, ở Tam Kỳ vẫn còn lưu lại những lễ cúng của cư dân nông nghiệp lúa nước như: lễ cúng đất, cúng cơm mới, cúng Thần Nông... mà hiện nay vẫn còn phổ biến và rõ nét ở nhiều xã như: Tam Ngọc, Tam Thăng, Tam Phú và một phần của phường Hoà Thuận, Tân Thạnh, Trường Xuân nơi mà còn khá nhiều hộ dân sống bằng nghề nông. N goài ra, nơi đây còn được biết đến như là x ứ sở của lễ tế vàng và lễ tế Kỳ kim, nhưng từ khi thực dân Pháp bắt đầu khai thác mỏ vàng Bồng Miêu từ đầu thế kỷ XIX thì những lễ tế này bắt đầu tàn lụi. Ở vùng biển Tam Kỳ còn diễn ra một số lễ hội như: lễ hội Cầu Ngư ở xã Tam Thanh, nơi đây cũng đã từng phát triển một số loại hình nghệ thuật như hình thức hát bộ (gánh hát Khánh Thọ nổi tiếng ở Quảng Nam), hát phường cấy, hát đưa đò, hát ru... Các tín ngưỡng về tang ma, thờ cúng tổ tiên, cưới hỏi... vẫn còn được lưu giữ tuy đã có loại bỏ bớt một số nghi lễ rườm rà, gây tốn kém mà vẫn không đánh mất giá trị vốn có của nó. Nằm trên mảnh đất thuộc vùng Thuận Quảng xưa, Tam Kỳ là nơi từng chịu ảnh hưởng của nhiều nền văn hoá khác nhau trong lịch sử mà dấu ấn vẫn còn lại cho đến ngày nay, dấu vết của văn hoá Bàu D ũ, Bầu N ê..., điển hình là sự có mặt của những cư dân Hoa kiều (người Minh Hương) hiện nay còn sinh sống khá đông ở phường Phước Hoà... Đan xen với những công trình kiến trúc truyền thống, những tín ngưỡng bản địa thì đời sống người dân cũng dần tốt hơn và các sinh hoạt lễ hội, các hoạt động văn hoá thường niên cũng được tổ chức như Ngày hội thơ vào tết Nguyên Tiêu hàng năm được tổ chức ở Văn Thánh Khổng Miếu, chợ Ẩm thực hay lễ giỗ Tổ Hùng Vương, bắn pháo hoa đón chào năm mới... Đời sống tín ngưỡng của người dân Tam Kỳ khá đa dạng và dung hoà, bằng chứng là trên tuyến đường quốc lộ 1A đi qua thành phố có đủ các điểm thờ phượng của nhiều tôn giáo khác nhau như Tin Lành, Cao Đài, Phật Giáo và Công giáo. GVHD: Th.S Nguyễn Thị Vĩnh Linh S VTH: Bùi Thị Thu Ba - 17 -
  18. Đề tài tốt nghiệp - Tìm hiểu hệ thống đ ình làng ở thành phố Tam Kỳ Chương 2. N hững đình làng tiêu biểu trên địa bàn thành phố 2.1. Đình làng Hương Trà 2.1.1. Khái quát về quá trình ra đ ời của làng Hương Trà Nằm ở hướng Đông Nam thành phố Tam Kỳ, Tây giáp quốc lộ 1A, Nam và Đông giáp sông Tam Kỳ, Đông Bắc giáp làng Phú Lộc ven sông Bàn Thạch, Bắc và Tây Bắc giáp làng Hương Sơn, làng Hương Trà là một trong năm khu vực có từ ngày đầu thành lập của xã Tam K ỳ thuộc huyện Hà Đông từ nhiều thế kỷ trước (Hương Trà, Hương Sơn, Hương Sơn Thượng, Hoà Phước, Hoà An ấp và Hoà An Khuôn). Tên làng hầu như không thay đổi suốt từ ngày thành lập đến nay. Họ tộc đến làng Hương Trà lâu nhất là tộc Trần. Gia phả tộc Trần ghi rõ ông tổ Trần Cảnh Lan người làng Kim Chuyết, huyện Hằng Hoá, tỉnh Thanh Hoá đến định cư tại đây vào những năm đầu tiên của niên hiệu vua Lê Ho ằng Định (1602). Những tộc họ khác có thể đến đây cùng thời nhưng cư ngụ ở các vùng lân cận, về sau mới đến định cư tại làng này. Đến đầu thế kỷ XVIII, làng Hương Trà trở thành nơi có cư dân đông đúc và trù phú nhất vùng, đây cũng được xem là vùng đất đầu tiên ở xứ Quảng mà lưu dân Việt tìm đến sinh sống nên làng còn có tên tục là làng Cái. Triều đình nhà Lê cho đ ắp đường thiên lý đi qua địa phận của làng, tuần đò Tam K ỳ nối liền cung đường thiên lý từ trạm Nam Ngọc (vùng Bình Tú, Thăng Bình bây giờ) đ ến trạm Nam Vân (vùng Tam Hiệp, Núi Thành bây giờ) từ đầu thời Nguyễn và sự hiện d iện của tuần đò này đã đ ược nhà sử học Lê Quý Đôn ghi nhận trong Phủ Biên Tạp Lục với số tiền thu thuế hằng năm của vùng đất ngả ba sông này. Cảnh buôn bán tấp nập trên bến dưới thuyền đã tụ hội nhiều lưu dân đến đây sinh sống, các tộc họ : Nguyễn, Lê, Hồ, Huỳnh, V õ, Ung, Bùi, Trịnh...từ Ninh Bình, Thanh Hoá, Nghệ An cùng tụ cư về đây trong cuộc di dân lập ấp quy mô dưới thời Lê Cảnh Hưng. Hiện nay, tại nhà ông Trần Văn Tuyền - hậu duệ của tộc Trần làng Hương Trà còn lưu giữ bản sắc phong của vua Lê Hiển Tông GVHD: Th.S Nguyễn Thị Vĩnh Linh S VTH: Bùi Thị Thu Ba - 18 -
  19. Đề tài tốt nghiệp - Tìm hiểu hệ thống đ ình làng ở thành phố Tam Kỳ (1740 -1786) b an thưởng cho ông Trần Văn Túc đã có công trong việc đốc thuế ở tuần đò Tam K ỳ (sắc ban vào ngày 21 tháng 2 năm Đinh Hợi - 1767). Có thể làng Hương Trà xưa là một khu vực sinh sống khá đông đúc của người Chămpa trước khi người Việt đến tiếp quản, dấu tích rõ nhất là một khu phế tích Chăm như chân móng tháp ở khu vực Trà Tây nằm ở đầu làng, làng cũng nằm gần khu vực đền tháp Chăm Khương Mỹ, tháp Một và di chỉ khảo cổ Bàu Dũ. Hiện nay, làng còn giữ tượng hai voi chiến Chăm, kiểu tượng này thường được đặt ở bệ cửa chính vào chân tháp. Tượng voi chiến ở di tích H ương Trà giống như tượng voi chiến tìm thấy ở của phế tích tháp Lạn thuộc khu tháp Chiên Đàn. Làng Hương Trà xưa vốn là một cồn cát nằm giữa hai nhánh sông Tam Kỳ, sau này do nhu cầu vậ n chuyển, ngay từ cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX người làng đã đắp một con đường đất nối với làng Hương Sơn thượng, vì vậy mà nhánh sông Tam Kỳ chảy về hướng làng Hương Sơn cạn dần và trở thành cánh đồng, nhánh còn lại của sông Tam Kỳ tiếp tục khoét sâu vào đ ịa phận làng Phú Hưng bên hữu ngạn (tức xã Tam Xuân 1, Núi Thành ngày nay) khiến một phần đất của Tam Xuân trở qua dính liền với làng Hương Trà, rẻo đất đó chính là vùng Phú Lộc ven sông Bàn Thạch ngày nay. “Con đường đắp” sỡ dĩ tồn tại được cho đến ngày nay là do người dân đã trồng rất nhiều cây sưa hai bên bờ sông để tránh sạt lở mỗi khi lũ về. Cây sưa, còn gọi là hương vườn, một lo ài cây thân gỗ rất chắc, cứ tới tháng ba âm lịch từ đầu đến cuối làng rực một sắc vàng thơm ngát. Theo cụ Trần Soa- một lương y nổi tiếng ở làng, cây này còn được người địa phương xưa gọi là Cửu lý hương (loài cây có hương thơm bay xa chín dặm). Và từ “ hương” trong tên gọi Hương Trà được lấy từ chính đặc trưng này của làng. Từ “trà” thì do ngày xưa bà con thường hay lấy lá của cây “chè phe” nấu uống, mỗi nhà đều có vại nước chè phe để trước nhà và thậm chí khách vãng lai khi đi qua làng cũng đ ược bà con ở đ ây mời uống thứ nước này, nó rất ngọt và mát nên b à con xem nó như một lo ại trà hảo hạng, bởi vậy mà có câu: GVHD: Th.S Nguyễn Thị Vĩnh Linh S VTH: Bùi Thị Thu Ba - 19 -
  20. Đề tài tốt nghiệp - Tìm hiểu hệ thống đ ình làng ở thành phố Tam Kỳ “ H ương ba vĩnh bảo quang thiên cổ Trà cẩm trường tồn kỷ vạn niên”. 2.1.2. Quá trình ra đời của đình làng Hương Trà Đình Hương Trà thuộc làng Hương Trà (nay là phường Hoà Hương, thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam). Ngôi đ ình toạ lạc trên m ột vùng đ ất cạnh bờ sông Tam Kỳ, nằm ở phía Đông N am của thành phố. Nhìn về hướng Tây cách quốc lộ 1A kho ảng 800m; hướng Đông - N am giáp sông Tam K ỳ; Đông - Bắc giáp làng Phú Lộc, ven sông Bàn Thạch; Tây - Bắc giáp làng Hương Sơn. Từ quốc lộ 1A theo đường Phan Chu Trinh đi về hướng Nam đến gần cầu Tam Kỳ, rẽ trái theo đường bêtông về hướng Đông, theo “rừng cừa” khoảng chừng 200m phía tay trái là đình làng Hương Trà (dân làng còn quen gọi tên khác là Chùa Ông). Đình Hương Trà nguyên thuỷ là một khu lăng miếu, dân làng gọi là “Miếu Ông”, tương truyền, những cư d ân Đ ại Việt đầu tiên đến đây bằng đường thuỷ, trên đường đi họ gặp bão tố trên biển và nhờ một con cá voi cứu giúp mà thuyền của họ cập vào được bến sông của vùng đất này. Ít lâu sau, một trận bão khác đã đánh dạt một con cá voi vào m ắt cạn rồi chết ở ngã ba sông, để tỏ lòng thành kính, biết ơn nhân dân đã lập miếu thờ “Ông Ngư”. Khi cuộc sống của dân làng trở nên ổn định, việc thờ cúng các tiền nhân và những người có công khai khẩn là một tín ngưỡng tồn tại trong phong tục tập quán người Việt, do vậy mà “Miếu Ông” được xây dựng thêm thành một ngôi đình khang trang. Theo lời kể của các bậc cao niên thì đình được xây dựng lại thành ba gian hai chái và miếu Ông trở thành gian hậu tẩm. Đình Hương Trà ban đầu là đ ình của làng Tam Kỳ, gian chánh điện thờ Thành Hoàng làng, còn tả ban hữu ban thờ các vị tiền hiền có công lập làng. Để thể hiện tinh thần cộng cư, người dân đã dùng hai khối sa thạch được chạm trổ công phu của người Chăm đặt hai bên tả, hữu cổng đình (Hiện nay, hai khối sa thạch này còn được lưu giữ ở ngôi trường làng). Như vậy, theo quá trình thành lập làng và bản sắc phong tướng Thần thì có thể nói ngôi đ ình được thành lập vào thế kỷ XVIII. GVHD: Th.S Nguyễn Thị Vĩnh Linh S VTH: Bùi Thị Thu Ba - 20 -
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2