intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài: Lịch sử chiến tranh Nam Bắc Triều Tiên và Triều Tiên sau chiến tranh

Chia sẻ: Nguyễn Thị Mộng Ý | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:28

147
lượt xem
15
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu chính của đề tài là phân tích lịch sử chiến tranh Nam Bắc Triều Tiên và Triều Tiên sau chiến tranh. Để hiểu rõ hơn, mời các bạn tham khảo chi tiết nội dung đề tài.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài: Lịch sử chiến tranh Nam Bắc Triều Tiên và Triều Tiên sau chiến tranh

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH   MÔN : LỊCH SỬ THẾ GIỚI ĐỀ TÀI LỊCH SỬ CHIẾN TRANH NAM BẮC TRIỀU  TIÊN  VÀ TRIỀU TIÊN SAU CHIẾN TRANH Giảng viên hướng dẫn:  Lê Phụng Hoàng  Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Mộng Ý  MSSV: 41.01.602.099 1
  2. Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 29 tháng 11 năm 2017 MỤC LỤC LỊCH SỬ CHIẾN TRANH NAM BẮC TRIÊU TIÊN VÀ  TRIỀU TIÊN SAU CHIẾN TRANH Chiến tranh Triều Tiên là cuộc chiến đầu tiên mà Liên Hiệp Quốc (LHQ),   một tổ  chức quốc tế, đã đóng vai trò quân sự. Tổ  chức này mới được  thành lập 5 năm về trước. Chiến  Tranh  Triều   Tiên   bùng  nổ  vào  ngày 25/6/1950 khi quân  đội  Bắc  Triều Tiên theo chế độ Xã hội, đã tràn qua biên giới, xâm lăng Nam Triều   Tiên. LHQ đã gọi cuộc xâm lăng này là một vi phạm vào nền hòa bình thế  giới và đã đòi hỏi quân đội Cộng Sản phải rút ra khỏi Nam Triều Tiên.  2
  3. Nhưng sau khi quân đội Cộng Sản Bắc Triều Tiên tiếp tục tấn công, Hoa   Kỳ  phải kêu gọi các quốc gia hội viên LHQ giúp đỡ  quân sự  cho Nam   Triều Tiên. 16 quốc gia đã gửi quân tham chiến tới đây và 41 nước khác  cũng đã chuyển tới các dụng cụ, thực phẩm và các tiếp liệu khác, trong khi   đó Hoa Kỳ  cung cấp 90 phần trăm binh lính, dụng cụ  quân sự  và các tiếp   tế khác cho Nam Triều Tiên. Phía Cộng Sản, ngoài Bắc Triều Tiên còn có  Trung Cộng, trong khi Liên Xô trợ giúp Bắc Triều Tiên bằng các dụng cụ  quân sự. I. Sự kiện mở đầu Từ tháng 9 năm 1948, Chính phủ Bắc Triều Tiên  đã ủng hộ nhiều cuộc nổi  dậy và đình công lao động ở Nam Triều Tiên khi họ tán thành sự thống nhất đất  nước. Tháng 4 năm 1948, họ đã thành công trong việc kêu gọi cuộc nổi dậy trên  đảo Cheju (Tế Châu loan), sau đó vào tháng 10 họ gây ra một cuộc nổi dậy quân  sự   ở  khu vực Yõsu Sunch'õn trong tỉnh Nam Chõlla (Toàn La đạo) qua các đặc  vụ  của mình trong các đơn vị  quân đội đóng  ở  Yỗsu Cuộc nổi dậy này xảy ra  khi quân đội  ở  Yỗsu dược lệnh đến đảo Cheju (Tế  Châu loan) để  khuất phục   cuộc nổi dậy  ở đó. Bắt đầu tháng 5 năm l949, một loạt các cuộc xung đột biên   giới ngang vĩ tuyến 38 thường xuyên xảy ra và ở  những nơi khác ở  Nam Triều  Tiên những người cộng sản đã tham gia chiến tranh du kích vào mùa thu năm  1949. Tuy nhiên, tất cả các cuộc nổi dậy và các cuộc nổi loạn này đầu bị  quân   đội Nam Triều Tiên dập tắt vào cuối năm 1949. Nhận thấy các cuộc nôi dậy và đình công này không lật đổ chính phủ Nam  Triều Tiên, Kim Il­sung (Kim Nhật Thành) đã viếng thăm Moscow hai lần năm   1949, ký các hiệp định về kinh tế và quân sự với Liên Bang Xô Viết. Theo những nguồn tin khác nhau của Trung Quốc và Nga cho biết lúc đó  Kim Nhật Thành đã thảo luận kế hoạch tấn công Nam Triều Tiên với Stalin. Và  khi   Mao Trạch Đông  ở  Trung Quốc viếng thăm Moscow năm 1949, Stalin và   Mao Trạch Đông cũng đã thảo luận kế  hoạch của Kim Nhật Thành. Được lời   tuyên bố  của ngoại trưởng Mỹ  Dean Acheson (tháng giêng năm 1950) khuyến  khích là loại trừ Nam Triều Tiên ra khỏi "vành đai phòng thủ" của Mỹ   ở  Viễn   Đông, Chính phủ  Bắc Triều Tiên quyết định tiến hành chiến tranh để  thống  3
  4. nhất Triều Tiên bằng vũ lực. Đầu năm 1950, sau khi quyết định, Kim II­sung  (Kim Nhật Thành) đến Moscow, và yêu cầu Stalin tán thành việc Bắc Triều Tiên  tấn công Nam Triều Tiên. Cuối cùng Stalin chấp thuận, ông trở  về  Pyongyang   (Bình Nhưỡng). Sau khi  được chấp thuận, Kim  Nhật Thành  cho Mao Trạch  Đông biết về  kế  hoạch của mình. Khi kế  hoạch của Kim Il­sung (Kim Nhật   Thành) được chấp thuận, Liên Bang Xô Viết thay thế tất cả các cố vân quân sự  ở  Bắc Triều Tiên bằng các sĩ quan cấp cao có kinh nghiệm chiến đấu, nhanh  chóng gửi nhiều xe tăng và các vũ khí khác tới Bắc Triều Tiên. Khi các cố  vân  quân sự  đến, kế  hoạch tấn công do các sĩ quan Liên Xô và sĩ quan Triều Tiên   sinh  ở  Nga trong quân đội Liên Xô thảo ra, và kế  hoạch chiến đấu hoàn thành  được gửi cho Kim Il­sung (Kim Nhật Thành) cuối tháng năm. Các đơn vị  quân   sự sẵn sàng chiến đấu được triển khai dọc theo vĩ tuyến 38. Vào ngày 22 tháng   6, hai tổng hành dinh chỉ  huy được thành lập. Lệnh chiến đấu đầu tiên bằng   tiếng Nga và tiếng Hàn được phát ra cho các vị chỉ huy sư đoàn ngày 24 tháng 6. 4
  5. II. Cuộc tấn công của Bắc Triều Tiên Sáng sớm chủ nhật ngày 25 tháng 6 năm 1950, bộ đội Bắc Triều Tiên khai   hỏa và các xe tăng do Nga chế tạo làm mũi nhọn dẫn đầu, băng qua vĩ tuyến 38.   Chiến tranh Triều Tiên đã bắt đầu. 56.000 bộ  đội Bắc Triều Tiên thâm nhập   vào Nam Triều Tiên từ  mọi điếm dọc theo vĩ tuyến 38 với tốc độ  đáng kinh  ngạc mà không bị  quân đội Nam Triều Tiên kháng cự  nhiều. Chỉ  ba ngày sau,   ngày 28 tháng, 6, Seoul bị chiếm và chính phú Nam Triều Tiên bị buộc phải chạy   trốn về phía nam. Bị bất ngờ, chính phủ Mỹ vội vàng gửi một số quân từ Nhật Bản tới Triều  Tiên để  chặn đứng cuộc tiến quân của Bắc Triều Tiên. Nhưng vào giữa tháng  bảy các đơn vị  đầu tiên của quân đội Mỹ  đã bị  bộ  đội Bắc Triều Tiên gần   Taejõn (Đại Điền) tiêu diệt hoàn toàn. Trong khi đó, Mỹ yêu cầu Hội Đồng Bảo   An Liên Hiệp Quốc lên án Bắc Triều Tiên và thành lập một lực lượng Liên   Hiệp Quốc gửi tới Triều Tiên để giúp đỡ miền nam. Sau khi lên án Bắc Triều Tiên, Hội đồng Bảo An yêu cầu các nước hội  viên Liên Hiệp Quốc gửi quân. Mười sáu quốc gia thân Mỹ  hưởng ứng lời kêu   gọi này và lực lượng Liên Hiệp Quốc được thành lập vơi tướng Mỹ  Douglas,  Mac­Arthur làm chỉ  huy trưởng. Chính phủ  Nam Triều Tiên cũng đặt các lực  lượng vũ trang của Nam Triều Tiên dưới quyền chỉ huy của Liên Hiệp Quốc. Các nước hội viên Liên Hiệp Quốc giúp đỡ  quân sự  cho Triều Tiên như   sau: Lục   quân:   Úc,   Bỉ,   Canada,   Colombia,   Cuba,   Ethiopia   Pháp,   Hy   Lạp,  Luxembourg, Hà lan, Tân Tây Lan,  Philippines,  Thái Lan, Thô Nhĩ Kỳ, Anh và  Mỹ. Hải quân: Úc, Canada, Colombia, Pháp, Tân Tây Lan, Thái Lan, Anh và Mỹ. Không quân: Úc, Canada, Nam Phi, Anh và Mỹ. Y tế: Đan Mạch, Ấn Độ, Ý, Na uy, Thụy điển, Anh và Mỹ. Các nước hội viên Liên Hiệp Quốc còn lại có sự  trợ  giúp khác là Costa  Rica và Panama. Quân đội Trung Quốc, Costa Rica, E1 Salvador và Panama trợ  giúp quân sự nhưng được hoãn lại. Chính phủ Bắc Triều Tiên đã tính sai ba điều quan trọng khi họ tiến hành  chiến tranh. Sai lầm thứ nhất là Mỹ sẽ không can thiệp, chưa kể đến Liên Hiệp   Quốc. Sai lầm thứ hai là nếu họ tiếp quản  Seoul thì chính phủ Nam Triều Tiên  sẽ  đầu hàng và chiến tranh sẽ  kết thúc. Sai lầm thứ  ba là khoảng "500.000"  5
  6. đảng viên bí mật của Đảng Công nhân Nam Triều Tiên sẽ  cộng tác với Bắc   Triều Tiên và cuộc khởi nghĩa của nhân dân cả  nước và lật đổ  chính phủ  Nam   Triều Tiên sẽ  nổ  ra. Lúc này rõ ràng sai lầm thứ ba được dựa trên đề  nghị  của   Pak Hõn­yõng (Phác  Hiến Vĩnh), nguyên  lãnh tụ  của  Đảng Công  nhân Nam  Triều Tiên đã chạy trốn ra miền bắc, trở thành phó thủ  tướng và ngoại trưởng   tháng 9 năm 1948. Bấy giờ, người ta biết rằng Chính phủ Bắc Triều Tiên không có ý định mở  rộng chiến tranh ra mọi nơi  ở Nam Triều Tiên. Do đó, sau khi tiếp quản  Seoul  (ở gần biên giới Bắc Triều Tiên, là một mục tiêu tương đối dễ), họ chờ đợi sự  đầu hàng của chính phủ  Nam Triều Tiên và các cuộc nôi dậy của quần chúng   khắp cả Nam Triều Tiên. Khi cả  hai điều đó không xảy ra, họ  tranh luận trong  ba ngày về việc làm gì tiếp theo. Ngày 1 tháng 7, Kim Il­sung ra lệnh cho bộ đội   tiến về hướng nam. Ngày 20 tháng 7, lực lượng Bắc Triều Tiên tiếp quản  Taejõn (Đại Điền)  buộc chính phủ Nam Triều Tiên di chuyến xa hơn nữa về phía nam, và hơn 2/3   lãnh thổ  của Nam Triều Tiên rơi vào tay của Bắc Triều Tiên. Ngày 15 tháng 8,  Kim Il­sung (Kim Nhật Thành) ra lệnh cho bộ dội tiếp quản vành đai Pusan (Phù  Sơn) khi quân đội Nam Triều Tiên và Mỹ  chiếm được vị  trí cuối cùng của họ  trong khu vực nhỏ   ở  phía đông sông Naktong (Lục Đông giang). Trong khi đó,   lực lượng Liên Hiệp Quốc bắt đầu đến Triều Tiên. Ngày 15 tháng 9, khi lực lượng Liên Hiệp Quốc dược củng cố  đầy đủ,  tướng MacArthur thực hiện thành công cuộc đổ bộ ở Inch'õn (Nhân Xuyên), làm  cho bộ đội Bắc Triều Tiên mắc kẹt ở miền nam. Đồng thời, quân đội Liên Hiệp  Quốc mở  một cuộc tấn công từ  vành đai  Pusan  (Phủ  Sơn), tiến về  phía bắc.  Ngày 28 tháng 9,  Seoul  được lấy lại, đầu tháng 10 quân đội Liên Hiệp Quốc   dưới quyền của chính phù Mỹ  và Liên Hiệp Quốc vượt qua vĩ tuyến 38 đuổi  theo bộ dội Bắc Triều Tiên đang rút lui. Lúc này, Kim Il­sung (Kim Nhật Thành)  cử công sứ sang Bắc Kinh tìm kiếm sự trợ giúp quân sự của Trung Quốc. III. Trung Quốc tham chiến Một thời gian sau khi cuộc phản công của Liên Hiệp Quốc bắt đầu, các   6
  7. nhà lãnh đạo Cộng sản Trung Quốc có những cuộc thảo luận sôi nổi về sự khôn  ngoan của việc gửi quân đội giải phóng Trung Quốc tới Triều Tiên. Khi thủ  tường Chu Ân Lai và những người khác phản đối biện pháp đó và quyết định   không thể  đạt được, Mao Trạch Đông cửDdoonu Âm Lai đến Moscow, tìm sự  giúp đỡ  ý kiến của Stalin. Sau khi tuyên bố Liên Bang Xô Viết không sẵn sàng  tiến hành chiến tranh  ở  châu Á, Stalin khuyến khích Trung Quốc giúp đỡ  quân  sự  cho Bắc Triều Tiên. Ngay sau đó, Chu Ân Lai yêu cầu Nga cho bộ đội Liên  Xô bảo vệ  Trung Quốc khi ông đồng ý đưa bộ  đội Trung Quốc tham gia vào  chiến tranh Triều Tiên. Thực hiện đúng lời cam kết của mình, Stalin gửi một sư  đoàn không quân, một sư đoàn pháo binh và nhiều tiểu đoàn chiến đấu đến biên  giới Trung ­ Hàn. Sử  dụng các căn cứ   ở  Mãn Châu, chính sư  đoàn không quân  này đã tham gia vào các trận không chiến với lực lượng Liên Hiệp Quốc. Mao Trạch Đông đã huy động bộ  đội của quân đội giải phóng nhân dân   Trung Quốc và gửi họ  đến Mãn Châu. Ngày 20 tháng 10, khi lực lượng Liên  Hiệp Quốc chiếm Pyongyang (Bình Nhưỡng) và tiến lên về phía sông Yalu (Ap  Lục giang), nhiều nhà lãnh đạo và quân đội Bắc Triều Tiên chạy vào Mãn Châu.   Chiến tranh có vẻ  gần chấm dứt, và tướng Mac  Arthur tuyên bố  những người  con Mỹ sẽ về nhà vào lễ Giáng sinh. Lúc đó, ngày 18 tháng 10, chính phủ Trung   Quốc quyết định gửi bộ đội đến Triều Tiên.   Giữa tháng 10, 250.000 "chí nguyện quân" cùa quân đội giải phóng  nhân dân  Trung Quốc tham gia chiến tranh với Bắc Triều Tiên và một  “cuộc chiến tranh   toàn diện mới” bắt đầu. Khoảng 1,5 triệu bộ  đội Trung Quốc nữa tham chiến,  buộc quân đội Liên Hiệp Quốc rút về phía nam. Deoul đổ nát đã đổi chủ lần thứ  tư ngày 14 tháng 3, khi lực lượng đồng minh lấy lại nó. IV. Đình chiến   Cuối mùa xuân năm 1951, lực lượng Liên Hiệp Quốc có thể  chặn  đứng hai cuộc tấn công lớn của Bắc Triều tiên đã bộc lộ  bế  tắc khi cuộc  chiến đấu đẫm máu vẫn tiếp tục trong chiến tranh phía đông và những cuộc  không kích của các đợn vị  không quân được tăng cường khắp Bắc Triều  Tiên. Lúc đó, chính phủ Mỹ bắt đầu những cuộc hội đàm bí mật với Trung  Quốc, Nhưng Trung Quốc đề  nghị  rút lui lực lượng Liên Hiệp Quốc và bộ  đội Trung Quốc Ra khỏi Triều Tiên đã tạo nên một rào chắc trong cuộc  7
  8. thương lượng. Lúc này, Trung Quốc tố  cáo Mỹ  đã tiến hành chiến tranh vi  trùng. Tháng 6 năm 1951, bế tắc bị phá vỡ khi liên bang Xô Viết đề nghị một  kế  hoạch ngưng bắn. Kết quả, các cuộc thảo luận đình chiến vào cuối   tháng sáu bắt đầu lần đầu tiên ở Kaesõng (Khai Thành), một thành phố Nam   Triều Tiên bị quân đội Bắc Triều Tiên tiếp quản, sau đó ở  một ấp nhỏ  tên  là Panmunjom (Bàn Môn Điếm). Hai vấn đề  khó khăn nhất phải giải quyết   là vị trí tuyến ngừng bắn (giới tuyến quân sự) và sự hồi hương tù binh. Các  cuộc thảo luận ngừng bắn kéo dài cho tới tháng 7 năm 1953, trong khi cuộc   chiến đấu tiếp tục ở  mặt trận phía đông. Trong khi đó, không muốn thấy chấm dứt đánh nhau trước khi Bắc  Triều Tiên hoàn toàn bị  tiêu diệt, tổng thống Rhee đã phóng thích khoảng  27.000 tù binh Bắc Triều Tiên không muốn hồi hương vào giữa tháng 6 năm   1953. Việc này tổng thống Rhee không biết có tham khảo ý kiến trước hay  không Bộ  tư  lệnh Liên Hiệp Quốc cho phép đã gây ra mối đe dọa nghiêm  trọng cho các cuộc thương lượng ngừng bắn. Tuy nhiên, chính phú Mỹ  thuyết phục Rhee không làm bế  tắc các cuộc tọa đàm bằng cách hứa hẹn   một hiệp ước phòng thủ hỗ tương giữa Mỹ và Nam Triều Tiên. Do đó, ngày 27 tháng 7 năm 1953, hiệp định đình chiến Triều Tiên được ký.  Với sự đình chiến này, khoảng 82.000 tù binh của Bắc Triều tiên, kể cả 6.700 tù  binh Trung Quốc được cho hồi hương. Lúc này, 16 nước hội viên Liên Hiệp  Quốc đã gửi quân tới Triều Tiên ra tuyên ngôn họ  sẽ  chiến đấu lại nếu Bắc  Triều Tiên tiếp tục chiến tranh chống miền Nam. Với việc ký kết ngừng bắn, một giới tuyến quân sự  ngừng bắn theo hình  chữ chi dài 137,1m được thiết lập, và một vùng phi quân sự rộng l,371km được  thành lập  ở  mỗi bên của giới tuyến. Đồng thời,  Panmunjom (Bàn Môn Điếm)  nơi ký kết ngừng bắn được chọn làm một vùng trung lập đế   Ủy ban giám sát   đình chiến của các quốc gia trung lập thành lập tổng hành dinh của ủy ban. Với   sự  đình chiến, Bắc Triều Tiên mất một lượng đất khá lớn  ở  phía đông, đồng  thời chiếm được một khu vực trồng lúa nhỏ  nhưng màu mỡ   ở  phía tây kể  cả  thành phố' Kaesong (Khai Thành). Trong số  những điều khác, đình chiến quy định ba tháng sau khi hiệp định   được ký và trở nên có hiệu lực, một hội nghị chính trị của cả hai phía sẽ  được   8
  9. tổ  chức để  giải quyết vấn đề  thoái lui tất cả  quân đội nước ngoài và "giải   quyết êm thấm vấn đề Triều Tiên". Tháng 10 năm 1953, hội nghị chính trị được   tổ  chức  ở  Panmunjom (Bàn Môn Điếm) nhưng hội nghị  bị đổ  vỡ  vào tháng 12.  Lúc đó, tại hội nghị  các ngoại trưởng  ở  Berlin  tháng 2 năm 1954 mọi người  quyết định rằng một hội nghị  phải được triệu tập  ở  Geneva để  tìm kiếm một  giải pháp hòa bình cho vấn đề Triều Tiên. Tháng 4 năm 1954, hội nghị  Geneva tổ  chức, 16 nước hội viên Liên Hiệp  Quốc dã gửi quân tới Triều Tiên tham dự cùng với Nam Triều Tiên, Bắc Triều  Tiên, Trung Quốc và Liên  Bang  Xô Viết.  Tuy nhiên, hội nghị  sụp đổ  khi Bắc  Triều Tiên và các đồng minh từ  chối công nhận thẩm quyền và khả  năng của  Liên Hiệp Quốc trong việc giải quyết vấn đề  Triều Tiên. Bắc Triều Tiên bác  bỏ  đề  nghị  do Liên Hiệp Quốc đưa ra là lực lượng Liên Hiệp Quốc vẫn còn ở  Triều Tiên cho tới khi nhiệm vụ  Liên Hiệp Quốc được hoàn thành bằng việc   tạo Lập một Triều Tiên thông nhất, độc lập và dân chủ. Khi không đạt được thỏa thuận nào về  vấn đề  Triều Tiên  ở  Geneva,  16  nước tham chiến  ở  Triều Tiên ra tuyên ngôn tuyên bố  rằng Liên Hiệp Quốc  được toàn quyền hành động tập thể để  đấy lùi sự  tấn công, phục hồi hòa bình  và an ninh, mở rộng sự giúp đỡ  để  tìm kiếm giải quyết hòa bình ở  Triều Tiên.   Các nước còn tuyên bố thêm là, các cuộc bầu cử tự do thực sự sẽ được tổ chức  dưới sự giám sát của Liên Hiệp Quốc để thành lập một quốc hội chung cho cả  Triều Tiên, trong đó người đại diện sẽ tương ứng trực tiếp với dân số bản xứ ở  miền bắc và miền nam. Khi hội nghị  Geneva giải tán vào tháng sáu, dù có tuyên ngôn của 16 nước,   miễn cưỡng chấp nhận ngừng bắn, nhưng tổng thống Rhee biểu lộ  ước muốn   của ông là cuộc chiến tranh thống nhất Triều Tiên tiếp tục lại. Tuy nhiên, Đại   hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua một nghị quyết tháng 11 năm 1955 tuyên bố  sự  đình chiến sẽ  có hiệu lực cho tới khi một hiệp định giải quyết vấn đề  hòa   bình Triều Tiên được thay thế. Do đó, vấn đề thống nhất được hoãn lại vô thời  hạn. Chiến tranh Triều Tiên gây ra nhiều thiệt hại về  người cũng như  tài sản:  157.500 người Mỹ thương vong, kể cả 33.625 người chết; số thương vong của   9
  10. quân đội Liên Hiệp Quốc là 14.000 (3.188 người chết); và 225.784 binh sĩ Nam  Triều Tiên bị  giết chết, 717.037 người bị  thương, và 43.572 người mất tích.   Khoảng 244.663 thường dân Nam Triều Tiên bị giết chết, trên 229.000 người bị  thương và 387.744 được liệt kê là mất tích và 84.523 người nữa bị  bắt làm tù   nhân ở Bắc Triều Tiên. Thủ đô Seoul hoàn toàn bị tiêu hủy và nhiều thành phố  lớn khác bị hủy diệt tương tự. Thực tế của cuộc chiến tranh tàn phá này sẽ sớm  được người Mỹ   ở  trong nước biết rõ khi các chuyến không vận (máy bay vận   chuyên) nhiều trẻ  sơ  sinh và trẻ  em mồ  côi được các gia đình người Mỹ  nhận  làm con nuôi sau này bắt đầu đến Mỹ. Thương   vong   về   phía   bộ   đội   Bắc   Triều   Tiên   là   294.151   người   chết,   229.849 người bị thương, và 91.206 người mất tích. Số thương vong thương dân   Bắc Triều Tiên là 406.000 người chết, 1.594.000 người bị  thương, và 680.000  người mất tích. Ngoài ra, 184.128 bộ đội Trung Quốc bị giết chết, 711.872 người   bị thương, và 21.836 người được liệt kê là mất tích. Đa  số các thành phố lớn của  Bắc Triều Tiên kể cả Pyongyang (Bình Nhưỡng), các nhà máy công nghiệp, các  thiết bị thủy điện, và hệ thống vận tải đường sắt hoặc bị tiêu hủy hoặc bị thiệt   hại nặng. Chiến tranh Bắc Triều Tiên tiến hành để thống nhất đất nước bằng vũ lực  đã không đạt được mục tiêu của nó. Chiến tranh chỉ gây ra cho con người sự đau  khổ khủng khiếp và mất mát tài sản. Chiến tranh đã để lại phía sau sự bât lợi  cho các nỗ lực thông nhất vùng đất bị chia cắt sau này. 10
  11. Vĩ tuyến 38 là ranh giới chia cắt bán đảo Triều Tiên thành hai quốc gia là   CHDCND Triều Tiên và Cộng hòa Triều Tiên (Hàn Quốc) từ  sau cuộc chiến   tranh Triều Tiên 1950 ­ 1953. Tại đây đang tồn tại một giới tuyến quân sự và cả   một bức tường ngăn cách hai miền còn đồ sộ  hơn cả bức tường Berlin ở nước   Đức trước đây. V. Bắc Triều Tiên sau chiến tranh 1953 Sau năm 1953 Bắc Triều Tiên phải đối phó với nhiều vấn dề. Ngoài tái  11
  12. thiết kinh tế và xã hội ra, đối với Kim II ­ sung (Kim Nhật Thành) bốn nhiệm vụ  khẩn cấp nhất là cúng cố lại chính quyền, xây dựng lại đảng, phục hồi kinh tế  và củng cố quân đội. Dù có những trở  ngại hình như  không thể  vượt qua được, nhưng với sự  giúp đỡ của Liên Bang Xô Viết, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác,  các nhà lãnh đạo Bắc Triều Tiên đã xây dựng lại cơ  sở  chính trị  và phát triển  kinh tế khi họ biến đôi Bắc Triều Tiên thành một nhà nước xã hội chủ nghĩa có  tổ chức cao. 1. Phát triển chính trị và quân sự Cấu trúc chính trị  của Bắc Triều Tiên vẫn giống như  vậy, nhưng số  tỉnh  tăng lên do lập ra hai tỉnh mới là Chagang và Yanggang. Tỉnh  Hwanghae (Hoàng  Hải đạo) phân chia thành nam và bắc, mở  rộng tỉnh  Kangwon  (Giang Nguyên  đạo) để bao gồm thành phố Wonsan (Nguyên Sơn) ở tỉnh Nam Hamgyõng (Hàm  Kính đạo) khi thị xã (Provincial capital) của nó trở thành tổng số chín tỉnh, giống  như   ở  Nam Triều Tiên sau sự  kiện này,  Ch'õngjin  (Thanh Tân) và Hamhũng  (Hàm   Hưng)   được   nâng   lên   cấp   thành   phố   đặc   biệt,   trong   khi   Kaesõng   và  Namp'o được chọn làm khu vực thành phố đặc biệt. Tháng 8 năm 1957, các cuộc bầu cử SPA lần đầu tiên sau chiến tranh được   tổ chức, 215 đại biêu được bầu. Lúc bắt đầu, mỗi đại biểu đại diện cho 50.000  cử tri, nhưng từ năm 1962 mỗi đại biểu đại diện cho 30.000 cử tri, tăng thêm số  đại biểu. Tháng 12 năm 1972, SPA thông qua một hiến pháp "Xã hội Chủ nghĩa"  mới, lập ra chức chủ tịch và phó chủ tịch, bầu Kim Il­sung (Kim Nhật Thành) là  chủ tịch. Đồng thời, hiến pháp mới hạ thấp tuổi đi bầu từ 18 tuổi xuống 17 tuổi  và đặt tên Pyongyang là thủ đô của nước. Với dân số tăng, số  đại biếu tăng lên  687 khi cuộc bầu cử SPA lần thư chín được tô chức vào tháng 4 năm 1990. Việc xây dựng lại KWP dần dần được hoàn thành. Trong chiến tranh, số  đảng viên từ trên 1 triệu giảm xuống dưới 600.000. Tuy nhiên, tiến trình tuyển   thêm được đẩy nhanh dẫn đến số đảng viên tăng lên 1,6 triệu (năm 1971) và trên  2, 5 triệu một chút (năm 1989) làm cho đảng Cộng sản Bắc Triều Tiên trở thành   một đảng Cộng sản lớn nhất thế giới tính theo mỗi đầu người. Năm 1989 dân   sô Bắc Triều Tiên là 21,4 triệu. Năm 1989, năm thành viên trong  ủy ban thường trực thuộc Bộ chính trị  có   12
  13. 15 thành viên và thuộc ủy ban trung  ương  KWP gồm 145 thành viên được thành  lập, là cơ quan hoạch định chính sách tối cao của nước với Kim Il­sung làm chủ  tịch. Con trai của ông (Kim Jõng­il) được chuẩn bị  làm người kế  vị  cha mình,  được bầu làm thành viên của  ủy ban có quyền lực lớn này cũng như  làm thành  viên của Ủy ban quân sự mà Kim Il­sung cũng là chủ tịch. Chính trị phát triển đáng kể nhất là củng cố  chế  độ  của Kim Il­sung. Kim  Il­sung đã thanh trừng một số  tướng lĩnh, kể  cả  Mu Chõng vào tháng 12 năm  1950 vì họ không tiếp quản được Nam Triều Tiên. Sau chiến tranh, Kim Il­sung  buộc tội phó thủ  tướng kiêm ngoại trưởng Pak Hon­yõng (Phác Hiến Vĩnh) và  các cựu Lãnh tụ khác của đảng Công nhân Nam Triều Tiên. Pak bị buộc tội cụ  thể là "gián điệp Mỹ" và những người khác bị tố cáo có âm mưu lật đổ sự lãnh   đạo của Kim Il­sung. Tiếp theo sự kiện này, Kim Il­sung thanh trừng một số lớn  những người theo Pak. Tháng 12 năm 1955, việc xử tử Pak được thông báo.  Năm 1955, Kim I1­sung (Kim Nhật Thành) đưa vào cái ông gọi là ý thức hệ  chuch'e (juche). Chuch'e có nghĩa là sự tự trị, sự độc lập, hay sự tự lực. Kim Il­ sung khẳng định rằng đó là "sự vận dụng sáng tạo tư tưởng Mác ­ Lênin." Kim  Il­sung làm cho tư  tưởng chuch'e của mình trở  thành tính chất chính thống của  chủ nghĩa Xã Hội Triều Tiên. Ông nhấn mạnh rằng đường lối đó thích hợp nhất  cho cách mạng Triều Tiên" và các đặc điểm của Triều Tiên. Người ta báo cáo rằng từ  năm 1956 đến năm 1958, khoảng 5.500 cá nhân  chống lại đảng đã bị  bắt giữ  và được gửi tới "các trung tâm cải tạo", khoảng  2.500 người bị xử tử, vả khoảng 60% đảng viên và nhân viên chính phủ bị thay   thế  vì không đáng tin cậy. Do đó, năm 1961, Kim Il­sung tuyên bố  rằng "các  phần tử  bè phái chống đảng và  ảnh hưởng ý thức hệ  xấu xa đã bị  trừ  tiệt, và  nhiệm vụ  lịch sử  là thống nhất hoàn toàn phong trào Cộng sản Triều Tiên" đã   được hoàn thành. Năm   1966,   Kim   Il­sung   bãi   bỏ   chức   phó   chủ   tịch   của   đảng,   tăng   thêm   quyền hạn của chức chủ tịch Đảng mà ông đang giữ. Năm 1972, khi hiến pháp   mới được thông qua, ý thức hệ  chuch'e  được tuyên bố  là "nguyên tắc chỉ  đạo  của nước Cộng hòa". Đồng thời, Kim Il­sung trở thành chủ tịch nước Cộng hòa   trong khi giữ chức chủ tịch của đảng. Chức chủ tịch đảng được đổi tên là tổng   13
  14. bí thư. Đồng thời, ông đã chuẩn bị cho em trai mình làm người kế vị mình trong  thập niên 1960. Nhưng giữa thập niên 1970, ông thay đổi ý kiến, ông chọn con   trai mình (Kim Jong­il) làm người kế vị mình. 2.Xây dựng quân đội Quân đội xây dựng lại cũng được đấy mạnh với việc chấp nhận chế  độ  nghĩa vụ quân sự cường bách năm 1957. Luật cưỡng bách tòng quân quy định tất  cả  thanh niên khỏe mạnh tuổi từ  18 đến 20, và tất cả  lính quân dịch thi hành  nghĩa vụ quân sự trong năm hay sáu năm. Số  bộ  đội của quân đội nhân dân tăng lên 678.000 (từ  năm 1957 đến năm  1979) và sau đó tăng lên 990.000 (năm 1990). Hiện thời, có 16 quân đoàn, 49 sư  đoàn và 65 lữ  đoàn, các quân binh chủng được trang bị  3.600 xe tăng, 2.300 xe   bọc sắt, và 9.400 pháo. Năm 1990, số thủy thủ trong hải quân tăng lên 45.000 và  không quân tăng lên 80.000. Hải quân được báo cáo có 429 tàu chiến, 24 tàu   ngầm, 237 tàu khác và không quân có 840 chiến đâu cơ, 480 phi cơ hộ  tống và   280 trực thăng chiến đấu. Ngoài lực lượng quân đội chính quy ra, Bắc Triều Tiên có 6,8 triệu quân dự  bị, và một lực lượng dân quân hai triệu người (thành lập năm 1959), gồm có đàn  ông lên tới 60 tuổi và phụ  nữ  lên tới 40 tuổi được huân luyện quân sự  cưỡng   bách, tham gia vào các cuộc diễn tập quân sự hàng năm và đột xuất để sẵn sàng  tham gia chiến đâu vào bất cứ lúc nào đã định sẵn. Từ năm 1970, tất cả học sinh  trên trình độ  trung học đều được tổ  chức thành Đội hồng quân thanh niên (Red  Youth Guards)  và được huấn luyện quân sự  cơ  bản. Trong khi đó, năm 1966,  tiến trình phòng thủ toàn quốc bắt đầu khi nhiều phi trường được xây dựng và  các đường hầm lớn được đào để chứa máy bay, tàu hải quân. Một thời gian sau,   quân đội Bắc Triều Tiên bắt đầu đào nhiều đường hầm  ở  dưới vùng phi quân   sự  ngang qua giới tuyến ngừng bắn để  làm các lộ  trình bí mật vào Nam Triều  Tiên. Các đường hầm này dược khám phá năm 1974, 1975 và 1978. Bắc Triều   Tiên không chỉ  sản xuất một số  lớn tên lửa Scub B sau năm 1987 mà còn thiết   lập các bệ phóng tên lứa Scub dọc theo giới tuyến ngừng bắn. 14
  15. 3. Phát triển kinh tế và xã hội Phục hồi và phát triển kinh tế không chỉ là nhiệm vụ cap bách nhất mà còn  là nhiệm vụ  khó khăn đối với chính phủ  Bắc Triều Tiên sau chiến tranh.  Ước  tính khoảng 80% khả năng sản xuất của Bắc Triều Tiên bị chiến tranh tiêu hủy,   nhiều nhà máy công nghiệp và các đập thủy điện hoặc bị tiêu hủy hoặc bị thiệt  hại nặng. Sản xuất điện năng giảm còn 708.000 tấn, và xi măng 27.000 tấn năm   1953. Sản xuất ngũ cốc giảm dưới một triệu tân trong năm đó. Dân số  cũng  giảm xuống còn khoảng 7,5 triệu. . a. Phát triển kinh tế Để tái thiết kinh tế, chế độ Bắc Triều Tiên thực hiện nhiều kế hoạch khác  nhau với sự giúp đỡ của Liên Bang Xô Viết và các nước Xã hội chủ nghĩa khác:  kế  hoạch 3 năm (1954 ­ 1956), kế  hoạch 5 năm (1957 ­ 1961), kế  hoạch 6 năm  (1971 ­ 1976), và hai kế  hoạch 7 năm (1961 ­ 1967 và 1978 ­ 1984). Kế  hoạch 3   năm (1954 ­ 1956) dành để phục hồi hậu chiến, trong khi các kế hoạch theo sau   nhắm đến khuếch trương công nghiệp, đặc biệt công nghiệp nặng. Kế hoạch 7  năm lần thứ  nhất (1961 ­ 1967) được hoàn thành trong 10 năm, châm dứt năm  1970, vả  kế  hoạch 6 năm lần thứ  nhất (1971 ­ 1976) chấm dứt năm 1977 vì   nhiều vấn đề, kể cả việc thiếu ngân quỹ và nguyên liệu. Năm 1985, kế hoạch 7   năm lần thứ ba bắt đầu. Trong hệ  thông kinh tế  bị  kiểm soát chặt chẽ, kế  hoạch nhà nước có hệ  thống, huy động toàn thể nhân lực, và được Liên Bang Xô Viết và các nước Xã  hội chú nghĩa khác giúp đỡ  tài chánh và trợ  giúp, Bắc Triều Tiên phục hồi và   phát triển kinh tế  nhanh vào giữa thập niên 1960. Do đó, tổng sản lượng quốc  gia (GNP) tăng tư  320 triệu đô la (năm 1953) lên 3,6 tỷ  đô la (năm 1967) và lợi   tức tính theo mỗi đầu người tăng từ 41 đô la (năm 1953) lên 218 đô la (năm 1967).  Trong thời kỳ  này, phần nông nghiệp trong tổng sản lượng quốc gia giảm tư  59.1% xuống 19,3% trong khi phần công nghiệp tăng tư 23,2% lên 62,3%. Sau năm 1967, Liên Xô giảm viện trợ, cộng với chế độ quan liêu ngày càng   tăng, kinh tế  tăng trưởng chậm lại. Tuy nhiên, tổng sản lượng quốc gia đạt  được 13,6 tỷ đô la vào năm 1982 với lợi tức tính theo mỗi đầu người là 736 đô la   15
  16. trong năm đó. Năm 1989, tổng sản lượng quốc gia của Bắc Triều Tiên đạt đưực   mức 21,1 tỷ  đô la với lợi tức tính theo mỗi đầu người là 987 đô la. Tỷ  lệ  tăng  trưởng GNP trung bình mỗi năm cho tới năm 1988 là 3,0% nhưng giảm xuống  còn 2,4% năm 1989. Năm 1990, một học giả  Liên Xô báo cáo là GNP của Bắc  Triều Tiên năm 1989 thực tế là 19,5 tỷ đô la với lợi tức tính theo mỗi đầu người   là 400 đô la. Để tăng sản xuất, Kim Il­sung (Kim Nhật Thành) đã hướng dẫn "tại chỗ",   mở  đầu nhiều chương trình mới. Chương trình đầu tiên trong các chương trình  này là phong trào "Ngựa bay" bắt đầu năm 1955. Trong phong trào này, khoảng  một triệu công nhân được huy động và được tổ  chức thành "các tổ  công tác  Ngựa bay" (Flying Horse Work Teams), họ   được phân cho nhiều dự  án khác  nhau để  hướng dẫn các công nhân địa phương. Tất cả  các nông trường đều  được tổ chức thành 3.843 nông trường hợp tác xã năm 1958, châm dứt quyền sở  hữu tư  đất canh tác, và các đất canh tác được lệnh làm theo "phương pháp   Ch'õngsan­ri,"   mà   Kim   Il­sung   phác   thảo   tại   nông   trại   hợp   tác   xã   mẫu   ở  Ch'õngsan­ri, gần Pyongyang (Bình nhưỡng) năm 1960. Phương pháp này nhằm   làm cho các công nhân được phân công  ở  các nông trường hợp tác xã tăng sự  nhiệt tình và kỹ năng kỹ thuật cũng như các nông dân, hủy bỏ chế độ  quan liêu  và "chế độ đô đốc phủ" (commanderism) của các công nhân đảng viên. Đối với  các công nhân công nghiệp, tháng 12 năm 1960 Kim I1­sung giới thiệu "Phương   pháp Taean" tại một nhà máy nằm  ở  Taean gần Pyongyang. Phương pháp này   được cho là bản sao của “Phương pháp Ch'õngsan­ri" nhằm thúc đẩy quyền lãnh  đạo tập thể của  ủy ban đảng và công nhân ở  mỗi nhà máy. Tháng 2 năm 1973,  ba cuộc cách mạng (cách mạng tư  tưởng, cách mạng công nghệ  và cách mạng  văn  hóa)   được   đề   xướng  để   thúc   đẩy kinh  tế  phát  triển.  Với  sự  kiện  này,  khoảng 60.000 cán bộ trẻ chọn lọc của đảng được tổ chức thành "ba đơn vị nhỏ  Cách mạng", họ được gửi tới các nông trường và nhà máy để khuyến khích các  nông dân và công nhân làm việc tích cực hơn. Theo kế  hoạch nhà nước (ưu tiên cho phát triển công nghiệp nặng), Bắc   Triều Tiên đạt được các kết quả  tăng trưởng công nghiệp một cách ấn tượng.   Tỷ lệ tăng trưởng công nghiệp trung bình hàng năm trong thời kỳ 1957 ­ 1961 là   36,6% nhưng giảm xuống còn 12,8% từ giữa Thập niên 1960, và trong thập niên  1970 và thập niên 1980 tỷ lệ tăng trưởng công nghiệp trung bình hàng năm giảm  thêm nữa. Tuy nhiên, từ  năm 1954 ­ 1979, sản xuất điện năng tăng lên 40 triệu  16
  17. Kwh, sản xuất than tăng lên 65 triệu tấn, xi măng tăng 8,8 triệu tấn, và phân bón  hóa học tăng 4,5 triệu tấn năm 1979. Sau năm 1979, Bắc Triều Tiên ngưng xuất   bản các báo cáo chi tiết về  tăng trưởng kinh tế, và khó đánh giá chính xác sự  phát triển kinh tế  sau năm đó. Tuy nhiên, người ta báo cáo là năm 1989, Bắc   Triều Tiên sản xuất 55,5 triệu kwh điện khí, 85 triệu tấn than, 7 triệu tấn thép,   13,5 triệu tấn xi măng và 5,6 triệu tấn phân hóa học. Trong khi đó, từ năm 1953 ­   1979, số công nhân công nghiệp tăng từ 524.000 lên 1,5 triệu. Vì nhấn mạnh đến  phát triển công nghiệp nặng, phát triển công nghiệp nhẹ tụt lại xa phía sau, làm   cho hàng hóa hàng ngày thiếu hụt nghiêm trọng và hạ thấp tiêu chuẩn sống. Tất   cả các hàng hóa không cơ bản (như xà phòng, khăn tắm, giày và quần áo) bị hạn  chế, giá hàng hóa không được phân phối theo quy định (như viết, máy thu thanh,  và xe đạp) quá cao, công nhân trung bình không thể mua sắm được. Đốì với Bắc Triều Tiên, lương thực đầy đủ là một nhiệm vụ vĩ đại. Dù có  nhiều khu vực trồng lúa ở phía tây, nhưng Bắc Triều Tiên canh tác phần lớn là   cây kê và khoai tây, lệ thuộc nhiều vào nguồn cung cấp gạo từ miền nam trước   năm 1945. Sau chiến tranh Triều Tiên, các vùng phía đông trở thành các khu vực   trồng bắp, trong khi các khu vực Hwangju (Hoàng Châu) và Sariwon vẫn còn là  một vùng trồng trái cây với táo là vụ chính. Để  tăng sản xuất gạo, Bắc Triều Tiên thực hiện các dự  án khai hoang   nhiều tham vọng, biến đổi các vùng bằng phẳng chịu ảnh hưởng của thủy triều   và các đồi thấp thành những khu vực trồng lương thực. Các nhà trong nông  trường được xây dựng lại trên các sườn đồi cách xa ruộng lúa để tăng diện tích   trồng lúa. Sản xuất phân bón hóa học bắt đầu năm 1956, với việc tái thiết nhà   máy phân bón hóa học ở Hũngnam (Hưng Nam). Chính phủ Bắc Triều Tiên thông báo số lượng ngũ cốc sản xuất tăng tăng  từ 2,3 triệu tấn (năm 1954) lên 9 triệu tấn (năm 1979). Các nguồn tin tức độc lập  khác  ước tính số  lượng ngũ cốc thực sự  sản xuất  ở  Bắc Triều Tiên năm 1979  không hơn 4,9 triệu tấn. Trong số  này, 2,4 triệu tấn là gạo và phần còn lại là  bắp. Năm 1989, số lượng sản xuất ngũ cốc thực sự của Bắc Triều Tiên khoảng   4,9 triệu tấn, do hạn hán và lũ lụt của bốn năm trước. Trong số  này, 2,2 triệu  tấn là gạo và 2,7 triệu tấn là bắp. Do đó, lương thực tiếp tục thiếu hụt trầm   trọng khi dân số tăng từ khoảng 7,5 triệu (năm 1954) lên 21,4 triệu (năm 1989). 17
  18. Ngũ cốc thiếu kinh niên buộc Bắc Triều Tiên mua một số lượng lớn lương  thực của Liên Bang Xô Viết và Trung Quốc. Chỉ riêng thời kỳ 1970 ­ 1976, Bắc  Triều Tiên bỏ  ra 112 triệu đô la để  mua ngũ cốc  ở  nước ngoài. Trong tình hình  như thế, lương thực được phân phối hạn chế  cho cá nhân theo tuổi tác và loại   công việc mà người đó làm: công nhân công nghiệp được nhiều hơn, trong khi  người già và trẻ em được ít hơn. Số ngũ cốc được chia theo khẩu phần, 25% là   gạo và 75% là bắp. Thương mại theo đúng nghĩa không tồn tại  ở  Bắc Triều Tiên, tất cả  các   cửa hàng đều do chính phủ quản lý. Không được phép có doanh nghiệp tư nhân  kể cả nhà hàng. Tất cả các căn hộ và nhà ở trong nông trường đều thuộc quyền  sở hữu của chính phủ, và tiền thuê thấp không thể tin được; tiền thuê mỗi tháng  của một căn hộ  có một phòng ngủ, một nhà bếp, và một phòng tắm cho một   công nhân trung bình là 2,50 đô la mỗi tháng, cộng với vật dụng (khoảng 4 đô  la). Tuy nhiên, lương của công nhân cũng thấp. Kể  từ  năm 1989, tiền lương  trung bình của một công nhân nhà máy khoảng 90 đô la mỗi tháng, tiền lương   của bác sĩ y khoa và giáo sư đại học khoảng 185 đô la mỗi tháng. Theo các nhà lãnh đạo Bắc Triều Tiên, việc đánh thuế  bị  bãi bỏ, nhưng  người dân có thu nhập được "khuyến khích" quyên tặng cho chính phú vì nhiều  mục đích, và dành dụm càng nhiều càng tốt "để  trợ giúp tài chính cho nhân dân  Nam Triều Tiên" sau này. Các nông dân trong các nông trường hợp tác xã giao sản phẩm của mình  cho chính phủ  và nhận dược một phần thu họach nào đó cũng như  số  tiền trả  cho ngũ cốc và các mặt hàng khác mà họ sản xuất. Tât cả nông dân bị ràng buộc   vào nông trường tập thể  như  tất cả  công nhân nhà máy bị  ràng buộc vào nhà   máy của mình. Chỉ sau khi được chính quyền cho phép, họ mới có thể đổi nghề.  Nhưng hầu như không thể có được sự cho phép đó. Vấn đề  kinh tế  gây rắc rối nhiều nhất của Bắc Triều Tiên là thiếu hụt   mậu dịch kinh niên. Chi tiêu khoảng 35% ngân quỹ quốc gia hàng năm cho quân  đội, và có ít hảng hóa xuất khấu, các khoản nợ  của Bắc Triều Tiên với các  nước Xã hội chủ nghĩa (là các đối tác kinh doanh chính của Bắc Triều Tiên) tăng  đều đặn. Ví dụ, năm 1975 khôi lượng hàng xuất khẩu của Bắc Triều Tiên là  18
  19. $400 triệu so với khối lượng hàng nhập khẩu là 1.075 triệu đô la. Năm 1970, sau   khi Bcắc Triều Tiên thiết lập quan hệ  thương mại với Nhật Bản và một vài  nước không theo Xã hội chủ nghĩa khác (Nam Triều Tiên và Mỹ  không có quan  hệ thương mại bình thường với Bắc Triều Tiên kể  từ năm 1990), tình hình trở  nên tồi tệ  hơn. Năm 1989, khối lượng hàng nhập khẩu của Bắc Triều Tiên đã  tăng lên 2,5 tỷ đô la trong khi khối lượng hàng xuất khẩu chỉ lên đến 1.559 triệu  đô la. Do đó, năm 1979, Bắc Triều Tiên trở thành quốc gia Xã Hội chủ nghĩa đầu  tiên không trả được nợ  nước ngoài, kết quả là tín dụng phương Tây bị  cắt bớt   nghiêm trọng. Năm 1979, Bắc Triều Tiên ký một hợp đồng với Nhật, sắp xếp   lại việc trả  nợ  quá khứ  trong 10 năm, bắt đầu năm 1980, nhưng năm 1983, lại   không thể trả nửa năm một lần, Bắc Triều Tiên tiếp xúc với Nhật để  hoãn trả  tiền vốn nợ, và ký một hợp đồng khác với Nhật, hoãn trả nợ cho tới năm 1986.  Tuy nhiên, Bắc Triều Tiên không thể giữ lời hứa vào năm 1986. Năm 1984, Bắc Triều Tiên đề  xướng liên doanh với một số  nước tư bản.  Đồng thời, "doanh nghiệp tư nhân" được cho phép hoạt động, nhưng năm 1989  du khách báo cáo không thấy cửa hàng hay doanh nghiệp tư nhân nào theo đúng   nghĩa. Tình trạng kinh tế trở nên xấu hơn trong những năm gần đây. Theo nguồn  tin của Nhật Bản, ngoại thương của Bắc Triều Tiên giảm khoảng 10% (năm  1989), tình hình không thể được cải thiện vì nợ chưa thanh toán và các nước Xã   hội chủ nghĩa chuyển đổi sang ngoại tệ mạnh. Năm 1989, khối lượng hàng xuất  khẩu  của Bắc Triều Tiên là 1,6 tỷ  đô la thấp hơn năm trước 6,6%, và khối  lượng hàng nhập khẩu của Bắc Triều Tiên là 2,5 tỷ  đô la cũng thấp hơn năm   trước 12,1%. Khối lượng hàng xuất khẩu của Bắc Triều Tiên sang Trung Quốc  giảm khoảng 20,7% còn 185 triệu đô la và khối lượng hàng nhập khẩu của Bắc  Triều Tiên tăng khoảng 9,3% lên 377 triệu đô la. Mậu dịch của Bắc Triều Tiên  thiếu hụt năm 1989 là 900 triệu đô la, và nợ nước ngoài của Bắc Triều Tiên năm  1989 được ước tính là 6,8 tỷ đô la với số tiền nợ Liên Bang  Xô Viết kể từ tháng  11 là 3,6 tỷ đô la và tiền nợ Nhật khoảng 330 triệu đô la. Việc Liên Xô giảm mạnh viện trợ kinh tế cộng với việc Liên Xô yêu cầu   Bắc Triều Tiên thanh toán hàng hóa mà Bắc Triều Tiên mua của Liên Bang Xô  viết  bằng ngoại tệ  mạnh đã làm Bắc Triều Tiên thêm khó khăn về  kinh tế.   19
  20. Đồng thời, Trung Quốc và Liên Bang Xô Viết giảm bán dầu và ngũ cốc cho Bắc  Triều Tiên sau năm 1987 đã làm cho tình hình kinh tế càng nghiêm trọng. Nhiều  báo cáo khác nhau công bố  năm 1989 và 1990 cho biết lương thực và xăng dầu  thiếu hụt chưa từng có đã gây ra những kết quả suy thoái kinh tế   ở  Bắc Triều   Tiên. b. Xã hội  Bắc Triều Tiên là một xã hội khép kín, được tổ chức chặt chẽ, và được đặt vào   khuôn phép ở mức độ cao với lối sống khổ hạnh. Các khẩu hiệu như khổ hạnh,   tính chất đồng nhất, và phục tùng phản ánh cách sống của người dân. Hiến pháp   nói rõ rằng quyền và nghĩa vụ  của công dân được dựa trên nguyên tắc tập thể  một người vì mọi người và mọi người vì một người". Dù Bắc Triều Tiên là   một xã hội vô giai cấp, nhưng một nhóm người  ưu tú mới, tầng lớp các viên  chức đảng cấp cao có đặc quyền đã xuất hiện ở đó. Một số ít người nước ngoài  từ "các quốc gia tự do" được phép viếng thăm  Bắc Triều Tiên vì một mục đích đặc biệt cho tới năm 1980. Sau thời gian đó,  nhiều du khách nước ngoài được phép vào Bắc Triều Tiên. Tuy nhiên, cho tới  năm 1988, con số  này vẫn còn nhỏ  và chỉ  những người được chọn mới được  phép đến các địa phương chọn sẵn trong Bắc Triều Tiên. Mọi người đều phải tham gia ít nhất một tổ  chức xã hội (trừ  người già):   trẻ em đến 13 tuổi tham gia vào Thiếu niên tiền phong Triều Tiên, thanh niên và  thanh nữ  từ  14 đến 30 tuổi tham gia vào Đoàn thanh niên lao động xã hội chủ  nghĩa, tất cả  phụ  nữ  tuổi từ  30 đến 50 thuộc về  Đoàn phụ  nữ  dân chủ  Triều  Tiên. Tất cả những tổ chức đó được xem là "đội bảo vệ danh dự và các chiến sĩ   coi thường cái chết" và "người bảo vệ đảng", và họ được yêu cầu thực hiện các  mệnh lệnh của Kim Il­sung nhân danh "cách mạng Triều Tiên". Tất cả nông dân được tổ chức thành các hội nông dân, tất cả các nhân viên   văn phòng và công nhân nhà máy được tổ chức thành các công đoàn tương ứng.   Nhiều người có nghề nghiệp khác nhau như bác sĩ, y tá, giáo viên, nhà văn, nhạc   sĩ,  họa  sĩ, diễn viên,  và những  nhà làm  phim thuộc về   các  công  đoàn nghề  nghiệp tương  ứng của mình. Cùng với quân đội, các tổ  chức và công đoàn này  trở thành các công cụ hữu ích cho đảng, đấu tranh cho ý thức hệ chuch'e và tham  gia vào phong trào "Ngựa Bay" của thập niên 1950 và thập niên 1960, phong trào  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2