ĐỀ TÀI: “ MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ VÀ SỐ LIỆU VỀ HOẠT ĐỘNG KH&CN THẾ GIỚI GIAI ĐOẠN 2003-2007”
lượt xem 14
download
Bước vào những năm đầu của thiên niên kỷ mới, hoạt động khoa học và công nghệ (KH&CN) thế giới có những bước phát triển vượt bậc. Đổi mới và hợp tác KH&CN là hai xu thế chính thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế toàn cầu và cũng là hai nhân tố tác động trực tiếp tới năng suất, việc làm và nâng cao đời sống của nhân loại. Sau những năm bản lề, 2003 - 2007 có thể coi là giai đoạn mở màn cho sự phát triển KH&CN trong thập niên đầu của thiên...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: ĐỀ TÀI: “ MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ VÀ SỐ LIỆU VỀ HOẠT ĐỘNG KH&CN THẾ GIỚI GIAI ĐOẠN 2003-2007”
- - - - - - - LUẬN VĂN ĐỀ TÀI: MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ VÀ SỐ LIỆU VỀ HOẠT ĐỘNG KH&CN THẾ GIỚI GIAI ĐOẠN 2003-2007
- MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ VÀ SỐ LIỆU VỀ HOẠT ĐỘNG KH&CN THẾ GIỚI GIAI ĐOẠN 2003- 2007 1
- LỜI GIỚI THIỆU Bước vào những năm đầu của thiên niên kỷ mới, hoạt động khoa học và công nghệ (KH&CN) thế giới có những bước phát triển vượt bậc. Đổi mới và hợp tác KH&CN là hai xu thế chính thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế toàn cầu và cũng là hai nhân tố tác động trực tiếp tới năng suất, việc làm và nâng cao đời sống của nhân loại. Sau những năm bản lề, 2003 - 2007 có thể coi là giai đoạn mở màn cho sự phát triển KH&CN trong thập niên đầu của thiên niên kỷ mới. Những bước phát triển của KH&CN giai đoạn này là nền tảng để đưa KH&CN thế giới phát triển lên một tầm cao mới ở những thập niên tiếp theo. Nhận thức được tầm quan trọng của những xu thế mới này, nhiều quốc gia trên thế giới đã và đang nỗ lực đầu tư nhằm đẩy mạnh hoạt động KH&CN, đồng thời có những quyết sách mạnh mẽ như ưu đãi về thuế, chương trình phát triển nguồn nhân lực KH&CN nhằm thúc đẩy các hoạt động KH&CN. Để giúp bạn đọc có thêm thông tin về những vấn đề trên, Trung tâm Thông tin KH&CN Quốc gia biên soạn và xuất bản Tổng quan: "MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ VÀ SỐ LIỆU VỀ HOẠT ĐỘNG KH&CN THẾ GIỚI GIAI ĐOẠN 2003- 2007". Đây là những vấn đề có tính toàn cầu rất rộng lớn, nên trong quá trình tổ chức thu thập tài liệu, xử lý không tránh khỏi những mặt hạn chế, rất mong bạn đọc chia sẻ và thông cảm. Trung tâm Thông tin KH&CN Quốc gia 2
- I. BỨC TRANH HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU VÀ PHÁT TRIỂN (R&D) CỦA THẾ GIỚI 2003-2007 1.1. Đầu tƣ cho R&D và tri thức của các nƣớc Trong những năm qua, đầu tư cho tri thức ở nhiều nước trên thế giới đã tăng mạnh. Đầu tư cho tri thức được xác định là tổng chi phí cho nghiên cứu và phát triển, chi phí cho giáo dục đại học (cả nhà nước và tư nhân) và đầu tư phát triển phần mềm. Nguồn đầu tư này rất cần thiết cho đổi mới, phát triển kinh tế, tạo công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân. Năm 2004, nguồn đầu tư cho tri thức chiếm 4,9% GDP của các nước trong Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD). Các nước có mức đầu tư cho tri thức cao hơn mức trung bình của các nước trong (OECD) là Mỹ (6,6%), Thuỵ Điển (6,4%), Phần Lan (5,9%), Nhật Bản (5,3%) và Đan Mạch (5,1%) GDP. Trong khi đó, các nước như Ai-len, Bồ Đào Nha và Hy Lạp đạt mức thấp hơn với các tỷ lệ 2,5% GDP ở Ai-len và dưới 2% ở Bồ Đào Nha và Hy Lạp. Hầu hết các nước OECD đều tăng cường đầu tư cho tri thức. Theo hầu hết cá c báo cáo của các quốc gia, ngoại trừ Ai-len, mức đầu tư cho tri thức tính theo GDP đã cao hơn trong năm 2004 (hoặc 2003) so với năm 1997. Hơn thế, Mỹ và Nhật là 2 nước có mức đầu tư tăng đột biến so với EU. Đầu tư cho máy móc và thiết bị (tỷ lệ % trong GDP) đã giảm, ngoại trừ ở một số nước như: Hy Lạp, Italia, Tây Ban Nha và Áo. Đặc biệt hơn, cả Áo và Hy Lạp, đầu tư cho máy móc và thiết bị cao hơn mức đầu tư cho tri thức. Đầu tư cho máy móc và thiết bị chiếm khoảng 6,5% GDP của toàn bộ OECD. Năm 2004 (hoặc 2003), đóng góp cho đầu tư dao động từ 6% (như ở Ai-len, Pháp) đến khoảng 9% (ở Nhật, Italia và Hy Lạp). Ở Mỹ và Bỉ, giáo dục đại học là lĩnh vực quan trọng trong việc mở rộng đầu tư cho tri thức. Như ở Nhật Bản, Thuỵ Điển, Pháp, Hà Lan và Anh, tăng chi phí đầu tư cho phần mềm là nguồn đầu tư chính cho việc gia tăng đầu tư cho tri thức. Bên cạnh đó, R&D lại là nguồn đầu tư chính cho đầu tư cho tri thức ở các nước: Đan Mạch, Phần Lan, Canađa, Tây Ba Nha, Đức, Bồ Đào Nha, Hy Lạp, Áo và Ôxtrâylia. 1.1.1. Xu hướng đầu tư cho R&D nội địa của các nước Trong những năm gần đây, chi phí đầu tư cho R&D của khu vực OECD tăng đều đặn, mặc dù mức tăng này vẫn chậm hơn so với nửa cuối những năm 90 của thế kỷ trước. Tổng chi phí cho R&D tăng 4,6% hàng năm từ năm 1995 đến năm 2001, nhưng chỉ tăng chưa đến 2,2%/năm trong giai đoạn 2001-2005. Năm 2005, chi phí cho R&D của các nước OECD lên tới 771,5 tỷ USD (theo mãi lực tương đương-PPP), chiếm khoảng 2,25% GDP của OECD. Từ giữa những năm 90 của thế kỷ trước, chi phí cho R&D tăng đều ở Mỹ, Nhật và EU (khoảng 2,9%/năm). Tỷ lệ của 3 khu vực chính này trong tổng chi phí R&D của OECD duy trì ổn định ở mức 42% (Mỹ), 30% (EU) và 17% (Nhật Bản) trong năm 2005. Nếu xét trên phạm vi thế giới, 3 khu vực này chiếm 37.7% (Mỹ), 24,1% (EU) và 12,7% (Nhật Bản) tổng chi phí cho R&D thế giới trong năm 2005 và có giảm nhẹ trong năm 2007, với các mức 31,9%, 12,5% và 23,2% tương ứng (xem Bảng 1). 3
- Năm 2005, ở cả 2 khu vực Nhật và EU, chi phí đầu tư cho R&D tính theo GDP đã tăng lên ngưỡng 3,2% và 1,8% sau đợt giảm mạnh năm 2004. Chi phí đầu tư R&D của Mỹ giảm mạnh từ mức 2,76% (năm 2001) xuống 2,6% (năm 2006), nguyên nhân là do mức tăng GDP của khu vực này mạnh hơn so với khu vực khác. Năm 2005, Thụy Điển, Phần Lan và Nhật Bản là 3 nước duy nhất trong OECD có tỷ lệ đầu tư cho R&D vượt quá 3% GDP, trong khi tỷ lệ đầu tư trung bình của OECD là 2,2%. Trong số các quốc gia OECD, các nước đầu tư chi phí cho R&D tăng mạnh là Ai-xơ-len, Thổ Nhĩ Kỳ, Ai-len và Phần Lan kể từ năm 1995 với mức tăng hàng năm trung bình vượt quá 7,5%. Các nền kinh tế không thuộc OECD cũng là các nhà đầu tư R&D quan trọng. Ở mức 115 tỷ USD, chỉ số GERD (Gross domestic expenditure on R&D - chi tiêu nội địa ròng cho R&D) của Trung Quốc năm 2005 mới chỉ đạt được ½ so với EU và đã tăng trên 18% từ năm 2000. Chỉ số GERD cũng tăng mạnh ở Nam Phi (từ năm 1997 tới năm 2004 đạt 8,5% hàng năm), trong khi GERD ở Nga đạt đến 16,7 tỷ USD năm 2005. Bảng 1: Chi tiêu R&D ở một số quốc gia và khu vực Chi tiêu R&D toàn cầu Tỷ lệ GDP theo R&D theo R&D theo R&D theo mãi lực mãi lực mãi lực mãi lực R&D/ 2005, tỷ, 2005, tỷ, 2006, tỷ, 2007, tỷ, GDP USD 2005, % USD USD USD Châu Mỹ 15874 2,3 369,07 379,69 387,64 Mỹ 12192 2,6 319,60 328,90 335,50 Châu Á 19086 1,8 341,30 361,85 384,01 Trung Quốc (lục địa) 8859 1,4 124,03 136,30 149,80 Nhật 3890 3,2 124,48 127,84 131,29 Ấn Độ 3611 1,0 36,11 38,85 41,81 Châu Âu 12764 1,8 236,09 240,16 244,42 Đức 2388 2,5 59,68 60,21 60,75 Pháp 1879 2,2 41,36 42,10 42,86 Anh 1933 1,9 36,72 37,39 38,06 Các nƣớc khác 2276 1,4 31,88 33,76 35,68 Thế giới 50002 2,0 978,34 1.015,46 1.051,75 Chiếm tỷ lệ R&D toàn cầu (%) 2005 2006 2007 Châu Mỹ 37,7 37,5 36,8 Mỹ 32,7 32,4 31,9 Châu Á 34,9 35,6 36,5 Trung Quốc 12,7 13,4 14,8 Nhật Bản 12,7 12,6 12,5 Ấn Độ 3,7 3,8 4,0 Châu Âu 24,1 23,6 23,2 Đức 6,1 5,9 5,8 Các nƣớc khác 3,3 3,3 3,5 Thế giới 100,0 100,0 100,0 (Nguồn: Tạp chí R&D, OECD, World Bank) 4
- Bảng 2: Chi tiêu R&D của một số nước Chi tiêu R&D toàn cầu Mức tăng Tỷ lệ GDP theo R&D R&D R&D mãi lực trƣởng R&D theo mãi theo mãi theo mãi tƣơng lực tƣơng lực tƣơng lực tƣơng GDP trên đƣơng đƣơng đƣơng đƣơng 2004- GDP, phần (PPP) 2005, (PPP) (PPP) (PPP) 2005, tỷ, phần trăm 2005, tỷ, 2006, tỷ, 2007, tỷ, trăm USD USD USD USD 629,1 2,5 1,7 10,70 11,00 11,29 Ôxtrâylia 265,2 1,9 2,3 6,10 6,22 6,34 Áo Bỉ 330,7 1,5 1,9 6,93 7,08 7,25 1556,0 2,4 1,0 24,44 25,03 25,63 Braxin Canađa 1033,9 2,9 2,0 10,66 21,26 21,88 Trung Quốc (Đại 8859,0 9,9 1,4 124,03 136,30 149,80 lục) Trung Quốc (Đài 631,5 3,0 2,2 13,89 14,42 14,97 Loan) Đan Mạch 175,0 3,4 2,6 4,55 4,66 4,77 Phần Lan 165,8 2,2 3,5 5,80 5,98 6,16 1879,9 1,4 2,2 41,36 42,10 42,86 Pháp Đức 2388,6 0,9 2,5 59,68 60,21 60,75 168,0 4,1 0,9 1,51 1,57 1,64 Hungary Ấn Độ 3611,0 7,6 1,0 36,11 38,85 41,81 152,3 4,7 1,1 1,68 1,75 1,84 Ai-len 154,5 5,2 4,5 6,95 7,31 7,69 Ixraen 1629,5 0,1 1,1 19,55 19,58 19,65 Italia Nhật Bản 3890,0 2,7 3,2 124,48 127,84 131,29 Hàn Quốc 1051,5 3,9 2,6 27,33 28,39 29,50 290,2 5,3 0,7 2,03 2,14 2,25 Malaixia 1092,1 3,0 0,4 4,37 4,50 4,63 Mêxicô 514,7 1,1 1,9 9,78 9,78 10,00 Hà Lan 182,9 3,9 1,8 3,29 3,42 3,56 Na Uy 508,4 3,2 0,6 3,05 3,15 3,25 Ba Lan Bồ Đào Nha 206,0 0,3 0,8 1,85 1,86 1,87 1589,0 6,4 1,3 20,66 21,98 23,30 Nga 124,3 6,4 2,2 2,73 2,91 3,10 Singapo 533,2 4,9 0,8 4,27 4,47 4,69 Nam Phi 1124,6 3,4 1,1 12,36 12,78 13,22 Tây Ban Nha Thuỵ Điển 283,5 2,7 3,9 11,04 11,33 11,64 Thuỵ Sỹ 255,5 1,8 2,6 6,63 6,75 6,87 Thổ Nhĩ Kỳ 601,0 5,6 0,7 4,21 4,44 4,69 1933,3 1,8 1,9 36,72 37,39 38,06 Anh Mỹ 12192,6 3,5 2,6 319,60 328,90 335,50 (Nguồn: Tạp chí R&D, OECD, World Bank) 5
- Các nền kinh tế không thuộc OECD cũng chiếm một phần lớn trong R&D thế giới. Ví dụ, năm 2005, các nước Achentina, Trung Quốc, Chilê, Ixraen, Rumani, Nga, Singapo, Nam Phi, Slôvakia và lãnh thổ Đài Loan chiếm 21,4% chi phí cho R&D (được thể hiện theo mãi lực tương đương-PPP) của cả các nước OECD và không thuộc OECD, tăng so với mức 17% của 4 năm trước. Cho tới nay, Trung Quốc là nước chiếm tỷ lệ lớn nhất, lên tới 55% chi phí R&D của các nước không thuộc OECD. Nước này đang đứng thứ 3 toàn cầu, sau Mỹ và Nhật Bản, vượt qua cả EU. Tuy nhiên, việc chuyển đổi từ đồng nội tệ sang đồng USD tính theo mãi lực tương đương đã làm cho sự đánh giá nỗ lực phát triển và nghiên cứu của Trung Quốc trở nên quá cao. Năm 2005, Ixraen có cường độ tập trung cho R&D lớn nhất thế giới, nước này đã chi 4,5% GDP vào R&D, tăng 2 lần so với mức trung bình của OECD. Trung Quốc, lãnh thổ Đài Loan và Singapo là những nền kinh tế không thuộc OECD có mức đầu tư cho R&D vượt trên mức trung bình của OECD. Tại hầu hết các nền kinh tế không thuộc OECD nói trên, mức tăng của đầu tư cho R&D luôn vượt trên tỷ lệ trung bình của OECD. Trung Quốc cần tăng đầu tư cho R&D ít nhất 10-15% mỗi năm. Các nước thành viên mới và nhỏ của EU cũng báo cáo đạt tốc độ phát triển hai con số. R&D công nghiệp gắn bó mật thiết với việc tạo ra những sản phẩm và những công nghệ sản xuất mới. Vì vậy, nó là động lực quan trọng để phát triển kinh tế. Tuy nhiên, ở những nước không thuộc OECD cũng như những nước thuộc OECD kém phát triển, phần lớn R&D do Chính phủ và các cơ sở giáo dục đại học thực hiện. Bảng 3 thể hiện mối tương quan về thực hiện R&D ở một số nước. Có thể thấy R&D do ngành công nghiệp thực hiện chiếm phần lớn ở những nước tiên tiến như Mỹ, Anh, Pháp, Nhật Bản và Trung Quốc. Ba Lan là nước có tỷ lệ R&D do nhà nước thực hiện cao nhất (chiếm 40,7%) Bảng 3: Thực hiện R&D ở một số nước Thực hiện R&D (%) Ngành công nghiệp Chính phủ Khác Ôxtrâylia 48,8 20,3 30,9 Áo 66,8 5,7 27,5 Bỉ 74,1 6,4 19,5 Braxin 53,0 11,0 36,0 Canađa 61,2 28,7 10,1 Trung Quốc 68,6 11,9 19,5 Đan Mạch 70,5 9,7 19,8 Phần Lan 62,3 17,1 20,7 Pháp 69,8 13,4 16,8 Đức 36,7 31,3 26,7 Hungary 36,7 31,3 26,7 Ai-len 70,1 8,1 21,8 Ixraen 73,0 5,8 21,2 Italia 49,1 18,4 32,6 Nhật Bản 75,0 9,3 15,8 Hàn Quốc 76,1 12,6 11,3 6
- Mêxicô 30,3 39,1 30,6 Hà Lan 58,4 13,8 27,8 Na Uy 57,5 15,1 27,5 Ba Lan 27,4 40,7 31,9 Bồ Đào Nha 31,8 20,8 47,5 Nga 69,9 24,5 5,6 Tây Ban Nha 54,1 15,4 30,5 Thuỵ Điển 74,1 3,5 22,4 Thuỵ Sỹ 73,9 1,3 24,8 Thổ Nhĩ Kỳ 33,7 7,4 58,9 Anh 65,7 9,6 24,6 Mỹ 68,9 9,1 22,1 (Nguồn: Global R&D Report, 2007) Hình 1 thể hiện phân bổ R&D công nghiệp toàn cầu năm 2007, ba ngành công nghiệp gồm: máy tính và thiết bị điện tử, y tế và tự động hoá là những lĩnh vực có mứ đầu tư R&D lớn nhất. Hình 1: Phân bổ R&D công nghiệp toàn cầu 2007 Y tÕ 21% Tù ®éng hãa 18% M¸y tÝnh vµ thiÕt bÞ ®iÖn tö 25% C«ng nghÖ 8% Kh¸c Hãa chÊt vµ n¨ng l-îng 2% 7% Tiªu dïng 4% V iÔn th«ng PhÇn mÒm và Internet 2% C¸c ngµnh 5% c«ng nghiÖp Hµng kh«ng vò trô vµ 5% quèc phßng 3% (Nguồn: Booz Allen Hamilton) 7
- Hộp 1 1. - Sức mạnh, mức tăng trƣởng và Độ ổn định trong đầu tƣ R&D ở Top 3 nƣớc đứng đầu Mỹ - Nhật Bản - Trung Quốc Mỹ đang là nước dẫn đầu toàn cầu trong chi tiêu, thực hiện và đạt thành quả cao trong lĩnh vực R&D trong suốt 25 năm qua. Thậm chí, với tác động của toàn cầu hoá và xu hướng "gia công" R&D ở nước ngoài đang diễn ra hiện nay, vị trí này không dễ bị lung lay trong thời gian trước mắt. Nhật Bản vững vàng ở vị trí thứ hai trong đầu tư R&D trong cùng thời kỳ, theo sát Mỹ ở mức từ 41% tới 45% chi tiêu R&D của Mỹ. Tuy vậy, trong những năm qua, "cặp đôi R&D năng động" này đã có thêm sự tham dự của Trung Quốc, nước có mức tăng trưởng R&D ngoạn mục. Các mức tăng trung bình hàng năm của đầu tư R&D trong 12 năm qua giao động từ 4% tới 5% cho Mỹ, Nhật Bản và EU-25. Mức tăng này tương phản mạnh với mức tăng trưởng hàng năm là 17% trong chi tiêu R&D của Trung Quốc, tỷ lệ này đã tăng tốc một cách chóng mặt trong 5 năm qua, thể hiện ở mức tăng 20% trung bình hằng năm (theo USD). Tính theo tỷ giá hối đoái theo mãi lực tương đương, đầu tư R&D của Trung Quốc thực sự đã ngang bằng với mức đầu tư của Nhật Bản đầu năm 2006, và được kỳ vọng là sẽ vượt xa nước này trong những năm tới. Với vai trò là tỷ lệ của GDP, đầu tư R&D của Trung Quốc trong những năm qua đã tăng từ chưa tới 1,0% lên tới 1,6% hiện nay. Tuy nhiên, tỷ lệ này vẫn còn cách xa với tỷ lệ 2,6% GDP của Mỹ và 3,2% GDP của Nhật Bản. Sự tiến bộ nhanh chóng của Trung Quốc trong đầu tư R&D so với cả Mỹ và Nhật Bản chưa từng xảy ra trong lịch sử gần đây. Những con số này được củng cố bởi mức tăng trưởng của lực lượng nghiên cứu viên công nghiệp của Trung Quốc. Nếu năm 1991, lực lượng này chỉ bằng 16% lực lượng lao động nghiên cứu của Mỹ thì năm 2002, lực lượng này đã bằng 42%. Nên biết, số lượng các nhà nghiên cứu công nghiệp của Mỹ (1,1 triệu người) tương đương với số lượng các nhà nghiên cứu công nghiệp ở tất cả 29 nước OECD còn lại. Trong suốt thập niên 90 thế kỷ trước và những năm đầu thế kỷ 2000, nền kinh tế Nhật Bản suy thoái và thể hiện một mức tăng trưởng âm. Mặc dù đầu tư R&D tiếp tục tăng trong thời kỳ này, nhưng các mức tăng trưởng bị kìm hãm bởi những khó khăn của nền kinh tế. Trong giai đoạn này, Mỹ, Trung Quốc và các nền kinh tế Châu Á khác đã chuyển dịch sang các khu vực chế tạo công nghệ cao nhanh hơn cả EU-15 và Nhật Bản. Kết quả là, Châu Âu và Nhật Bản tiếp tục mất thị phần trong lĩnh vực chế tạo công nghệ cao. Nỗ lực phát triển kinh tế gần đây của Nhật Bản bắt đầu từ năm 2002 và được kỳ vọng là tiếp tục tiếp diễn ít nhất cho tới năm 2007, thể hiện rõ ở những tiến bộ trong thị trường lao động và gia tăng xuất khẩu. Tuy nhiên, vì Nhật Bản nổi lên từ giai đoạn đình trệ kinh tế này, nên vẫn còn có những thách thức nội tại đối với các chiến lược R&D của nước này để duy trì mức tăng trưởng tổng thể. OECD đã đưa ra các đề xuất cho Bộ Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản, bao gồm: - Tập trung nâng cao hiệu suất của chi tiêu R&D hơn là đáp ứng mức chi tiêu cụ thể này; - Duy trì mức linh hoạt trong phân bổ tài trợ R&D nhà nước; - Nâng cao hơn nữa tầm quan trọng của R&D dịch vụ; - Tập trung hỗ trợ R&D cho các công ty mới khởi nghiệp; - Tăng cường hợp tác quốc tế. 8
- 1.1.2. R&D của các doanh nghiệp kinh doanh R&D của các doanh nghiệp kinh doanh (BERD) chiếm phần lớn hoạt động và tài chính R&D ở các quốc gia OECD. Năm 2005, R&D của các doanh nghiệp đã tăng lên tới 542 tỷ USD, xấp xỉ 68% tổng R&D. Hoạt động R&D của các doanh nghiệp thuộc các nước OECD đã tăng ổn định trong 2 thập kỷ qua. Tốc độ tăng cao vào nửa cuối những năm 90 thế kỷ trước, nhưng lại giảm dần từ năm 2001. R&D của doanh nghiệp Mỹ tăng 3,6% vào 1995-2005, của EU tăng 3,0% và Nhật Bản tăng 4,6%. Từ năm 1995-2005, BERD của khu vực OECD tăng 143 tỷ USD. Mỹ chiếm 40% trong sự tăng trưởng này. Từ năm 1995, tỷ lệ tăng trung bình hàng năm của R&D trong doanh nghiệp đạt mức cao nhất ở Trung Quốc, Mê-hi-cô, Ai-xơ-len, Bồ Đào Nha và New Zealand. Chỉ riêng Cộng hoà Slôvakia bị sụt giảm nghiêm trọng. Năm 2005, BERD ở Trung Quốc đạt mức 78,7 tỷ USD. Ở Nhật, Mỹ và Châu Âu, R&D của doanh nghiệp tăng từ giữa những năm 90 đến năm 2000. Tỷ lệ này tiếp tục tăng ở Nhật, nhưng giảm xuống 2,6% ở Mỹ vào năm 2005, sau khi đạt mức 2,9% vào 5 năm trước, và giảm nhẹ ở EU trong khoảng thời gian 2001-2005. Mức đầu tư R&D doanh nghiệp luôn trên mức trung bình của OECD, 2,2% ở tất cả các quốc gia Bắc Âu ngoại trừ Na Uy.Xu hướng tăng cũng có thể thấy rõ ở Thụy Điển (4,6%), Phần Lan (3,7%). Ai-xơ-len cũng đã tăng 1,5% kể từ năm 1995. Các công ty lớn hay nhỏ đều giữ vai trò quan trọng tron g hoạt động đổi mới ở các nước, nhưng tác động của nó tới R&D lại khác nhau. Ở các nước OECD, các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs- là những doanh nghiệp dưới 250 nhân viên) ở các nền kinh tế nhỏ hơn đóng góp cho hoạt động R&D nhiều hơn so với các nền kinh tế lớn. Các công ty vừa và nhỏ đóng góp phần lớn cho hoạt động R&D doanh nghiệp ở New Zealand (73%), Greece (53%), Na Uy (52%), Slôvakia (51%), Ai-len (47%). Ở các nước EU lớn hơn, tỷ lệ này ở dưới mức 20% và ở Mỹ thì ít hơn 15%. Nhật Bản chỉ với 8%, là nước có tỷ lệ R&D của các SMEs nhỏ nhất trong các nước OECD. Các công ty có ít hơn 50 người cũng đóng góp trên 20% cho hoạt động R&D doanh nghiệp ở các nước Na Uy, New Zealand, Ai-len và Ôxtrâylia. Giữa các nước OECD, có sự khác biệt lớn trong việc phân bổ ng uồn tài chính của Chính phủ cho hoạt động R&D doanh nghiệp. Ở Bồ Đào Nha và Hungary, các công ty vừa và nhỏ được nhận hơn ¾ nguồn tài trợ cho R&D của Chính phủ. Tại Bồ Đào Nha, Hungary và Ôxtrâylia, các công ty dưới 50 công nhân được nhận hơn 50% nguồn tài trợ R&D của Chính phủ. Anh, Pháp, Mỹ là các quốc gia phân bổ tài trợ R&D doanh nghiệp của Chính phủ cho các công ty lớn nhiều nhất. 9
- - R&D của doanh nghiệp theo ngành công nghiệp Khi cơ cấu kinh tế của các nước OECD dịch chuyển sang các ngành dịch vụ, thì các ngành này vẫn chiếm tỷ lệ R&D nhỏ hơn nhiều so với GDP. Năm 2004, các ngành dịch vụ chiếm 28% tổng R&D của khu vực kinh doanh trong các nước OECD, tăng 11% từ năm 1995. Nếu xét tới những khó khăn trong việc xác định các dịch vụ và những phương pháp khác nhau dùng để phân loại chi tiêu R&D của doanh nghiệp theo ngành công nghiệp, thì tỷ lệ này có thể còn thấp hơn nữa. Tỷ lệ BERD của các ngành dịch vụ thường cao hơn ở các nước đang thực hiện nhiều nỗ lực xác định các dịch vụ, cũng như những nỗ lực phân loại R&D theo hoạt động chính của doanh nghiệp. Hơn 1/3 tổng R&D của doanh nghiệp được thực hiện tại khu vực dịch vụ ở các nước như Ôxtrâylia (47%), Na Uy (42%), Canađa (39%), Ai-len (39%), Cộng Hoà Séc (38%), Mỹ (36%) và Đan Mạch (34%). Hàn Quốc, Nhật Bản và Đức có tỷ lệ R&D dịch vụ thấp hơn (dưới 10%). Điều này một phần do mức độ bao quát hạn chế của các ngành công nghiệp dịch vụ trong các báo cáo R&D của họ. Từ năm 1995, tỷ lệ tăng trưởng trung bình hàng năm của R&D trong ngành dịch vụ cao hơn so với trong ngành chế tạo diễn ra ở tất cả các nước trừ Cộng Hoà Séc. Ai-len có tỷ lệ tăng R&D mạnh nhất đối với 2 ngành: từ 1995 đến 2004, R&D tăng 2% trong ngành dịch vụ (chủ yếu do tăng trưởng trong ngành dịch vụ máy tính) và tăng 2% trong ngành chế tạo. Các ngành công nghiệp chế tạo được gộp lại thành 4 nhóm theo hàm lượng R&D của chúng: công nghệ hàm lượng R&D cao, trung bình cao, trung bình thấp và thấp. Trong khu vực OECD, các nghành công nghiệp công nghệ cao chiếm hơn 53% tổng R&D trong ngành chế tạo. Năm 2004, R&D trong các ngành công nghiệp chế tạo chiếm hơn 63% tổng R&D của ngành chế tạo ở Mỹ, so với 47% và 43% lần lượt ở Châu Âu và Nhật Bản. Ở Phần Lan, Canađa, Mỹ và Ai-len, chi tiêu R&D trong ngành chế tạo chủ yếu dành cho các ngành công nghiệp công nghệ cao. Cộng Hoà Séc và Đức dành 50% hơn chi tiêu R&D cho ngành công nghiệp công nghệ trung bình-cao. Ôxtrâylia và Na Uy là những nước duy nhất trong các nước OECD có các ngành công nghiệp công nghệ trung bình - thấp và thấp được dành cho hơn 30% R&D trong ngành chế tạo. 10
- Hộp 2 R&D của ngành y tế Đầu tư R&D cho ngành y tế chiếm mức cao nhất trong khối OECD do quy mô ngành và những kỳ vọng vào sự tăng trưởng của nó khi mà dân số trở nên già hoá tại nhiều nước. Những khoản đầu tư này khó đo đếm, do tính phức tạp và đa dạng của thể chế (ví dụ R&D liên quan đến y tế có thể được tài trợ bởi Nhà nước hoặc tư nhân và được thực hiện tại các công ty, trường đại học, bệnh viện và các cơ quan phi lợi nhuận). Năm 2005, tại các nước OECD, hỗ trợ trực tiếp của Chính phủ cho R&D trong ngành y tế dựa trên ngân sách Chính phủ dành riêng cho R&D (khoảng 0,11% GDP). Năm 2006, hỗ trợ trực tiếp cho R&D trong ngành y tế chiếm hơn 0,22% GDP ở Mỹ, vượt xa mức hỗ trợ của EU (0,05% năm 2005) và Nhật Bản (0,03% năm 2006). Từ năm 2000, mức đầu tư này chỉ giảm ở Cộng Hoà Slôvakia. Một chỉ số khác thường được sử dụng như là một yếu tố liên quan đến R&D trong ngành y tế là đầu tư R&D của ngành công nghiệp dược. Năm 2004, chỉ số này chiếm hơn 0,5% GDP ở Thuỵ Điển, so với 0,47% năm 1999 và chỉ 0,25% năm 1991. Còn ở Đan Mạch, Bỉ và Anh thì con số này chỉ chiếm 0,2%. Tỷ lệ R&D của ngành dược trong GDP (BERD) là hơn 20% ở Anh, Bỉ, Đan Mạch và Thuỵ Điển. Mặc dù tỷ lệ R&D ngành dược trong GDP thấp ở Italia, Balan, Tây Ban Nha (dưới 0,1%), lĩnh vực này lại chiếm tỷ lệ đáng kể trong tổng R&D của khu vực kinh doanh tại 3 nước (ít nhất là 8%). - Vốn đầu tư mạo hiểm Vốn đầu tư mạo hiểm là nguồn hỗ trợ chính cho các công ty dựa trên công nghệ mới. Nó giữ vai trò cực kỳ quan trọng trong việc thúc đẩy đổi mới cơ bản, thường được triển khai bởi các công ty này và là một trong những yếu tố mang tính quyết định trong kinh doanh. Trong giai đoạn 2003 – 2005, vốn đầu tư mạo hiểm trong giai đoạn đầu và giai đoạn tăng trưởng của các công ty tăng mạnh tại 3 nước có mức đầu tư vốn mạo hiểm cao nhất, tính theo GDP năm 2005. Đó là: Đan Mạch, với tỷ lệ tăng hàng năm là 95%; Thụy Điển (45%) và Anh (35%). Tuy nhiên, tỷ lệ này lại giảm ở Phần Lan, Tây Ban Nha và Italia. Năm 2005, Mỹ (với 39%) và Anh (11%) thu hút một nửa lượng vốn đầu tư mạo hiểm trong toàn bộ các nước OECD. Anh thu được 40% tổng vốn đầu tư mạo hiểm của toàn EU. Tính theo tỷ lệ GDP, vốn đầu tư mạo hiểm trong giai đoạn đầu và giai đoạn tăng trưởng của các công ty là cao nhất ở Đan Mạch (40%), tiếp theo là Thuỵ Điển và Anh (hơn 30%) và Mỹ (18%); các nước OECD khác có tỷ lệ thấp hơn. Các công ty công nghệ cao thu hút 40% vốn đầu tư mạo hiểm của OECD, nhưng sự chênh lệch giữa các nước rất lớn. Đầu tư trong ngành công nghệ cao tăng đặc biệt mạnh ở Ai-len (96%), Mỹ (88%) và Canađa (81%), nhưng tại Hungari, Hà Lan, Cộng Hoà Séc và Ôxtrâylia thì chỉ chiếm 20% hoặc ít hơn. 11
- Trong 3 lĩnh vực công nghệ cao chính, danh mục vốn đầu tư tại các nước khác nhau đáng kể. Viễn thông thu hút hơn 60% đầu tư công nghệ cao tại Cộng hoà Slôvakia, Italia, Tây Ban Nha và Anh. Công nghệ thông tin đứng đầu ở Balan, Phần Lan, Ôxtrâylia và Ai-len. Y tế và công nghệ sinh học thu hút phần lớn các quỹ đầu tư này ở Đan Mạch (92%), Bỉ, Thuỵ Điển và New Zealand. Hộp 3 Hoạt động R&D lớn nhất tập trung vào lĩnh vực nghiên cứu nhỏ nhất Hiện nay, công nghệ nano là một trong những chủ đề nóng nhất ở các phòng thí nghiệm nghiên cứu và phát triển trên toàn thế giới. Trên toàn thế gi ới, các Chính phủ đang tài trợ nghiên cứu cho lĩnh vực này nhằm đảm bảo các công nghệ mới nổi trong t ương lai được dựa trên những vật liệu có tính cạnh tranh với các vật liệu ở những nước khác. Ví dụ, Đạo luật R&D Công nghệ nano của Chính phủ Mỹ năm 2004 đ ã quyết định cấp 1 tỷ USD/năm bắt đầu từ năm 2008. Tài trợ R&D của các tập đoàn được dự kiến là sẽ gấp đôi con số này trong năm 2007. Nếu gộp cả lĩnh vực điện tử, khoa học sự sống và nghiên cứu các thiết bị vỏ bọc, thì tổng chi R&D cho lĩnh vực nano ở Mỹ l à khoảng 26 tỷ USD. Hơn 4000 công ty trên toàn thế giới đang hoạt động t rong lĩnh vực công nghệ nano. Hội đồng Khoa học Quốc gia của Mỹ đã tuyên bố rằng t hị trường của các thiết bị ứng dụng công nghệ nano sẽ vượt 1 tỷ tỷ USD trong vòng chưa tới 10 năm nữa, tức là vào năm 2015. Công nghệ nano không chỉ là việc phát t riển một loại vật liệu mới, trong nhiều trường hợp nó là một công nghệ có khả năng t ạo ra những ứng dụng hoàn toàn mới. Trong những trường hợp khác, ví dụ như trong l ĩnh vực dược phẩm, nó cho phé p các công ty tái áp dụng các vât liệu đã có (dược phẩm) vì thế mà chúng có thể được sử dụng ở những cách thức hoàn toàn khác (các hệ phân phối thuốc). Mặc dù có một lượng R&D lớn đầu tư cho công nghệ nano, nhưng m ới chỉ có một vài công nghệ dựa trên nano t ạo ra sản phẩm thương mại. Từ năm 1976 t ới 2002, có gần 90.000 bằng sáng chế về công nghệ nano. Chiếm phần lớn trong số này là thuộc về các ngành công nghiệp điện tử, hoá chất/xúc tác và dược phẩm. Các công ty hàng đầu hoạt động trong lĩnh vực này là của Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc và Đức. Hiện nay, Trung Quốc đã thực sự trở thành một trong những nước hàng đầu thế giới về số lượng các công ty công nghệ nano mới đăng ký thành lập. Trong vòng ba năm qua, hơn 600 công ty đã được thành lập ở Trung Quốc, chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực công nghệ nano. Điều đó cho thấy những sự dự báo về mức tăng trưởng nhanh chóng trong lĩnh vực công nghệ này sẽ làm thay đổi thị trường và vị trí các nước đứng đầu về công nghệ bằng những nước khác, những nước thành công trong việc bắt kịp lĩnh vực đặc biệt quan trọng này. Các ứng dụng của công nghệ nano hiện tại chủ yếu trong lĩnh vực khoa học sự sống, dược phẩm, chẩn đoán y tế, thực phẩm, các công nghệ môi trường, nước, năng lượng, điện tử và kỹ thuật cơ khí. Các mức tăng trưởng toàn cầu cho những lĩnh vực này và một số lĩnh vực khác là vào khoảng từ 8% tới 21%/năm trong 15 năm tới. Công nghệ nano, công nghệ sinh học, công nghệ thông tin và các công nghệ trung tính khác hiện đang giao thoa trong vài năm qua và trong 10 năm tới sẽ tạo ra một cuộc cách mạng về đổi mới, các thị trường mới và các ứng dụng mới. 12
- 1.2. Chính sách đổi mới hỗ trợ cho R&D 1.2.1. Quỹ dành cho R&D khu vực công - tư Sự tương tác giữa ngành công nghiệp và Chính phủ trong lĩnh vực khoa học và đổi mới diễn ra dưới nhiều hình thức và thường khó xác định. Các nguồn tài chính trực tiếp cho R&D giữa khu vực Nhà nước và khu vực doanh nghiệp là biện pháp liên kết chéo giữa hai khu vực này. Trung bình, quỹ đầu tư trực tiếp của Chính phủ tài trợ khoảng 7% nguồn tài chính dành cho việc thực hiện R&D trong lĩnh vực kinh doanh, mặc dù nguồn tài chính này cao hơn nhiều ở Nga (53,6%), Cộng hoà Slôvakia (26%), Cộng hoà Séc (15%) và Italia (14%). Ở nhiều nước, nguồn ngân sách này đã giảm so với năm 1995. Mô hình này liên quan chặt chẽ với việc ngày càng có nhiều công cụ chính sách được thông qua để kích thích đổi mới, như những ưu đãi thuế cho R&D. Tương tự như vậy, khu vực kinh doanh tài trợ một phần lớn cho việc thực hiện R&D trong khu vực đào tạo đại học và khu vực Nhà nước, với mức trung bình của khu vực OECD là 4,7% năm 2005. Ở EU-27, các công ty đã tài trợ 6,4% tổng số tiền dành cho việc thực hiện R&D trong các viện nghiên cứu công và các trường đại học, so với 2,7% ở Mỹ và 2,0% ở Nhật Bản. Nhật Bản, Mêhicô và Italia là những nước có nguồn tài trợ của các doanh nghiệp cho việc thực hiện R&D trong các trường đại học và khu vực Nhà nước thấp nhất. Từ năm 1995 đến năm 2005, quỹ tài trợ từ khu vực kinh doanh cho R&D ở các trường đại học đã tăng đáng kể ở Thổ Nhĩ Kỳ, Áo, Đức, Thuỵ Sỹ, Lucxămbua, Ai -xơ- len, Hungary và LB Nga. Nhưng khoảng đầu tư này lại giảm xuống ở New Zealand, Hàn Quốc, Ai-len, Phần Lan, Cộng hoà Slôvakia và Nam Phi. Mặc dù nguồn tài trợ này tăng ở nhiều nước, nhưng nguồn tài trợ từ các công ty cho việc thực hiện R&D ở các viện nghiên cứu công và các trường đại học vẫn ở mức dưới 8% ở hầu hết các nền kinh tế lớn của OECD. Nguồn tài trợ có giá trị lớn cho cả hai khu vực này ở LB Nga (và quy mô nhỏ hơn ở New Zealand) cho thấy có sự liên kết mạnh giữa các khu vực công và tư trong việc tài trợ chéo cho các hoạt động R&D. Tình hình này ngược lại ở Nhật Bản, Đan Mạch với mức tài trợ thấp cho cả hai khu vực. 1.2.2. Ngân sách Nhà nước dành cho R&D Số liệu về GBAORD (phân bổ ngân sách, hay kinh phí của Chính phủ cho R&D) cho thấy tầm quan trọng tương đối của nhiều mục tiêu xã hội -kinh tế, như quốc phòng, y tế và môi trường, trong chi tiêu cho R&D khu vực công. Mỹ tiếp tục là nước có ngân sách cho R&D quốc phòng lớn nhất (0,6% GDP năm 2006). Đứng thứ 2 là LB Nga (khoảng 0,4%) và Anh (0,2% GDP). Năm 2005, Mỹ chiếm hơn 83% tổng số ngân sách dành cho R&D quốc phòng của khu vực OECD, nhiều gấp 6 lần tổng số của EU-27. Mỹ cũng là nước có GBAORD dành cho R&D quốc phòng lớn nhất, chiếm 57% tổng 13
- ngân sách của Chính phủ dành cho R&D năm 2005. Anh là nước thứ 2 với gần 1/3 GBAORD dành cho quốc phòng, sau đó là Pháp (22%), Thuỵ Điển (17%) và Tây Ban Nha (16%). Ai-xơ-len đứng đầu khu vực OECD về GBAORD, với 1,44% GDP năm 2005; Ai- xơ-len và Phần Lan là 2 nước có GBAORD dân sự ít nhất bằng 1% GDP, hay bằng 2 lần mức trung bình của OECD. Từ năm 2000, ngân sách Nhà nước dành cho R&D tăng trung bình 4,3% ở khu vực OECD. Ở Lucxămbua, từ năm 2000 đến năm 2006, con số này tăng hàng năm hơn 20%. Cả Tây Ban Nha và Ai-len đều tăng tỷ lệ vượt quá 10% một năm. Ba Lan là nước duy nhất có ngân sách Nhà nước dành cho R&D giảm, khoảng 2% một năm, từ năm 2000 đến năm 2005. GBAORD tăng nhỏ nhất là ở khu vực EU27, trung bình 1.8% một năm, từ năm 2000, so với 2.7% ở Nhật và 5.8% ở Mỹ. 1.2.3. Ưu đãi thuế dành cho R&D Giảm thuế R&D được các nước OECD sử dụng như một biện pháp trực tiếp để khuyến khích các doanh nghiệp chi tiêu cho R&D. Ưu đãi thuế đặc biệt đối với chi tiêu cho R&D gồm khấu hao trực tiếp cho những chi phí cho R&D hiện tại và nhiều hình thức giảm thuế khác, như tín dụng thuế, hay chiết khấu thuế thu nhập và chiết khấu giảm giá. Năm 2006, 20 nước OECD đã có tín dụng thuế (năm 2004 chỉ có 18 nướ c). Đây là biện pháp được sử dụng ngày càng phổ biến ở các nước OECD và các nước không thuộc OECD. Từ năm 2006, Tây Ban Nha, Trung Quốc, Mehicô và Bồ Đào Nha đã trợ cấp thuế nhiều nhất và không phân biệt giữa các công ty lớn và nhỏ. Canađa và Hà Lan tiếp tục tài trợ mạnh cho các công ty nhỏ thay vì tài trợ cho các công ty lớn. Các nền kinh tế mới nổi cũng đang thực hiện các chính sách này nhằm khuyến khích đầu tư cho R&D. Braxin, Ấn Độ, Singapo và Nam Phi đã tạo ra môi trường thuế cạnh tranh cho đầu tư vào R&D. Trợ cấp thuế cho R&D của các công ty lớn tăng đáng kể từ năm 1999 đến năm 2007 ở Mehicô và Na Uy, mức độ này thấp hơn ở Bồ Đào Nha, New Zealand, Pháp, Bỉ, Nhật Bản và Anh. Ở các nước khác, tỷ lệ trợ cấp thuế vẫn ổn định. Ưu đãi thuế đối với R&D làm giảm chi phí cho các công ty thực hiện R&D. Ngược lại với hầu hết các hình thức trợ cấp khác, ưu đãi thuế đối với R&D tạo điều kiện cho các công ty hoàn toàn chủ động xử lý như với nguồn tài chính cho chiến lược R&D của họ. Đối với Chính phủ, những khuyến khích này thể hiện ở việc miễn bỏ thuế. Trả lời bảng câu hỏi gần đây của OECD-NESTI, một số nước thông báo các ước tính về tổng chi phí thuế/miễn bỏ thuế do ưu đãi thuế đối với R&D cho thấy tổng thu nhập tiềm năng của Chính phủ thu được bằng cách dỡ bỏ tín dụng thuế R&D. Ở Hà Lan, Mehicô, Ôtxtrâylia, Bỉ và Tây Ban Nha con số này trung bình là 375 triệu USD trong khi ở Mỹ, Canađa, Pháp và Anh, con số này lên tới hơn 800 triệu USD. 14
- 1.2.4. Công tác cấp bằng sáng chế của trường đại học và Chính phủ Sự đóng góp của các viện nghiên cứu công (các phòng thí nghiệm của Chính phủ và của các trường đại học) trong lĩnh vực quyền sở hữu các bằng sáng chế phản ánh sức mạnh về nghiên cứu công nghệ và khung pháp lý của các cơ quan này. Tại Thụy Điển và gần đây là Đức và Nhật Bản, các giáo sư trường đại học đã có quyền sở hữu bằng sáng chế từ kết quả nghiên cứu của họ. Những bằng sáng chế như vậy được đăng ký theo kiểu thuộc về những cá nhân hay những doanh nghiệp chứ không phải thuộc về những viện nghiên cứu công. Các viện nghiên cứu công sở hữu 7% tổng số bằng sáng chế quốc tế được xếp theo điều khoản Hiệp ước hợp tác Sáng chế (PCT) giữa những năm 2002 và 2004. Hơn 10% trong số đơn xin cấp bằng sáng chế của Mỹ do các viện nghiên cứu công sở hữu và có thể sánh với khoảng 4% bằng sáng chế của Châu Âu. Tại Singapo, gần 40% số bằng sáng chế PCT sở hữu bởi các cơ quan thuộc Chính phủ hoặc khu vực giáo dục đại học. Trong số các quốc gia thuộc OECD, Ai-len có tỉ lệ cao nhất về sở hữu bằng sáng chế của các trường đại học (9,7% từ 2002-04), mức tăng trưởng đáng chú ý vào giữa những năm 1990 khi các trường đại học sở hữu 3,5% số lượng bằng sáng chế. Ở Ôxtrâylia, Bỉ, Trung Quốc, Tây Ban Nha, Vương quốc Anh và Mỹ, khu vực giáo dục đại học ước tính chiếm từ 6% tới 8% tổng số tất cả các đ ơn xin cấp bằng sáng chế quốc tế. Trường Đại học California và Học viện công nghệ Massachusetts (MIT) là những cơ quan đứng đầu có số người được cấp bằng sáng chế thuộc khu vực giáo dục đại học Mỹ giữa năm 2002 và 2004. Giữa những năm 1996-98 và 2002-04, đăng ký bằng sáng chế của các trường đại học giảm nhẹ tại Ôxtrâylia, Canađa và Mỹ, nhưng lại có mức tăng đáng chú ý ở Nhật Bản và EU, đặc biệt là ở Pháp và Đức. Đây là những kết quả tăng trực tiếp từ những thay đổi chính sách tại các quốc gia đầu những năm 2000. Trong số các nước có nền kinh tế phát triển, Braxin, Ixraen và Singapo cũng là các nước có tỷ lệ đăng ký bằng sáng chế của các trường đại học khá lớn. Vào giữa những năm 1990, Trung Quốc là quốc gia có tỉ lệ cao nhất, nhưng từ thời gian đó đến nay đã bị giảm một nửa. Dưới dạng những bằng sáng chế do các cơ quan Chính phủ sở hữu, Ấn Độ và Singapo đang giữ vị trí hàng đầu với 23,1% và 24,2%. Pháp dẫn đầu các nước OECD với 5,5%, cơ quan có số lượng bằng sáng chế nhiều nhất là Uỷ ban Năng lượng Nguyên tử Pháp (CEA). Tại Nhật Bản, tỉ lệ này đã tăng lên một cách đáng kể từ giữa những năm 1990, trong khi tại Ôxtrâylia, Canađa, Hàn Quốc tỷ lệ này lại giảm 2% số điểm, và Vương quốc Anh ở mức dưới 5%. 1.2.5. Hợp tác với các tổ chức nghiên cứu công bằng cách đổi mới các doanh nghiệp Hợp tác là một phần quan trọng của các hoạt động đổi mới của rất nhiều doanh nghiệp, bao gồm hoạt động tham gia các dự án đổi mới với các tổ chức khác (Oslo Manual, 2005), nhưng không hoàn toàn rút khỏi dự án. Hợp tác có thể bao gồm hoạt 15
- động tham gia phát triển các sản phẩm mới, tham gia các hoạt động đổi mới khác với bạn hàng và các nhà cung ứng ở mức ngang bằng với các doanh nghiệp hoặc các cơ quan nghiên cứu công khác. Khoảng 1/10 doanh nghiệp (hay ¼ doanh nghiệp đổi mới) ở Châu Âu cộng tác với một đối tác về những hoạt động đổi mới của họ trong thời gian 2002-04. Những doanh nghiệp lớn đã cộng tác nhiều hơn gấp bốn lần các SME. Nhịp độ hợp tác trong số các doanh nghiệp vừa và nhỏ giữa các nước khá tương quan (khoảng 10 và 20% tổng số các doanh nghiệp, nhiều hơn so với một nửa số quốc gia được khảo sát), nhưng có sự khác biệt lớn đối với các doanh nghiệp lớn. Hợp tác với các tổ chức nghiên cứu công (giáo dục đại học hoặc các viện nghiên cứu trực thuộc Chính phủ) có thể là một nguồn chuyển giao tri thức quan trọng đối với các hoạt động đổi mới của doanh nghiệp. Ở đây lưu ý rằng, các doanh nghiệp lớn chủ động hơn so với các SMEvà cho thấy nhiều thay đổi hơn. Tuy nhiên, những sự thể hiện này chỉ thực trạng của một số loại hợp tác nào đó chứ không chỉ đặc điểm hay cường độ của nó. Ở hầu hết các quốc gia có sự hợp tác với những cơ quan giáo dục đại học nhiều hơn so với với những trung tâm nghiên cứu thuộc Chính phủ. Với những doanh nghiệp lớn, sự hợp trước kia phổ biến nhất tại Phần Lan, Thụy Điển, Estonia và Bỉ (hơn 30%), và mới đây tại Phần Lan, Na Uy, Ai-xơ-len và Thụy Điển (hơn 20%). 1.3. Hợp tác KH&CN và xu hƣớng gia công R&D 1.3.1. Hợp tác KH&CN Hợp tác quốc tế là một khía cạnh đặc biệt của toàn cầu hóa các hoạt động nghiên cứu. Tỷ trọng quốc tế về các sáng chế liên quan đến đồng sáng chế quốc tế đã tăng từ 4% trong các năm 1991-93 lên 7% trong năm 2001-03. Phạm vi hợp tác quốc tế cũng khác biệt một cách đáng kể giữa các nước nhỏ và các nước lớn. Các nền kinh tế nhỏ và kém phát triển hơn tham gia tích cực hơn vào các hoạt động hợp tác quốc tế. Đồng sáng chế đặc biệt cao tại Lucxămbua (52%), Mêhicô (48%), Nga (46%), Singapo (41%), Cộng hòa Séc (40%) và Ba Lan (39%). Điều này phản ánh nhu cầu của các nước muốn vượt qua những hạn chế do độ lớn của thị trường trong nước và/hoặc do thiếu cơ sở hạ tầng cần thiết để phát triển công nghệ. Về phần mình, các nước lớn như, Mỹ, Anh, Đức và Pháp được phản ánh có tỷ lệ các hoạt động hợp tác quốc tế trong khoảng từ 12 đến 23% trong năm 2001 -03. Các nước này cũng đã mở rộng phạm vi hợp tác quốc tế. Ví dụ như tại Pháp, hoạt động hợp tác quốc tế đã tăng từ 8% trong các năm 1991-93 lên 16% trong năm 2001-03. Hàn Quốc và Nhật Bản chiếm tỷ trọng nhỏ nhất trong đồng sáng chế quốc tế. Hàn Quốc, Trung Quốc, Ấn Độ và Thổ Nhĩ Kỳ đều giảm 20% về đồng sáng chế quốc tế. Tuy vậy, mặc dù cường độ hợp tác quốc tế giảm một cách đột ngột tại Hàn Quốc (35%), nhưng lại tăng lên rõ rệt tại Nhật Bản (28%). 16
- Phân tích thống kê về hợp tác theo các nước đối tác cho thấy các mô hình tương tự như đối với chỉ số sở hữu xuyên biên giới: Các nước EU hợp tác chủ yếu với các nước EU khác, trong khi Canađa, Mêhicô, Ấn Độ, Trung Quốc, Ixraen, Hàn Quốc và Nhật Bản hợp tác thường xuyên nhất với Mỹ. Ví dụ, hơn 20% các sáng chế được thực hiệ n tại Ấn Độ, Canađa và Mêhicô là hoạt động hợp tác với nhà sáng chế Mỹ. Braxin và Nam Phi hợp tác nhiều với các nhà sáng chế EU hơn. Các chỉ số về nguồn tác giả là thước đo khác về hợp tác khoa học. Ở đây, 4 loại hình nguồn tác giả của các bài báo khoa học được phân tích: cá nhân, tổ chức, trong nước và quốc tế. Những chỉ số này cho thấy tri thức được chia sẻ hoặc phổ biến trong giới nghiên cứu như thế nào và các hình thức hợp tác về khoa học đang thay đổi ra sao. Hợp tác giữa các nhà nghiên cứu trong cùng một tổ chức là hình thức nghiên cứu hợp tác chủ yếu cho tới những năm 1990. Số lượng đồng tác giả của tổ chức đơn lẻ không thay đổi trong suốt hai thập kỷ qua. Đồng tác giả, cả trong và ngoài nước trở thành hình thức hợp tác quan trọng ở thập kỷ trước. Số lượng đồng tác giả trong nước, chẳng hạn như hợp tác giữa các nhà nghiên cứu từ các tổ chức khác nhau trong cùng một nước, đã tăng lên nhanh chóng. Con số này vượt hẳn so với số lượng đồng tác giả của một tổ chức đơn lẻ vào năm 1998 và trở thành hình thức hợp tác khoa học phổ biến nhất trên thế giới. Số lượng đồng tác giả ngoài nước tăng nhanh như hình thức đồng tác giả trong nước. Năm 2005, 20,6% các bài báo khoa học được viết dưới sự hợp tác của các tác giả nước ngoài, con số này lớn gấp 3 lần so với năm 1985. Số lượng đồng tác giả trong và ngoài nước tăng lên cho thấy vai trò vô cùng quan trọng trong hợp tác giữa các nhà nghiên cứu nhằm đa dạng hoá nguồn tri thức. Tính trung bình, 16,7% tổng số sáng chế được đăng ký tại Cơ quan Phát minh sáng chế Châu Âu (EPO) là thuộc sở hữu hoặc đồng sở hữu với một người nước ngoài trong các năm 2001-03, một mức tăng đáng chú ý từ chỗ đạt 11,6% trong giai đoạn 1991-93. Phạm vi quốc tế hóa được phản ánh qua sở hữu nước ngoài khác biệt một cách đáng kể giữa các nước. Tại Liên bang Nga, Luxămbua, Mêhicô, Hungary và Cộng hòa Séc, trên 50% sáng chế trong nước thuộc về người nước ngoài, một tỷ lệ còn cao hơn so với trong giai đoạn 1991-93. Tuy nhiên, ở Trung Quốc, Singapo, Ba Lan, Braxin và Ấn Độ, sở hữu nước ngoài đã giảm một cách rõ rệt, một phần là do sự gia tăng hoạt động sáng chế trong nước. Mỹ và Đức là hai nước đạt mức tăng tỷ trọng sở hữu nước ngoài (tương ứng là từ 8% và 10% lên 14% và 15%). Anh là một trường hợp ngoại lệ trong số các nước lớn, với khoảng 40% sáng chế trong nước thuộc về sở hữu của người nước ngoài, so với tỷ lệ 30% đạt được vào đầu những năm 1990. Phân tích thống kê về sở hữu nước ngoài theo nước sở hữu chính cho thấy tầm quan trọng của sự gần gũi về địa lý và văn hóa trong các hoạt động xuyên biên giới. Xuất xứ 17
- sở hữu nước ngoài tại các nước EU25 chủ yếu thuộc về bên trong khu vực (các công ty từ các nước EU sở hữu sáng chế tại các nước EU khác). Sở hữu sáng chế của Mỹ không những tăng mạnh ở các nước Mêhicô, Canađa, Ai-len, Ấn Độ và Ixraen, mà còn cả ở Hàn Quốc và Nhật Bản. Trong khi Mỹ chiếm ưu thế sở hữu nước ngoài đối với các sáng chế trong nước ở Ấn Độ, thì các nước Châu Âu lại là người nắm sở hữu chính các sáng chế đối tượng của sở hữu xuyên biên giới tại Braxin, Nga, Trung Quốc và Nam Phi. Nhóm nghiên cứu cũng là một đơn vị quan trọng trong sáng tạo tri thức khoa học hiện đại. Số lượng các tác giả của một bài báo là chỉ số cho thấy những thay đổi trong hợp tác khoa học. Năm 1981, 3/4 các bài báo khoa học có từ 1 đến 3 tác giả. Năm 2005, 40% số bài báo khoa học có từ 5 tác giả trở lên. Mức độ hợp tác quốc tế thay đổi tuỳ theo từng nước. Các nước lớn ở Châu Âu (Pháp, Đức và Anh) hợp tác chặt chẽ hơn Mỹ và các nước Châu Á. Ngoài ra, tỉ lệ đồng tác giả nước ngoài đã tăng lên trong thập kỷ trước, trừ Trung Quốc là nước luôn có con số đồng tác giả không thay đổi. Đa dạng hóa nguồn tri thức thông qua hợp tác cũng quan trọng trong các lĩnh vực nghiên cứu mới và đa ngành chẳng hạn như khoa học nano và sinh học. Đối với các công ty, hợp tác với các đối tác nước ngoài đóng vai trò quan trọng trong quá trình đổi mới vì điều này giúp các công ty có thể tiếp cận được với nguồn lực và tri thức lớn hơn với chi phí thấp hơn cũng như có thể chia sẻ rủi ro với các đối tác của mình. Trong trường hợp các công ty ở Châu Âu, tỉ lệ hợp tác với các đối tác ở một nước khác trong Châu Âu là dưới 2% ở Italia và Tây Ban Nha, hơn 12% ở Đan Mạch, Lucxămbua, Phần Lan và Bỉ. Hợp tác với các đối tác ngoài Châu Âu có tỉ lệ thấp hơn, chỉ đạt từ 1% đến 5% trong tổng số các công ty ở các nước Châu Âu. Đối với các công ty ở những khu vực khác, xu hướng hợp tác đổi mới với các đối tác nước ngoài thay đổi khác nhau ở các nước từ dưới 2% như Hàn Quốc, Nhật Bản và Ôxtrâylia, tới hơn 8% như Canađa và New Zealand. Tỉ lệ phần trăm đổi mới ở tất cả các công ty dựa vào hợp tác nước ngoài để đổi mới có thể chia thành: tỉ lệ đổi mới tổng thể và xu hướng hợp tác với đối tác nước ngoài để đổi mới của các công ty. Kết quả của hợp tác trong khu vực Châu Âu về đổi mới cho thấy những khác biệt của các nước được giải thích chủ yếu dựa trên sự khác biệt trong cách các nhà đổi mới có đối tác nước ngoài một cách thường xuyên như thế nào, hơn là sự khác biệt về tỉ lệ đổi mới tổng thể. Ở Đức, mặc dù tỉ lệ đổi mới tổng thể cao (65% ở tất cả các công ty), nhưng hợp tác nước ngoài về đổi mới thấp (dưới 5% ở các công ty đổi mới), dẫn tới việc hợp tác nước ngoài chỉ chiếm 3%, thấp hơn so với tỉ lệ trung bình của Châu Âu là 4,1%. Các công ty đổi mới của các nước Bắc Âu cũng như một số nước nhỏ hơn có nền kinh tế mở ở Châu Âu (chẳng hạn như Lucxămbua, Bỉ và Cộng hoà Séc) có xu hướng hợp tác thường xuyên với các đối tác nước ngoài hơn. 18
- Bên cạnh đó, các hoạt động công nghệ của các công ty đa quốc gia đang ngày càng trở nên quốc tế hóa. Trong nỗ lực tìm kiếm khả năng cạnh tranh công nghệ mới, để thích nghi hơn với thị trường và hạ thấp chi phí R&D, các công ty đang có xu hướng chuyển mạnh các hoạt động nghiên cứu ra nước ngoài. 1.3.2. Toàn cầu hoá R&D Khi các công ty đa quốc gia xây dựng phòng thí nghiệm R&D ở nước ngoài nhiều hơn, thì các hoạt động R&D ở các nước OECD được quốc tế hoá và tiếp cận gần hơn với hoạt động sản xuất ở nước ngoài. Tuy nhiên, hiện vẫn còn những khác biệt về tỉ lệ các công ty con ở nước ngoài trong tổng chi tiêu R&D cho ngành chế tạo so với tỉ lệ trong tổng doanh thu của ngành chế tạo. Ở hầu hết các nước, tỉ lệ các công ty con ở nước ngoài trong tổng R&D cao hơn tỉ lệ trong tổng doanh thu của ngành chế tạo. Điều này cho thấy hiện nay nghiên cứu được chú trọng quốc tế hoá hơn sản xuất. R&D thực hiện ở nước ngoài và bởi các công ty con ở nước ngoài trung bình chiếm hơn 16% trong tổng chi tiêu R&D cho ngành công nghiệp ở khu vực OECD. Ở hầu hết các nước OECD, tỉ lệ các công ty con ở nước ngoài trong R&D cho ngành công nghiệp đang tăng lên. Tại Tây Ban Nha, Anh, Thuỵ Điển, Cộng hoà Séc, Hungari, Bồ Đào Nha và Ai-len, tỉ lệ này hiện đã vượt con số 35%. Tuy nhiên, không phải tất cả các hoạt động liên quan tới R&D đều được phản ánh trong các giao dịch của công ty. Còn có những chuyển đổi khác trong nội bộ công ty (chẳng hạn như sự di chuyển của các nhà khoa học trong nội bộ công ty) mà không phát sinh thêm chi phí dẫn tới việc các hoạt động R&D không được ghi nhận trong các số liệu thống kê như một khoản chi tiêu R&D của các công ty con ở nước ngoài. Tỉ lệ các công ty con ở nước ngoài trong R&D cho ngành công nghiệp thay đổi khác nhau tuỳ theo từng nước, từ dưới 5% ở Nhật tới hơn 60% ở Hungari và Ai -len. Chi tiêu R&D được thực hiện trong các công ty con ở nước ngoài cũng cao như ở Cộng hoà Séc, Bồ Đào Nha và Thuỵ Điển, chiếm trên 40%. Tỉ lệ các công ty con ở nước ngoài trong R&D cũng phản ánh nỗ lực thực hiện R&D của họ so với các công ty trong nước. Năm 2004, các công ty con ở nước ngoài tại nhiều nước đã tiến hành R&D mạnh hơn các công ty trong nước. Năng lực R& D (tính theo tỉ lệ trong doanh thu) bởi các công ty con ở nước ngoài cao hơn đáng kể so với những con số được báo cáo bởi các công ty trong nước ở Nhật Bản, Thuỵ Điển, Mỹ và Anh. Tại Pháp, năng lực R&D trung bình của các công ty trong nước đạt dưới 0,5% so với doanh thu, đối với các công ty con ở nước ngoài tỉ lệ này đạt trên 1,6%. Tại Phần Lan, Ai-len và Ba Lan lại ngược lại. Điều này phản ánh rõ sự hội nhập trong công nghiệp của các công ty con ở nước ngoài với các công ty trong nước. 19
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Chuyên đề tốt nghiệp: Một số biện pháp nhằm nâng cao công tác đào tạo và phát triển nhân sự tại công ty Xuất nhập khẩu Nông sản thực phẩm Hà Nội
49 p | 846 | 313
-
Đề tài: Nguyên liệu sử dụng trong kem giặt, vai trò, tính chất của chúng; phuơng pháp sản xuất kem giặt hiện nay cùng một số chỉ tiêu kiểm tra, đánh giá chất lượng sản phẩm
46 p | 496 | 138
-
LUẬN VĂN:MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG BÁN HÀNG QUA NHÂN VIÊN TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
135 p | 303 | 86
-
Đề tài: Bảo vệ so lệch dòng (BVRSL)
18 p | 202 | 55
-
Luận văn:Một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của các ngân hàng Thương mại tại Thành phố Hồ Chí Minh
57 p | 185 | 48
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Một số đánh giá về thực hiện ghi chép hồ sơ bệnh án nội trú tại Bệnh viện đa khoa khu vực Tĩnh Gia quý 1 năm 2020
44 p | 284 | 38
-
Chuyên đề tốt nghiệp: Một số giải pháp nhằm đấy mạnh hoạt động quảng cáo chương trình du lịch ra nước ngoài tại Trung tâm du lịch Vietnam Railtour
77 p | 213 | 35
-
Luận văn thạc sĩ Sinh học: Các chỉ số sinh học và đánh giá một số yếu tố ảnh hưởng đến tuổi dậy thì của nữ Êđê và kinh tỉnh Đăk Lăk
81 p | 163 | 30
-
Đề tài nghiên cứu khoa học sinh viên: Bảo vệ quyền nhân thân trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình theo quy định của pháp luật Việt Nam
110 p | 80 | 13
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Phân tích và đánh giá hàm lượng kim loại nặng trong một số nhóm sinh vật tại hai hồ Trúc Bạch và Thanh Nhàn của Thành phố Hà Nội
12 p | 129 | 11
-
Luận văn Thạc sĩ Quản lý đất đai: Đánh giá kết quả bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để triển khai một số dự án trên địa bàn huyện Thạch Thất, giai đoạn 2016 - 2019
105 p | 30 | 9
-
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường: Nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của một số thông số đầu vào đến quá trình tách dầu trong thiết bị lọc ly tâm
23 p | 25 | 9
-
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường: Đánh giá độ bền và khả năng chống ăn mòn của một số hệ màng sơn tàu thủy trong bảo vệ kết cấu thép xây dựng
36 p | 28 | 8
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Thực hiện chính sách phát triển giáo dục phổ thông ở quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội
70 p | 13 | 7
-
Báo cáo khoa học: Đánh giá sơ bộ một số con lai F1 của các tổ hợp lai cà chua ở vụ xuân hè năm 2001
5 p | 106 | 7
-
Báo cáo tóm tắt đề tài khoa học và công nghệ: Nghiên cứu xây dựng tiêu chuẩn về định danh nội dung số dùng trong lưu trữ và trao đổi dữ liệu trên môi trường mạng
12 p | 50 | 5
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Khoa học: Nghiên cứu xây dựng danh mục hồ sơ và xác định danh mục tài liệu trong một số hồ sơ của Ngân hàng Nhà nước Việt nam
19 p | 44 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh doanh và quản lý: Vận dụng thẻ điểm cân bằng để xây dựng chỉ số đánh giá kết quả thực hiện công việc(KPIs) cho nhân viên văn phòng/ Ban chức năng tại Công ty cổ phần Dịch vụ sân bay
143 p | 6 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn