Đề tài nghiên cứu khoa học của người học: Giáo dục tư tưởng khoan dung, đoàn kết cho sinh viên Trường Đại học Nội Vụ Hà Nội
lượt xem 9
download
Thông qua việc nghiên cứu, luận giải, làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ bản về ảnh hưởng của tư tưởng khoan dung, đoàn kết tới đạo đức lối sống sinh viên Việt Nam giai đoạn hiện nay, đề tài chỉ ra một số nguyên nhân và giải pháp góp phần phát huy ảnh hưởng tích cực của tư tưởng khoan dung, đoàn kết tới đạo đức lối sống của sinh viên Việt Nam giai đoạn hiện nay. Nhằm đẩy mạnh giáo dục tư tưởng khoan dung, đoàn kết cho SV nói chung và SV Trường ĐHNVHN nói riêng.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Đề tài nghiên cứu khoa học của người học: Giáo dục tư tưởng khoan dung, đoàn kết cho sinh viên Trường Đại học Nội Vụ Hà Nội
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ BÁO CÁO TỔNG HỢP ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA NGƢỜI HỌC GIÁO DỤC TƢ TƢỞNG KHOAN DUNG, ĐOÀN KẾT CHO SINH VIÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI Mã số đề tài: ĐTSV.2020.09 Chủ nhiệm đề tài : Phan Lạc Hoàng Anh Lớp : 1605CTHA Cán bộ hƣớng dẫn : ThS. Nguyễn Thị Tƣơi Hà Nội, 2020
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ BÁO CÁO TỔNG HỢP ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA NGƢỜI HỌC GIÁO DỤC TƢ TƢỞNG KHOAN DUNG, ĐOÀN KẾT CHO SINH VIÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI Mã số đề tài: ĐTSV.2020.09 Chủ nhiệm đề tài : Phan Lạc Hoàng Anh - 1605CTHA Thành viên tham gia : Vũ Thị Trúc Mai - 1605CTHA Lại Thùy Dƣơng - 1805CTHA Cán bộ hƣớng dẫn : ThS. Nguyễn Thị Tƣơi Hà Nội, 2020
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................. 1 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài...................................................... 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 2 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ................................................... 3 5. Giả thuyết nghiên cứu .................................................................................... 3 6. Đóng góp của đề tài ....................................................................................... 3 7. Kết cấu của đề tài ........................................................................................... 4 CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC TƢ TƢỞNG KHOAN DUNG, ĐOÀN KẾT CHO SINH VIÊN Ở CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC HIỆN NAY ....................................................... 5 1.1. Tư tưởng khoan dung, đoàn kết – giá trị tốt đẹp của dân tộc Việt Nam 5 1.1.1. Khái niệm giáo dục,khoan dung, đoàn kết ............................................. 5 1.1.2. Khái quát tư tưởng khoan dung, đoàn kết trong lịch sử tư tưởng Việt Nam ..................................................................................................................... 9 1.2. Sự cần thiết của việc giáo dục tư tưởng khoan dung, đoàn kết cho sinh viên các trường Đại học trong bối cảnh hiện nay........................................... 19 1.2.1. Đáp ứng yêu cầu về chất lượng nguồn lao động toàn diện của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ............................................. 19 1.2.2. Thực hiện xây dựng con người mới theo quan điểm của Đảng.......... 22 1.2.3. Chống lại những biểu hiện tiêu cực của bộ phận SV trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ............................ 24 1.2.4. Giữ gìn, phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc trong quá trình hội nhập quốc tế ...................................................................................................... 25 CHƢƠNG 2. GIÁO DỤC TƢ TƢỞNG KHOAN DUNG, ĐOÀN KẾT CHO SINH VIÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP.............................................................................. 28
- 2.1. Đặc điểm sinh viên và các yếu tố ảnh hưởng tới việc giáo dục tư tưởng khoan dung, đoàn kết cho sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội............ 28 2.1.1. Đặc điểm sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội ............................ 28 2.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng tới việc giáo dục tư tưởng khoan dung, đoàn kết cho sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội................................................. 30 2.2. Thực trạng giáo dục tư tưởng khoan dung, đoàn kết cho sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội .................................................................................... 44 2.2.1. Kết quả một số hoạt động giáo dục tư tưởng khoan dung, đoàn kết cho sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội ........................................................ 44 2.2.2. Hạn chế và nguyên nhân hạn chế của hoạt động giáo dục tư tưởng khoan dung, đoàn kết cho sinh viên cho sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội ..................................................................................................................... 49 2.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục tư tưởng khoan dung, đoàn kết cho sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội........................................... 52 2.3.1. Về phía nhà trường ................................................................................ 52 2.3.2. Về phía gia đình ..................................................................................... 62 2.3.3. Về phía bản thân sinh viên .................................................................... 63 Tiểu kết chương 2............................................................................................. 66 KẾT LUẬN .................................................................................................... 67 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 68
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII (2016), Đảng ta khẳng định phương hướng, nhiệm vụ tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc:“tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước, tăng cường quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối đại đoàn kết dân tộc‖. Thật vậy, khoan dung, đoàn kết là truyền thống quý báu, là nét đẹp văn hóa như sợi chỉ đỏ xuyên suốt dòng chảy lịch tử tư tưởng Việt Nam hàng ngàn năm qua. Nhờ có truyền thống khoan dung, đoàn kết, dân tộc ta đã giành thắng lợi lớn trong các cuộc đấu tranh vệ quốc vĩ đại. Sau khi giành độc lập, nhớ có tinh thần khoan dung, đoàn kết, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, đất nước ta đã thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới, đưa nước ta ngày càng giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Góp vào thành công lớn lao ấy, có một phần không nhỏ công lao của các thế hệ thanh niên, mà trong đó sinh viên là thế hệ trẻ tiêu biểu cho sức mạnh của đất nước hôm nay và mai sau. Việc giáo dục về tư tưởng đạo đức truyền thống của dân tộc nói chung, giáo dục tinh thần khoan dung, đoàn kết nói riêng góp phần bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, lối sống cho sinh viên là vô cùng cần thiết. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, trước những tác động của kinh tế thị trường, một bộ phận sinh viên có lối sống thiếu khoan dung trong giải quyết mâu thuẫn, chưa biết lắng nghe, thấu hiểu và tôn trọng những điểm khác biệt của người khác, tư tưởng, văn hóa khác biệt. Đây là vấn đề có tính chất thời sự trong bối cảnh hiện nay, trong khi các công trình nghiên cứu về đề tài này gần như chưa có. Vì những lí do trên, nhóm tác giả quyết định chọn đề tài: “Giáo dục tư tưởng khoan dung, đoàn kết cho sinh viên Trường Đại học Nội Vụ Hà Nội‖ nhằm nghiên cứu, luận giải, làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ bản liên 1
- quan đến nội dung đề tài. Phân tích thực trạng từ đó đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả việc giáo dục tư tưởng khoan dung, đoàn kết cho sinh viên Trường Đại học Nội Vụ Hà Nội. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài - Mục đích nghiên cứu: Thông qua việc nghiên cứu, luận giải, làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ bản về ảnh hưởng của tư tưởng khoan dung, đoàn kết tới đạo đức lối sống sinh viên Việt Nam giai đoạn hiện nay, đề tài chỉ ra một số nguyên nhân và giải pháp góp phần phát huy ảnh hưởng tích cực của tư tưởng khoan dung, đoàn kết tới đạo đức lối sống của sinh viên Việt Nam giai đoạn hiện nay. Nhằm đẩy mạnh giáo dục tư tưởng khoan dung, đoàn kết cho SV nói chung và SV Trường ĐHNVHN nói riêng. - Nhiệm vụ nghiên cứu: Để có thể đạt được mục đích đặt ra khi nghiên cứu đề tài, đòi hỏi phải giải quyết được các vấn đề sau: Thứ nhất, tập trung tìm hiểu một số vấn đề lý luận cơ bản về tư tưởng khoan dung, đoàn kết; giáo dục tư tưởng khoan dung, đoàn kết cho sinh viên trường Đại học Nội Vụ Hà Nội. Thứ hai, nghiên cứu một số ảnh hưởng của tư tưởng khoan dung, đoàn kết tới sinh viên Nội Vụ giai đoạn hiện nay. Thứ ba, chỉ ra một số nguyên nhân của những ảnh hưởng tiêu cực, giải pháp phát huy ảnh hưởng tích cực của tư tưởng khoan dung, đoàn kết tới sinh viên Nội Vụ giai đoạn hiện nay. Thứ tư, đề ra một số phương hướng, giải pháp để nhằm nâng cao hiêu quả việc giáo dục tư tưởng khoan dung, đoàn kết cho sinh viên Đại học Nội Vụ Hà Nội 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Lý thuyết về khoan dung, đoàn kết và việc vận dụng, phát huy tư tưởng khoan dung, đoàn kết đối với sinh viên nói chung và 2
- sinh viên trường Đại học Nội vụ nói riêng. - Phạm vi nghiên cứu: + Lịch sử tư tưởng khoan dung, đoàn kết; + Khảo sát thực tiễn vận dụng, giáo dục tư tưởng khoan dung, đoàn kết, cho sinh viên Trường Đại học Nội Vụ Hà Nội cơ sở Hà Nội. + Từ năm 2016 đến nay. 4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận: + Chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh. + Quan điểm về khoan dung, đoàn kết trong lịch sử tư tưởng Việt Nam; + Quan điểm về khoan dung, đoàn kết của Đảng ta. + Những kết quả nghiên cứu lý luận trong và ngoài nước liên quan đến chủ đề nghiên cứu. - Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện đề tài, nhóm nghiên cứu chủ yếu vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin: chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đồng thời, đề tài sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích, tổng hợp, logic –lịch sử, so sánh đối chiếu, phương pháp liên ngành; chính trị học so sánh... 5. Giả thuyết nghiên cứu Ảnh hưởng của tư tưởng khoan dung, đoàn kết tới đạo đức lối sống sinh viên ngày càng rõ nét. Nhưng hiện nay, nhận thức của bộ phận sinh viên về vấn đề này chưa thật sự rõ nét. 6. Đóng góp của đề tài Đề tài “Giáo dục tư tưởng khoan dung, đoàn kết cho sinh viên Trường Đại học Nội Vụ Hà Nội‖ là công trình nghiên cứu chuyên sâu và đưa ra một số điểm mới sau: - Hệ thống hóa lý thuyết về khoan dung, đoàn kết trong lịch sử và xác định giá trị lý luận, thực tiễn của tư tưởng khoan dung, đoàn kết trong thực 3
- tiễn xã hội hiện nay; - Phân tích thực trạng của việc giáo dục tư tưởng khoan dung, đoàn kết cho sinh viên trường Trường Đại học Nội Vụ Hà Nội giai đoạn hiện nay. - Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả của việc giáo dục tư tưởng khoan dung, đoàn kết cho sinh viên trường Đại học Nội Vụ Hà Nội giai đoạn hiện nay. 7. Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung đề tài được kết cấu gồm 2 chương, 5 tiết. 4
- CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC TƢ TƢỞNG KHOAN DUNG, ĐOÀN KẾT CHO SINH VIÊN Ở CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC HIỆN NAY 1.1. Tƣ tƣởng khoan dung, đoàn kết – giá trị tốt đẹp của dân tộc Việt Nam 1.1.1. Khái niệm giáo dục,khoan dung, đoàn kết - Khái niệm giáo dục Theo cuốn Tài liệu bài giảng Phương pháp nghiên cứu khoa học giáo dục, 2007 của Ts. Nguyễn Văn Tuấn, Giáo dục vừa mang tính khoa học vừa mang tính nghệ thuật. Giáo dục là một quá trình đào tạo con người một cách có mục đích, nhằm chuẩn bị cho họ tham gia vào đời sông xã hội, lao động sản xuất, bằng cách tổ chức việc truyền thụ và lĩnh hộiinh nghiệm lịch sử xã hội của loài người. Giáo dục được hiểu dưới hai góc độ: (1) Giáo dục được xem như là tập hợp các tác động sư phạm đến người học với tư cách là một đối tượng đơn nhất; (2) Giáo dục được như là một hoạt động xã hội, dạng tái sản xuất ra lực lượng lao động mới. Ở đây, đối tượng là thế hệ trẽ, là tập hợp các đối tượng đơn nhất. Giáo dục là đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ lao động; Khi nói đến giáo dục theo nghĩa rộng, là ta thường liên tưởng ngay đến cụm từ "giáo dục theo nghĩa hẹp và đào tạo". Giáo dục theo nghĩa hẹp, là một quá trình hoạt động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch của một người (hay một nhóm người) - gọi là giáo viên - nhằm tác động vào hệ thống nhận thức của người đó, để làm phát triển trí thông minh, phát triển khả năng nhận thức phù hợp với thế giới khách quan, và làm phát triển nhận thức của người đó lên; qua đó tạo ra một con người mới, có những phẩm chất phù hợp với yêu cầu được đặt ra. Giáo dục theo nghĩa hẹp là nuôi dưỡng, làm cho phát triển hoặc triệt tiêu, giảm cái có sẵn. Ví dụ như trí thông minh căn bản là cái có sẵn, tính 5
- thiện là cái có sẵn,... Giáo dục làm tăng trưởng trí thông minh căn bản, và tính thiện lên. Ðào tạo là một quá trình truyền thụ, chuyển giao kiến thức và kinh nghiệm một cách có ý thức, có mục đích, có kế hoạch của một người (hay một nhóm người) - gọi là giáo viên - vào người đó, nhằm tạo ra một số sự nhận thức, một số kỹ năng hoạt động phù hợp với yêu cầu của công việc, và phát triển chúng nó lên bằng cách rèn luyện. Công việc này có thể là hoạt động trí não, hay hoạt động chân tay. Đào tạo là tạo ra cái mới hoàn toàn, chứ không phải là cái có sẵn. Ví dụ chữ viết, những kiến thức về toán học, các kỹ năng về tay nghề, các thế võ,... Ban đầu chúng hoàn toàn chưa có nơi một con người. Chỉ sau khi được huấn luyện, đào tạo thì chúng mới có ở nơi ta.Ví dụ: học sinh được dạy học môn toán, để có kỹ năng tính toán. Một nhà khoa học được đào tạo, để có các kỹ năng nghiên cứu khoa học. Một vị Tu sĩ được dạy cách ngồi thiền, để có thể ngồi thiền tu tập sau này. Một người công nhân, được đào tạo tay nghề, để có thể làm việc sau này... Tuy rằng, không phải là đào tạo, nhưng muốn giáo dục thành công thì cần phải thông qua công tác đào tạo. Vì vậy chúng có mối liên hệ rất mật thiết với nhau. Cho nên khái niệm giáo dục trong bộ môn này được hiểu bao gồm cả giáo dục và đào tạo. - Khái niệm khoan dung Khoan dung là phạm trù xuất hiện từ lâu và như sợi chỉ đỏ xuyên suốt dòng chảy lịch sử tư tưởng Việt Nam các thời kỳ. Quan niệm về khoan dung cũng có nhiều ý kiến khác nhau. Theo Hán Việt từ điển giản yếu, học giả Đào Duy Anh: bao dung là người có đại độ, tức là độ lượng, rộng lượng; khoan dung là rộng lòng bao dung. Trong Từ điển tiếng Việt, tác Hoàng Phê cho rằng, bao dung thuộc loại tính từ với nghĩa là có độ lượng, rộng lượng với mọi người; còn động từ khoan dung lại có nghĩa là rộng lượng tha thứ cho người có lỗi lầm. 6
- Trong dự thảo Tuyên bố về sự khoan dung của Liên hợp quốc (tổ chức ở Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ, ngày 16—1993), UNESCO đã nêu ra nội hàm khái niệm và hành động cho sự khoan dung như sau: ―Người ta cần những niềm tin của mình. Nhưng ngày nay đòi hỏi một hình thức đoàn kết mới, một cuộc sống gắn bó mật thiết hơn bao giờ hết để đảm bảo rằng, những niềm tin của chúng ta không được dẫn đến những mô hình hành vi loại trừ các niềm tin khác. Điều chủ yếu là phải thừa nhận rằng trong khi tất cả mọi người đều bình đẳng về phẩm cách thì họ lại khác nhau về tài năng, về niềm tin và tín ngưỡng và những sự khác nhau đó là toàn bộ nền văn minh nói chung miễn là mọi công dân được bảo đảm có những cơ hội để đối thoại và tham gia vào đời sống cộng đồng cả về chính trị, văn hóa, kinh tế và xã hội ở tất cả các giai cấp‖. Tiếp nối tinh thần ấy, Ủy ban UNESCO Việt Nam cho rằng: ―Khoan dung là một hình thức tự do, tự do về tư tưởng, tự do về pháp lý. Một con người khoan dung là người làm chủ về tư tưởng và hành động của mình. Khoan dung là một thái độ ứng xử tích cực, không hàm ý ban ơn hay hạ mình chiếu cố đối với những người khác. Khoan dung là thừa nhận và chấp nhận sự khác biệt. Đó là học cách nghe, cách thông tin và cách hiểu người khác. Khoan dung là chấp nhận sự đa dạng của các nền văn hóa; là sự cởi mở đối với những tư tưởng triết lý khác mình, là sự ham học hỏi, tìm hiểu những điều bổ ích để làm giàu cho bản thân, không bác bỏ nhưng gì mà mình chưa biết. Khoan dung là tôn trọng quyền tự do của người khác. Khoan dung là sự thừa nhận không có một nền văn hóa, một quốc gia hay một tôn giáo nào độc tôn về tri thức và chân lý‖ Như vậy, khoan dung là một phạm trù dùng để chỉ thái độ, cách ứng xử tôn trọng, xóa bỏ sự kỳ thị đối với các khác biệt; là việc chấp nhận có phê phán những tư tưởng khác mình trên vũ đài công khai và có sức thuyết phục tất cả các bên trên cơ sở hiểu mình, hiểu người để cùng tồn tại trong hòa bình. Khoan dung không phải là sự nhượng bộ, sự hạ mình mà là trách nhiệm của 7
- mỗi người để duy trì và bảo đảm quyền con người - Khái niệm đoàn kết Đoàn kết là hiện tượng nhiều người kết hợp với nhau thành cộng đồng thống nhất cùng hoạt động vì một mục đích chính đáng, phù hợp trên cơ sở pháp luật và chuẩn mực đạo đức. Khái niệm đoàn kết có khi còn được hiểu là: đồng tâm hiệp lực, tề tâm nhất trí, liên hợp, kết hợp,... Đoàn kết là một xu thế tất yếu trong sự phát triển của các cộng đồng người. Các cộng đồng người đang hiện diện trên trái đất đều đã trải qua nhiều thử thách trong quá trình phát triển của mình. Sự khắc nghiệt của quy luật cạnh tranh sinh tồn, của hiện tượng cá lớn nuốt cá bé đã chi phối các quan hệ giữa các tộc người, không trừ bất cứ một cộng đồng nào. Cộng đồng nào vượt lên được thì sống, không vượt lên được thì chết. Sống được, ngoài lý do khác ra thì đoàn kết là một yếu tố quan trọng có tính quyết định. Tinh thần đoàn kết là sự gắn kết, sự liên kết bền chặt giữa các cá nhân trong một tập thể để trải qua hoặc hoàn thành những giai đoạn khác nhau của cuộc sống. Nó giúp cho con người cảm thấy bản thân mình không bị lạc lõng, luôn có động lực để phấn đấu tới những điều tốt đẹp hơn. Tinh thần đoàn kết giống như một tấm lá chắn lớn giúp con người vững bước vượt qua những khó khăn, thách thức trong cuộc sống. Tinh thần đoàn kết không chỉ có ý nghĩa và vai trò quan trọng trong quá khứ mà còn nguyên những giá trị tới hiện tại và tương lai. Tinh thần đoàn kết đã trở thành một truyền thống quý báu của dân tộc ta từ xưa đến nay. Như vậy, khoan dung, đoàn kết (KD, ĐK) là truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta từ bao đời nay. Tinh thần ấy thể hiện qua sự tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau bằng những hành động cụ thể. Nhất là những khi gặp hoạn nạn, khó khăn; khoan dung, đoàn kết cũng có khi chỉ đơn giản thể hiện ở những việc nhỏ nhặt hằng ngày, như cùng nhau giải một bài toán khó hay cùng nhau làm một bài văn hay, bỏ qua những sai lầm khi người ta biết xin lỗi, sửa chữa. Và dĩ nhiên, kết quả sau khi khoan dung, đoàn kết thường tốt hơn, vì đó là ý kiến 8
- của nhiều người, từ đó chính sự khoan dung, đoàn kết là con đường, sức mạnh dẫn đến thành công. Đoàn kết, khoan dung có ở khắp mọi nơi như trong gia đình anh em hoà thuận, thương yêu, chia sẻ khó khăn với nhau, ở trường, các bạn cùng giúp nhau tiến bộ, hợp sức lại để lớp đi lên; nhà trường quyên góp tiền cho đồng bào lũ lụt, giúp bạn nghèo vượt khó… 1.1.2. Khái quát tư tưởng khoan dung, đoàn kết trong lịch sử tư tưởng Việt Nam Tư tưởng khoan dung, đoàn kết như dòng chảy vô tận, đóng góp lớn vào kho tàng tri thức của lịch sử tư tưởng Việt Nam xưa và nay. Trong đề tài nghiên cứu này, nhóm tác giả khái quát tư tưởng khoan dung, đoàn kết trong quan niệm truyền thống Việt Nam, quan niệm về khoan dung, đoàn kết của một số danh nhân tiêu biểu như: Trần Nhân Tông, Nguyễn Trãi, Hồ Chí Minh và quan niệm của Đảng ta về khoan dung, đoàn kết. * Khoan dung và đoàn kết trong quan niệm truyền thống Việt Nam Mặc dù chúng ta không đồng thuận lắm về cách hiểu từ khoan dung, nhưng trong cách hiểu của chúng ta vẫn có gặp gỡ nhất định. Trên nghiên cứu của nhóm tác giả thấy lĩnh vực khoan dung sáng giá nhất của sử Việt Nam trong kỷ nguyên Đại Việt chính là khoan dung tôn giáo. Trong lịch sử du nhập tôn giáo từ phương Đông và Phương Tây vào Việt Nam, sự tiếp nhận của người Việt không bao giờ là cực đoan, nghiệt ngã, hay lạnh lẽo, kỳ thị, mà là sự tiếp nhận rộng lượng, nhân ái, thuận hòa. Có lẽ vì thế, ở Việt Nam hầu như không có chiến tranh tôn giáo. Ngay từ thời Lý - Trần, đã diễn ra sự kiện tôn giáo đặc sắc về tinh thần khoan dung: Tam giáo đồng tôn, giữa Nho - Phật - Đạo. Theo nhóm tác giả, nghĩa bản vị của cụm từ này là đồng tôn, không chắc là đồng nguyên, theo cách gọi thông thường là Tam giáo đồng nguyên. Và đồng tôn, là tôn trọng nhau, không lệ thuộc, không áp đặt, xâm lấn nhau, và cùng tồn tại. Tôn giáo nào trong ba tôn giáo này cũng nhận được sự tôn trọng của người Việt về sự độc lập của chính tôn giáo ấy. Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo, dù vào Việt Nam theo cách nào, 9
- cũng đều được Việt hóa, và tôn giáo nào cũng được tôn trọng, trong đời sống xã hội của người Việt qua hàng nghìn năm lịch sử. Đây chính là cơ sở văn hóa của sự khoan dung tôn giáo ở Việt Nam. Ở Việt Nam đã tiếp tục xuất hiện sự khoan dung trong lĩnh vực rất khó khoan dung, đó là lĩnh vực quân sự, chính trị. Đây chính là ứng xử Việt mang nhiều tinh thần rộng lượng, khoan hòa, tha thứ. Ở thế kỷ 13, năm 1289, sau chiến thắng Bạch Đằng, kết thúc 3 cuộc đại thắng quân Nguyên, các vị vua nhà Trần không chỉ nổi bật ở tinh thần Sát Thát của danh tướng Trần Bình Trọng, mà còn cư xử đầy khoan dung với những lầm lỗi lịch sử của khanh tướng nhà Trần. Thượng Hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông dù biết mười mươi (do lấy được tài liệu mật từ cuộc quy hàng của Thoát Hoan) tội phản nghịch của các vị tướng lĩnh, quan lại tôn thất nhà Trần (viết sớ xin hàng Thoát Hoan, dâng đất, vàng bạc cống nạp, nịnh nọt thăng quan tiến chức…), nhưng hai vị vua anh minh và nhân ái này đã chọn cách ứng xử: coi như không biết, và tha cho bằng hết các vị tôn thất phản nghịch này, sai đốt sạch các thư từ tài liệu ghi chép về tội phản nghịch lấy được từ Thoát Hoan, để làm yên lòng những kẻ phản nghịch (điều này được sử gia Ngô Sĩ Liên ghi chép và bình luận trong ―Đại Việt Sử ký toàn thư‖). Sau khi đánh tan giặc Minh năm 1427, không những chấp nhận cho Vương Thông ―giảng hòa‖, và thấy rõ tướng giặc ―thực bụng cầu hòa‖ rút tàn quân về nước, Lê Lợi lại còn cấp thuyền, ngựa, lương thực… cho cuộc lui quân này, nhằm mục đích ―ta muốn giữ toàn quân để dân yên nghỉ‖. Nên việc tha thứ, khoan dung của người Việt trong lịch sử đã thành một truyền thống, được tiếp nối rất tốt đẹp trong các cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ sau này… * Khoan dung và đoàn kết trong tư tưởng Trần Nhân Tông Không chỉ là một vị minh quân, một vị anh hùng trong chiến tranh và nhà kiến tạo trong hòa bình, Trần Nhân Tông còn là sơ tổ của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, là một trong những đại diện xuất sắc nhất của truyền thống tư 10
- tưởng Việt Nam mà trong bài viết Cội nguồn ngôn ngữ học của đặc điểm tư duy người Việt chúng tôi đã định danh bằng thuật ngữ ―thực tiễn luận cộng đồng‖. Ở Trần Nhân Tông, truyền thống ấy có thể gọi là ―thực tiễn luận Thiền tông‖, một hệ thống triết lý được Trần Nhân Tông trình bày đặc biệt súc tích trong Cư trần lạc đạo: sống giữa phàm trần mà vui với đạo, thuận theo hoàn cảnh mà làm, tìm giác ngộ ở chính tâm mình. Trần Nhân Tông vừa lên ngôi thì Hốt Tất Liệt đã phái sứ bộ do Sài Thung cầm đầu đến nước ta gây sự. Trước nguy cơ xâm lược của ngoại bang, Trần Nhân Tông đã buộc phải trực tiếp lãnh đạo không phải một mà hai cuộc chiến tranh vệ quốc. Là người am tường giới luật của nhà Phật, cách làm của Trần Nhân Tông thật độc đáo, vô cùng hiếm hoi không chỉ trong lịch sử Việt Nam, mà cả trong lịch sử thế giới: nhà vua tổ chức ―trưng cầu quân ý‖ (Hội nghị Bình Than) và ―trưng cầu dân ý‖ (Hội nghị Diên Hồng). Có thể nói, bằng cách đó, ông giải quyết được một vấn đề mang tính nguyên tắc: cuộc kháng chiến vệ quốc là thuận theo ý của quân dân, theo đó, nhà vua chấp nhận hy sinh mạng sống trăm người để cứu lấy mạng sống muôn người. Tuy nhiên, có một mục đích khác không kém phần quan trọng, đó là củng cố tinh thần, tạo dựng sự đoàn kết toàn dân. Chúng ta có thể khẳng định điều này một cách chắc chắn nếu liên hệ với hàng loạt biện pháp khác như ân xá cho dân chúng, điều động và thăng chức cho các tướng, tha tội cho Trần Khánh Dư nhiều tật xấu và lỗi lầm từng bị cách chức xuống làm nghề bán than cuối cùng lại được vua Nhân Tông ban áo ngự, cho bàn việc binh lại hạ chiếu phục chức và phong làm Phó Đô tướng quân, củng cố quan hệ hữu hảo với Chiêm Thành… Chính khối đoàn kết toàn dân là điều kiện quyết định đối với hai cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông. Chủ trương đại đoàn kết dân tộc của Trần Nhân Tông cũng thể hiện không kém phần độc đáo trong sự nghiệp kiến thiết đất nước thời bình. Sau khi đánh đuổi ngoại xâm, Trần Nhân Tông không chỉ đưa ra những quyết sách an dân thông thường như giảm tô thuế và tạp dịch, 11
- ban thưởng cho người có công, ban hành lệnh đại xá…, mà còn có những quyết định vô cùng hiếm gặp ở những nhà lãnh đạo khác. Một trong những quyết định đó là ra lệnh đốt tất cả các giấy tờ liên quan đến những người từng phản bội. Bằng cách xóa bỏ những tội lỗi của một số thần dân trong quá khứ, giúp họ hòa nhập vào một tương lai chung của dân tộc, còn nhiều hành xử bao dung giúp người hòa giải như chuyện giúp Lê Tòng Giáo và Đinh Củng Viên, đã trở thành ―thiên tử của hòa giải‖. Đặt lợi ích quốc gia cao hơn lợi ích cá nhân, gia đình, nên vua quan, tướng lĩnh triều Trần đã vượt qua được những rào cản của tư thù nhỏ hẹp để đạt đến những ứng xử khoan dung đáng trân trọng. Trần Nhân Tông đưa ra một thông điệp vĩ đại của lòng khoan dung. Lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước với những chiến công hiển hách, trong đó có những chiến công của Trần Nhân Tông, dạy chúng ta rằng sự phát triển và thịnh vượng của đất nước trong mọi lĩnh vực, như kinh tế, văn hóa, giáo dục, chính trị, xã hội và quốc phòng chỉ có thể có được nếu dựa trên một nền tảng sâu xa, vững chắc, đó là sự đoàn kết của toàn dân tộc. Đoàn kết dân tộc chính là cách mà cha ông ta nhiều lần sử dụng như là kế sâu rễ bền gốc, là nền tảng của sức mạnh quốc gia. * Khoan dung và đoàn kết trong tư tưởng Nguyễn Trãi Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi biểu hiện ở lòng thương người, ở sự khoan dung độ lượng, thậm chí đối với cả kẻ thù. Có thể nói, đây là nét độc đáo riêng có trong tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi. Chiến lược ―tâm công‖ Nguyễn Trãi đã thực hiện trong kháng chiến chống Minh chính là sự thể hiện nét độc đáo riêng ấy. ―Tâm công‖ – đánh vào lòng người – sách lược đã được Nguyễn Trãi dày công suy xét, thu tóm cái tinh hoa trong các sách về binh pháp xưa và vận dụng sáng tạo trong thực tiễn đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam đương thời. ―Tâm công‖ tức là dùng lý lẽ tác động vào tinh thần, vào ý thức kẻ địch, nói rõ điều hơn lẽ thiệt, thuyết phục, cảm hoá chúng, từ đó đập tan tinh thần chiến đấu của chúng, làm cho chúng nhụt ý chí xâm lược, rã rời hàng ngũ, tiến tới chấp nhận con đường hoà giải, rút quân 12
- về nước. Tất nhiên, chiến lược ―tâm công‖ ấy luôn được nghĩa quân Lam Sơn kết hợp chiến đấu bằng vũ khí, quân sự, ngoại giao; và thực tiễn lịch sử đã chứng tỏ rằng, chiến lược đó là hoàn toàn đúng đắn. Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi nổi bật ở quan điểm về cách đối xử với kẻ thù khi chúng đã bại trận, đầu hàng. Nó thể hiện đức ―hiếu sinh‖, sự ―khoan dung‖ của dân tộc Việt Nam nói chung, cũng như tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi nói riêng. Nguyễn Trãi cũng như Lê Lợi, trong chính sách đối với hàng binh, đã chủ trương không giết để hả giận tức thời, mà còn tạo điều kiện cần thiết cho chúng rút về nước một cách an toàn và không mất thể diện. Trong thư gửi Vương Thông, ông viết: ―Cầu đường sửa xong, thuyền xe sắm đủ, hai đường thuỷ lục, tuỳ theo ý muốn, đưa quân ra cõi, yên ổn muôn phần‖. Theo Nguyễn Trãi: ―Trả thù báo oán là thường tình của mọi người; mà không thích giết người là bản tâm của người nhân‖. Để dân yên vui, nước hoà bình, đó là khát vọng cháy bỏng của Nguyễn Trãi. Bởi thế, ông nói: ―Dùng binh cốt lấy bảo toàn cả nước làm trên hết. Để cho bọn Vương Thông trở về nói với vua Minh trả lại đất đai cho ta, đó là điều ta cần không gì hơn thế nữa‖. ―Tuyệt mối chiến tranh‖, ―bảo toàn cả nước là trên hết‖ đã thể hiện lập trường chính trị nhân nghĩa của Nguyễn Trãi. Có thể nói, đó là một tinh thần nhân đạo cao cả, một triết lý nhân sinh sâu sắc. Quan niệm của Nguyễn Trãi, vì thế, là một quan niệm tích cực và đầy tinh thần nhân bản. Tầm chiến lược, nhìn xa trông rộng và khoa học trong tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi còn được thể hiện ở tư tưởng cầu người hiền tài giúp nước, giúp dân. Nguyễn Trãi quan niệm rằng, nhân tố quyết định sự nghiệp xây dựng đất nước thái bình, thịnh trị là nhân dân. Làm thế nào để phát huy hết được những yếu tố tích cực của quần chúng nhân dân? Trong sức mạnh của nhân dân thì yếu tố nào là động lực mạnh mẽ nhất? Nguyễn Trãi đã chỉ ra, đó là yếu tố nhân tài. Không chỉ có ý nghĩa to lớn trong thời đại mình, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi, một mặt, tạo nên một dấu ấn đặc sắc trong lịch sử tư tưởng 13
- Việt Nam; mặt khác, còn có ảnh hưởng sâu rộng đến thực tiễn chính trị của đất nước trong những thời đại sau này. * Khoan dung và đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh Đại đoàn kết dân tộc là một giá trị tinh thần to lớn, một truyền thống cực kì quý báu của dân tộc ta, được hun đúc trong suốt mấy nghàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đoàn kết đã trở thành một động lực to lớn, một triết lý nhân sinh và hành động để dân tộc ta vượt qua bao biến cố, thăng trầm của thiên tai, địch họa, để tồn tại và phát triển bền vững. Trên cơ sở thực tiễn cách mạng Việt Nam và thực tiễn cách mạng thế giới đã sớm hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. Với nhãn quan chính trị sắc bén, với tinh thần nhân văn cao cả, suốt cả cuộc đời, Hồ Chí Minh đã không ngừng xây dựng, hoàn thiện một hệ thống quan điểm về đại đoàn kết dân tộc, tích cực truyền bá tư tưởng đoàn kết trong toàn Đảng và các cấp chính quyền, trong các tầng lớp nhân dân, kể cả đồng bào Việt Nam ở xa Tổ quốc. Đối với Người, độc lập dân tộc chỉ có giá trị khi gắn liền với tự do, hạnh phúc, với cơm no áo ấm của người dân lao động, Người nói: ―Nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lí gì‖ và ―Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ‖. Vì vậy, ngay trong những ngày đấu tranh gian khổ của nhân dân ta, Hồ Chí Minh rất chăm lo tới đời sống cho nhân dân với phương châm vừa kháng chiến vừa kiến quốc, từng bước nâng cao đời sống vật chất, quyền tự do dân chủ cho đông đảo nhân dân lao động. Người luôn phấn đấu làm cho dân thấy được giá trị và từng bước được hưởng quyền tự do dân chủ. Người đồng thời căn dặn, mọi đường lối chủ trương của chính quyền phải phản ánh được tâm tư nguyện vọng và lợi ích của quảng đại quần chúng nhân dân, chính quyền phải thật sự vì dân, phấn đấu cho quyền lợi của nhân dân: ―Việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân ta phải hết sức tránh‖. Chỉ với thái độ như vậy mới thực sự lôi kéo, tập hợp được đông đảo 14
- các tầng lớp nhân dân, phát huy cao nhất sự chủ động sáng tạo của từng người, từng bộ phận, trên mọi lĩnh vực để đưa cách mạng tới thắng lợi. Đại đoàn kết được xây dựng trên cơ sở đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục đối với quần chúng nhân dân. Để tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, Hồ Chí Minh rất chú trọng tiến hành công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục quần chúng. Công tác tuyên truyền theo Người là một khoa học, nghệ thuật cách mạng, do vậy các tổ chức và cán bộ cách mạng phải không ngừng tìm tòi lựa chọn nội dung, hình thức phù hợp để chuyển tải đường lối của Đảng một cách sâu rộng tới nhân dân. Muốn làm được điều đó, việc quan trọng hàng đầu đòi hỏi nội dung tuyên truyền, giáo dục, vận động phải phản ánh đúng những nguyện vọng sâu xa và những lợi ích cơ bản nhất của dân chúng. Ở đây có những quyền lợi, nguyện vọng chung có thể gắn kết mọi thành viên của dân tộc nhưng cũng có những nguyện vọng riêng phù hợp với một bộ phận dân chúng, giai cấp. Do đó, nội dung tuyên truyền, giáo dục cần phải đáp ứng được hai yêu cầu trên. Có được nội dung tuyên truyền, vận động đúng đắn là cần thiết, song hiệu quả tập hợp, đoàn kết lực lượng cách mạng còn phụ thuộc vào việc sử dụng các hình thức tuyên truyền, vận động sao cho phù hợp với từng đối tượng cụ thể, và chính Người là một điển hình mẫu mực về việc sử dụng hiệu quả các hình thức tuyên truyền, vận động quần chúng. Điều cần lưu ý phải luôn có một nội dung và hình thức tuyên truyền phù hợp với từng đối tượng, từng giai đoạn cách mạng cụ thể và đặc biệt coi trọng giáo dục tinh thần đoàn kết giữa các dân tộc, các tôn giáo trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Khoan dung, nhân ái Hồ Chí Minh biểu hiện ở thái độ trân trọng, cái nhìn rộng lượng đối với những giá trị khác nhau của văn hoá nhân loại, là chấp nhận giao lưu, đối thoại, tìm ra cái chung, nhằm đạt tới sự hoà đồng, cùng phát triển. Hồ Chí Minh xa lạ với mọi thói kỳ thị văn hoá. Trong khi chống Pháp, Người vẫn yêu mến và đề cao văn hoá Pháp; chống Mỹ và vẫn ca ngợi truyền 15
- thống đấu tranh cho độc lập, tự do của nhân dân Mỹ. Bản thân Người là hình ảnh kết tinh của tinh hoa văn hóa nhân loại Đông và Tây. Trong một thế giới cộng sinh về văn hóa, có sự giao lưu giữa cái chung và cái riêng, cái đồng nhất và cái dị biệt, khoan dung Hồ Chí Minh là chấp nhận đối thoại về giá trị, là truy tìm cái chung, cái nhân loại để hòa đồng. Với các tôn giáo, Hồ Chí Minh thành thật tôn trọng đức tin của người có đạo, khẳng định lẽ sống cao đẹp, những giá trị đạo đức - nhân văn của các vị sáng lập, không hề bài bác, phủ định mà khéo hướng lý tưởng của các tôn giáo vào mục tiêu giải phóng dân tộc và mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân. Khoan dung, nhân ái Hồ Chí Minh không phải là một sách lược mà là sự kế tục và phát triển truyền thống khoan dung, nhân ái của dân tộc ta qua hàng ngàn năm lịch sử và cũng là sự thể hiện bản chất nhân văn, chính nghĩa của cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc. Khoan dung cũng là một biểu hiện sức mạnh của cách mạng, chỉ có những cuộc cách mạng chân chính, được lòng dân, mới có sức thuyết phục, cảm hóa trái tim, khối óc của quần chúng, bao gồm cả những người lầm lạc và chống đối. Trên thực tế, quan điểm khoan dung, độ lượng và niềm tin vào nhân tính con người đã giúp Hồ Chí Minh: ―Đoàn kết tất cả những người thật sự yêu Tổ quốc, yêu hòa bình, không phân biệt họ thuộc đảng phái nào, tôn giáo nào, tầng lớp nào và quá khứ họ đã hợp tác với phe nào. Trên nền tảng vững mạnh là lực lượng vô địch của tối đại đa số nhân dân ta (tức là giai cấp công, nông), với một cương lĩnh rộng rãi và một chính sách đúng đắn, với sự đoàn kết nhất trí của tất cả những người xứng đáng là con Lạc cháu Hồng - Mặt trận nhất định sẽ thành công trong việc đánh tan âm mưu Mỹ và bè lũ tay sai của chúng và thực hiện hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ trong cả nước Việt Nam yêu quý của chúng ta‖. * Khoan dung và đoàn kết trong quan niệm của Đảng Kể từ khi thành lập, Đảng ta đã luôn đề cao sức mạnh đoàn kết trong toàn Đảng, toàn dân tộc. Quan điểm về khoan dung, đoàn kết được thể hiện rõ 16
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Quy định hình thức trình bày đề cương chi tiết đề tài nghiên cứu khoa học và báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học
10 p | 5310 | 985
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Động cơ học tập của sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
60 p | 2189 | 545
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Nghiên cứu xử lý nước thải sinh hoạt bằng bãi lọc ngầm trồng cây dòng chảy ngang
63 p | 1807 | 382
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Tính hiệu quả của chính sách tiền tệ Việt Nam( Giai đoạn 2000 – 2013)
111 p | 920 | 353
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Tìm hiểu về lễ hội du lịch, nghiên cứu điển hình lễ hội Hoa phượng đỏ Hải Phòng
102 p | 1928 | 221
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Hiệu quả cho vay tiêu dùng cá nhân tại Ngân hàng TMCP Á Châu (ABC) – chi nhánh Sài Gòn – Thực trạng và giải pháp
117 p | 673 | 182
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Phát triển sự đo lường tài sản thương hiệu trong thị trường dịch vụ
81 p | 700 | 148
-
Thuyết minh đề tài Nghiên cứu Khoa học và Phát triển Công nghệ
30 p | 514 | 74
-
Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu khoa học: Nghiên cứu xây dựng sản phẩm du lịch Đà Nẵng từ tài nguyên văn hóa
27 p | 395 | 60
-
Báo cáo Đề tài nghiên cứu khoa học: Nghiên cứu phân tích và đánh giá các dữ liệu môi trường sử dụng phương pháp phân tích thống kê
22 p | 370 | 51
-
Đề tài nghiên cứu khoa học Bài toán tối ưu có tham số và ứng dụng
24 p | 328 | 44
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Thực trạng và giải pháp về việc giết mổ gia súc gia cầm thủ công tự phát trên địa bàn thành phố Thủ Dầu một hiện nay
22 p | 233 | 38
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Bài giảng điện tử môn “Lý thuyết galois” theo hướng tích cực hóa nhận thức người học
53 p | 290 | 36
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Bài giảng điện tử môn "Lý thuyết Galoa" theo hướng tích cực hóa nhận thức người học
115 p | 158 | 29
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Một số giải pháp phát triển hoạt động thanh toán quốc tế tại ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Biên Hòa
100 p | 273 | 27
-
Đề tài khoa học: Nghiên cứu ứng dụng tin học để quản lý kết quả các đề tài nghiên cứu khoa học
14 p | 165 | 11
-
Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước: Dự báo hiện tượng xói lở - bồi tụ bờ biển, cửa sông và các giải pháp phòng tránh
0 p | 133 | 7
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Tìm hiểu các hệ chi đo trong phòng thí nghiệm xử lý hạt nhân
90 p | 86 | 6
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn