intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài nghiên cứu khoa học của người học: Quan hệ Ngoại giao Việt Nam và Cộng hòa Dân chủ Đức từ năm 1955 đến 1990

Chia sẻ: Elysale Elysale | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:71

42
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu đề tài nhằm nghiên cứu, trình bày mối quan hệ ngoại giao giữa Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước đây) và Cộng hòa Dân chủ Đức; để từ đó nêu bật tinh thần quốc tế vô sản, hợp tác xã hội chủ nghĩa vô tư trong sáng giữa các quốc gia Xã hội Chủ nghĩa anh em và rút ra những bài học kinh nghiệm trong việc phát triển mối quan hệ ngoại giao trong thời kỳ hiện đại.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài nghiên cứu khoa học của người học: Quan hệ Ngoại giao Việt Nam và Cộng hòa Dân chủ Đức từ năm 1955 đến 1990

  1. TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ BÁO CÁO TỔNG HỢP ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA NGƯỜI HỌC QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT NAM VÀ CỘNG HÒA DÂN CHỦ ĐỨC TỪ NĂM 1955 ĐẾN 1990 Mã số đề tài: ĐTSV.2020.10 Chủ nhiệm đề tài : Đỗ Quốc Huy Lớp : 1705CTHB Cán bộ hướng dẫn : ThS. Đặng Đình Tiến Hà Nội, 2020
  2. TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ BÁO CÁO TỔNG HỢP ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA NGƯỜI HỌC QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT NAM VÀ CỘNG HÒA DÂN CHỦ ĐỨC TỪ NĂM 1955 ĐẾN 1990 Mã số đề tài: ĐTSV.2020.10 Chủ nhiệm đề tài : Đỗ Quốc Huy Thành viên tham gia : Nguyễn Duy Công Nông Ngọc Quyền Phùng Đức Trung Lớp : 1705CTHB Cán bộ hướng dẫn : ThS. Đặng Đình Tiến Hà Nội, 2020
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng nhóm sinh viên nghiên cứu khoa học chúng tôi. Các số liệu và tài liệu được sử dụng trong đề tài có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu của đề tài chưa được công bố ở bất cứ công trình nghiên cứu khoa học nào.
  4. NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG ĐỀ TÀI STT Chữ viết tắt Tiếng Việt 1. BMZ Bộ Hợp tác phát triển 2. CDU Liên đoàn Dân chủ Thiên chúa giáo Đức 3. CHDC Cộng hòa Dân chủ 4. CHLB Cộng hòa Liên bang 5. DAAD Cơ quan Trao đổi Hàn lâm Đức 6. EKF Quỹ Năng lượng và Khí hậu 7. EU Liên minh châu Âu Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên 8. EVFTA minh châu Âu 9. FDI Về đầu tư trực tiếp nước ngoài 10. GCF Quỹ Khí hậu xanh Chương trình Sáng kiến về khí hậu và bảo vệ 11. IKLU môi trường 12. KHKT Khoa học kỹ thuật 13. KPD Đảng Cộng sản Đức 14. LDPD Đảng Dân chủ Tự do Đức 15. MfS Bộ An ninh Quốc gia 16. ODA Hỗ trợ Phát triển Chính thức 17. SED Đảng Xã hội chủ nghĩa Thống nhất Đức 18. SPD Đảng Dân chủ Xã hội Đức 19. XHCN Xã hội chủ nghĩa
  5. MỤC LỤC A. PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................... 5 B. PHẦN NỘI DUNG ....................................................................................... 9 Chương 1: NHỮNG NHÂN TỐ CHỦ YẾU TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT NAM – CỘNG HÒA DÂN CHỦ ĐỨC ........................ 9 1.1. Bối cảnh quốc tế, khu vực cuối thập niên 40, đầu thập niên 50 của Thế kỷ XX.................................................................................................................. 9 1.2. Những nhân tố tiền đề trước khi Việt Nam – CHDC Đức thiết lập quan hệ ngoại giao (1950-1954) .............................................................................. 14 1.3. Việt Nam – Cộng hòa Dân chủ Đức thiết lập quan hệ ngoại giao và nhu cầu hợp tác, chính sách đối ngoại của hai nước (1955-1990)...................... 18 Chương 2: QUAN HỆ VIỆT NAM – CỘNG HÒA DÂN CHỦ ĐỨC TRÊN CÁC LĨNH VỰC ............................................................................................... 20 2.1. Quan hệ Việt Nam – Cộng hòa Dân chủ Đức trên lĩnh vực chính trị - đối ngoại .......................................................................................................... 20 2.2. Quan hệ Việt Nam – Cộng hòa Dân chủ Đức trên lĩnh vực quân sự, an ninh .................................................................................................................. 24 2.3. Quan hệ Việt Nam – Cộng hòa Dân chủ Đức trên lĩnh vực kinh tế - khoa học – công nghệ ..................................................................................... 26 2.4. Trên lĩnh vực văn hoá – giáo dục – y tế – cơ sở hạ tầng ....................... 30 2.5. Quan hệ Việt Nam – Cộng hòa Dân chủ Đức trên lĩnh vực hợp tác lao động Xã hội Chủ nghĩa ................................................................................... 32 Chương 3: BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ TRIỂN VỌNG QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT NAM – CỘNG HÒA LIÊN BANG ĐỨC (SỰ KẾ THỪA CỦA LỊCH SỬ SAU KHI NƯỚC ĐỨC THỐNG NHẤT) ............... 37 3.1. Đánh giá mối quan hệ Việt Nam – Cộng hòa Dân chủ Đức từ 1955 – 1990 .................................................................................................................. 37 3.2. Quan hệ ngoại giao Việt Nam– CHLB Đức dựa trên nền tảng lịch sử.. .......................................................................................................................... 38 3.3. Cộng đồng người Việt tại Đức và mối quan hệ giữa Đức và Việt Nam hiện nay ........................................................................................................... 40 3
  6. 3.4. Triển vọng phát triển kinh tế Việt Nam – CHLB Đức ........................... 41 C. PHẦN KẾT LUẬN ..................................................................................... 45 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 46 PHỤ LỤC ......................................................................................................... 48 4
  7. A. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Trong suốt lịch sử bảo vệ và xây dựng Tổ quốc Việt Nam có sự đóng góp không hề nhỏ của bạn bè quốc tế, các nước xã hội chủ nghĩa anh em, trong đó có Cộng hòa Dân chủ Đức (hay còn được gọi là Đông Đức). Với tinh thần quốc tế vô sản, tình anh em xã hội chủ nghĩa trong sáng, Cộng hòa Dân chủ Đức đã có sự giúp đỡ to lớn cho công cuộc bảo vệ và xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong những năm tháng ác liệt của chiến tranh và cả trong giai đoạn Việt Nam bị bao vây cấm vận với vô vàn khó khăn, nhà nước và nhân dân Đông Đức đã có những sự giúp đỡ vô giá về mặt chính trị, ngoại giao, quốc phòng - an ninh, kinh tế - xã hội, y tế, cơ sở hạ tầng... Năm 2020 là năm kỉ niệm 90 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930-03/02/2020) và 65 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam – Cộng hòa Dân chủ Đức (03/02/1955-03/02/2020). Tuy chế độ chính trị không còn, nhưng nhân dân Việt Nam vẫn luôn luôn ghi nhớ và biết ơn những đóng góp vô giá của một nước Đức xã hội chủ nghĩa anh em. Tình cảm của nhân dân Đức đối với nhân dân Việt Nam trong những năm tháng khó khăn cần được biết tới rộng rãi, kể cả với thế hệ trẻ - những người sinh ra sau ngày nước Đức thống nhất. Mặt khác, dựa vào lịch sử quan hệ ngoại giao tốt đẹp giữa Việt Nam và Cộng hòa Dân chủ Đức, mối quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và nước Đức mới cũng cần được vun đắp và phát triển sâu rộng hơn. Xuất phát từ những lý do trên, nhóm tác giả đã lựa chọn đề tài: “Quan hệ Ngoại giao Việt Nam và Cộng hòa Dân chủ Đức từ năm 1955 đến 1990”. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu: Hiện tại đã có nhiều công trình nghiên cứu trong và ngoài nước nghiên cứu về quan hệ Việt Nam – CHDC Đức trên từng lĩnh vực như: 5
  8. GS. Nguyễn Văn Ngọ (2018), Kể Lại Chuyện Việt Nam tham gia hợp tác KHKT ở hội đồng tương trợ kinh tế các nước XHCN (SEV); Tác giả đã tái hiện lại bức tranh sinh động về quá trình Việt Nam tham gia hợp tác trênh lĩnh vực khoa học kĩ thuật ở hội đồng tương trợ kinh tế các nước xã hội chủ nghĩa, những khó khăn và thuận lợi trong quá trình tham gia tổ chức này Cơ quan Ủy viên Liên bang về các tài liệu của Dịch vụ An ninh Nhà nước Cộng hòa Dân chủ Đức cũ (2016), Quan hệ giữa An ninh Việt Nam và Stast – Đông Đức, trong công trình nghiên cứu, tập thể tác giả đã đi vào tìm hiểu mối quan hệ hợp tác về an ninh trong quan hệ Việt Nam và Cộng hòa Dân chủ Đức trong thời kỳ từ năm 1950 đến trước năm 1990 Đào Đức Thuận, Phạm Thu Quỳnh (2011), Quan hệ Việt Nam - Cộng hòa dân chủ Đức (1950 - 1990) qua tài liệu lưu trữ, Tạp chí Văn Thư - Lưu trữ Việt Nam, Số 4. Trong bài viết tác giả đã tiếp cận mối quan hệ giữa Việt Nam và Cộng hòa dân chủ Đức thông qua một số tài liệu lưu trữ tại Việt Nam, từ đó làm rõ mối quan hệ Việt Nam - Cộng hòa dân chủ Đức trên một số lĩnh vực như: kinh tế, khoa học kĩ thuật, xây dựng… Martin Grossheim (2014), “Fraternal Support: The East German ‘Stasi’ and the Democratic Republic of Vietnam during the Vietnam War”, Cold War International History Project Working Paper #71, September 2014, Tác giả đã làm rõ một số nội dung trong quan hệ giữa Bộ An ninh Quốc gia Đông Đức và Việt Nam DCCH trong Chiến tranh VN. Các bài viết đã làm rõ một số nội dung hợp tác giữa Việt Nam và CHDC Đức. Tuy vậy, chưa có công trình nghiên cứu nào đi sâu tìm hiểu về mối quan hệ ngoại giao giữa Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước đây) và Cộng hòa Dân chủ Đức một cách tổng hợp, khái quát trên mọi lĩnh vực. 6
  9. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục tiêu nghiên cứu: Nghiên cứu, trình bày mối quan hệ ngoại giao giữa Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước đây) và Cộng hòa Dân chủ Đức; để từ đó nêu bật tinh thần quốc tế vô sản, hợp tác xã hội chủ nghĩa vô tư trong sáng giữa các quốc gia Xã hội Chủ nghĩa anh em và rút ra những bài học kinh nghiệm trong việc phát triển mối quan hệ ngoại giao trong thời kỳ hiện đại . 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu, trình bày mối quan hệ ngoại giao giữa Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước đây) và Cộng hòa Dân chủ Đức 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu lịch sử mối quan hệ ngoại giao giữa Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước đây) và Cộng hòa Dân chủ Đức. - Phạm vi nghiên cứu: + Phạm vi không gian: Đề tài nghiên cứu mối quan hệ ngoại giao giữa Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước đây) và Cộng hòa Dân chủ Đức trên các mặt: chính trị, giao lưu nhân dân, quốc phòng – an ninh, kinh tế, văn hóa, xã hội, y tế, cơ sở hạ tầng, khoa học - kỹ thuật, lao động hợp tác. + Phạm vi thời gian: Nghiên cứu mối quan hệ ngoại giao giữa Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước đây) và Cộng hòa Dân chủ Đức từ năm 1955 đến 1990. 7
  10. 5. Phương pháp nghiên cứu Đề tài nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của triết học Mác - Lênin, quán triệt nguyên tắc khách quan, toàn diện, nguyên tắc lịch sử cụ thể; đồng thời quán triệt đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về ngoại giao và giao lưu nhân dân. Ngoài ra, đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp nghiên cứu tài liệu ... 6. Giả thuyết nghiên cứu Vai trò lịch sử của mối quan hệ ngoại giao giữa Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước đây) và Cộng hòa Dân chủ Đức trước đây có vai trò quan trọng trong công cuộc bảo vệ và xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa cũng như là tiền đề cho việc phát triển mối quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và nước Đức hiện đại. Tuy vậy, nhiều người Việt Nam và Đức hiện tại chưa hiểu rõ và đánh giá đúng mối quan hệ lịch sử này. Đề tài nghiên cứu giúp cho mọi người hiểu rõ và đánh giá đúng hơn về mối quan hệ lịch sử Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước đây) và Cộng hòa Dân chủ Đức. 7. Đóng góp mới của đề tài - Về mặt lý luận: Đề tài tìm hiểu và nghiên cứu về mối quan hệ ngoại giao giữa Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước đây) và Cộng hòa Dân chủ Đức trên các mặt: chính trị, giao lưu nhân dân, quốc phòng – an ninh, kinh tế, văn hóa, xã hội, y tế, cơ sở hạ tầng, khoa học - kỹ thuật, lao động hợp tác. - Về mặt thực tiễn: Đề tài góp phần rút ra những bài học kinh nghiệm trong việc phát triển mối quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và nước Đức mới trong thời kỳ hiện đại. 8
  11. B. PHẦN NỘI DUNG Chương 1 NHỮNG NHÂN TỐ CHỦ YẾU TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT NAM – CỘNG HÒA DÂN CHỦ ĐỨC 1.1. Bối cảnh quốc tế, khu vực cuối thập niên 40, đầu thập niên 50 của Thế kỷ XX 1.1.1. Bối cảnh quốc tế sau Chiến tranh thế giới thứ 2 Ngay từ khi Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn cuối, nhiều vấn đề quan trọng và cấp bách đặt ra trước các nước Đồng minh: - Nhanh chóng đánh bại hoàn toàn chủ nghĩa phát xít - Tổ chức lại trật tự thế giới sau chiến tranh - Phân chia thành quả giữa các nước thắng trận Từ 4/11/2/1945, hội nghị quốc tế được triệu tập tại Yalta (Liên Xô) với sự tham dự của nguyên thủ 3 cường quốc là Liên Xô, Mĩ, Anh nhằm giải quyết các vấn đề trên. Những quyết định quan trọng của Hội nghị Yalta như sau: - Đẩy mạnh việc tiêu diệt chủ nghĩa phát xít Đức và chủ nghĩa quân phiệt Nhật. –Thành lập tổ chức Liên hợp quốc nhằm duy trì hoà bình và an ninh thế giới. –Thoả thuận về việc đóng quân tại các nước nhằm giải giáp quân đội phát xít, phân chia phạm vi ảnh hưởng ở châu Âu và châu Á: + Ở châu Âu: quân đội Liên Xô chiếm đóng miền Đông nước Đức, Đông Berlin và các nước Đông Âu; quân đội Mĩ, Anh và Pháp chiếm đóng miền Tây nước Đức, Tây Berlin và các nước Tây Âu. Vùng Đông Âu thuộc ảnh hưởng của 9
  12. Liên Xô; vùng Tây Âu thuộc phạm vi ảnh hưởng của Mĩ. Hai nước Áo và Phần Lan trở thành những nước trung lập. + Ở châu Á: Hội nghị chấp nhận những điều kiện của Liên Xô để tham chiến chống Nhật bản: 1- Giữ nguyên trạng Mông Cổ; 2- Trả lại cho Liên Xô miền Nam đảo Sakhalin và các đảo xung quanh; quốc tế hoá thương cảng Đại Liên (Trung Quốc) và khôi phục việc Liên Xô thuê cảng Lữ Thuận; Liên Xô cùng Trung Quốc khai thác đường sắt Nam Mãn Châu – Đại Liên; Liên Xô chiếm 4 đảo thuộc quần đảo Kuril. Quân đội Mĩ chiếm đóng Nhật Bản; ở bán đảo Triều Tiên, quân đội Liên Xô chiếm đóng miền Bắc và quân đội Mĩ chiếm đóng miền Nam, lấy vĩ tuyến 38 làm ranh giới; Trung Quốc cần trở thành một quốc gia thống nhất; quân đội nước ngoài rút khỏi Trung Quốc. Chính phủ Trung Hoa Dân quốc cần cải tổ với sự tham gia của Đảng Cộng sản và các đảng phái dân chủ, trả lại cho Trung Quốc vùng Mãn Châu, đảo Đài Loan và quần đảo Bành Hồ; các vùng còn lại của châu Á vẫn thuộc phạm vi ảnh hưởng của các nước phương Tây. Thực chất của Hội nghị Ianta là sự phân chia khu vực đóng quân và khu vực ảnh hưởng giữa các nước thắng trận, có liên quan tới hoà bình, an ninh và trật tự thế giới về sau. Những quyết định quan trọng của Hội nghị và những thoả thuận sau đó trở thành khuôn khổ của trật tự thế giới mới (trật tự hai cực Ianta). Theo đó, thế giới được chia thành hai phe do hai siêu cường đứng đầu mỗi phe, đối đầu gay gắt trong gần 4 thập niên, làm cho quan hệ quốc tế luôn trong tình trạng phức tạp, căng thẳng. 1.1.2. Cộng hòa Dân chủ Đức sau Chiến tranh thế giới lần thứ 2 Năm 1945, Chiến tranh thế giới lần thứ 2 kết thúc, các nước Đồng Minh đã phân chia nước Đức thành các khu vực khác nhau: Khu vực từ sông Niesse đến sông Oder được cắt hoàn toàn cho Cộng hòa Nhân dân Ba Lan. Khu vực Königsberg được cắt hoàn toàn cho Liên Xô và đổi tên thành Kaliningrad. Phần 10
  13. còn lại của nước Đức bị chia làm 4 phần cho 4 nước: Anh – Pháp – Mỹ - Liên Xô. Năm 1949, khi hai cực Đông –Tây đối đầu trong cuộc Chiến tranh Lạnh, tại 3 vùng kiểm soát của Anh – Pháp –Mỹ đã kết hợp lại, thành lập chính quyền Cộng hòa Liên bang Đức. Tại khu vực kiểm soát của mình, Liên Xô đã bảo trợ các lực lượng Cộng sản Đức, thành lập chính quyền Cộng hòa Dân chủ Đức. Khi khối quân sự Warsawa và Hội Đồng Tương Trợ Kinh Tế Các Nước XHCN (SEV) ra đời, Cộng hòa Dân chủ Đức (Đông Đức) trở thành một thành viên tích cực của khối Xã hội chủ nghĩa trong cuộc Chiến tranh Lạnh đối đầu với Tây phương Tư bản Đế quốc. - Về chính trị: Khác với nhiều nước XHCN khác, ở CHDC Đức tồn tại một hệ thống chính trị đa đảng phái và bản thân đảng cầm quyền ở CHDC Đức cũng là sự kết hợp của 2 đảng chính trị. Các đảng chính trị ở CHDC Đức bao gồm: 1. Đảng chính trị cầm quyền ở Đông Đức là Sozialistische Einheitspartei Deutschlands (Đảng Xã hội chủ nghĩa Thống nhất Đức, SED), được thành lập năm 1946 dựa trên việc hợp tác và thống nhất giữa Đảng Cộng sản Đức (KPD) và Đảng Dân chủ Xã hội Đức (SPD) (các chi bộ của SPD tại Đông Đức). 2. Christlich-Demokratische Union Deutschlands (Liên đoàn Dân chủ Thiên chúa giáo Đức, CDU), đã hợp nhất với CDU Tây Đức sau khi thống nhất 3. Demokratische Bauernpartei Deutschlands (Đảng Dân chủ Nông dân Đức, DBD). Đảng này đặc biệt quan trọng bởi vai trò của nông dân trong nền kinh tế. Đảng đã sáp nhập với CDU của Tây Đức sau thống nhất. 4. Liberal-Demokratische Partei Deutschlands (Đảng Dân chủ Tự do Đức, LDPD), sáp nhập với đảng FDP Tây Đức sau thống nhất 5. Nationaldemokratische Partei Deutschlands (Đảng Dân chủ Quốc gia Đức, NDPD), sáp nhập với đảng FDP Tây Đức sau thống nhất. 11
  14. Đảng Xã hội chủ nghĩa Thống nhất Đức, SED thực hiện quyền lãnh đạo của mình thông qua Liên minh thống nhất của các đảng chống phát xít Mặt trận Quốc gia Dân chủ Đức – một tổ chức mà tất cả các đảng chính trị ở CHDC Đức phải tham gia. Nhà nước CHDC Đức có mối liên hệ mật thiết với Liên Xô và các nước Xã hội Chủ nghĩa khác, ủng hộ các phong trào giải phóng dân tộc và chống lại chủ nghĩa Đế quốc. CHDC Đức còn tham gia nghĩa vụ quốc tế tại Mozambique, Namibia, Angola… - Về kinh tế: Nền kinh tế CHDC Đức là một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung cao độ, nằm trong hệ thống kế hoạch hóa kinh tế toàn Đông Âu với Liên Xô và các quốc gia khác thuộc khối Warsawa. Kinh tế CHDC Đức có thế mạnh về công nghiệp nhẹ và nông nghiệp; công nghiệp nặng của CHDC Đức mới bắt đầu được đầu tư từ đầu thập niên 1970 nhưng không mạnh bằng Liên Xô hay Tây Đức. Các hàng hóa ở Đông Đức được phân phối thông qua các Kaufhalle (Bách hóa Tổng hợp) của CHDC Đức. Khác với Bách hỏa Tổng hợp ở Việt Nam, hàng hóa ở đây không phụ thuộc vào tem phiếu phân phối mà lưu thông như trong thị trường bình thường. Các Kaufhalle của CHDC Đức thường thuộc quyền sở hữu của nhà nước thông qua Công ty Bán lẻ Công cộng Nhà nước (Handelsorganisation Kaufhalle) hoặc của Hợp tác xã Tiêu dùng (Mỗi Bách hóa là một Tài sản hợp tác của một nhóm các cá nhân). Vì có giá bán cố định thống nhất cho tất cả hàng hóa nên không có sự cạnh tranh về giá giữa các cửa hàng khác nhau. - Về an ninh, quân sự: Lực lượng an ninh và quân đội CHDC Đức thuộc hàng đầu khối Warsawa. Bộ An ninh Quốc gia (MfS) của CHDC Đức là cơ quan phản gián hàng đầu châu Âu thời chiến tranh lạnh. Các điệp viên Đông Đức được cài cắm mọi nơi, từ trợ lý Thủ tướng Tây Đức cho tới Thư kí Hội đồng Tham mưu trưởng NATO; thậm chí sau ngày thống nhất, CHLB Đức còn 12
  15. không thu hồi được danh sách điệp viên của MfS. Quân đội của CHDC Đức (NVA) là đội quân thường trực được Liên Xô viện trợ nhiều vũ khí mạnh nhất khối Warsawa, với 4 sư đoàn bộ binh cơ giới, 2 sư đoàn tăng, 2 sư đoàn không quân, 2 lữ đoàn tên lửa đạn đạo, 4 hạm đội, được trang bị xe tăng T-72, thiết giáp BMP-2, máy bay MiG-29, tên lửa đạn đạo Luna, tàu tên lửa Tarantul… 1.1.3. Việt Nam sau Chiến tranh thế giới lần thứ 2 Năm 1945, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố độc lập. Năm 1946, nhà nước Việt Nam độc lập non trẻ phải tiến hành một cuộc kháng chiến chống lại quân viễn chinh Pháp đang có mưu đồ tái lập hệ thông thuộc địa của mình ở Đông Dương. Trong giai đoạn 1946-1949, tình hình của lực lượng kháng chiến Việt Nam vô cùng khó khăn. Vũ khí, quân tư trang, nhu yếu phẩm, thuốc men, lương thực thiếu thốn; chưa có được các đồng minh trên thế giới và khu vực. Năm 1949, Nội chiến Trung Quốc đi vào hồi kết, nước Cộng hóa Nhân dân Trung Hoa ra đời, Cầu nối cho lực lượng cách mạng ở Việt Nam ra thế giới đã được mở ra. Qua 2 chiến dịch Biên Giới và Thập Vạn Đại Sơn, lực lượng cách mạng Việt Nam đã được nước Trung Quốc mới công nhận và thiết lập quan hệ ngoài giao. Thông qua Trung Quốc, chủ tịch Hồ Chí Minh đã được gặp lãnh tụ Liên Xô Stalin và từ đó thiết lập mối quan hệ Việt – Xô và vươn tới các nước XHCN ở Đông Âu, trong đó có Cộng hòa Dân chủ Đức tử năm 1950. Tuy vậy, chỉ sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam thắng lợi, hòa bình lập lại ở Bắc Việt Nam, CHDC Đức mới thiết lập quan hệ với Việt Nam ngày 03/02/1955. 13
  16. 1.2. Những nhân tố tiền đề trước khi Việt Nam – CHDC Đức thiết lập quan hệ ngoại giao (1950-1954) 1.2.1. Lính Lê Dương Đức tại Đông Dương Trong cuộc chiến tại Đông Dương, người Pháp có sử dụng rất nhiều những người lính Lê Dương gốc Đức ở trong vùng chiếm đóng của Pháp trên lãnh thổ Đức. Các tù binh là cựu quân nhân SS Đức cũng bị người Pháp đưa sang Đông Dương để chiến đấu thay cho quân Pháp. Chỉ tính riêng khu vực Điện Biên Phủ, đã có 8000 lính Đức chiến đấu trong biên chế lực lượng Lê Dương Pháp. Trong quá trình chiến đấu tại Đông Dương, những người lính Đức nhận ra họ cũng chỉ là công cụ chiến tranh của Thực dân Pháp, Đã có không ít những người lính Lê Dương gốc Đức đào ngũ và chạy về phía Việt Nam. Những người Đức này đã trợ giúp rất nhiều về kỹ – chiến thuật cho Quân đội Nhân dân Việt Nam. Từ năm 1951 đến 1954, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã tạo điều kiện cho nhiều hàng binh Đức được hồi hương thông qua Liên Xô và Trung Quốc – lúc này Việt Nam và Đông Đức chưa thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức. 1.2.2. Vai trò của Trung tá Erwin Borchers đối với cách mạng Việt Nam Erwin Borchers, sinh năm 1906 ở Strasburg, là con trai của một sĩ quan Phổ. Ngay từ khi còn trẻ, ông là người lúc nào cũng "đam mê chính trị” và sau đó ông đã trở thành một nhà xã hội dân chủ học. Erwin Borchers đã gia nhập một nhóm chống đối ở Frankfurt, sau khi Hitler lên nắm quyền tại Đức vào năm 1933. Borchers đã in và rải truyền đơn cho nhóm này. Chỉ thiếu chút nữa anh đã sa vào tay bọn mật thám Đức quốc xã. Sau đó anh trốn sang Pháp và muốn phục vụ trong quân đội Pháp để chiến đấu 14
  17. chống Hitler. Tuy nhiên, nguyện vọng này của Borchers không được chấp nhận vì mẹ anh "đã phản bội nước Pháp" khi kết hôn với một sĩ quan Đức. Thay vì điều đó, khi chiến tranh bắt đầu, người ta tống anh vào một trại giam giống như những thanh niên Đức và Áo khác . Người ta coi Erwin Borchers là một điệp viên tiềm tàng. Người Pháp đã làm cho Borchers và các tù nhân khác hiểu rõ rằng việc gia nhập đội quân lính đánh thuê (Lê Dương) là con đường duy nhất để không phải ngồi sau hàng rào dây thép gai cho tới khi chiến tranh kết thúc. Ngày 16/9/1939, Erwin Borchers trở thành lính đánh thuê. Tại Algeria, anh gặp Rudolf Schroeder - sinh viên khoa xã hội học trốn sang Pháp năm 1933 do bị tố giác sau khi trao cho giáo sư người Do Thái của mình một bó hoa. Sau đó, Borchers và Schroeder lên đường sang Đông Dương. Ở Việt Trì, họ kết bạn với Đảng viên Cộng sản người Do Thái Ernst Frey, một người đến từ thủ đô Vienna của Áo và cũng đã chạy trốn sang Pháp vì sự truy bức của bọn quốc xã. Cả ba người bạn đều ghê sợ chủ nghĩa phân biệt chủng tộc của nhiều sĩ quan cấp trên, và nhìn chung họ ghê sợ cả phong cách chính trị - quân sự của đội quân đánh thuê. Họ thành lập một nhóm cộng sản và bí mật liên lạc với Việt Minh. Khi biết rõ việc Pháp có kế hoạch tái thực dân hóa Việt Nam, ba người đã quyết định chạy sang hàng ngũ bên kia. Những người nước ngoài tham gia Việt Minh không phải đều là "hàng binh", vì vậy để tránh gây ngộ nhận, mặc cảm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt tên chung cho họ là "người Việt Nam mới". Trong giai đoạn đầu chiến tranh khi lực lượng vũ trang Việt Minh còn non trẻ, gặp nhiều khó khăn, kinh nghiệm và kiến thức của những người "Việt Nam mới" đã có đóng góp không nhỏ vào sự phát triển của Quân đội Nhân dân Việt Nam ,trong số đó có Erwin Borchers. Erwin Borchers đã được phong quân hàm Trung Tá Quân đội Nhân dân Việt Nam. Chủ 15
  18. tịch Hồ Chí Minh đã đặt cho ông cái tên “Chiến Sĩ” khi trao cho ông một Huân chương ghi nhận công lao của ông đối với phong trào giải phóng Việt Nam. Erwin Borchers là một người có trí óc sắc sảo và tầm hiểu biết rộng. Ông là một nhà trí thức, một tín đồ Tin lành mộ đạo và một người xã hội dân chủ chân chính, tin vào chủ nghĩa của mình, đã từng học văn học và ngôn ngữ Đức, văn học và ngôn ngữ Romania ở Đức và Pháp. Trong hàng ngũ Việt Minh, ông phụ trách công tác tuyên truyền và đặc biệt quan tâm tới quan điểm đúng đắn của các tù binh nói chung và các hàng binh Đức nói riêng. Vào năm 1954 đã có khoảng 10.000 lính đánh thuê Đức tham chiến ở Đông Dương, phần lớn là những cựu binh SS (Lực lượng Cận vệ) trước kia, không việc làm, không trình độ. Khác với các cựu binh Wehrmacht (Quân đội Đức), các cựu binh SS (Lực lượng Cận vệ) không có quyền công dân đầy đủ, bị coi như tội phạm chiến tranh và không có nhiều cơ hội tìm việc làm tại quê nhà. Ngoài ra, còn một số lượng không nhỏ tù binh Đức do Pháp giam giữ bị ép đi làm lính Lê Dương để trả “Thuế máu” cho nước Pháp. Tính đến năm 1953, đã có 5.000 lính Đức thiệt mạng. Hàng trăm người Đức trẻ tuổi đã chạy sang hàng ngũ bên kia một số tự nguyện (một phần cũng do sự tuyên truyền của Erwin Borchers); một số vì muốn tránh số phận nghiệt ngã của tù binh chiến tranh. Năm 1951, Frey và Schroeder đã rời Việt Nam, đi về châu Âu. Erwin Borchers ở lại, lấy vợ và trở thành cha của 7 đứa trẻ. Ông đã tích cực tham gia khi lực lượng Việt Minh phát triển từ một nhóm nhỏ du kích quân thành một quân đội hùng mạnh, có khả năng chiến đấu và dần dần đẩy quân Pháp ra khỏi những vị trí cuối cùng ở miền Bắc Việt Nam. Cuối tháng 2/1954, Erwin Borchers cũng đến lòng chảo Điện Biên Phủ cùng đội tuyên truyền của ông. Giữa những đợt tấn công, họ dùng loa phóng thanh kêu gọi các lính đánh thuê cũng như các đơn vị lính Bắc Phi hạ vũ khí... Ngày 7/5/1954, sau 56 ngày đêm chiến đấu ác liệt, cứ điểm cuối cùng của pháo đài Điện Biên Phủ đã thất thủ, Tướng Christan de Castries và toàn bộ sĩ 16
  19. quan, binh lĩnh còn lại phải ra hàng. Tổng cộng về phía Pháp có 6.000 người chết, hơn 10.000 người bị bắt làm tù binh, trong đó có hàng ngàn người Đức. Kháng chiến chống Pháp kết thúc, Trung tá Chiến Sĩ thuộc ban quân vận có thành tích trong tổng kết chiến dịch Điện Biên Phủ đã được chủ tịch Hồ Chí Minh trao tặng Huân chương chiến thắng hạng ba, cùng một món quà lưu niệm của Bác, một chiếc đồng hồ đeo tay có hình Hồ Chí Minh trên đó. Ông nhận một vị trí trong Bộ Tuyên truyền và sau này làm việc cho Hãng thông tấn ADN của CHDC Đức cũ tại Hà Nội. Năm 1965, Erwin Borchers cùng gia đình chuyển sang Đông Berlin. Ông qua đời năm 1984. Erwin Borchers là một chiến sĩ quốc tế người đã tự nguyện tham gia và ủng hộ vào phong trào Cách mạng Việt Nam, đồng thời còn là cầu nối trong việc thiết lập mối quan hệ giữa 2 quốc gia Xã hội Chủ nghĩa anh em Việt Nam – CHDC Đức. 1.2.3. Vũ khí do Đức hỗ trợ trong thời kì Kháng chiến chống Pháp Trong giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Pháp, Liên Xô và Trung Quốc đã viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa rất nhiều các loại vũ khí; trong đó có không ít vũ khi của Đức Quốc Xã tại các nhà kho ở Đông Đức. Rất nhiều súng trường Karabiner 98K, súng máy MG34, pháo PaK40 75mm và sFH18 150mm đã được chuyển giao cho Quân đội Nhân dân Việt Nam thông qua con đường Liên Xô và Trung Quốc. Giai đọan này, do chưa thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức, những loại vũ khí này được ghi nhận vào diện “Bàn giao vũ khí của Đức Quốc Xã cho Liên Xô”, rồi từ đó Liên Xô mởi chuyển qua Trung Quốc với danh nghĩa “Kháng Mỹ, Viện Triều”, rồi một lần nữa từ Trung Quốc mới qua Việt Nam. Số liệu thống kê chính xác về số vũ khí này không được cụ thể do bản thân Trung Quốc thời trước đó cũng đã sản xuất phiên bản sao chép những loại vũ khí này và gốp chung cả số hàng từ Đức sang và số hàng tự sản xuất này đưa sang Việt Nam và Triều Tiên. 17
  20. Các loại vũ khí Đức và các loại vũ khí sử dụng cỡ đạn của Đức (do Tiệp, Trung Quốc sản xuất) vẫn tiếp tục được sử dụng bởi các du kích miền Nam thập niên 60 của Thế kỷ XX. 1.3. Việt Nam – Cộng hòa Dân chủ Đức thiết lập quan hệ ngoại giao và nhu cầu hợp tác, chính sách đối ngoại của hai nước (1955-1990) Sau ngày hòa bình lập lại ở miền Bắc Việt Nam, các quốc gia Xã hội Chủ nghĩa mới bắt đầu thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Năm 1955, CHDC Đức đã đặt Đại Sứ Quán tại Hà Nội và tới năm 1980 thì đặt tiếp Lãnh Sự Quán tại Thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 03/02/1955, CHDC Đức thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Dân chủ Đức là 2 quốc gia có hệ thống chính trị tương đồng, cùng là các nước Xã hội Chủ nghĩa, chống lại chủ nghĩa Đế quốc, cùng bị chia cắt do chiến tranh lạnh. Việt Nam cần thêm một quốc gia đồng minh trong cuộc chiến với Đế quốc Mỹ cũng như hỗ trợ khôi phục kinh tế thời kì hậu chiến. Còn CHDC Đức cũng cần có một đồng minh ở khu vực châu Á, làm gia tăng ảnh hưởng của khối Xã hội Chủ nghĩa trên thế giới. Trải qua 35 năm, từ 1955 đến 1990, CHDC Đức và Việt Nam đã có những hợp tác vô cùng quan trọng về cả Chính trị, An ninh - Quốc phòng, Kinh tế, Y tế, Cơ sở hạ tầng, Giao lưu nhân dân... Tuy nước Đức đã thống nhất và chế độ XHCN ở Đông Đức cũng không còn, nhưng những di sản của mối quan hệ giữa những đồng chí anh em XHCN ngày đó vẫn còn cho tới ngày nay. Tiểu kết chương 1 Qua chương 1, nhóm tác giả đã dẫn dắt người đọc đi từng bước để tìm hiểu về bối cảnh lịch sử, tiến trình và những nhân tố tác động để hai nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ( Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước đây ) và Cộng 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2