intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài nghiên cứu khoa học: Phát huy vai trò của gia đình trong giáo dục nhân cách cho sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội hiện nay

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:75

34
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài "Phát huy vai trò của gia đình trong giáo dục nhân cách cho sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội hiện nay" nhằm làm rõ vai trò của gia đình với giáo dục nhân cách cho sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội, trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp nhằm phát huy vai trò của gia đình trong việc giáo dục nhân cách cho sinh viên trường Đai học Nội vụ Hà Nội hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài nghiên cứu khoa học: Phát huy vai trò của gia đình trong giáo dục nhân cách cho sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội hiện nay

  1. LỜI CAM ĐOAN Chúng tôi xin cam đoan Đề tài “Phát huy vai trò của gia đình trong giáo dục nhân cách cho sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội hiện nay” là công trình nghiên cứu của riêng nhóm nghiên cứu chúng tôi được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Ths. Vũ Thị Châm. Các tài liệu tham khảo sử dụng trong đề tài là trung thực, các thông tin trích dẫn có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng. CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI Trần Trọng Lực i
  2. LỜI CẢM ƠN Lời đầu tiên, nhóm tác giả xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới các Thầy/Cô giáo trong khoa khoa học Chính trị, trường Đại học Nội Vụ Hà Nội, cùng với sự giúp đỡ, tạo điều kiện về vật chất và tinh thần từ phía gia đình, bạn bè đã luôn tạo điều kiện tốt nhất, đồng hành, sát cánh cung cấp tri thức và kỹ năng để nhóm tác giả có thể hoàn thành đề tài nghiên cứu khoa học của mình. Trước hết, chúng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Cô giáo Ths.Vũ Thị Châm – người hướng dẫn khoa học đã trực tiếp dành nhiều thời gian, công sức hướng dẫn để nhóm tác giả có được thành quả lao động ngày hôm nay. Tuy có nhiều cố gắng, nhưng trong Đề tài này không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Chúng tôi kính mong Quý thầy cô, những người quan tâm đến đề tài, gia đình và bạn bè tiếp tục có những ý kiến đóng góp, giúp đỡ để đề tài được hoàn thiện hơn. Nhóm tác giả xin được gửi lời chúc sức khỏe, hạnh phúc và tri ân tới tất cả các Thầy/ Cô, các bạn và gia đình. Nhóm tác giả xin trân trọng cảm ơn! Hà Nội, ngày tháng năm 2021 CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI Trần Trọng Lực ii
  3. MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN .......................................................................................................... I LỜI CẢM ƠN ...............................................................................................................II MỤC LỤC ................................................................................................................... III MỞ ĐẦU .........................................................................................................................1 1. Lý do chọn đề tài .....................................................................................................1 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu .............................................................................3 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu: ..........................................................................5 3.1. Mục tiêu: ..........................................................................................................5 3.2. Nhiệm vụ: ........................................................................................................5 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...........................................................................5 5. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................................6 6. Giả thuyết nghiên cứu .............................................................................................6 7. Đóng góp của đề tài.................................................................................................6 8. Cấu trúc của đề tài ...................................................................................................6 CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG GIÁO DỤC NHÂN CÁCH CHO SINH VIÊN............................................8 1.1. Gia đình và các chức năng cơ bản của gia đình ...................................................8 1.1.1 Khái niệm gia đình.........................................................................................8 1.1.2. Chức năng cơ bản của gia đình .....................................................................9 1.2. Nhân cách sinh viên và vai trò của gia đình trong giáo dục nhân cách cho sinh viên ............................................................................................................................12 1.2.1. Nhân cách và các yếu tố tác động đến việc giáo dục nhân cách cho sinh viên ...............................................................................................................................12 1.2.1.1. Khái niệm về nhân cách ......................................................................12 1.2.1.2. Sinh viên và các yếu tố tác động đến việc giáo dục nhân cách cho sinh viên. ..................................................................................................................15 1.2.2. Gia đình - yếu tố quan trọng trong giáo dục nhân cách của sinh viên .......19 TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ..............................................................................................24 CHƯƠNG 2: PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG GIÁO DỤC NHÂN CÁCH CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI HIỆN NAY: THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ...................25 iii
  4. 2.1. Vài nét về sinh viên trường Đại học Nội vụ hiện nay........................................25 2.2. Thực trạng phát huy vai trò của gia đình trong việc giáo dục nhân cách cho sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội hiện nay ...........................................................27 2.2.1. Thực trạng phát huy vai trò của gia đình trong giáo dục đạo đức, văn hóa truyền thống. .........................................................................................................28 2.2.2. Thực trạng phát huy vai trò của gia đình trong giáo dục ý thức chính trị, kỉ luật, ý thức cộng đồng...........................................................................................30 2.2.3. Thực trạng phát huy vai trò của gia đình trong giáo dục ý thức tự giác học tập, lao động. .........................................................................................................31 2.2.4. Thực trạng phát huy vai trò của gia đình trong giáo dục thể chất và thẩm mỹ. ...............................................................................................................................33 2.2.5. Thực trạng phát huy vai trò của gia đình trong việc thực hiện các phương pháp giáo dục nhân cách cho sinh viên ................................................................ 36 2.3. Nguyên nhân của thực trạng và một số vấn đề đặt ra trong việc phát huy vai trò của gia đình đối với giáo dục nhân cách cho sinh viên Đại học Nội Vụ Hà Nội hiện nay .............................................................................................................................40 2.3.1. Nguyên nhân của thực trạng .......................................................................40 2.3.2. Một số vấn đề đặt ra trong việc phát huy vai trò của gia đình trong giáo dục nhân cách cho sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội hiện nay .......................44 TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ..............................................................................................49 CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG GIÁO DỤC NHÂN CÁCH CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI HIỆN NAY ................................................50 3.1. Phát triển kinh tế, tận dụng tác động tích cực và hạn chế tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường đến việc phát huy vai trò của giáo dục nhân cách của gia đình cho sinh viên trường Đại học Nội Vụ hiện nay. .......................................................50 3.2. Nâng cao nhận thức về vai trò của gia đình trong giáo dục nhân cách cho sinh viên, gắn liền với nâng cao trình độ hiểu biết, cải tiến nội dung, phương pháp giáo dục con cái của các bậc cha mẹ cho sinh viên trường Đại học Nội Vụ hiện nay. ....51 3.3. Kết hợp nhà trường với gia đình và xã hội trong công tác giáo dục nhân cách cho sinh viên. ...................................................................................................................54 3.4. Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của sinh viên trong quá trình học tập và rèn luyện nhân cách ..............................................................................................58 TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ..............................................................................................61 iv
  5. KẾT LUẬN ..................................................................................................................61 TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................63 PHỤ LỤC .....................................................................................................................68 v
  6. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Gia đình là “tế bào” của xã hội, là nơi con người sinh ra, lớn lên và trưởng thành, là chiếc nôi thân yêu để con người tìm về sau những lo toan vất vả nhọc nhằn trong cuộc sống mưu sinh. Những giá trị nhân cách, lối sống mà gia đình truyền cho con cái sẽ mãi là hành trang để mỗi người mang theo và bước vào cuộc sống xã hội với một niềm tin, niềm kiêu hãnh là không vật chất, không cám dỗ nào từ bên ngoài có thể đánh gục được. Do đó một xã hội muốn phát triển theo hướng như thế nào, cần con người có nhân cách ra sao phải lưu tâm đầu tiên đến tầm quan trọng của gia đình. Tầm quan trọng của gia đình cũng được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “Rất quan tâm đến gia đình là đúng, vì nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt. Hạt nhân xã hội là gia đình. Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội tốt đẹp thì phải chú ý hạt nhân gia đình cho tốt” [33, tr 531]. Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chỉ thị, nghị quyết, chính sách đề cập vấn đề này. Thực trạng hiện nay, công tác giáo dục gia đình đã được quan tâm nhiều hơn trước, không chỉ ở nước ta mà còn ở nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên thế giới hiện nay đang có những biến động chưa từng có, tạo cho nhân loại những cơ hội, nhưng cũng nhiều thách thức mới. Quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ, ảnh hưởng đến mọi mặt đời sống của các quốc gia, dân tộc. Việt Nam là nước đang phát triển, nhờ quá trình toàn cầu hóa, chúng ta có lợi thế của nước đi sau để đi tắt đón đầu trong một số lĩnh vực kỹ thuật, công nghệ. Chúng ta có điều kiện thuận lợi để mở rộng thương mại quốc tế, thu hút đầu tư và nguồn lực bên ngoài nhằm phát triển các ngành sản xuất mà chúng ta có khả năng, qua đó, thúc đẩy kinh tế tăng trưởng, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là hình thức kinh tế phù hợp cho việc xác lập địa vị chủ thể của cá nhân, bởi vì nó đòi hỏi ở con người tính tích cực, tự giác tối đa. Nó có ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống xã hội. Cùng với sự phát triển và ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường, quá trình đô thị hóa cũng đang diễn ra mạnh mẽ trên khắp đất nước ta. Đô thị hóa là quá trình phát triển 1
  7. tất yếu của thời đại theo xu thế chung của toàn thế giới hiện nay, nó tác động mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực hoạt động của các quốc gia nói chung và của nông thôn Việt Nam nói riêng, tạo ra những sự thay đổi lớn về kinh tế, văn hóa xã hội. Như vậy nhờ toàn cầu hóa, chúng ta tiếp cận những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ; phát triển nền kinh tế thị trường, đô thị hóa đang đem lại nhiều lợi ích to lớn cho người dân. Tất cả chúng đều có thể tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội, kể cả nền tảng của cuộc sống cá nhân, gia đình, cộng đồng, đến lĩnh vực đạo đức. Mặt khác lối sống phương Tây đang như cơn bão ngày một tràn vào nước ta. Lối sống ấy, một mặt tác động tích cực làm thay đổi nếp sống khép kín, cam chịu, phụ thuộc, ỉ lại vốn có của người Việt Nam, sang một lối sống cởi mở, năng động, tự lập, dám chịu trách nhiệm, phù hợp với xu thế thời đại. Nhưng nó cũng kéo theo kiểu sống sùng bái vật chất, nặng về cá nhân, vị kỷ, thực dụng, đua đòi, ăn chơi xa hoa, lãng phí, sống trụy lạc, thác loạn, ưa dùng bạo lực… Nguy hiểm nhất là kiểu sống này đang lan truyền mạnh mẽ trong một bộ phận giới trẻ hiện nay, đặc biệt là tầng lớp thanh niên, sinh viên. Hiện nay, một bộ phận sinh viên có quan niệm đạo đức và hành vi ứng xử khá thực dụng, muốn thể hiện cái tôi cá nhân và đề cao các giá trị vật chất hơn những giá trị tinh thần; một số sinh viên có thái độ thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm đạo đức đối với bản thân, gia đình, xã hội; xa rời các giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc, sống buông thả, tự bước qua những nguyên tắc, có lối hành xử bạo lực phi nhân tính, lười học tập, lười lao động. Bởi vậy, nhiệm vụ đặt ra cho các trường Đại học trong cả nước là cần chú trọng nhiều hơn nữa tới giáo dục nhân cách, lối sống mới cho sinh viên để họ có thể đảm nhiệm được những yêu cầu đổi mới trong thời đại ngày nay. Thực tế hiện nay, trường Đại học Nội vụ Hà Nội ngoài giáo dục chuyên môn, nghiệp vụ, nhà trường cũng đã và đang tích cực giáo dục nhân cách cho sinh viên. Do đó đã tạo ra một lực lượng sinh viên vừa có chuyên môn nghiệp vụ giỏi vừa có phẩm chất đạo đức tốt (vừa hồng vừa chuyên).Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn một bộ phận sinh viên chưa có lối sống và cách hành xử đúng mực, một phần do thiếu sự quan tâm, giáo dục từ phía gia đình. Trong khi gia đình là một bộ phận của hệ thống giáo dục xã hội và là thiết chế giáo dục quan trọng nhất không thể thay thế. Nhiều gia đình đã mắc sai lầm nghiêm trọng khi giao phó hoàn toàn trọng trách giáo dục cho các nhà trường 2
  8. nơi con em mình học tập. Họ quan niệm rằng gia đình chỉ có vai trò giáo dục con cái từ nhỏ đến hết cấp 3, thậm chí có những gia đình chỉ giáo dục con em mình đến hết cấp 2, bởi những gia đình này cho rằng lên đến cấp 3 là con em họ đã lớn nên để cho con tự do phát triển nhân cách mà không cần có sự định hướng, giáo dục từ phía gia đình. Trong khi, ở giai đoạn sinh viên, những đứa con của họ đang trong quá trình phát triển và hoàn thiện nhân cách, do đó, sự đứt đoạn trong giáo dục của gia đình có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển và hoàn thiện nhân cách của sinh viên. Chính những sai lầm mà gia đình mắc phải mà khi con em họ bước vào đại học, sống tự lập xa gia đình, tiếp xúc với sự đa dạng các mối quan hệ, chịu tác động bởi chính cuộc sống muôn màu muôn vẻ, trong đó có cả những yếu tố tiêu cực sẽ dẫn đến một bộ phận sinh viên mất khả năng chống đỡ, bị cuốn theo những lối sống tiêu cực, phản văn hóa, phản giá trị, sống dựa dẫm, ỷ lại, không chịu khó, chịu khổ để học tập, đua đòi, ăn chơi, sống buông thả… Vì thế, trong bối cảnh hiện nay, để đào tạo ra những cán bộ tương lai không chỉ giỏi về chuyên môn nghiệp vụ mà còn cần phải có nhân cách, lương tâm nghề nghiệp, có lối sống trong sạch lành mạnh, góp phần tạo dựng, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thì cần sự chung tay của nhà trường với gia đình và xã hội trong đó vai trò vô cùng quan trọng thuộc về phía gia đình. Với những lý do trên, và do nhu cầu đặt ra từ thực tiễn nhóm tác giả chúng em chọn đề tài “Phát huy vai trò của gia đình trong giáo dục nhân cách cho sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của nhóm mình. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu Gia đình và giáo dục gia đình luôn là những chủ đề hấp dẫn cá nhân, thể. Trong những năm gần đây vấn đề giáo dục của gia đình được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Có nhiều công trình, bài viết, các cuộc hội thảo nghiên cứu về vai trò của gia đình đối với sự hình thành, phát triển nhân cách. Trước hết phải kể đến: tác phẩm "Nói chuyện về giáo dục gia đình" của A.Ma- ca-ren-cô, do Nhà xuất bản Kim Đồng phát hành năm 1978. Với tâm huyết và năng lực vốn có, cùng với kinh nghiệm của một nhà giáo dục Xô viết nổi tiếng, A.Ma-ca-ren-cô đặc biệt quan tâm đến việc giáo dục thế hệ trẻ phải được bắt đầu ngay từ thời thơ ấu. Ông cho rằng, điều đó không phải là khó như nhiều người lầm tưởng, rằng tất cả các bậc 3
  9. cha mẹ đều có thể làm được, vả lại đó là một công việc lý thú, mang lại niềm vui và hạnh phúc. Nếu tuổi trẻ không được gia đình giáo dục ngay từ đầu, thì công việc cải tạo sẽ tốn hơn rất nhiều công sức không chỉ của gia đình, mà xã hội phải quan tâm.Những nguyên lý giáo dục đó cũng như những kinh nghiệm thực tiễn của ông cho đến nay vẫn được đông đảo độc giả tìm đọc và trân trọng. Tiếp theo A.Ma-ca-ren-cô, phải kể đến I.A-Pê-sec-ni-cô-va với tác phẩm "Dạy con yêu lao động" do Nhà xuất bản Phụ nữ phát hành năm 1980. Theo tác giả, muốn cho con cái của chúng ta lớn lên được mạnh khỏe, vui tươi, yêu đời và cống hiến được nhiều cho xã hội, thì lúc còn nhỏ phải được giáo dục về lao động (lao động học tập, lao động gia đình và lao động xã hội...) bởi phẩm chất đạo đức hình thành ở trẻ em, trước hết là trong lao động. Ở Việt Nam, trong những năm qua đã có nhiều công trình, bài viết của nhiều nhà giáo dục học, tâm lý học được công bố, đề cập khá sâu sắc đến công tác giáo dục của gia đình đối với thế hệ trẻ với nhiều góc độ, cấp độ khác nhau. Tác giả - Nghiêm Sĩ Liêm, “Vai trò người phụ nữ trong giáo dục gia đình ở nước ta hiện nay”, Báo chí và Tuyên truyền, số 2 năm 2000, trang 34 – 36. - Đỗ Thị Bình (chủ biên), “Gia đình Việt Nam và người phụ nữ trong gia đình thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 2002. - Đức Minh (chủ biên), "Khoa học giáo dục con em trong gia đình" của Ủy ban Thiếu niên nhi đồng Trung ương, xuất bản năm 1979. Cuốn sách này đã giới thiệu một số quan điểm về giáo dục xã hội chủ nghĩa, nhấn mạnh vai trò, đặc điểm của giáo dục gia đình, cung cấp những cơ sở lý luận, những nội dung và yêu cầu của giáo dục gia đình đối với thế hệ trẻ; "Dạy con nên người" của Hội Liên hiệp Phụ nữ thành phố Hà Nội, xuất bản năm 1991. Tập thể tác giả đã cung cấp cho các bậc cha mẹ những hiểu biết cần thiết về gia đình, về trách nhiệm làm cha, làm mẹ trong việc giáo dục con cái nên người, trên những mặt cơ bản của nội dung giáo dục: Đức, trí, thể, mỹ và lao động, mà các thế hệ làm cha mẹ luôn luôn hướng tới. Công trình “Gia đình và vấn đề giáo dục gia đình” của Trung tâm nghiên cứu về gia đình và phụ nữ, xuất bản năm 1994. Ngoài các công trình trên cũng có một số luận văn, nghiên cứu các vấn đề Gia đình, - Giáo dục gia đình như: Luận văn Th.s của Phan Thanh Hùng, “Sự biến đổi chức năng gia đình trong kinh tế thị trường hiện nay” Hà Nội, 1996; Luận văn Th.s Nguyễn Thành Công, “Vai trò của giáo dục gia đình đối với sự hình thành nhân cách thế hệ trẻ 4
  10. ở Việt Nam hiện nay” Các công trình trên đây đều đề cập ở những mức độ khác nhau đến vai trò của giáo dục gia đình đối với sự hình thành nhân cách thế hệ trẻ ở Việt Nam nói chung. 3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu: 3.1. Mục tiêu: Làm rõ vai trò của gia đình với giáo dục nhân cách cho sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội, trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp nhằm phát huy vai trò của gia đình trong việc giáo dục nhân cách cho sinh viên trường Đai học Nội vụ Hà Nội hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ: Để hoàn thành mục tiêu trên, đề tài thực hiện các nhiệm vụ sau: - Làm rõ khái niệm gia đình và các chức năng cơ bản của gia đình . - Trình bày vai trò của gia đình trong giáo dục nhân cách cho sinh viên. - Trình bày thực trạng, nguyên nhân và một số vấn đề đặt ra phát huy vai trò của gia đình trong việc giáo dục nhân cách cho sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội hiện nay. - Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục nhân cách cho sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng: Phát huy vai trò của gia đình trong việc giáo dục nhân cách cho sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội. - Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu việc phát huy vai trò của gia đình trong giáo dục nhân cách cho sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội hiện nay qua khảo sát sinh viên năm thứ nhất và năm thứ hai của 8 khoa trong nhà trường. Nhân cách sinh viên là tổng thể những phẩm chất đạo đức, năng lực thể chất và tinh thần với nhiều nội dung cụ thể, tuy nhiên đề tài chỉ tập trung nghiên cứu, khảo sát vai trò của gia đình trong giáo dục nhân cách cho sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội ở các nội dung: Giáo dục đạo đức, văn hóa truyền thống; Giáo dục ý thức chính trị, 5
  11. kỉ luật, ý thức cộng đồng; Giáo dục ý thức tự giác học tập, lao động; Giáo dục thể chất và thẩm mỹ và việc thực hiện các phương pháp giáo dục nhân cách của gia đình. 5. Phương pháp nghiên cứu - Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. - Ngoài ra còn sử dụng một số phương pháp cụ thể: + Nghiên cứu, phân tích tài liệu + Phương pháp quan sát + Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi + Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp + Phương pháp logic - lịch sử + Phương pháp phương pháp thống kê, phương pháp diễn dịch và quy nạp… 6. Giả thuyết nghiên cứu Nhận thức và hành vi của sinh viên Trường Đại học Nội Vụ Hà Nội sẽ được nâng cao nếu phát huy được vai trò của gia đình trong việc giáo dục nhân cách cho sinh viên trường Đại học Nội vụ Hà Nội. 7. Đóng góp của đề tài - Đóng góp một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục nhân cách cho sinh viên trường Đại học Nội Vụ hiện nay. - Có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho một số đề tài nghiên cứu có liên quan. Đặc biệt là vận dụng vào học phần Chủ nghĩa xã hội khoa học trong chương 7 vấn đề Gia đình trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hôi . 8. Cấu trúc của đề tài Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được cấu trúc gồm 3 chương: Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG GIÁO DỤC NHÂN CÁCH CHO SINH VIÊN 6
  12. Chương 2: PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG GIÁO DỤC NHÂN CÁCH CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI HIỆN NAY: THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC NHÂN CÁCH CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI 7
  13. Chương 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG GIÁO DỤC NHÂN CÁCH CHO SINH VIÊN 1.1. Gia đình và các chức năng cơ bản của gia đình 1.1.1 Khái niệm gia đình Gia đình là tổ chức cơ sở đầu tiên trong đời sống của mỗi cá nhân, là tế bào hợp thành một xã hội, là nhân tố quan trọng để hình thành nên một xã hội. Không có gia đình để tái tạo ra con người, tái tạo ra sức lao động thì xã hội không thể tồn tại và phát triển được. Mỗi cá nhân đều sinh ra trong một gia đình và không thể có con người sinh ra từ bên ngoài gia đình. Do vậy, gia đình luôn có một vị trí quan trọng đặc biệt, và là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học. Trên thực tế đã và đang có không ít khái niệm về gia đình, mỗi khái niệm được đưa ra tùy theo góc nhìn nhận, nhân sinh quan của mỗi người, mỗi ngành khoa học. Chính vì vậy cho đến nay vẫn chưa có sự thống nhất về khái niệm gia đình. C.Mác và Ph.Ăngghen, khi đề cập đến gia đình đã cho rằng: “Quan hệ thứ ba tham dự ngay từ đầu vào quá trình phát triển lịch sử: hàng ngày tái tạo ra đời sống bản của thân mình, con người bắt đầu tạo ra những người khác, sinh sôi – nảy nở - đó là quan hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia đình”1. Cơ sở hình thành gia đình là hai mối quan hệ cơ bản, quan hệ hôn nhân (vợ và chồng) và quan hệ huyết thống (cha mẹ và con cái...). Những mối quan hệ này tồn tại trong sự gắn bó, liên kết, ràng buộc và phụ thuộc lẫn nhau, bởi nghĩa vụ, quyền lợi và trách nhiệm của mỗi người, được quy định bằng pháp lý hoặc đạo lý.Ăngghen đã cho rằng: “Gia đình chỉ mối quan hệ giữa chồng và vợ, giữa cha mẹ và con cái” (trích theo 7, tr.41]. Xecmainơ trong cuốn sách 142 tình huống giáo dục gia đình đã đưa ra khái niệm về gia đình như sau: “Gia đình là nhóm người chung sống với nhau dưới một mái nhà có quan hệ hôn nhân, huyết thống và nền kinh tế chung”. Còn UNESCO đưa ra định nghĩa: “Gia đình là một nhóm người có quan hệ họ hàng, cùng sống chung và có ngân sách chung” [trích theo 24, tr.7]. 8
  14. Ở Việt Nam cũng có khá nhiều định nghĩa về gia đình. Nguyễn Công Hoàn trong một cuốn sách nghiên cứu về gia đình có tiêu đề Tâm lý học về gia đình đã cho rằng: “Gia đình là một nhóm nhỏ xã hội. Các thành viên trong nhóm có quan hệ gắn bó về hôn nhân hoặc huyết thống, tâm lý, có cùng chung các giá trị vật chất, tinh thần ổn định trong các thời điểm lịch sử nhất định” [trích theo 24, tr. 8]. Từ điển Tiếng Việt đã định nghĩa về gia đình: “Gia đình là tập hợp những người cùng chung sống thành một đơn vị nhỏ nhất trong xã hội, gắn bó với nhau bằng quan hệ hôn nhân và dòng máu, thường gồm có vợ chồng, cha mẹ và con cái” [trích theo 43, tr. 297]. Một định nghĩa khác về gia đình được nhiều nhà khoa học, đặc biệt là các nhà nghiên cứu xã hội học ở nước ta thừa nhận là:“gia đình là một hình thức cộng đồng xã hội đặc biệt, được hình thành, duy trì và củng cố chủ yếu dựa trên cơ sở hôn nhân, huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng, cùng với những quy định về quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong gia đình.” [trích theo 6, tr.159]. Tại điều 8, luật hôn nhân và gia đình ghi rõ: “Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau theo hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền lợi giữa họ với nhau theo quy định của luật này” [trích theo 29, tr.8]. Như vậy, đã có rất nhiều định nghĩa về gia đình nhưng tựu chung lại có thể hiểu: Gia đình là một thiết chế xã hội đặc thù dựa trên quan hệ vợ - chồng và các quan hệ huyết thống, nuôi dưỡng, giáo dục,…có những ràng buộc về quyền lợi, trách nhiệm được pháp luật công nhận. 1.1.2. Chức năng cơ bản của gia đình Một là, chức năng tái sản xuất ra con người Đây là chức năng đặc thù của gia đình, không một cộng đồng nào có thể thay thế. Chức năng này không chỉ đáp ứng nhu cầu tâm, sinh lý tự nhiên của con người, đáp ứng nhu cầu duy trì nòi giống của gia đình, dòng họ mà còn đáp ứng nhu cầu về sức lao động và duy trì sự trường tồn của xã hội. Việc thực hiện chức năng tái sản xuất ra con người diễn ra trong từng gia đình, nhưng không chỉ là việc riêng của gia đình mà là vấn đề xã hội. Bởi vì, thực hiện chức 9
  15. năng này quyết định đến mật độ dân cư và nguồn lực lao động của một quốc gia và quốc tế, một yếu tố cấu thành của tồn tại xã hội. Thực hiện chức năng này liên quan chặt chẽ đến sự phát triển mọi mặt của đời sống xã hội. Vì vậy, tùy theo từng nơi, phụ thuộc vào nhu cầu của xã hội, chức năng này được thực hiên theo xu hướng hạn chế hay khuyến khích. Trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ảnh hưởng đến chất lượng nguồn lực lao động mà gia đình cung cấp. Hai là, chức năng nuôi dưỡng, giáo dục Bên cạnh chức năng tái sản xuất ra con người, gia đình còn có trách nhiệm nuôi dưỡng, dạy dỗ con cái trở thành người có ích cho gia đình, cộng đồng xã hội. Chức năng này thể hiện tình cảm thiêng liêng, trách nhiệm của cha mẹ với con cái, đồng thời thể hiện trách nhiệm của gia đình với xã hội. Thực hiện chức năng này, gia đình có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự hình thành nhân cách, đạo đức, lối sống của mỗi người. Bởi vì, ngay khi sinh ra, trước tiên mỗi người đều chịu sự giáo dục trực tiếp của cha mẹ và người thân trong gia đình. Những hiểu biết đầu tiên, mà gia đình đem lại thường để lại dấu ấn sâu đậm và bền vững trong cuộc đời mỗi người. Vì vậy, gia đình là một môi trường văn hóa, giáo dục, trong môi trường này, mỗi thành viên đều là những chủ thể sáng tạo những giá trị văn hóa, chủ thể giáo dục đồng thời cũng là những người thụ hưởng giá trị văn hóa, và là khách thể chịu sự giáo dục của các thành viên khác trong gia đình. Chức năng nuôi dưỡng, giáo dục có ảnh hưởng lâu dài và toàn diện đến cuộc đời của mỗi thành viên, từ lúc lọt lòng cho đến khi trưởng thành và tuổi già. Mỗi thành viên trong gia đình đều có vị trí, vai trò nhất định, vừa là chủ thể, vừa là khách thể trong việc nuôi dưỡng, giáo dục của gia đình. Đây là chức năng hết mực quan trọng, mặc dù, trong xã hội có nhiều cộng đồng khác (nhà trường, các đoàn thể, chính quyền v.v...) cũng thực hiện chức năng này, nhưng không thể thay thế chức năng giáo dục của gia đình. Với chức năng này, gia đình góp phần to lớn vào việc đào tạo thế hệ trẻ, thế hệ tương lai của xã hội, cung cấp và nâng cao chất lượng nguồn lao động để duy trì sự trường tồn của xã hội, đồng thời mỗi cá nhân từng bước được xã hội hóa. Vì vậy, giáo dục của gia đình gắn liền với giáo dục của xã hội. Nếu giáo dục của gia đình không gắn với giáo dục của xã hội, mỗi cá nhân sẽ khó khăn khi hòa nhập với xã hội, và ngược lại, giáo dục của xã 10
  16. hội sẽ không đạt được hiệu quả khi không kết hợp với giáo dục của gia đình, không lấy giáo dục gia đình là nền tảng. Do vậy, cần tránh khuynh hướng coi trọng giáo dục gia đình mà hạ thấp giáo dục của xã hội hoặc ngược lại. Bởi cả hai khuynh hướng ấy, mỗi cá nhân đều không phát triển toàn diện. Thực hiện tốt chức năng nuôi dưỡng, giáo dục, đòi hỏi mỗi người làm cha, làm mẹ phải có kiến thức cơ bản, tương đối toàn diện về mọi mặt, văn hóa, học vấn, đặc biệt là phương pháp giáo dục Bà là, chức năng kinh tế và tổ chức tiêu dùng Cũng như các đơn vị kinh tế khác, gia đình tham gia trực tiếp và quá trình sản xuất và tái sản xuất ra tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. Tuy nhiên, đặc thù của gia đình mà các đơn vị kinh tế khác không có được, là chỗ ở, gia đình là đơn vị duy nhất tham gia vào quá trình sản xuất và tái sản xuất ra sức lao động cho xã hội. Gia đình không chỉ tham gia trực tiếp vào sản xuất và tái sản xuất ra của cải vật chất và sức lao động, mà còn là một đơn vị tiêu dùng trong xã hội. Gia đình thực hiện chức năng tổ chức tiêu dùng hàng hóa để duy trì đời sống của gia đình về lao động sản xuất cũng như các sinh hoạt trong gia đình. Đó là việc sử dụng hợp lý các khoản thu nhập của các thành viên trong gia đình vào việc đảm bảo đời sống vật chất và tinh thần của mỗi thành viên cùng với việc sử dụng quỹ thời gian nhàn rỗi để tạo một môi trường văn hóa lành mạnh trong gia đình, nhằm nâng cao sức khỏe, đồng thời để duy trì sở thích, sắc thái riêng của mỗi người. Cùng với sự phát triển của xã hội, ở các hình thức gia đình khác nhau và ngay cả ở cùng một hình thức gia đình, nhưng tùy theo từng giai đoạn phát triển của xã hội, chức năng kinh tế của gia đình có sự khác nhau, về quy mô sản xuất, sở hữu tư liệu sản xuất và cách thức tổ chức sản xuất và phân phối. Vị trí, vai trò của kinh tế gia đình và mối quan hệ của kinh tế gia đình với các đơn vị kinh tế khác trong xã hội cũng không hoàn toàn giống nhau. Thực hiện chức năng này, gia đình đảm bảo nguồn sinh sống, đáp ứng nhu cầu vật chất, tinh thần của các thành viên trong gia đình. Hiệu quả hoạt động kinh tế của gia đình quyết định hiệu quả hoạt động đời sống vật chất và tinh thần của mỗi thành viên 11
  17. gia đình. Đồng thời, gia đình đóng góp vào quá trình sản xuất và tái sản xuất ra của cải, sự giàu có của xã hội. Gia đình có thể phát huy một cách có hiệu quả mọi tiềm năng của mình về vốn, về sức lao động, tay nghề lao động của người lao động, tăng nguồn của cải vật chất cho gia đình và xã hội. Thực hiện tốt chức năng này, không những tạo cho gia đình có cơ sở để tổ chức tốt đời sống, nuôi dạy con cái, mà còn đóng góp to lớn đối với sự phát triển của xã hội. Bốn là, chức năng thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, duy trì tình cảm gia đình Đây là chức năng thường xuyên của gia đình, bao gồm việc thỏa mãn nhu cầu tình cảm, văn hóa, tinh thần, cho các thành viên, đảm bảo sự cân bằng tâm lý, bảo vệ, chăm sóc sức khỏe người ốm, người già, trẻ em. Sự quan tâm, chăm sóc lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình vừa là nhu cầu tình cảm vừa là trách nhiệm, đạo lý, lương tâm của mỗi người. Do vậy, gia đình là chỗ dựa tình cảm cho mỗi cá nhân, là nơi nương tựa về mặt tinh thần chứ không chỉ là nơi nương tựa về vật chất của con người. Với việc duy trì tình cảm giữa các thành viên, gia đình có ý nghĩa quyết định đến sự ổn định và phát triển của xã hội. Khi quan hệ tình cảm gia đình rạn nứt, quan hệ tình cảm trong xã hội cũng có nguy cơ bị phá vỡ. Ngoài những chức năng trên gia đình còn có chức năng văn hóa, chức năng chính trị... Với chức năng văn hóa, gia đình là nơi lưu giữ truyền thống văn hóa của dân tộc cũng như tộc người. Những phong tục, tập quán, sinh hoạt văn hóa của cộng đồng được thực hiện trong gia đình. Gia đình không chỉ là nơi lưu giữ mà còn là nơi sáng tạo và thụ hưởng những giá trị văn hóa của xã hội. Với chức năng chính trị, gia đình là một tổ chức chính trị xã hội, là nơi tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật của nhà nước và quy chế (hương ước) của làng xã và hưởng lợi từ hệ thồng pháp luật, chính sách và quy chế đó. Gia đình là cầu nối của mối quan hệ giữa nhà nước với công dân.1.2. Nhân cách sinh viên và vai trò của gia đình trong giáo dục nhân cách cho sinh viên 1.2.1. Nhân cách và các yếu tố tác động đến việc giáo dục nhân cách cho sinh viên 1.2.1.1. Khái niệm về nhân cách Khi bàn về khái niệm nhân cách thì mỗi ngành khoa học tiếp cận về vấn đề nhân cách theo góc độ khác nhau. 12
  18. Dưới góc độ tâm lý học nhân cách người ta hiểu: nhân cách như là bộ mặt tâm lý, bao gồm một hệ thống thái độ của con người với bản thân và chung quanh dựa trên một động cơ đúng đắn, vươn theo một lý tưởng cao cả2. Dưới góc độ giá trị học nhân cách chính là mối quan hệ - mức độ phù hợp giữa thang giá trị, thước đo giá trị của chủ thể với thang giá trị và thước đo giá trị của nhóm, cộng đồng xã hội, nhân loại3. Dưới góc độ đạo đức học nhân cách là một giá trị của con người được thừa nhận về mặt xã hội v.v... Nói cách khác, nhân cách là giá trị làm người, là toàn bộ phẩm giá của con người được xã hội thừa nhận. Trên cơ sở khái quát một số kết quả nghiên cứu đã được công bố, từ góc độ triết học chúng tôi quan niệm nhân cách như là một chỉnh thể cá nhân có tính lịch sử - cụ thể, đóng vai trò là chủ sở nhận thức và cải tạo thế giới, chủ thể của quyền hạn và nghĩa vụ của những chuẩn mực đạo đức, thẩm mỹ và mọi chuẩn mực xã hội khác. Nhân cách được hiểu một cách khái quát bao gồm phẩm chất đạo đức và năng lực - năng lực thể chất và năng lực tinh thần. Đó là sự thống nhất giữa mặt cá nhân và mặt xã hội ở trong mỗi cá nhân con người cụ thể, là thái độ ứng xử của mỗi con người trong mối quan hệ nhiều chiều với hiện thực khách quan. Nhân cách được coi là sự phức hợp của những phẩm chất cá nhân. Nó là một cấu trúc thống nhất của tất cả những nét nhân cách được vận động trong một con người. Đây không phải là một phép cộng đơn giản của các thuộc tính cá nhân mà là một hệ thống - cấu trúc thống nhất và luôn được hình thành như một thể thống nhất thông qua các quá trình hoạt động, giao tiếp. Tóm lại, có thể coi nhân cách như là toàn bộ những đặc điểm cùng những phẩm chất tâm lý cá nhân có tác dụng quy định giá trị và hành vi xã hội của một con người. Tất cả những cái đó sẽ góp phần tạo nên được nét đặc trưng của bản sắc và giá trị xã hội trong nhân cách của họ. Nhân cách được coi là tổng hoà không phải là mọi đặc điểm cá thể của con người mà chỉ những phẩm chất chung nào quy định nó như là một thành 13
  19. viên của xã hội cũng như một công dân, người lao động và một nhà hoạt động xã hội có ý thức. Nhân cách của chủ thể sẽ luôn luôn được sống động hiện thực qua toàn bộ những hành vi, quan hệ xã hội trong suốt tiến trình của cuộc sống của họ. Việc tổng hoà tất cả những thuộc tính của thể chất cũng như tài năng, phong cách, ý thức, đạo đức, vai trò xã hội của chủ thể để tạo thành một hệ thống - cấu trúc xác định với một bản sắc riêng và có cá tính rõ nét sẽ góp phần làm hình thành được một cấu tạo đặc biệt là nhân cách. Ở con người, cái sinh lý cũng như cái xã hội và cái tâm lý sẽ luôn luôn có sự tác động biện chứng với nhau trong mọi thời gian - không gian sống để tạo ra những nét đặc trưng của nhân cách. Tất cả ba yếu tố này đều có sự ảnh hưởng, tác động qua lại và quy định lẫn nhau trong việc hình thành nhân cách. Vì vậy, cần thiết phải có cách tiếp cận cụ thể, toàn diện và đặc thù khi phân tích quá trình phát triển nhân cách, để từ đó, biết cách xác định được nội dung các tác động giáo dục cho phù hợp, hình thành những phẩm chất nhân cách tốt. Theo đó, nhân cách có cấu trúc tương đối phức tạp. Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về cấu trúc nhân cách: Nhà phân tâm học S. Freud cho rằng cấu trúc nhân cách bao gồm: vô thức, ý thức và tự ý thức. Trong đó, vô thức là một thành phần quan trọng trong đời sống tinh thần của con người. Có quan điểm cho rằng cấu trúc nhân cách bao gồm nội tâm lý và ngoại tâm lý, những yếu tố sinh vật là cơ chế nội tâm lý, những yếu tố ngoại tâm lý là quan hệ bên ngoài của nhân cách, những hình thức của mối quan hệ này tác động với thế giới bên ngoài, với hoàn cảnh xã hội. Đây là quan điểm siêu hình về nhân cách vì nó đã tách rời yếu tố sinh vật với yếu tố xã hội trong cấu trúc nhân cách, mà thực tế ngay cả yếu tố sinh vật của con người cũng mang tính chất xã hội. Theo quan niệm của chúng tôi, cấu trúc của nhân cách gồm hai mặt thống nhất với nhau là phẩm chất và năng lực, hay được hiểu là sự thống nhất giữa đức và tài, trong đó yếu tố đức có vai trò đặc biệt quan trọng. Đức được coi là “gốc”, là cơ sở nền tảng cho sự hình thành và phát triển nhân cách. Mặt đức được thể hiện ở những phẩm chất sau: 14
  20. - Phẩm chất xã hội: Thế giới quan, lập trường, thái độ chính trị - xã hội, thái độ lao động. - Phẩm chất cá nhân: đó là đạo đức của từng cá nhân riêng lẻ của cộng đồng, phản ánh và khẳng định tồn tại xã hội của cá nhân ấy. Thực chất đó là việc thực hiện đạo đức xã hội dưới dạng kinh nghiệm cá nhân, được biểu hiện ở lý tưởng, chuẩn mực. - Phẩm chất ý chí, tính kỷ luật, cung cách ứng xử, tác phong… - Ý thức thẩm mỹ. Mặt tài chính là năng lực thích ứng với xã hội của con người, là hiệu suất, hiệu quả trong một lĩnh vực hoạt động nào đó của cá nhân được biểu hiện ra ở: Khả năng thích nghi, cơ động, mềm dẻo trong cuộc sống trên cơ cở vốn tri thức tích lũy được; khả năng thể hiện bản lĩnh và dấu ấn riêng, độc đáo của cá nhân trong các quan hệ xã hội; khả năng hành động theo mục đích, có tinh thần chủ động, tích cực, sáng tạo với năng suất, chất lượng và hiệu quả cao nhất; khả năng giao tiếp xã hội. Như vậy, sự thống nhất giữa phẩm chất và năng lực hay giữa đức và tài của mỗi cá nhân đạt được trong quá trình học tập, lao động và tu dưỡng trong môi trường xã hội với những điều kiện lịch sử - xã hội, điều kiện riêng của bản thân được xã hội thừa nhận và tạo thành nhân cách của cá nhân ấy. 1.2.1.2. Sinh viên và các yếu tố tác động đến việc giáo dục nhân cách cho sinh viên. * Sinh viên và nhân cách sinh viên Sinh viên là một thuật ngữ có nguồn gốc từ tiếng Latinh: Student – dùng để chỉ những người đang học tập ở các trường đại học, cao đẳng. Độ tuổi của sinh viên trong khoảng từ 18 đến 25 tuổi. Đây là độ tuổi đã có sự trưởng thành nhất định về mặt sinh học (chín muồi về lực) và mặt xã hội. Họ đang trong quá trình học tập, chuẩn bị hành trang để trở thành những nhà trí thức, công chức, những người lao động giỏi trong tương lai. Do đó, sinh viên là lực lượng đang trong thời kỳ phát triển trí tuệ với khả năng tư duy sâu sắc và mở rộng, khả năng lập luận logic, trí tưởng tượng phong phú và khả năng tự ý thức (điều chỉnh nhận thức, đánh giá toàn diện về bản thân và vị trí của mình trong cuộc sống). Giai đoạn này, sinh viên không chỉ có nhiệm vụ là học tập để lấy tri thức 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2