Đề tài nghiên cứu khoa học: Tìm hiểu khu di tích Lý Thường Kiệt tại xã Tam Giang, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh
lượt xem 4
download
Đề tài nhằm nghiên tìm hiểu các mặt giá trị về lịch sử văn hóa và kiến trúc nghệ thuật khu di tích Lý Thường Kiệt tại xã Tam Giang, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Đề tài nghiên cứu khoa học: Tìm hiểu khu di tích Lý Thường Kiệt tại xã Tam Giang, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh
- BỘ NỘI VỤ TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI KHOA QUẢN LÝ XÃ HỘI ĐỀ TÀI TÌM HIỂU KHU DI TÍCH LÝ THƯỜNG KIỆT TẠI XÃ TAM GIANG, HUYỆN YÊN PHONG, TỈNH BẮC NINH Mã số: DTSV.08.2021 Chủ nhiệm đề tài : Nguyễn Đắc Hào Lớp : 1905QLVA Cán bộ hướng dẫn : Th.s Nguyễn Thị Kim Chi
- Hà Nội 2021 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả trong bài nghiên cứu là hoàn toàn trung thực. Mọi thông tin nghiên cứu được đều do chính bản thân tôi trực tiếp thực hiện, các tài liệu tham khảo đã được trích dẫn đầy đủ. Hà Nội, ngày 20 tháng 07 năm 2020 Sinh viên NGUYỄN ĐẮC HÀO [1]
- LỜI CẢM ƠN Trong quá trình thực hiện đề tài “Tìm hiểu khu di tích Lý Thường Kiệt tại xã Tam Giang, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh”, chúng tôi xin được bày tỏ sự cảm ơn sâu sắc tới tất cả các cá nhân, tập thể đã động viên, giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu. Trước hết,chúng tôi xin được bày tỏ lòng cảm ơn chân thành tới Ths Nguyễn Thị Kim Chi - là người đã trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu khóa luận. Chúng tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến Ban quản lý di tích khu di tích Lý Thường Kiệt tại xã Tam Giang, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh đã cung cấp cho tôi nhiều thông tin quý báu trong suốt quá trình khảo sát làm bài. Xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo giảng dạy tại khoa Quản lý xã hội, trường Đại học Nội vụ Hà Nội đã tạo điều kiện thuận lợi, giúp đỡ tôi trong quá trình khảo sát, thu thập thông tin, tài liệu liên quan đến đề tài. Tuy nhiên, do kiến thức cũng như kinh nghiệm thực tế, tư duy còn nhiều hạn chế nên không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của thầy cô và các bạn để bản thân có thể hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn! [2]
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU .............................................................................................. 5 CHƯƠNG1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DI TÍCH VÀ TỔNG QUAN VỀ KHU DI TÍCH LÝ THƯỜNG KIỆT, XÃ TAM GIANG , HUYỆN YÊN PHONG , TỈNH BẮC NINH .............................................................. 11 1.1. Khái quát về di tích lịch sử .............................................................. 11 1.1.1. Định nghĩa về di tích lịch sử. ........................................................ 11 1.1.2. Đặc điểm của các di tích lịch sử.................................................... 12 1.1.3. Ý nghĩa............................................................................................ 15 1.2. Giá trị của di tích lịch sử .................................................................. 19 1.3. Tổng quan về xã Tam Giang , huyện Yên Phong , tỉnh Bắc Ninh20 1.4. Khái quát về khu di tích Lý Thường Kiệt tại xã Tam Giang, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. ............................................................ 21 1.4.1.Vài nét về đền thờ của Việt Nam .................................................... 21 1.4.2. Quá trình tồn tại của di tích. ......................................................... 23 1.4.3. Sự tích nhân vật được thờ . ........................................................... 23 TIỂU KẾT .................................................................................................. 34 CHƯƠNG 2 KHẢO SÁT GIÁ TRỊ KHU DI TÍCH LÝ THƯỜNG KIỆT XÃ TAM GIANG, HUYỆN YÊN PHONG, TỈNH BẮC NINH .... 35 2.1. Giá trị kiến trúc khu di tích Lý Thường Kiệt, xã Tam Giang , huyện Yên Phong , tỉnh Bắc Ninh ............................................................ 35 2.1.1. Không gian cảnh quan. ................................................................. 35 [3]
- 2.1.2. Các đơn nguyên kiến trúc.............................................................. 36 2.2. Giá trị về mặt văn hóa . ...................................................................... 39 2.3. Lễ hội chiến thắng Như Nguyệt ......................................................... 42 Tiểu kết ........................................................................................................ 58 CHƯƠNG 3 ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ KHU DI TÍCH LÝ THƯỜNG KIỆT, XÃ TAM GIANG , HUYỆN YÊN PHONG , TỈNH BẮC NINH ............................................... 59 3.1. Điều kiện tác động đến bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị Khu Di Tích Lý Thường Kiệt, Xã Tam Giang , Huyện Yên Phong , Tỉnh Bắc Ninh ............................................................................................................. 59 3.2. Giải pháp bảo tồn Khu Di Tích Lý Thường Kiệt, Xã Tam Giang , Huyện Yên Phong , Tỉnh Bắc Ninh .......................................................... 60 3.2.1. Giải pháp bảo quản , tu bổ , tôn tạo di tích đền. .......................... 60 3.2.2.Giải pháp nâng cao giá trị tâm linh. .............................................. 64 3.2.3. Giải pháp “Nâng cao chất lượng của các chủ thể quản lý”........ 66 3.2.4. Bảo tồn lễ hội đền Thái Úy Lý Thường Kiệt ................................ 68 Tiểu kết ........................................................................................................ 70 KẾT LUẬN ........................................................................................ 71 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................ 73 Phụ Lục .............................................................................................. 74 [4]
- MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Tỉnh Bắc Ninh với hệ thống di tích lịch sử văn hóa được xây dựng qua nhiều triều đại, là những danh thắng lịch sử có giá trị, nơi tham quan của khách thập phương . Bắc Ninh hiện có 1.558 di tích lịch sử văn hóa, tiêu biểu là các di tích: Chùa Dâu, chùa Bút Tháp (Thuận Thành); chùa Phật Tích (Tiên Du); di tích lịch sử khu lăng mộ và đền thờ các vị vua triều Lý (thị xã Từ Sơn) đã được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng di tích Quốc gia đặc biệt… 8 Bảo vật Quốc gia, trong đó có 5 hiện vật là: Tượng A di đà (chùa Phật Tích, Tiên Du), Tượng Rồng đá/Xà thần (đền thờ Lê Văn Thịnh, Gia Bình), Tượng Phật nghìn mắt nghìn tay (chùa Bút Tháp, Thuận Thành), Bia “Xá lợi tháp minh” (Bảo tàng tỉnh), Cột đá chạm rồng (chùa Dạm, thành phố Bắc Ninh); và 3 nhóm bảo vật là: Bộ tượng Tam thế (chùa Linh Ứng, Gia Đông, Thuận Thành), Bộ tượng Phật Tứ Pháp vùng Dâu (ở các chùa Dâu, chùa Tướng, chùa Dàn thuộc huyện Thuận Thành), Bộ tượng 10 linh thú đá (chùa Phật Tích, Tiên Du). Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt nam đã làm nên biết bao kỳ tích anh hùng, nhưng chiến thắng Như Nguyệt năm 1077 chống quân xâm lược nhà Tống do Thái úy Lý thường Kiệt (Ngô Tuấn) lãnh đạo vẫn được lịch sử tôn vinh như một trong những kỳ tích huy hoàng trong sự nghiệp kháng chiến chống ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập của đất nước. Những giá trị ấy đã được nhân dân ta luôn gìn giữ, phát huy làm cho [5]
- lịch sử dân tộc ngày càng thêm rạng rỡ, trở thành truyền thống quý báu trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ tổ quốc. Với tầm quan trọng và ý nghĩa lịch sử, văn hóa đó và thể theo nguyện vọng của nhân dân, Lãnh đạo tỉnh Bắc Ninh đã xây dựng đền thờ Lý Thương Kiệt vào ngày 7/2/2017 và dần hình thành nên quần thể khu di tích về thái úy Lý Thường Kiệt bao gồm phòng tuyến sông Như Nguyệt , đền thờ Lý Thường Kiệt, đền Xà . Để gìn giữ và phát huy những giá trị to lớn của di tích lịch sử văn hóa này rất cần sự quan tâm của các cấp, các ngành trong việc trùng tu, tôn tạo, quảng bá giới thiệu, góp phần nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho nhân dân, giáo dục truyền thống đoàn kết, yêu nước, khơi dậy niềm tự hào dân tộc cho các thế hệ đặc biệt là thế hệ trẻ ngày nay.Đồng thời hoạt động du lịch tại khu di tích còn diễn ra một cách tự phát , chưa có quy hoạch cụ thể đồng bộ , cũng như chưa có sự quản lí một cách chặt chẽ các nguồn tài nguyên từ phía chính quyền địa phương , gây ra lãng phí lớn về nguồn tìa nguyên . Hơn thế nữa , những lợi ích về kinh tế do du lịch mang lại chưa tương xứng với tiềm năng , cụ thể đó là sự đóng góp vào sự phát triển kinh tế của địa phương còn rất hạn chế . Do đó , người viết đã lựa chọn đề tài khoa học ; “Tìm hiểu khu di tích Lý Thường Kiệt tại xã Tam Giang, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh” nhằm tìm hiểu tổng quan về khu di tích và từ đó đề xuất những giải pháp khai thác phục vụ phát triển du lịch tâm linh văn hóa của huyện Yên Phong nói riêng , tỉnh Bắc Ninh nói chung một cách hiệu quả. [6]
- 2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ Về di tích lịch sử ở nước ta , lâu nay đã được nhiều người quan tâm , nghiên cứu Các đề tài về tìm hiều giá trị và các công tác quản lý di tích đã được đề cập trên nhiều phương tiện thông tin đại chúng và cho đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về di tích lịch sử cũng như công tác quản lý di tích ở nước ta. Có thể kể đến một số công trình tiêu biểu như sau; Cuốn Di tích thắng cảnh Việt Nam ( nhiều tác giả) Cuốn Di tích lịch sử văn hóa Việt Nam(nhiều tác giả) Trong những năm gần đây Việt Nam đã được ủy ban di sản thế giới UNESCO công nhận một số di sản văn hóa thế giới như: Quần thể di tích Cố đô Huế, Vịnh Hạ Long,Phố Cổ Hội An, Vương Quốc Gia Phong Nha Kẻ Bàng, không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội…. và mới đây nhất vào ngày 27/6/2011 Thành nhà Hồ đã được công nhận di sản văn hoá thế giới.Để các nhà nghiên cứu, trường học, các công ty lữ hành du lịch và quý độc giả quan tâm đến lĩnh vực này NXB Lao động cho biên soạn cuốn sách “Di tích lịch sử và di sản văn hóa Việt Nam” nhằm đáp ứng nhu cầu hiểu biết về giá trị địa danh văn hóa, lịch sử, danh lam thắng cảnh đất nước Việt Nam, hy vọng làm phong phú thêm tinh thần của những người Việt Nam và những người bạn nước ngoài có mong muốn hiểu biết về Việt Nam. Trên đây là một số những tư liệu tôi đã tham khảo và tìm hiểu cho thấy các tác giả đi trước đã nghiên cứu tương đối nhiều về di tích lịch sử. Nhưng thông qua công tác sưu tầm tư liệu thì chưa có một công trình nghiên cứu nào đi sâu, tìm hiểu cụ thể về giá trị khu di tích Lý Thường Kiệt tại xã Tam Giang, [7]
- huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.Từ đó đề xuất những giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị khi di tích. 3. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU Đề tài nhằm nghiên tìm hiểu các mặt giá trị về lịch sử văn hóa và kiến trúc nghệ thuật khu di tích Lý Thường Kiệt tại xã Tam Giang, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh Trên cơ sở khảo sát thực địa tại di tích , cùng với những hiểu biết của bản thân , bước đầu đưa ra những nhận xét , đánh giá , đề xuất một số giải pháp để bảo tồn và phát huy những giá trị vốn có của di tích trong giai đoạn hiện nay. 4. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU - Trình bày cơ sở lý luận về quản lý di tích lịch sử và tổng quan địa bàn nghiên cứu. - Nghiên cứu đánh giá thực trạng quản lý khu di tích Lý Thường Kiệt tại xã Tam Giang, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh . - Đề xuất các giải pháp bảo tồn, phát huy giá trị của di tích và nâng cao hiệu quả quản lý khu di tích Lý Thường Kiệt tại xã Tam Giang, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. [8]
- 5. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung vào việc nghiên cứu về giá trị khu di tích Lý Thường Kiệt tại xã Tam Giang, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. Phạm vi nghiên cứu: : Đền thờ Lý Thường Kiệt , Đền Xà , phòng tuyến sông Như Nguyệt và không gian văn hóa nơi bảo tồn, gìn giữ di tích lịch sử. 6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành khóa luận, tôi vận dụng một số phương pháp nghiên cứu trong khoa học như sau: - Phương pháp điền dã, khảo sát thực tế và phỏng vấn: Chúng tôi trực tiếp tham quan và khảo sát Đền thờ Lý Thường Kiệt , Đền Xà , phòng tuyến sông Như Nguyệt và không gian văn hóa nơi bảo tồn, gìn giữ di tích lịch sử . Ngoài ra,chúng tôi tiến hành phỏng vấn trực tiếp đối với cán bộ làm công tác quản lý , người dân địa phương và khách du lịch để thu thập thông tin một cách chính xác, đa dạng, làm cứ liệu cho việc thực hiện đề tài. Để có những nguồn tin chính xác tôi đã phỏng vấn trực tiếp và trao đổi với những cán bộ sau: Ông Chu Văn Khiết – Phó chủ tịch xã Tam Giang Ông Nguyễn Đắc Hiến – Bí Thư Chi Bộ Thôn Đoài Ông Nguyễn Đắc Huệ - Ban quản lý di tích Ông Lê Hũu Diện – Ban quản lý di tích - Phương pháp tổng hợp, phân tích tài liệu: Qua quá trình nghiên cứu tôi đã tổng hợp thông tin trên nhiều phương diện và nhiều nguồn khác nhau sau đó thu thập lại và tổng hợp, phân tích các khía cạnh của di tích, qua thực trạng di tích, từ đó thấy được nét đặc trưng của di tích đền Xà và đưa ra những đóng góp về giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị của khu di tích Lý Thường Kiệt tại xã Tam Giang, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. [9]
- 7. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI -Đóng góp về mặt lý luận: Đề tài được thực hiện nhằm góp phần cung cấp thêm cơ sở lý luận khoa học cho công tác quản lý nhà nước đối với di tích lịch sử nói chung và của khu di tích Lý Thường Kiệt tại xã Tam Giang, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh nói riêng. -Đóng góp về mặt thực tiễn: Đề tài góp phần đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác quản lý của khu di tích Lý Thường Kiệt tại xã Tam Giang, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. Ngoài ra kết quả nghiên cứu của đề tài còn là tài liệu tham khảo cho sinh viên ngành quản lý văn hóa trong học tập. 8. BỐ CỤC ĐỀ TÀI Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục đề tài gồm 3 chương sau: Chương 1: Cơ sở lý luận về di tích và tổng quan về khu di tích đền Xà , xã Tam Giang , huyện Yên Phong , tỉnh Bắc Ninh Chương 2: Khảo sát giá trị khu di tích Lý Thường Kiệt tại xã Tam Giang, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. Chương 3 : Đề xuất giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị khu di tích Lý Thường Kiệt tại xã Tam Giang, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. [10]
- Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DI TÍCH VÀ TỔNG QUAN VỀ KHU DI TÍCH LÝ THƯỜNG KIỆT, XÃ TAM GIANG , HUYỆN YÊN PHONG , TỈNH BẮC NINH 1.1. Khái quát về di tích lịch sử 1.1.1. Định nghĩa về di tích lịch sử Di tích lịch sử-văn hóa là những không gian vật chất cụ thể, khách quan, trong đó có chứa đựng các điển hình lịch sử, do tập thể hoặc cá nhân con người trong lịch sử sáng tạo ra. Như vậy, ở một mức độ hẹp hơn có thể thấy rằng di tích lịch sử-văn hóa là những dấu tích, dấu vết hoạt động của con người trong quá trình lịch sử còn sót lại. Đất nước Việt Nam trải qua hơn hai nghìn năm giữ nước và dựng nước. Trang sử hào hùng ấy được ghi lại bằng nhiều loại hình sử liệu khác nhau: di tích-di vật, hình ảnh, chữ viết, ngôn ngữ truyền miệng. Trong số những nguồn sử liệu ấy thì di tích lịch sử-văn hóa đóng vai trò như một nguồn sử liệu vật chất quan trọng. Nó cho chúng ta một số thông tin trực tiếp từ những hoạt động của con người trong quá khứ mà nhiều nguồn sử liệu khác không hoặc không có điều kiện đề cập tới (dĩ nhiên, các nguồn sử liệu khác cũng có những ưu thế riêng). Thông tin từ những nguồn sử liệu này đã giúp cho các nhà nghiên cứu lịch sử có những bằng chứng để khẳng định thêm sự có mặt của nhóm cộng đồng cư dân đã sống và tồn tại trên mảnh đất này. Di tích lịch sử-văn hóa là những không gian vật chất cụ thể, khách quan, trong đó có chứa đựng các điển hình lịch sử, do tập thể hoặc cá nhân con người trong lịch sử sáng tạo ra. [11]
- Như vậy, ở một mức độ hẹp hơn có thể thấy rằng di tích lịch sử-văn hóa là những dấu tích, dấu vết hoạt động của con người trong quá trình lịch sử còn sót lại. Di tích lịch sử-văn hóa được phân chia thành các loại như: di tích khảo cổ, di tích lịch sử, di tích văn hóa-nghệ thuật. Trong bài viết này, chúng tôi phân tích nguồn sử liệu trực tiếp từ các loại hình di tích nói trên. Những thông tin trực tiếp từ những di tích ấy sẽ góp phần nghiên cứu lịch sử Việt Nam. 1.1.2. Đặc điểm của các di tích lịch sử Dựa theo đặc điểm, tính chất chúng ta có 2 dạng di tích lịch sử : A, Các di tích khảo cổ. Chúng ta đều biết con người xuất hiện trên trái đất từ kỷ thứ tư (còn gọi là kỷ Nhân sinh), cụ thể hơn nữa, con người đã xuất hiện cách chúng ta khoảng hai triệu năm. Còn chữ viết do con người sáng tạo ra thì xuất hiện muộn hơn nhiều, mới cách chúng ta khoảng 6 nghìn năm (tức 4 nghìn năm trước Công nguyên). Nhưng chúng ta vẫn biết được người xưa xuất hiện trên mảnh đất hình chữ S này từ khi nào. Dựa vào những chiếc răng hóa thạch của người-vượn trong hang Thẩm Khuyên, Thẩm Hai ở Lạng Sơn, chúng ta biết được con người đã sinh sống trên đất Việt Nam ít nhất cách ngày nay nửa triệu năm. Dựa vào những công cụ đá của người nguyên thủy ở núi Đọ, Quan Yên, Núi Nuông ở Thanh Hóa; hang Giòn, Dầu Giây thuộc vùng Xuân Lộc tỉnh Đồng Nai, chúng ta biết được con người đã sinh sống trên mảnh đất này suốt từ Nam ra tới Bắc cách chúng ta khoảng 300 nghìn năm (niên đại của Sơ kỳ đá cũ). Trước đây, khi nghiên cứu lịch sử Việt Nam, có thời nhiều nhà nghiên cứu lịch sử cho rằng Việt Nam dựng nước vào khoảng hai nghìn năm trước Công nguyên tức là bốn nghìn năm cách ngày nay (vào thời Văn hóa Phùng nguyên trong Khảo cổ học). Ở Văn hóa Phùng Nguyên, dấu tích văn hóa vật chất của [12]
- người xưa để lại chỉ là đồ đá được mài nhẵn toàn thân, đồ gốm, chưa có đồ dùng bằng đồng, chỉ có xỉ đồng, gỉ đồng. Với số lượng và loại hình công cụ bằng đá như vậy, nhiều nhà nghiên cứu ngày nay cho rằng về hạ tầng cơ sở, ở nền văn hóa Phùng Nguyên, chưa thể có sản phẩm dư thừa trong xã hội. Và như vậy chưa thể có sự phân hóa giai cấp, chưa xuất hiện kẻ giàu người nghèo và do đó dẫn tới chưa thể hình thành nhà nước. Các nhà nghiên cứu còn cho rằng nhà nước sơ khai ở Việt Nam chỉ có thể xuất hiện ở nền văn hóa Đông Sơn (niên đại mở đầu vào khoảng 800-700 năm trước Công nguyên). Bởi vì ở nền văn hóa này, công cụ lao động và đồ dùng bằng đồng chiếm ưu thế, đã xuất hiện đồ sắt, cụ thể là công cụ lao động và vũ khí bằng sắt. Kết luận trên là hoàn toàn có cơ sở vì vào thời điểm tương tự, trên thế giới cũng xuất hiện nhiều nhà nước sơ khai. Để có được kết luận quan trọng này, các nhà nghiên cứ lịch sử một lần nữa lại dựa vào những sử liệu vật chất tại các loại hình di tích khảo cổ học. Chúng ta biết rằng, khi chưa xuất hiện chữ viết, việc nghiên cứu lịch sử các dân tộc trên thế giới phần lớn là dựa vào những sử liệu vật chất do hoạt động của con người để lại trong quá khứ. Ngày nay, cũng không ít nhà sử học cho rằng vào thời Hùng Vương chưa thể có đồ sắt, có chăng chỉ là đồ đồng. Câu chuyện Thánh Gióng với các chi tiết “ngựa sắt", “áo giáp sắt”, “roi sắt” có chăng chỉ là những ước mơ của người Việt cổ về một thứ kim loại có nhiều tính năng tác dụng ưu việt, lại có hiệu quả hơn kim loại bằng đồng. Nhưng trên thực tế, việc khai quật các di tích dưới chân thành Cổ Loa (vào trước thời đại An Dương Vương) các nhà khoa học đã thu được nhiều đồ vật bằng sắt. Đây là những chứng cứ vật chất quan trọng giúp chúng ta khẳng định vào thời kỳ xa xưa, ít nhất là sớm hơn thời đại An Dương Vương, đồ sắt đã xuất hiện ở nước ta. [13]
- Một điều thú vị nữa là ở câu chuyện truyền thuyết Thánh Gióng có một chi tiết khiến các nhà nghiên cứu lịch sử lâu nay vẫn nghi ngờ là: vào thời Hùng Vương, “giặc Ân” sang cướp nước ta. Giặc Ân ở đây là giặc nào? Có phải thời Ân-Thương ở phía Bắc Trung Quốc cùng thời không. Khi khai quật các di chỉ thuộc Văn hóa Phùng Nguyên (từ 2000 đến 1500 năm trước Công nguyên) các nhà sử học đã thu thập được những hiện vật rất lạ, lúc đầu chưa biết chúng là gì và nguồn gốc chúng từ đâu. Gần đây các nhà sử học Trung Quốc đã tiến hành khai quật các di chỉ thuộc thời Ân-Thương, họ cũng thu được những hiện vật được gọi tên là “nha chương”. Khi đưa các ”nha chương” do chúng ta khai quật ở di chỉ Phùng Nguyên và so sánh với các nha chương tìm thấy ở Trung Quốc thì giống hệt nhau. Dùng phương pháp các bon phóng xạ để kiểm tra niên đại các hiện vật được khai quật ở hai địa điểm khác nhau, cách xa nhau hàng ngàn cây số thì thấy chúng có cùng niên đại với nhau. Đây là một chứng cứ khoa học để khẳng định rằng vào thời Hùng Vương người Ân-Thương ở phía bắc Trung Quốc có quan hệ giao lưu văn hóa với chúng ta. Còn người Ân có trở thành giặc Ân theo truyền thuyết hay không thì chưa thể khẳng định được. Cũng có thể là người đời sau thêm thắt vào để cho câu chuyện dân gian có sức hấp dẫn đến kỳ lạ. Những dẫn chứng ở trên mà chúng tôi đưa ra chỉ nhằm chứng minh một điều rằng, trong các nguồn sử liệu dùng để nghiên cứu lịch sử dân tộc thì sử liệu vật thật( hay còn gọi là sử liệu trực tiếp) nhiều khi góp phần rất quan trọng không thể thiếu được, chúng cung cấp cho những nhà nghiên cứu lịch sử những chứng cứ không thể chối cãi mà ở các nguồn sử liệu khác còn có sự nghi ngại và chưa rõ nguồn gốc. [14]
- B, Các di tích văn hóa-nghệ thuật Di tích lịch sử-văn hóa là một bộ phận quan trọng của di sản văn hóa dân tộc. Di tích là những gì còn lại so với thời gian. Như vậy nói một cách khác chúng đều là di tích lịch sử. Và, các di tích văn hóa, như vậy cũng đồng thời là di tích lịch sử. Nói di tích lịch sử-văn hóa ở đây là muốn nói di tích lịch sử hay di tích văn hóa. Nhưng thường thì hai loại di tích này đồng thời vừa có tính chất lịch sử vừa có tính chất văn hóa. Di tích văn hóa - nghệ thuật là một loại hình của di tích lịch sử-văn hoá mà ở đó chứa đựng nhiều thông tin. Do đó, các di tích văn hóa-nghệ thuật cũng là những nguồn sử liệu trực tiếp quan trọng mà các nhà nghiên cứu ở nhiều lĩnh vực có thể sử dụng. Nguồn sử liệu tại các di tích văn hóa-nghệ thuật tạm thời có thể chia ra làm hai, đó là sử liệu trực tiếp từ bản thân di tích và sử liệu từ các di vật có trong di tích. Đối với loại thứ nhất (trực tiếp từ các di tích), chúng ta có thể nhận biết được bình đồ kiến trúc của các di tích trải qua các thời đại thông qua các dấu vết còn sót lại. Ví dụ, ta có thể biết được kiến trúc các ngôi đình của thế kỉ XVI chỉ có bình đồ chữ nhất. Nghĩa là ở thế kỉ XVI các ngôi đình ở Việt Nam (hay đúng hơn là ở miền Bắc Việt Nam) chỉ có một tòa đại đình. Sang thế kỉ XVII, kiến trúc đình làng đã thay đổi. Ở thời kì này người ta đã dựng hậu cung liền sau tòa đại đình làm cho mặt bằng kiến trúc lúc này có hình chuôi vồ hay chữ “đinh”. Hậu cung là nơi thờ Thần, điều này chứng tỏ từ nay, Thần luôn luôn có mặt ở đình, không giống như trước kia thần được thờ ở đền hay ở nghè, miếu và chỉ được rước ra đình trong những ngày hội. Sang đến thế kỉ XVIII, dựa vào các đơn nguyên kiến trúc còn lại, chúng ta thấy rằng mặt bằng các đơn nguyên kiến trúc đình làng trở nên đa dạng hơn, [15]
- phức tạp hơn. Ở hậu cung, ngoài hình thức” chuôi vồ” nối với đại đình làm mặt bằng có hình chữ đinh đã có từ thế kỉ XVII, nay có thể còn là một tòa nhà phía sau tòa đại đình và song song với đại đình, tạo cho đình làng thời kì này có mặt bằng chữ nhị. Cũng vào thời kỳ này, đằng trước đại đình có khi được dựng thêm một ngôi nhà gọi là "tiền tế", làm cho mặt bằng đình có hình chữ tam. Cũng có thể ở thế kỉ XVIII, người ta làm thêm gian nối hậu cung với tòa đại đình, làm cho mặt bằng đình có hình chữ công, ví dụ như đình Đình Bảng tỉnh Bắc Ninh. Ta thấy rằng trong thế kỷ XVIII, kiến trúc đình làng là rất đa dạng. Dựa vào dấu tích còn lại của kiến trúc đình làng, ngày nay người ta còn biết được rằng vào thế kỉ XVI đình làng thường hẹp về chiều ngang và ngắn về chiều dài. Các ngôi đình thời kì này thường chỉ có 3 gian 2 chái với 4 hàng chân cột (2 cột cái và 2 cột quân). Sang thế kỉ XVII đình làng đã được mở rộng hơn cả về chiều rộng lẫn chiều dài với 5 gian 2 chái và 6 hàng chân cột (có thêm 2 cột hiên). Ngoài ra, dấu vết của các lỗ đục chân cột để làm ván sàn đình ở các cột cái và cột quân còn lại ở các ngôi đình cũng cung cấp cho chúng ta một thông tin mà dựa vào đó có thể suy ra niên đại của các ngôi đình này. Những ngôi đình có niên đại sớm thường có ván sàn đình, những ngôi đình có niên đại muộn hơn thường không có ván sàn đình. Đặc biệt, từ thế kỉ XIX trở đi người ta không làm sàn đình nữa. Trong kiến trúc đình làng, ở các ngôi đình có niên đại trước thế kỉ XIX, các bộ phận chịu lực chính cho cả bộ mái nặng hàng chục tấn, chủ yếu do các cột chịu lực ở các bộ vì của ngôi đình đảm nhận. Từ thế kỉ XIX trở đi, người ta đã tiến hành xây các bức tường chịu lực. Các bức tường chịu lực này dần dần thay thế các cột gỗ lim truyền thống làm cho kiến trúc đình làng xấu hẳn đi. Cùng thời gian này xuất hiện loại đình chỉ có 2 mái. Loại hình kiến trúc này còn quen gọi với thuật ngữ chuyên môn là loại tường hồi bít đốc. Như vậy, căn [16]
- cứ vào kiểu dáng kiến trúc tường hồi bít đốc, chúng ta có thể kết luận rằng những di tích này có niên đại sớm nhất cũng chỉ vào thời Nguyễn hoặc được sửa chữa vào thời Nguyễn. Đối với loại thứ hai là các di vật còn được bảo lưu ở các di tích. Nguồn sử liệu trực tiếp này đã mang lại khá nhiều thông tin thú vị cho các nhà nghiên cứu trên các lĩnh vực khác nhau như tôn giáo, địa lý, lịch sử hoặc niên đại khởi dựng của chính bản thân các di tích ấy mà các nguồn sử liệu khác chưa bao giờ hoặc không bao giờ nhắc tới. Ví dụ như dựa vào minh văn của quả chuông được đúc năm 1109 ở chùa Thầy (Hà Nội), có thể suy ra niên đại khởi dựng chùa Thầy là vào khoảng từ năm 1107 đến 1109. Niên đại khởi dựng này là hoàn toàn mới, trước đây đa số các học giả cho rằng, chùa Thầy được khởi dựng vào thời vua Lý Nhân Tông (1072 - 1128). Nội dung bia tháp Viên Thông ở chùa Thanh Mai huyện Chí Linh tỉnh Hải Dương cho ta biết việc đúc tượng " Thiên thủ đại bi”tức tượng Quan âm nghìn mắt nghìn tay. Theo G.S. Hà Văn Tấn thì đây là lần đầu tiên tài liệu Phật giáo Việt Nam nhắc đến loại tượng này, và theo nhiều nhà nghiên cứu Phật giáo thì loại tượng này xuất hiện dưới sự ảnh hưởng của Mật giáo. Như vậy, nhờ có thông tin này chúng ta biết được sự xuất hiện của loại hình tượng Quan âm nghìn mắt nghìn tay được thờ trong các chùa Việt Nam muộn nhất cũng là vào thời Trần. Chúng ta biết rằng, tín ngưỡng thờ Quan âm thì đã có từ thời Lý và là rất phổ biến ở Việt Nam trong những thời kỳ sau. Có lẽ là sau thời Trần, người ta đã tạc rất nhiều tượng Quan âm để thờ trong các ngôi chùa. Đặc biệt, ở chùa Bút Tháp (Bắc Ninh), hiện còn lưu giữ pho tượng Quan âm nghìn mắt nghìn tay có thể nói đẹp nhất ở Việt Nam về nghệ thuật chạm khắc, pho tượng này do nhà điêu khắc họ Trương tạc vào năm 1646. Trong lĩnh vực lịch sử, minh văn trên bia đá còn được lưu giữ ở một số di tích đã cung cấp cho chúng ta những thông tin quý giá khác. Ví dụ, ai cũng [17]
- biết rằng chùa Phổ Minh được xây dựng và mở mang vào thời Trần. Nhưng liệu trước thời Trần tức là vào thời Lý đã xuất hiện ngôi chùa này chưa? Câu trả lời thật chính xác chỉ có thể tìm thấy được thông qua minh văn trên bia đá còn lại ở chùa Phổ Minh. Minh văn của bia có niên đại 1668 hiện đặt ở phía bên trái sân chùa phía trước cây tháp Phổ minh, viết rằng "Nhà Lý xây dựng chùa, nhà Trần tô điểm". Như vậy, rõ ràng là trước khi các vua Trần cho mở mang chùa Phổ Minh, nâng cấp hương Tức Mạc thành phủ Thiên Trường thì ở nơi đây, vào thời Lý đã có một ngôi chùa cổ rồi. 1.1.3. Ý nghĩa Các di tích lịch sử có ý nghĩa vô cùng to lớn trong việc giáo dục mọi người dân nhất là thế hệ trẻ về truyền thống dân tộc. Các di tích lịch sử như là những minh chứng cho sự nghiệp bảo vệ tổ quốc của dân tộc, làm tăng thêm về ý nghĩa quan trọng uống nước nhớ nguồn. Đồng thời qua đó làm tô đẹp cho đất nước với những công trình vĩ đại, nhưng chiến thắng hào hùng, rạng ngời non sông. Những di tích lịch sử-văn hoá là những nguồn sử liệu trực tiếp, cho ta những thông tin quan trọng để khôi phục những trang sử vẻ vang của dân tộc. Ngày nay có nhiều di tích đã và đang được phát huy theo đúng nghĩa của nó. Nhưng cũng có nhiều di tích bị bỏ quên, hoặc đang bị xuống cấp, hoặc đang bị lấn chiếm với các mục đích sử dụng khác nhau. Chúng ta, những người làm cán bộ văn hoá cần phải chung tay, chung sức gìn giữ và bảo vệ thật tốt những tài sản vô giá mà cha ông ta đã để lại qua nhiều thế kỷ, đồng thời cũng phải khai thác triệt để những thông tin trên nhiều lĩnh vực còn được lưu giữ ở các di tích này nhằm phục vụ cho cuộc sống của nhân dân hôm nay, góp phần thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển, hội nhập với các nền kinh tế tiên tiến trên thế giới. [18]
- 1.2. Giá trị của di tích lịch sử Di tích là di sản, "tiếng vang" của quá khứ, thế nên ở bất cứ quốc gia nào di tích cũng được trân quý. Ở nước ta, thời tiết không thuận lợi, lại trải qua nhiều biến động lịch sử, nên những di tích còn nguyên vẹn và lưu lại được đến hôm nay càng đáng quý hơn. Nhìn vào một di tích người ta có thể nhận ra trình độ phát triển trong quá khứ của một dân tộc, cộng đồng dân cư, tìm thấy những giá trị lịch sử, văn hóa tinh thần trăm năm, ngàn năm chưa phai nhạt. Nhận thức rõ giá trị cốt lõi của di tích, từ lâu, Đảng, Nhà nước đã có những chủ trương, chính sách, đầu tư nguồn lực để bảo tồn di tích trên khắp đất nước. Hệ thống chính trị ở cơ sở và cộng đồng dân cư thực sự thay đổi nhận thức, cùng chung tay bảo tồn di tích một cách bền vững. Không chỉ bảo tồn, khôi phục lại nguyên trạng, di tích được khai thác, phát huy giá trị sẽ trở thành sản phẩm du lịch, góp phần phát triển kinh tế-xã hội của địa phương, đất nước. Nỗ lực nhiều, thành tựu lớn trong bảo tồn, phát huy giá trị di tích hàng chục năm qua là không thể phủ nhận. Nhưng bên cạnh đó ở nước ta vẫn còn những di tích đang chờ được “hồi sinh”, ngay lúc này nhiều di tích đang xuống cấp, có nguy cơ sụp đổ bất cứ lúc nào. Nhiều di tích đang nằm ở những vùng quê, nơi đời sống chưa phải khấm khá, cơ sở hạ tầng thiết yếu còn thiếu hoặc đang xuống cấp, lẽ thường việc “lực bất tòng tâm” trong công tác tu bổ di tích cũng dễ hiểu. Lẽ nào các di tích của cha ông để lại cho con cháu thời nay không có giá trị thiết thực, đã trở thành gánh nặng? Một di tích có giá trị lịch sử và văn hóa [19]
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Quy định hình thức trình bày đề cương chi tiết đề tài nghiên cứu khoa học và báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học
10 p | 5306 | 985
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Động cơ học tập của sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
60 p | 2188 | 545
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Quy luật Taylor và khả năng dự đoán tỷ giá hối đoái ở các nền kinh tế mới nổi
59 p | 1033 | 184
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Hiệu quả cho vay tiêu dùng cá nhân tại Ngân hàng TMCP Á Châu (ABC) – chi nhánh Sài Gòn – Thực trạng và giải pháp
117 p | 672 | 182
-
Danh mục các đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường được duyệt năm 2010 - Trường ĐH Y Dược Cần Thơ
18 p | 1696 | 151
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Phát triển sự đo lường tài sản thương hiệu trong thị trường dịch vụ
81 p | 698 | 148
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Dạy học chủ đề tự chọn Ngữ Văn lớp 9 - CĐ Sư phạm Daklak
39 p | 1473 | 137
-
Đề tài nghiên cứu khoa học sinh viên: Ảnh hưởng của sở hữu bởi nhà quản trị lên cấu trúc vốn và thành quả hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam thời kỳ 2007-2011
94 p | 1193 | 80
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả nguồn nhân lực – nghiên cứu tình huống tại Công ty cổ phần Hóa chất Vật liệu điện Hải Phòng
87 p | 310 | 78
-
Thuyết minh đề tài Nghiên cứu Khoa học và Phát triển Công nghệ
30 p | 514 | 74
-
Báo cáo: Nghiên cứu thực trạng và hiệu quả các đề tài nghiên cứu khoa học trong 10 năm 1991 - 2000 thuộc ngành Y Tế
8 p | 725 | 65
-
Báo cáo Đề tài nghiên cứu khoa học: Nghiên cứu phân tích và đánh giá các dữ liệu môi trường sử dụng phương pháp phân tích thống kê
22 p | 368 | 51
-
Đề tài nghiên cứu khoa học Bài toán tối ưu có tham số và ứng dụng
24 p | 327 | 44
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Nghiên cứu và đưa ra giải pháp nhằm hoàn thiện công tác đãi ngộ lao động tại công ty TNHH may xuất khẩu Minh Thành
73 p | 228 | 40
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Bài giảng điện tử môn “Lý thuyết galois” theo hướng tích cực hóa nhận thức người học
53 p | 289 | 36
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Một số giải pháp phát triển hoạt động thanh toán quốc tế tại ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Biên Hòa
100 p | 269 | 27
-
Đề tài khoa học: Nghiên cứu ứng dụng tin học để quản lý kết quả các đề tài nghiên cứu khoa học
14 p | 163 | 11
-
Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước: Dự báo hiện tượng xói lở - bồi tụ bờ biển, cửa sông và các giải pháp phòng tránh
0 p | 131 | 7
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn