intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài: Quan niệm của L. Feuerbach về vấn đề con người

Chia sẻ: Nhu Quynh | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:18

181
lượt xem
33
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Triết học cổ điển Đức là đỉnh cao của triết học Tây Âu ở ngưỡng cửa của thế giới hiện đại. Trước hết các đại biểu của nó, bắt đầu từ Kant, đã mở đột phá khẩu vào cách hiểu nghiêm túc, nhưng siêu hình của thời đại trước về bức tranh của thế giới. Quan niệm về con người đã phát sinh và tồn tại từ khi triết học mới hình thành, nhưng phải đợi đến cuối thế kỷ XIX, khi xuất hiện hệ thống triết học phê phán của nhà triết học cổ điển Đức I.Kant (1724- 1804) thì các quan niệm đó mới được...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài: Quan niệm của L. Feuerbach về vấn đề con người

  1. A. MỞ ĐẦU Triết học cổ điển Đức là đỉnh cao của triết học Tây Âu ở ngưỡng cửa c ủa th ế giới hiện đại. Trước hết các đại biểu của nó, bắt đầu từ Kant, đã mở đột phá khẩu vào cách hiểu nghiêm túc, nhưng siêu hình của thời đại trước v ề bức tranh của thế giới. Quan niệm về con người đã phát sinh và tồn tại từ khi triết học mới hình thành, nhưng phải đợi đến cuối thế kỷ XIX, khi xuất hiện hệ th ống triết học phê phán của nhà triết học cổ điển Đức I.Kant (1724- 1804) thì các quan niệm đó mới được hệ thống hoá và trình bày dưới dạng một học thuyết triết h ọc với tên gọi là chủ nghĩa nhân bản. Tiếp thu những giá trị tư tưởng trong nhân b ản h ọc c ủa Kant, đồng thời dựa trên những thành tựu mới của khoa học tự nhiên đương thời, L. Feuerbach (1804-1872) có tham vọng vươn tới việc thiết lập một nền triết học mới - triết học tương lai, lấy con người và đời sống tâm - sinh lý c ủa nó làm đ ối t ượng nghiên cứu cơ bản. Triết học mới - Feuerbach viết: “Biến con người, kể cả gi ới t ự nhiên với tư cách là nền tảng của con người, thành đối tượng duy nhất, phổ biến, cao nhất của triết học, do đó cũng biến nhân bản h ọc, kể cả sinh lý h ọc thành khoa học phổ quát". Vì thế, Mác và Ăngghen luôn đánh giá cao triết học của Feuerbach nói chung, chủ nghĩa duy vật nhân bản của ông nói riêng, h ọ tự thừa nh ận mình là môn đồ của ông, chào đón quan điểm mới đó một cách nhi ệt li ệt, tin và đi theo Feuerbach với một tinh thần hào hứng, phấn khởi. Xuất phát từ ý nghĩa trên của vấn đề, chúng tôi quy ết định ch ọn ch ủ đ ề “Quan niệm của L. Feuerbach về vấn đề con người” làm đề tài tiểu luận. 1
  2. B. NỘI DUNG I. Khái quát chung về triết học nhân bản của L. Feuerbach 1.1. Vài nét về tiểu sử của L. Feuerbach Ludwig Feuerbach (1804-1872) - đại biểu cuối cùng của triết học cổ điển Đức,, nhà cải cách kiên cường của nền triết học Đức - nhà duy v ật và nhà khai sáng. Triết học Feuerbach là sản phẩm tất yếu của những điều kiện mới, hình thành vào cuối những năm 30 - đầu những năm 40. L.Feuerbach sinh trưởng trong một gia đình trí thức có tên tuổi. Người cha - một luật sư – muốn con trở người hữu ích cho chế độ đương thời nên đã khuyên Feuerbach chọn một nghề có khả năng thành đạt trong cuộc sống. Năm1823 v ới mục đích nghiên cứu tôn giáo, Feuerbach vào học tại khoa thần h ọc c ủa tr ường đ ại học Heidelberg, nhưng sau một năm laị rời khoa thần học và chuy ển đến Berlin, nơi Hegel đang giảng triết học. Chẳng mấy chốc Feuerbach trở thành người học trò nghiêm túc của Hegel. Năm 25 tuổi ông bắt đầu sự nghiệp giảng dạy của mình tại trường đại học Erlangen. Tại đây Feuerbach trình bày logic học và siêu hình h ọc, đ ồng th ời nhen nhóm tư tưởng nhân bản mà về sau trở thành nội dung ch ủ y ếu c ủa ch ủ nghĩa duy vật đặc trưng – chủ nghĩa duy vật nhân bản .Khái niệm trung tâm –tình yêu. Năm 1830 Feuerbach xuất bản tác phẩm đầu tiên "Quan điểm về cái ch ết và bất tử". Một lần nữa chủ đề tình yêu lại được nêu ra. Feuerbach nói về tình yêu thiên đường và tình yêu trần tục, tình yêu thần thánh và tình yêu con người.Ông khẳng định: con người yêu con người cần phải yêu, yêu là hiến dâng. Đề cập đến sự bất tử, Feuerbach cho rằng chỉ cần những hành vi vĩ đại của lý tính con người mới bất tử, nhưng nhìn chung ông bác bỏ tư tưởng ph ổ bi ến v ề sự b ất t ử c ủa linh 2
  3. hồn. Sách của Feuerbach bị tịch thu, còn vị phó giáo sư bị thì mất việc. Cũng từ năm ấy Feuerbach bắt đầu cuộc sống đơn độc, thậm chí ẩn dật ở vùng quê, công b ố những tác phẩm đánh dấu cách nhìn khác đối với triết học Hegel. Năm 1831, Hegel mất. Feuerbach có dịp bày tỏ toàn bộ quan điểm của mình. Cũng như Strauss, Bauer, ông xem việc phê phán tôn giáo gi ải phóng con ng ười khỏi sự nô dịch của ý thức tôn giáo là mục đích tối cao. Nh ưng ông tuyên b ố tôn giáo là hình thức sinh hoạt tinh thần cần có ở bất cứ xã h ội nào. V ấn đề là ở ch ỗ tôn giáo đó không kìm hãm nhân cách, trái lại kh ơi d ậy kh ả năng ti ềm tàng n ơi con người. Năm 1836 Feuerbach cưới vợ, trong suốt 25 năm hầu như không rời kh ỏi ngôi nhà nhỏ của mình, mặc dù năm 1848 trúng cử đại biểu quốc hội vùng Frankfurt. Năm 1839 Feuerbach đoạn tuyệt hoàn toàn với chủ nghĩa duy tâm. Trong tác phẩm “Góp phần phê phán triết học Hegel", Feuerbach giải quyết vấn đề cơ bản của triết học theo hướng duy vật và xem xét giới tự nhiên, tồn tại, vật ch ất, nh ư thực tại sinh ra lý tính tư duy. Vượt qua khỏi giới h ạn tri ết h ọc Hegel và Schelling, Feuerbach viết:"Thực tại của tồn tại cảm tính đơn nhất là chân lý". Thuật ngữ "chân lý” trong lối diễn đạt này có nghĩa là “thực tiễn", “tính có trước”. Ở ch ỗ khác Feuerbach nói thêm: "Chân lý, thực tiễn, tính cảm giác đồng nh ất v ới nhau. Ch ỉ b ản chất cảm tính mới là bản chất chân lý thực tiễn”. Năm 1841 Feuerbach cho ra mắt tác phẩm chính “Bản ch ất đạo Cơ đốc”, ấn tượng mà nó đem lại thật to lớn. Những năm tiếp theo ông vi ết “Lu ận c ương kh ởi đầu về cải cách triết học” (1842), “Các luận điểm tri ết h ọc c ơ b ản c ủa t ương lai" (1843), Feuerbach đứng bên lề của diễn biến cách mạng 1848, tỏ ra là người th ụ động về chính trị, mặc dù hoan nghênh tinh thần dân ch ủ tư s ản của cu ộc cách mạng đó. Thời kỳ cách mạng Feuerbach viết và công bố một vài tác phẩm nh ưng chẳng mấy ai chú ý. Giai cấp tư sản quay lưng lại với nhà tư tưởng vĩ đại, vì h ọ không thích thú gì cái tình yêu nhân loại quá lớn của ông, còn các lực lượng khác nhận thấy ở đó những biểu hiện của chủ nghĩa không tưởng chính trị. 3
  4. Mãi mãi Feuerbach cũng chỉ là một người dân chủ xã hội, mặc dầu những năm cuối cuộc đời ông đọc say sưa bộ "Tư bản", trao đổi b ằng th ư từ v ới không ít nhà Mác- xít. Ông mất năm 1872, tức là sau công xã Paris (1871) thất bại. 1.2. Đặc trưng triết học nhân bản của L. Feuerbach Trước khi đi đến phân tích chi tiết nội dung triết học Feuerbach cần làm rõ một số đặc trưng chủ yếu sau: 1. Công lao lịch sử to lớn của Feuerbach ở ch ỗ, Feuerbach khôi ph ục, và phát triển truyền thống duy vật thế kỷ XVIII trong hoàn cảnh chủ nghĩa duy tâm và thần bí thắng thế ở Đức. Khác với các bậc tiền bối c ủa tri ết h ọc c ổ đi ển Đ ức, Feuerbach là nhà duy vật chiến đấu ở bình diện này. 2. Với tham vọng xây dựng một triết học thoát li khỏi tính tư bi ện, Feuerbach xem Con Người là đối tượng nghiên cứu chủ yếu. Feuerbach xem tri ết học của mình như sự khắc phục học thuyết của Hegel và các b ậc ti ền bối khác. Nếu như Hegel khách quan hóa lí tính, bản th ể luận hóa t ư duy, tách kh ỏi h ọat đ ộng cảm tính và những nhu cầu của họ, thì “Triết học mới", hay "tri ết h ọc t ương lai”(thuật ngữ của Feuerbach), xuất phát từ chỗ con người và ch ỉ có con người m ới là chủ thể hiện thực của lí tính. Xác định phương pháp của mình, Feuerbach vi ết: "Phương pháp của tôi ở chổ nào? Ở chổ thông qua con người đưa tất cả những cái siêu nhiên về tự nhiên và thông qua tự nhiên đưa nh ững cái siêu nhân v ề con người…” 3. Mặc dầu nội dung học thuyết của ông về cơ bản là duy vật, nhưng ông không sử dụng thuật ngữ đó. Điều này có lí do sâu xa: Các h ọc thuy ết duy v ật tr ước đây không xuất phát từ con người vì thế dễ rơi vào tính kh ập khi ểng. Feuerbach viết: “Chân lý không phải là chủ nghĩa duy vật lẫn chủ nghĩa duy tâm, không ph ải là sinh lí học lẫn tâm lí học; chân lí - chỉ có thuyết nhân bản…” 4. Feuerbach phê phán chủ nghĩa duy tâm Hegel nhưng không hiểu đầy đủ vai trò của phép biện chứng trong việc lí giải thế giới, phê phán Cơ đốc giáo để thay thế nó bằng tôn giáo tình yêu. Ông khắc phục một ảo tưởng, nh ưng lại h ướng đ ến ảo tưởng khác. 4
  5. 5. Feuerbach phân tích các hiện tượng tự nhiên muôn vẻ từ quan điểm duy cảm. Do không nắm bắt kịp thời, đầy đủ các chất liệu có giá trị của khoa học tự nhiên đương thời, nên sự phân tích của ông thường không sâu sắc, thiết chặt ch ẽ, thiếu sức thuyết phục. 6. Quan điểm chính trị- xã hội của Feuerbach ch ịu ảnh hưởng của phong trào khai sáng và chủ nghĩa duy vật Pháp, tức quan điểm về xã h ội công dân và nhà nước pháp quyền. 7. Chủ nghĩa nhân bản Feuerbach hàm chứa trong mình những mầm mống của quan niệm khoa học về lịch sử. Tiếc thay ông hiểu cuộc sống hiện th ực ấy m ột cách trừu tượng nằm bên ngoài mối liên hệ lịch sử - xã hội nhất định, với s ự phân hóa xã hội và cuộc đấu tranh hiện thực vì tiến bộ xã hội. 8. Triết học tự nhiên của Feuerbach là chủ nghĩa duy vật nhất nguyên. II. Con người với chủ nghĩa duy vật nhân bản của L. Feuerbach 2.1. Quan điểm về con người trong triết học của L. Feuerbach Quan điểm duy vật nhân bản là cái nét nổi bật trong triết h ọc của L. Feuerbach. Gọi là chủ nghĩa duy vật nhân bản bởi lẽ triết h ọc của L. Feuerbach đặc biệt quan tâm đến vấn đề con người, coi vấn đề con người là trung tâm, cốt lõi, xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống. Nét khác biệt với các nhà triết h ọc đ ương thời của nước Đức là ở chỗ: L. Feuerbach đã lí giải các vấn đề của triết h ọc trên lập trường duy vật. L. Feuerbach xem xét con người trên những khía cạnh sau: 2.1.1. L. Feuerbach xem con người là sản phẩm tất yếu của tự nhiên Tiếp thu những thành tựu của khoa học tự nhiên trên nền tảng của chủ nghĩa duy vật nhân bản, Feuerbach cho rằng, con người không phải là sản phẩm của thượng đế cũng không phải là sự tha hoá của ý niệm tuy ệt đối mà là s ản ph ẩm của giới tự nhiên, ông viết: "Giới tự nhiên là ánh sáng, điện từ, từ tính, không khí, nước, lửa, đất, động vật, thực vật, là con người, bởi vì con ng ười là m ột th ực th ể 5
  6. hoạt động thiếu tự chủ và vô thức". Như vậy, sự phát sinh và tồn tại của con người cũng giống như sự phát sinh và tồn tại của của các hiện tượng t ự nhiên khác, chỉ có điều khác là: con người là sản phẩm tiến hoá cao nh ất của gi ới t ự nhiên, là một sinh vật bậc cao, có tính vượt trội so với các loài đ ộng v ật khác ở đ ời sống tinh thần của nó: "Sự khác biệt căn bản giữa loài ng ười và loài v ật là gì? Câu trả lời chung rất đơn giản là: đó là sự khác nhau trong ý thức đúng với nghĩa chân chính của từ này... Bởi ý thức theo nghĩa chính xác chỉ có ở ch ỗ, khi ch ủ th ể có kh ả năng nhận thức được loài của mình, bản chất của mình. Động v ật nh ận th ức mình như một cá thể, nó chỉ làm chủ được quá trình tự cảm giác mà thôi, chứ không ph ải như một loài...bởi vậy, động vật sống đơn giản một mình, còn con người sống có bạn. Đời sống nội tâm của con vật hoà đồng với th ế giới bên ngoài, còn con ng ười sống với cả hai chiều: nội tâm và thế giới bên ngoài. Đời s ống nội tâm của con người liên quan mật thiết với loài và bản chất của nó. Con người suy nghĩ, bàn luận và nói với chính mình". Toàn bộ mối quan hệ giữa giới tự nhiên và con người phản ánh mối quan hệ giữa thế giới vô cơ và thế giới hữu cơ, phản ánh tiến trình tiến hoá của sự s ống, theo nghĩa thế giới vô cơ là tiền đề, là cơ sở n ền t ảng c ủa m ọi s ự s ống nói chung, của đời sống con người nói riêng. Con người chỉ có th ể tồn tại trong giới t ự nhiên, trong sự tiếp xúc với thế giới khách quan bên ngoài nó, và cũng chính th ế gi ới này quy định sự tồn tại và phát triển của các giác quan con người chứ không ph ải ngược lại như chủ nghĩa duy tâm chủ quan khẳng định. Ánh sáng t ồn tại không phải để cho con mắt nhìn, mà con mắt tồn tại bởi vì có ánh sáng, t ương t ự nh ư vậy, không khí tồn tại không phải để cho con người hít thở mà con người hít thở bởi vì có không khí, bởi vì, nếu không có không khí thì s ẽ không có sự s ống. T ồn tại một mối quan hệ tất yếu giữa thế giới vô cơ và thế gi ới h ữu c ơ. M ối quan h ệ qua lại này chính là cơ sở, là bản chất của sự sống. Bởi vậy, chúng ta không có căn cứ nào để giả định rằng, nếu như con người có nhiều cảm giác hay nhi ều c ơ quan thì nó sẽ hiểu biết được nhiều thuộc tính hay nhiều s ự vật c ủa t ự nhiên h ơn... con người có vừa đủ những giác quan cần thiết để cảm nhận thế giới trong tính toàn vẹn và tính tổng thể của nó. 6
  7. Từ việc quan sát hình thể bên ngoài của con người,.cho đến mọi hoạt động lao động sản xuất cũng như hoạt động tinh thần của nó, Feuerbach cho rằng, con người là một sinh vật có hình thể vật lý -sinh lý ở trong không gian và th ời gian, nhờ vậy nó có năng lực quan sát và suy nghĩ vượt trội so với các loài sinh vật khác.Bản chất con người là một cái gì đó thống nhất toàn vẹn gi ữa hai ph ương diện thể xác (tồn tại) và tinh thần (tư duy). Sự thống nhất toàn vẹn này đảm bảo cho con người có thể tồn tại và phát triển như một sinh vật cao nh ất, hoàn thi ện nhất trong mọi sinh vật hiện có.Và sai lầm của chủ óc, nghĩa duy t ầm là s ự toan tính thủ tiêu sự thống nhất toàn vẹn đó của con người, tách rời tư duy con người khỏi tồn tại của nó, biến tư duy thành một thực th ể siêu t ự nhiên có kh ả năng sáng tạo nên thế giới vật chất. Còn sai lầm của chủ nghĩa nhị nguyên là đánh đồng tư duy và tồn tại, coi chúng như những thực thể tồn tại độc lập bên cạnh nhau đó là một sụ khẳng định vòng vo, là lối nói nửa vời, tách đôi trái ngược. Phê phán những quan điểm sai lầm của chủ nghĩa duy tầm và ch ủ nghĩa nh ị nguyên trong việc tách đôi thể xác và tinh thần, tồn tại và tư duy, Feuerbach đã thừa nhận một cách dứt khoát rằng quan hệ thực sự của tồn tại đối với t ư duy là t ồn t ại - chủ thể, tư duy - thuộc tính. Tư duy xuất phát từ tồn tại, ch ứ không ph ải t ồn t ại xuất phát từ tư duy… cơ sở của tồn tại nằm ngay trong tồn tại chính là cảm tính, là nguyên lý trí tuệ là sự tất yếu và chân lý... bản chất của tồn tại với tư cách một tồn tại chính là bản chất của giới tự nhiên. Tại sao tồn tại là ch ủ th ể, còn t ư duy là thuộc tính (của chính chủ thể đó)? Để trả lời câu hỏi này, theo Feuerbach, chúng ta cần đến từ đâu đến, bộ óc từ đâu đến, cơ quan cơ thể từ đâu đ ến, thì tinh th ần cũng đến từ đấy ngay cả hoạt động tinh thần cũng là vi ệc làm c ủa c ơ th ể, c ủa đ ầu óc con người, hoạt động đó khác với các hoạt động khác ở ch ỗ, nó là hoạt đ ộng của đầu óc. Không phải là người nghiên cứu sâu về sinh lý học, song Feuerbach cũng nh ận thấy rằng, mỗi con người cụ thể bằng xương bằng th ịt đang sống và ho ạt động là những bằng chứng sinh động về sự thống nhất giữa thể xác và tinh thần, giữa phương diện vật lý và phương diện tâm lý. Sự thống nhất này phản ánh sự thống 7
  8. nhất giữa cấu trúc và chức năng, giữa giải phẫu h ọc và sinh lý h ọc. Và cũng t ừ đó ông dễ dàng rút ra một kết luận triết học duy vật rằng, tư duy, ý th ức c ủa con người không là cái gì khác như là thuộc tính vốn có của một dạng vật ch ất có t ổ chức cao - bộ óc con người. Chính ở đây, ông đã phần nào ph ỏng đoán được nội dung vấn đề cơ bản của triết học, điều mà sau này Ăngghen đã phát bi ểu m ột cách rõ ràng hơn trong tác phẩm Lutvich Phơbách và sự cáo chung c ủa tri ết h ọc c ổ đi ển Đức. 2.1.2. L. Feuerbach đặc biệt đề cao năng lực trí tuệ của con người với tính cách là những cá thể người. Sau khi công nhận một cách dứt khoát rằng, tồn tại là ch ủ th ể, tư duy là thu ộc tính, ý thức là sản phẩm của bộ óc con người, Feuerbach đi đến việc tìm hiểu sâu hơn bản chất tự nhiên - sinh học của con người. "Bản chất chung c ủa con ng ười là gì? Những nhân tính cơ bản trong con người là gì? Đó là lý tính, ý chí và trái tim. Con người hoàn thiện có năng lực tư duy, sức mạnh ý chí và nguồn lực tình cảm. Năng lực tư duy chính là ánh sáng của nhận thức, s ức mạnh của ý chí chính là năng lượng của tính cách, nguồn lực tình cảm chính là tình yêu... Trong ý chí, tư duy và tình cảm luôn chứa đựng bản chất tối cao, tuyệt đối của con người và m ục đích tồn tại của nó... con người tồn tại để nhận thức, yêu thương và mong muốn. Nhưng mục đích của lý tính, của ý chí, của tình yêu là gì? là đ ể làm cho con ng ười trở thành người tự do". Đoạn trích này là một văn bản điển hình thuộc Chương I với nhan đề Bản chất chung của con người trong tác ph ẩm B ản ch ất Kitô giáo, do Feuerbach viết vào năm 1841. Qua những lời lẽ đó, nhà triết học cổ điển Đức muốn chứng minh rằng, bản chất chung của con người là tổng hoà mọi khát vọng chính trị, mọi năng lực nhận thức và nhu cầu t ự nhiên - sinh h ọc đã tr ầm tích trong quá trình phát triển lịch sử lâu dài của nó. Mọi mong muốn, khát vọng tự nhiên của con người theo quan đi ểm c ủa Feuerbach không phải xuất phát từ tư tưởng thuần tuý mà chúng phản ánh đời s ống hiện thực của con người và do đời sống đó quy định. Nói cách khác, trong con người, cái sinh lý quy định cái tâm lý, cái tự nhiên - sinh h ọc quy đ ịnh cái xã h ội, 8
  9. nhu cầu vật chất quy định hành động xã hội. " Đi ều ác xu ất hi ện không ph ải trong đầu óc, trong trái tim - Feuerbach viết - mà xuất hiện chính trong dạ dày con người". Quan điểm này của Feuerbach đã làm cho Ăngghen rất chú ý. Trong tác phẩm Lútvich phơbách và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức, Ăngghen đánh giá cao luận điểm của Feuerbach: "Trong một cung điện, người ta suy nghĩ khác trong một túp lều tranh", "Nếu như vì đói, vì nghèo, mà trong cơ th ể không có ch ất dinh dưỡng, thì trong đầu óc anh, trong tình cảm và trong trái tim anh cũng không có chất nuôi đạo đức". Đây là luận điểm hoàn toàn mới so v ới đ ương th ời, vì theo quan điểm này thì điều kiện sinh hoạt vật chất của con người quy đ ịnh suy nghĩ và tư tưởng của nó. Tuy nhiên, Feuerbach chưa có khả năng nhìn nh ận con người v ới tư cách là một cá thể của loài, với tư cách là một thành viên xã h ội, mà ông ch ỉ m ới dừng lại ở con người cụ thể. "Tôi chỉ đưa ra một luận điểm, nhưng đây là luận điểm cốt yếu mà mọi luận điểm khác phải xoay quanh nó. Đó là khái ni ệm cá th ể. Sự khác biệt cơ bản giữa quan điểm của tôi với quan điểm của ng ười phê phán tôi (mà cụ thể là giáo sư triết học người Đức- Schalier (1810 -1868) - LCS) là trong con người tồn tại cả tính cá thể và tính loài, trong khi đó, theo ý ki ến tôi thì tính cá thể đã bao quát toàn bộ bản chất con người, bản chất con ng ười ch ỉ có m ột - đó là bản chất cá thể" . Điều này đã phản ánh rất rõ sự tác động mạnh mẽ của cácâthnhf t ựu khoa h ọc thời đại, đồng thời cũng thể hiện rất rõ xu h ướng đòi tự do cá nhân, đòi gi ải phóng con người ra khỏi sự ràng buộc của hệ thống giáo lý, trật tự hà khắc của xã h ội phong kiến nước Đức đương thời của tầng lớp quý tộc tiến bộ. 2.1.3. L. Feuerbach cũng có xu hướng xem xét con người dưới góc độ là “b ản chất cộng đồng” Tuy nhấn mạnh tính cá thể của con người, song Feuerbach cũng hé mở một ý tưởng cho rằng, trong quá trình sống, con người có thể giao tiếp với những người khác, vôi cộng đồng xã hội. Do tiếp xúc với xã hội mà "từ một tồn t ại thu ần tuý vật lý, con người trở thành một tồn tại chính trị, nói chung trở thành một cái gì đó khác với tự nhiên, tồn tại đó chỉ quan tâm đến bản thân mình". Quan ni ệm cho 9
  10. rằng, con người là một tồn tại xã hội đã có trong triết học của aristote, nhưng Feuerbach đã vượt lên trên quan niệm này khi đưa vào đời sống của con người những phạm trù xã hội phản ánh đời sống đa dạng sinh động của con người như: tự do, nhân cách, luật pháp. Feuerbach viết: "Con người là một tồn tại của tự do, tồn tại có nhân cách, tồn tại của luật pháp. Ch ỉ có trong con ng ười thì "cái tôi" c ủa Phichte, "cái đơn tử" của Leibniz, "cái tuyệt đối" của Hêgen mới được bén rễ". Ở đây, nhà triết học duy vật cổ điển Đức đã nhìn th ấy rằng,"cái tôi", "cái đ ơn t ử", "cái tuyệt đối" được miêu tả trong triết học của các bậc tiền bối mới ch ỉ là xu ất phát điểm, là nền tảng vật lý - sinh lý của con người. Vấn đề quan trọng h ơn là bản chất đích thực của con người, tức là những yếu tố quy định s ự tồn t ại c ủa nó với tư cách là một sinh thể có tính loài hay nói theo cách c ủa Mác là tính xã h ội c ủa con người. Bởi vì" khi con người sinh ra từ giới tự nhiên, nó mới chỉ là một sinh vật tự nhiên đơn thuần chứ không phải là người...con người là sản phẩm của văn hoá và của lịch sử". Như vậy, theo Feuerbach, khi nói về con người, nhất thi ết ph ải gi ả định rằng, có những người khác và chỉ có trong mối quan hệ đó thì con người m ới là con người với ý nghĩa đầy đủ của từ này. Từ việc công nhận con người như là sản phẩm của văn hoá, của lịch sử, Feuerbach đi đến quan điểm cho rằng, tính ích kỷ không chỉ mang tính cá nhân như các nhà tư tưởng, các nhà đạo đức học trước ông (đặc biệt là những người theo eudaimonism - chủ nghĩa duy hạnh) tuyên bố, mà nó còn mang tính xã hội. "Không chỉ có một tính ích kỷ đơn độc hay là tính ích k ỷ cá nhân - Feuerbach viết - mà còn có một tính ích kỷ xã h ội, một tính ích k ỷ c ủa gia đình, của tập thể, của cộng đồng, một tính ích k ỷ yêu n ước. T ất nhiên, tính ích k ỷ là nguyên nhân của mọi điều ác, nhưng cũng là nguyên nhân của mọi điều thi ện, bởi vì không cái gì khác ngoài tính ích kỷ đã tạo nên sự chiếm hữu ruộng đất, nên thương nghiệp, cũng vì tính ích kỷ mà có ngh ệ thuật, có khoa h ọc... tính ích k ỷ ngăn cấm sự trộm cướp, dối trá, làm hạn chế sự ngoại tình". Đây là một quan điểm hoàn toàn mới so với lịch sử đương thời, khi đọc nh ững l ời này c ủa Feuerbach, Lênin cho rằng, đây là "phôi thai của ch ủ nghĩa duy v ật l ịch s ử". Ti ến xa h ơn b ước nữa, nhà triết học mang nặng tinh thần nhân đạo coi tính ích k ỷ c ủa con ng ười nh ư là một động lực thúc đẩy sự phát triển của lịch s ử xã h ội. "Trong l ịch s ử, m ột th ời đại mới bắt đầu từ đâu? Bắt đầu từ chỗ, đông đảo quần chúng bị áp bức đ ưa ra 10
  11. tính ích kỷ chính đáng của mình chống lại tính ích k ỷ c ực đoan c ủa thi ểu s ố ng ười khác... tính ích kỷ của đa số nhân loại đang bị áp bức phải và sẽ thực hiện quyền của mình và mở ra một thời đại lịch sử mới... không thể để cho thiểu số người là cao thượng, có tài sản, còn số khác là thấp hèn, là chẳng có gì. Tài sản phải có ở tất cả mọi người". Những lời lời lẽ có tính tuyên chiến với xã h ội tư bản này được Feuerbach nói ra vào thời điểm lịch sử khi Tuyên ngôn Đảng cộng s ản c ủa Mác và Ăngghen mới ra đời đã phần nào phản ánh tư tưởng chủ nghĩa xã hội của Feuerbach và được Lênin đánh giá cao trong Bút ký triết học”. 2.1.4. Theo L. Feuerbach tôn giáo là bản tính vốn có của con ng ười, là s ự th ể hiện căn bản nhất cái bản chất tình cảm của con người Nhìn nhận con người vừa như là một cá thể chứa đầy tham vọng cá nhân, v ừa như là sản phẩm của con người, sản phẩm của văn hoá và lịch s ử chính là c ơ s ở lý luận để Feuerbach xem xét mối quan hệ giữa người và thần. Feuerbach cho rằng, viện nghiên cứu nguồn gốc và bản chất của tôn giáo ph ải xu ất phát t ừ vi ệc nghiên cứu bản chất của con người và đời sống hiện thực của nó. Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa nhân bản, Feuerbach cho rằng y ếu t ố quan trọng hàng đầu tạo tiền đề cho sự xuất hiện tôn giáo đó là trạng thái tâm lý của con người. "Thượng Đế không phải là thực thể sinh lý hay th ực th ể vũ tr ụ- Feuerbach viết- mà là thực thể tâm lý". Chính s ự xúc c ảm mạnh, s ự chiêm nghi ệm hay trạng thái đau khổ của con người là nguồn gốc sâu xa của tôn giáo. Nhưng s ự chiêm nghiệm hay trạng thái đau khổ, trạng thái xúc cảm không ph ải là hi ện t ượng có tính chủ quan như chủ nghĩa duy tâm chủ quan quan niệm , mà chúng có tính khách quan, nghĩa là gắn liền với các hiện tượng tự nhiên và đời sống xã hội. Feuerbach viết "Tôn giáo là giấc mơ của tinh thần con ng ười nh ưng trong gi ấc m ơ đó chúng ta không phải ở trên bầu trời mà ở trên mặt đất trong vương quốc c ủa hiện thực, chúng ta nhìn thấy các đối tượng của hiện th ực không ph ải trong th ế giới thực tế của tính tất yếu mà là trong thế giới say mê c ủa trí t ưởng t ượng và s ự kỳ quặc. Nhiệm vụ của tôi là bóc trần bản chất đích th ực c ủa tôn giáo và tri ết h ọc tư biện hay thần học, chuyển thế giới nội tâm ra thế giới bên ngoài, nghĩa là biến 11
  12. đối tượng tưởng tượng thành đối tượng hiện thực". Trên tinh thần nh ư vậy, ông phê phán các quan điểm cho rằng, tôn giáo là hiện tượng có tính ngẫu nhiên hoặc có tính bẩm sinh. Theo Feuerbach, tình cảm tôn giáo cũng như các ý niệm và bi ểu t ượng c ủa nó luôn thay đổi theo sự thay đổi của lịch sử xã h ội loài người. Tử l ập trường c ủa ch ủ nghĩa nhân bản, Feuerbach cho rằng, trong con người luôn có những ham muốn, nhu cầu, khát vọng và thái độ ích kỷ. Những nhu cầu sinh h ọc và tr ạng thái tâm sinh lý này có thể được đáp ứng hoặc có thể không được đáp ứng, từ đó gây nên trong con người hai xu hướng trạng thái tâm lý: hoặc sợ hãi, bất l ực, nỗi buồn chán, đau kh ổ (nếu con người gặp những điều bất hạnh) hoặc sự ngưỡng mộ, kính phục, lòng biết ơn (nếu con người gặp những thuận lợi). Feuerbach viết "Tôn giáo là s ự ph ản ánh thời thơ ấu của nhân loại hay trong tôn giáo con ng ười là đ ứa tr ẻ. Đ ứa tr ẻ không thể thực hiện ý muốn của mình bằng sức mạnh của nó, phải nhờ đến một tồn tại mà nó cảm thấy lệ thuộc... tôn giáo có nguồn gốc xuất hiện, có chỗ đứng chân chính, có ý nghĩa trong thời thơ ấu của nhân loại". Ở đây, khi nghiên cứu vấn đề tôn giáo Feuerbach phải nhờ vào nh ững tư li ệu của lịch sử và khảo cổ học, theo đó thì con người nguyên thuỷ là con người cảm tính chứ không phải con người lý tính. Đời sống của người nguyên thu ỷ hàng ngày bắt phải tiếp xúc với muôn vàn sự vật, hiện thể tượng đa dạng của giới tự nhiên như mặt trăng, mặt trời, sấm sét, bão lụt, giông tố, sông sâu, bi ển rộng, núi non hiểm trở, rừng rậm, cây cao... và lẽ đó nhiên là con ng ười ph ải l ệ thu ộc vào chúng để tồn tại. Từ đó làm phát sinh tâm lý hay tình c ảm trong con ng ười đ ối v ới gi ới t ự nhiên: "Điều mục đầu tiên của tôi trong Bản ch ất của tôn giáo có th ể nói m ột cách vắn tắt là: cơ sở của tôn giáo là tình cảm về sự lệ thuộc của con người. Trong ý nghĩa đầu tiên, giới tự nhiên chính là đối tượng của tình c ảm l ệ thu ộc này. Vì v ậy, giới tự nhiên nói chung là khách thể đầu tiên của tôn giáo". Từ trước tới giờ đối tượng của các bài giảng của tôi chính là ở chỗ, tình cảm về s ự lệ thuộc chính là c ơ sở và nguồn gốc của tôn giáo... còn đối tượng của sự lệ thuộc đó chính là giới t ự nhiên". 12
  13. 2.2. Đánh giá chung về triết học L. Feuerbach về vấn đề con người 2.2.1. Về hạn chế - L. Feuerbach không thấy con người là sản phẩm của lích sử phát tri ển xã hội. Thực ra là, đối với nhà duy vật thực tiễn, tức là đối với nh ững người cộng s ản thì tất cả vấn đề là ở chỗ cách mạng hoá thế giới hiện thực…Nếu đôi khi người ta thấy L. Feuerbach cũng có những quan điểm tương tự thì tuy vậy, những quan điểm ấy không bảm giờ xa hơn những điều trực giác rời rạc và ảnh hưởng không đáng kể đến thế giới quan chung của ông. L. Feuerbach nói “con người với tính cách là con người” chứ không nói “con người lịch sử, hiện thực”. Ông không thấy rằng thế giới cảm giác được bao quanh ông không phải là một sự vật đã t ồn t ại trực ti ếp t ừ ngàn xưa và luôn luôn giống bản thân nó, mà lại là sản ph ẩm của công nghi ệp và của trạng thái xã hội, và hơn nữa với cái nghĩa đó là một sản phẩm lịch sử, mọi kết quả của một loạt thế hệ sau đứng trên vai thế hệ trước. - Con người trong triết học của L. Feuerbach bị tách khỏi những quan hệ xã hội của nó. Tuy đánh giá cao Feuerbach như vậy, nhưng Mác và ăngghen cũng nhận thấy rằng hạn chế cơ bản xuyên suốt toàn bộ triết học nhân bản của Feuerbach là ch ủ nghĩa nhân đạo trừu tượng và chủ nghĩa duy tâm về lịch sử. "L ấy con ng ười làm xuất phát điểm, song ông hoàn toàn không nói đến thế giới trong đó con người ấy sống. Vì vậy con người mà ông nói luôn là con người trừu tượng... con ng ười đó không ra đời từ trong bụng mẹ, mà lại sinh ra từ ông th ần c ủa các tôn giáo đ ộc thần... con người đó cũng không sống trong thế giới hiệan thực". Luận cương về Feuerbach được coi như là bản tổng kết toàn bộ nh ững khi ếm khuyết trong triết học Feuerbach, trong đó khi phê phán quan điểm về con ng ười trừu tượng của nhà triết học này, Mác viết: "Feuerbach hoà tan bản chất tôn giáo vào bản chất con người. Nhưng bản chất con người không phải là một cái gì trừu 13
  14. tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, b ản ch ất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội”. Trong Hệ tư tưởng Đức, Mác và Ăngghen đã dành hẳn một ch ương bàn về triết học Feuerbach, theo các ông, thì "so với các nhà duy vật "thuần tuý", Feuerbach có ưu điểm lớn là ông thấy rằng, con người cũng là một "đối tượng của cảm giác", ...nhưng ông vẫn còn bám vào lý luận và không xem xét con người trong mối quan hệ xã hội nhất định của họ, trong những điều kiện sinh hoạt... làm cho họ trở thành những con người đúng như họ đang tồn tại trong thực tế... nên ông vẫn cứ dừng lại ở một sự trừu tượng. - Do hạn chế bởi phương thức siêu hình, L. Feuerbach đã giải quyết các vấn đề cuộc sống con người một cách không thoả đáng. Ông chỉ nhấn mạnh đến vai trò của các yếu tố tình cảm, tôn giáo trong con người, coi đó là những nhân tố cơ bản có tính chất quyết định cuộc sống của con người và xã hội loài người. ông chưa thấy được vai trò của các đi ều ki ện kinh t ế, xã hội đã hằng ngày tác động đến con ngưòi và s ự phát tri ển c ủa xã h ội loài ng ười như vốn có của nó. Chính vì vậy, Mác – Ăngghen đã đánh giá: Khi L. Feuerbach là nhà duy vật thì ông không nhìn thấy lịch sử, còn khi ông xem xét l ịch s ử thì ông hoàn toàn không phải là nhà duy vật. Ở L. Feuerbach lịch sử và chủ nghĩa duy vật là hoàn toàn tách rời nhau”. 2.2.2. Về đóng góp Từ việc xem xét con người một cách trừu tượng “về mặt xã hội” nh ư th ế nên con người trong triết học Feuerbach xét cho cùng chỉ là thực thể tự nhiên. Nhưng dù sao cũng cần nhấn mạnh giá trị lịch sử của Feurerbach trong lý luận về con người như sau: Trước hết, trong quan niệm về con người Feuerbach tiếp nối xứng đáng truyền thống nhân văn trong lịch sử triết học, nhất là triết h ọc thời Phục h ưng và chủ nghĩa duy vật Pháp thế kỷ XVIII. Các nhà nhân văn sơ kỳ ở Ý thế kỷ XV - XVI 14
  15. bất chấp sự kìm hãm nghiệt ngả của nhà thờ và nhà nước trung cổ tàn bạo đã khẳng định quyền lực vĩ đại của mình và xem con người là trung tâm của vũ trụ. Trên trái đất không có gì vĩ đại hơn là con người, và trong m ỗi con ng ười không có gì vĩ đại hơn trí tuệ và linh hồn – Pico Della Mirandola tuyên b ố nh ư v ậy. Các nhà triết học duy vật Pháp xen bản chất tự nhiên là thiêng liêng, l ương tâm và danh d ự, tự do, bình đẳng là cái tất yếu tạo nên động lực xã hội của con người. Feuerbach thừa hưởng truyền thống đó, khơi dậy tình yêu nơi con người tình yêu chẳng những với con người, mà cả với thiên nhiên. Điều này làm cho chủ nghĩa nhân bản mang sắc thái mới. Nếu F.Bacon nhấn mạnh “quyến lực của con người trước tự nhiên” thì Feuerbach lại xuất phát từ quan hệ hài hoà. Khi con người đặt mình trong m ối quan hệ hài hoà với giới tự nhiên, thì mâu thuẫn không trở nên gay gắt nữa. Thứ hai, chủ nghĩa nhân bản của Feuerbach, ước muốn xây dựng một xã hội của tình yêu đóng vai trò tiền đề, chất kích thích để K. Marx xây dựng mô hình khoa học về xã hội tương lai. Thật vậy, trước khi chuyển hẳn sang quan niệm duy vật về lịch sử, Marx đã sử dụng thuật ngữ “chủ nghĩa nhân đạo hiện thực” do Feuerbach khởi xướng để chỉ một xã hội thực sự bình đẳng và nhân đạo. V ề sau K.Marx thay thuật ngữ này ba thuật ngữ “Chủ nghĩa cộng sản” có sức khái quát cao hơn. Thứ ba, quan niệm về con người trong triết học Feuerbach như đã trình bày ở trên theo đánh giá của A.G.Spirkin "chính là điểm xuất phát cho những lập luận của Mác về con người và bản chất con người". Bởi vì, bằng những quan niệm đó, người khai mở con đường cho chủ nghĩa duy vật nhân bản đã giáng một đòn phá tan mâu thuẫn giữa chủ nghĩa duy vật và chỉ nghĩa duy tâm khách quan c ủa Hêgen, "đưa một cách không úp mở chủ nghĩa duy vật trở lại ngôi vua", ông đã kh ẳng đ ịnh một cách dứt khoát rằng "tự nhiên tồn tại độc lập đối với mọi triết học. Nó là cơ sở trên đó con người chúng ta bản thân chúng ta cũng là một sản phẩm của tự nhiên đã sinh trưởng”. Mác và Ăngghen luôn đánh giá cao tri ết h ọc c ủa Feuerbach nói chung, chủ nghĩa duy vật nhân bản của ông nói riêng, h ọ t ự th ừa nh ận mình là môn đồ của ông, chào đón quan điểm mới đó một cách nhiệt liệt, tin và đi theo Feuerbach với một tinh thần hào hứng, phấn khởi. 15
  16. Thứ tư, những quan niệm của L. Feuerbach nhìn một cách tổng thể khát quát rằng: L. Feuerbach đã đem lại cho nhân loại một cách nhìn mới mẽ về chính bản thân mình. Các nhà triết học duy tâm Đức đều kh ẳng đ ịnh vai trò và v ị trí trung tâm của con người, nhưng chưa có ai chứng minh được nguồn gốc đích thực của nó. Trái lại, L. Feuerbach đã đưa ra những quan điểm về con người hoàn toàn mới: con người cũng như xã hội loài người là một thực th ể, một bộ ph ận c ủa t ự nhiên và là kết quả của quá trình phát triển của tự nhiên đem lại. Trên cơ sở tiếp thu những mặt tích cực, gạt bỏ những vấn đề hạn chế trong triết học con người nói chung, trong triết học L. Feuerbach nói riêng, Mác và Ăngghen đã xây dựng nên học thuyết về con người một cách khoa h ọc. Theo h ọ, con người không phải bước ra từ sâu thẳm của giới tự nhiên thành một sinh th ể t ự nhiên phổ quát như Feuerbach nhận định, mà nó trở thành như vậy trong tiến trình lịch sử. Con người khác vôi động vật trước hết không phải bởi nó có ý th ức nh ư Feuerbach nói, mà bởi sự bắt buộc phải lao động sản xuất nhằm tạo ra cho mình các phương tiện sống. Trong quá trình sản xuất đó, con người khám phá ra s ức mạnh tự nhiên, chuyển nó thành lực lượng lao động xã hội, tạo nên nội dung của lịch sử thế giới. Sự khám phá đó được tiến hành bởi các cá nhân có nh ững nhu c ầu tự nhiên - xã hội xác định và những năng lực hoạt động của họ trong phạm vi những hình thái kinh tế - xã hội được chuyển giao từ thế hệ này qua thế hệ khác. Những năm cuối đời, Ph.Ăngghen đã dành phần lớn thời gian cho việc nghiên cứu triết học Feuerbach, kết quả cụ thể của việc nghiên cứu đó là tác phẩm Ludvig Feuerbach và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức. Trong tác ph ẩm nổi danh này, người kế tục sự nghiệp của Mác phê phán quan điểm duy tâm về lịch sử của Feuerbach: "Chủ nghĩa duy tâm thực sự của Feuerbach - Ăngghen vi ết là ở ch ỗ ông xét các mối quan hệ giữa người và người dựa trên cảm tình đối v ới nhau, nh ư tình yêu nam nữ, tình bạn, lòng thương xót, tinh thần tự hy sinh... Feuerbach cho rằng, những quan hệ ấy chỉ có giá trị đầy đủ, khi người ta đem l ại cho chúng m ột s ự tôn phong tối cao bằng cái tên là tôn giáo". Do dựa trên m ột quan ni ệm duy tâm sai l ầm như vậy, nên "học thuyết của Feuerbach về đạo đức thì cũng gi ống nh ư t ất c ả 16
  17. những học thuyết trước đó. Nó được gọt giũa cho thích hợp với mọi thời kỳ, mọi dân tộc, mọi hoàn cảnh, và chính vì thế mà không bao giờ nó có thể đem áp dụng được ở đâu cả. Và đối với thế giới hiện thực, nó cũng bất lực nh ư cái m ệnh l ệnh tuyệt đối của Kant vậy". Sự bất lực đó của nhà triết học trước thực trạng xã h ội Đức đương thời đã làm cho ông "không tìm thấy con đường thoát kh ỏi v ương qu ốc của sự trừu tượng, mà bản thân ông ghét cay ghét đắng để đi tới hi ện th ực sinh động. Ông bám hết sức chặt lấy giới tự nhiên và con người, song đối với ông, tất cả tự nhiên lẫn con người vẫn chỉ là những danh từ mà thôi. Ông không biết nói với chúng ta một cái gì chính xác về tự nhiên hiện th ực, cũng nhu về con ng ười hi ện thực". Nhưng lịch sử phát triển của nhận thức loài người có tính logic của nó, những gì mà Feuerbach chưa thực hiện đã được Mác triển khai và hoàn thi ện trong các tác phẩm của mình. C. KẾT LUẬN Như vậy, nền triết học mới mà Feuerbach đề cập đến ở đây chính là tri ết h ọc phản ánh chân lý của thời đại, nó đặt ra và lý giải nh ững vấn đề xã h ội đương th ời mà chủ nghĩa duy vật hay chủ nghĩa duy tâm trước ông đều bất lực: "Chân lý không phải là chủ nghĩa duy vật hay chủ nghĩa duy tâm, không phải là sinh lý h ọc hay tâm lý học. Chân lý là nhân bản học". Theo Feuerbach, triết học mới hay tri ết h ọc tương lai sẽ khắc phục được sự khác biệt của mình đối với tôn giáo, s ẽ không còn là thứ triết học nhận thức tư biện, mà trở thành nhân bản h ọc - một h ọc thuy ết toàn diện về con người, về mối quan hệ của nó với thế giới. Trong triết học mới (triết học nhân bản), hình ảnh con người sẽ được trình bày cả trên cơ sở của các dữ liệu khoa họe cũng như trên cơ sở của học thuyết về Chúa. Con người trong 17
  18. nhân bản học không chỉ được hiểu như là một bộ phận của giới t ự nhiên mà còn là một sinh thể tự nhiên toàn năng. Triết học môi có sức mạnh truy tìm lời giải đáp hiện thực để giải quyết mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại. Triết học cũ là h ệ thống triết học gắn liền với thần học, chứng minh cho sự tồn tại h ợp lý của chúa trời, còn triết học mới kết hợp chặt chẽ với khoa h ọc tự nhiên, th ực hi ện s ứ m ệnh cao cả của mình là giúp con người: 1) nhận diện chính mình như một bộ phận, như là cọn đẻ của giới tự nhiên, 2) nhận ra chân giá trị của cuộc sống, 3)nh ằm nỗ lực phấn đấu cho hạnh phúc ngay trong thế giới trần gian. Và để thực hiện đ ược sứ mệnh lịch sử thiêng liêng đó thì "triết học cần thi ết ph ải liên h ệ ch ặt ch ẽ v ới khoa học tự nhiên, còn khoa học tự nhiên phải liên hệ chặt chẽ với triết học". Mặc dù còn nhiều hạn chế, nhưng triết học nhân bản của L. Feuerbach là m ột bước tiến trong lịch sử triết học cổ điển Đức nói riêng, tri ết h ọc nhân lo ại nói chung, là cơ sở trực tiếp để Mác và Ăngghen tiếp thu, cải t ạo đ ể xây d ựng nên quan niệm khoa học về vấn đề con người. 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2