intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài: Sự vận dụng quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở Vieten Nam hiện nay

Chia sẻ: Mai Đức | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:9

177
lượt xem
30
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài: Sự vận dụng quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở Vieten Nam hiện nay bao gồm những nội dung về khái niệm lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, phương thức sản xuất, mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; sự vận dụng quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất ở nước ta.

 

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài: Sự vận dụng quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở Vieten Nam hiện nay

  1. I. ĐẶT VẤN ĐỀ Quy luật quan hệ  sản xuất phù hợp với trình độ  phát triển của lực lượng   sản xuất là quy luật phổ  biến tác động trong toàn bộ  tiến trình lịch sử  nhân  loại. Sự  thay thế, phát triển của lịch sử  nhân loại từ  chế  độ  công xã nguyên  thủy, qua chế  độ  chiếm hữu nô lệ, chế  độ  phong kiến, chế  độ  tư  bản chủ  nghĩa và đến xã hội cộng sản tương lai là do sự tác động của hệ thống các quy  luật xã hội, trong đó quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển   cảu lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất.  Vậy sự vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển  của lực lượng sản xuất của nước ta hiện nay như thế nào? Chúng ta sẽ  cùng  tìm hiểu điều đó thông qua bài luận này. II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Cơ sở lí thuyết 1.1  Khái niệm lực lượng sản xuất Lực lượng sản xuất là toàn bộ  những lực lượng, năng lực của toàn xã hội   (toàn bộ  các nhân tố  vật chất, kỹ  thuật của quá trình sản xuất) để  con người  tiến hành quá trình sản xuất, chúng tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với   nhau tạo ra sức sản xuất làm cải biến các đối tượng trong quá trình sản xuất,   tức tạo ra năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của giới tự  nhiên theo nhu cầu nhất định của con người và toàn xã hội. Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ  giữa con người v ới tự  nhiên,  biểu hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người. Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động (như  năng lực, kỹ  năng, tri   thức,… của người lao động) và tư liệu sản xuất nhất định (như đối tượng lao   động, công cụ lao động, các tư liệu phụ trợ của quá trình sản xuất…) Page | 1 
  2. Trong toàn bộ lực lương sản xuất thì con người là yếu tố quyết định nhất vì  con người là yếu tố  chủ  thể  của mọi quá trình sản xuất, tư  liệu sản xuất là  yếu tố khách thể. Trong quá trình phát triển của nền sản xuất xã hội thì vai trò  của yếu tố con người ngày càng tăng lên. Ngày nay khoa học cũng trở thành lực  lượng sản xuất trực tiếp. Bởi khoa học là cơ  sở  của mọi tiến bộ  kỹ  thuật và   công nghệ khoa học đã thâm nhập vào mọi yếu tố của lực lượng sản xuất. Nó   vừa là ngành sản xuất riêng vừa xâm nhập vào các yếu tố cấu thành lực lượng   sản xuất đem lại sự thay đổi về chất của lực lượng sản xuất. Các yếu tố cấu   thành lực lượng sản xuất tác động lẫn nhau một cách khách quan làm cho lực   lượng sản xuất trở thành một yếu tố động nhất.  Trình độ phát triển sản xuất thể hiện ở trình độ phát triển của con người và  tư liệu sản xuất. 1.2  Khái niệm quan hệ sản xuất Quan hệ  sản xuất là mối quan hệ  kinh tế  giữa người với người trong quá   trình sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng của cải vật chất. Quan hệ  sản  xuất về lĩnh vực đời sống vật chất xã hội do đó nó mang tính khách quan. Quan hệ sản xuất bao gồm: quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ t ổ  chức quản lí sản xuất và quan hệ phân phối sản phẩm.  Ba mặt trên có mối quan hệ biện chứng với nhau, trong đó quan hệ  sở  hữu   về tư liệu sản xuất có ý nghĩa quyết định nhất; nó là cơ  sở  mở đường cho hai   quan hệ  sản xuất kia, quyết định đến tính chất của hai quan hệ  sản xuất đó.  Đồng thời hai quan hệ sản xuất này cũng tác động trở lại quan hệ sản xuất sở  hữu, nếu chúng phù hợp quan hệ  sản xuất sở  hữu thì làm quan hệ  sở  hữu có  nội dung kinh tế thúc đẩy quan hệ sản xuất phát triển và ngược lại. 1.3  Phương thức sản xuất Page | 2 
  3. Phương thức sản xuất là cách thức con người khai thác những của cải vật   chất cần thiết cho hoạt động tồn tại và phát triển của xã hội trong những giai  đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người. Mỗi xã hội được đặc trưng bằng một phương thức sản xuất nhất  định.  Phương thức sản xuất đóng vai trò quyết định đối với tất cả  các mặt của đời   sống xã hội: kinh tế, chính trị, văn hoá, xă hội. Sự thay thế kế tiếp nhau của các   phương thức sản xuất trong lịch sử  quyết định sự  phát triển của xă hội loài  người từ thấp đến cao. Phương thức sản xuất chính là sự  thống nhất và tác động qua lại giữa lực   lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng. 1.4  Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ  sản  xuất Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ  sản xuất là mối quan hệ   thống nhất biện chứng, trong đó lực lượng sản xuất quyết định quan hệ  sản   xuất và quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất. Điểm thống nhất thể hiện  ở chỗ chúng là hai mặt cơ bản, tất yếu của quá   trình sản xuất; lực lượng sản xuất là nội dung vật chất của quá trình sản xuất,   quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của quá trình sản xuất đó.  Biện chứng ở chỗ lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, quan hệ  sản xuất phải phù hợp với trình độ  phát triển của lực lượng sản xuất thì lực  lượng sản xuất mới tồn tại và phát triển được; thực trạng của lực lượng sản   xuất như thế nào yêu cầu phải có quan hệ  sản xuất phù hợp với thực trạng đó   thì mới tồn tại và phát triển. Quan hệ  sản xuất tác động lại lực lượng sản xuất theo hai hướng. Nhóm   phù hợp với lực lượng sản xuất thì thúc đẩy lực lượng sả  xuất phát triển,   nhóm không phù hợp thì cản trở, hạn chế sự phát triển của lực lượng sản xuất. Page | 3 
  4.  Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ   giữa nội dung và hình thức. Lực lượng sản xuất là yếu tố  động nhất, cách mạng nhất, luôn luôn vận  động và biến đổi trong quá trình lịch sử, nhất là công cụ lao động; quan hệ sản  xuất có tính chất tương đối  ổn định, bền vững, chậm thay đổi. Đến một lúc  nào đó, lực lượng sản xuất mâu thuẫn với quan hệ sản xuất hiện có; quan hệ  sản xuất từ chỗ là hình thức cần thiết, phù hợp cho sự phát triển của lực lượng  sản xuất lại trở thành hình thức kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất;   lực lượng sản xuất đòi hỏi phải phá vỡ quan hệ sản xuất  cũ để thiết lập một  quan hệ  sản xuất mới cao hơn, phù hợp với trình độ  phát triển của lực lượng   sản xuất. Sự thiết lập quan hệ sản xuất mới đó thông qua cuộc cách mạng xã  hội.  Khi một quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ  phát triển mới của lực  lượng sản xuất được thiết lập thì một phương thức sản xuất mới ra đời và cứ  như thế, lịch sử loài người là lịch sử thay thế thay thế và kế  tiếp nhau của các  hình thức sản xuất. Phương thức sản xuất sau cao hơn phương thức sản xuất   trước.        Như vậy, mâu thuẫn và sự mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan   hệ  sản xuất chính là nội dung cơ  bản của quy luật quan hệ  sản xuất phù hợp  với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Chính sự tác động của quy luật   này tạo ra nguồn gốc và động lực cơ  bản nhất đối với sự  vận động và phát  triển của toàn bộ đời sống xã hội. 2. Sự  vận dụng quan hệ  sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất  ở   nước ta 2.1  Quá trình vân dụng trong thực tế của nước ta trước năm 1986 Page | 4 
  5. Nước ta vốn là một nước nông nghiệp lạc hậu, lại bị  chiến tranh tàn phá   nặng nề  nên nền kinh tế  lại càng rơi vào kiệt quệ. Đảng và Nhà nước đứng  đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề  ra được những chính sách nhằm khôi phục   kinh tế và hàn gắn vết thương chiến tranh, phát triển văn hóa – xã hội… Sau cuộc cải cách ruộng đất, kinh tế nước ta đã có bước chuyển biến đáng  kể, đời sống nhân dân được cải thiện, ăn đủ no, mặc đủ ấm, quan trọng nhất là   chúng ta đã xây dựng được một nền công nghiệp nặng vô cùng hùng hậu làm  nền tảng cho công cuộc xây dựng chủ  nghĩa xã hội  ở  nước ta như: Xí nghiệp   gang thép Thái Nguyên, nhà máy xe đạp Hà Nội, nhà máy Pin Văn Điển…  Nhà nước ta đã dùng sức mạnh chính trị tư tưởng đê xóa bỏ nhanh chế độ tư  hữu chuyển sang chế độ công hữu với hai hình thức toàn dân và tập thể, lúc đó   được coi là điều kiện chủ  yếu, quyết định, tính chất, trình độ  xã hội hóa sản   xuất cũng như  sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội oẳ  nước ta. Song trong thực   tế cách làm này không mang lại kết quả như mong muốn vì nó trái với quy luật  quan hệ  sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ  của lực lượng sản   xuất, và nó đã để lại những hậu quả xấu đối với những người sản xuất và nền  kinh tế quốc doanh. Đây cũng là căn nguyên nảy sinh tiêu cực trong phân phối,  chỉ  có một số  người có  quyền định đoạt phân phối vật tư, vật phẩm,  đặc  quyền, đặc lợi. Nền kinh tế  thủ  công phổ  biến, mới bắt đầu xuất hiện một số  ngành sản  xuất tự động. Tuy vậy, nền kinh tế vẫn trong trình độ rất thấp. Vì thế cần tìm  mọi cách để đưa lực lượng sản xuất đi lên, nên cần công nghiệp hóa nền kinh   tế nước ta. 2.2  Quá trình vân dụng trong thực tế của nước ta sau năm 1986 tới nay  Đại hội Đảng lần thứ VI đã đề ra chính sách phát triển kinh tế cũng như xác   định con đường chính trị của nước ta. Nước ta tiếp tục đi theo con đường của  Page | 5 
  6. Liên Xô (cũ) là tiến lên chế  độ  Cộng sản chủ  nghĩa mà thời đoạn đầu tiên là  tiến lên chủ  nghĩa xã hội. Nhưng vì nước ta vừa thoát khỏi chiến tranh, nền   kinh tế vốn đã nghèo nàn lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, nên lực lượng sản  xuất thì yếu kém, quan hệ  sản xuất thì lỗi thời lạc hậu, nền kinh tế  nước ta  đứng sau rất xa so với thế giới. chính vì thế, Đảng ta chủ trương chính sách “ đi   tắt đón đầu” để nhanh chóng theo kịp các nước khác trên thế giới cùng tiến lên   Cộng sản chủ nghĩa như nước ta thời kì đó.  Đại hội Đảng lần thứ  VI năm 1986 đã chủ  trương phát triển nền kinh tế  nhiều thành phần là rất đúng đắn, bởi đường lối đó xuất phát từ  trình độ  và  tính chất của lực lượng sản xuất  ở nước ta vừa thấp, v ừa không đồng đều nên  không thể  nóng vội mà nhất loạt xây dựng quan hệ  sản xuất một thành phần  dựa trên cơ sở chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất như trước  Đại hội VI. Làm như vậy là đẩy quan hệ sản xuất đi quá xa so với trình độ lực   lượng sản xuất. Mở  ra nền kinh tế  nhiều thành phần đã khơi dậy tiềm năng  của sản xuất, khơi dậy năng lực sáng tạo, chủ  động của các chủ  thể  lao động  trong sản xuất kinh doanh thúc đẩy sản xuất phát triển. Ngay trong nội hàm nền kinh tế nhiều thành phần đã chứa đựng nhiều mâu  thuẫn như  có những thành phần kinh tế  vì lợi ích của mình có thể  hoạt động   theo hướng tư bản chủ nghĩa; nền kinh tế quốc doanh, tập thể mang tính chất   xã hội chủ nghĩa nhưng chưa thích nghi được với cơ chế thị trường nên làm ăn  kém hiệu quả, vì vậy ở  đây diễn ra cuộc đấu tranh “định hướng” gay gắt. bởi   thế, để thực hiện sự định hướng Xã hội chủ nghĩa trong điều kiện nền kinh tế  nhiều thành phần thì sự lãnh đạo của Đảng và  quản lý của Nhà nước giữ  vai   trò quyết định. Để  thực hiện chính sách phát triển đất nước bằng con đường “đi tắt đón  đầu”, nước ta đã đề ra và phấn đấu trở thành một nước công nghiệp hóa – hiện   Page | 6 
  7. đại hóa, mà trong thời kì hiện nay thì mục tiêu cụ thể là nước ta trở thành một  nước công nghiệp hiện đại vào năm 2020. Trong thời kỳ quá độ đi lên Xã hội chủ nghĩa, nước ta vẫn đnag là một nước   đang phát triển và kém khá xa so với những thành tựu mà thế  giới đạt được.  Tuy nhiên, nhờ chính sách phát triển đất nước của Đảng và Nhà nước, việc áp  dụng khá tốt các thành tựu khoa học – công nghệ và ứng dụng những thành tựu  của thế  giới trong công cuộc thực hiện công nghiệp hóa – hiện đại hóa, xây  dựng cơ sở hạ tầng thì nền kinh tế  nước ta đã có những bước phát triển đáng   kể. Ở nước ta hiện nay phát triển kinh tế tập trung ở hai lực lượng chính là lực  lượng sản xuất của doanh nghiệp Nhà nước và lực lượng sản xuất ngoài quốc   doanh. Kiểu quan hệ  sản xuất – quan hệ sở hữu này hay quan hệ  sở  hữu khác tùy  thuộc vào tính chất và trình độ lực lượng sản xuất. Ở nước ta hiện nay có trình   độ lực lượng sản xuất còn thấp lại không đồng đều giữa các ngành, các vùng.  Do vậy, tất yếu phải tồn tại nhiều hình thức sở  hữu, trong đó có sở  hữu tư  nhân về tư liệu sản xuất, nên chưa thể đặt vấn đề xóa ngay mọi hình thức bóc  lột. chỉ đến khi trình độ  xã hội hóa sản xuất phát triển cao mâu thuẫn với chế  độ sở  hữu tư nhân về  tư liệu sản xuất, thì khi ấy mới có điều kiện chin muồi   thực hiện cuộc cách mạng xây dựng xã hội không còn bóc lột. Chúng ta không   thể thủ tiêu chế độ sở hữu ngay lập tức mà chỉ có thể thực hiện dần dần,và chỉ  khi nào đã tạo được một lực lượng sản xuất hiện đại, xã hội hóa cao với năng  xuất lao động rất cao thì khi đó mới xóa bỏ được chế độ tư hữu. Điểm nổi bật lên là nền kinh tế của chúng ta còn quá nghèo nàn, vì vậy khâu   trọng yếu mà chúng ta phải xây dựng đó là phát triển lực lượng sản xuất, đẩy  mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng cơ  sở  vật chất cho  Page | 7 
  8. chủ  nghĩa xã hội. Đồng thời phải xây dựng nền kinh tế  nhiều thành phần   (nhiều hình thức sở hữu đan xen nhau) là phù hợp với yêu cầu phát triển mạnh   mẽ cảu lực lượng sản xuất của nước ta hiện nay. Cùng với đó là không ngừng   đổi mới chính trị, củng cố tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, xây dựng Nhà  nước pháp quyền xã hội chủ  nghĩa. Xây dựng đời sống văn hóa, nâng cao đời   sống tinh thần cho nhân dân, đẩy mạnh sự  nghiệp giáo dục và đào tạo. thực  hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. III. KẾT LUẬN Trong quá trình lãnh đạo xã hội đẩy mạnh phát triển kinh tế Đảng ta đã vận  dụng quy luật sao cho quan hệ sản xuất luôn luôn phù hợp với tính chất và trình   độ của lực lượng sản xuất, trên thực tế, Đảng và Nhà nước ta đang từng bước   điều chỉnh quan hệ sản xuất cả tầm vĩ mô và quy mô, đồng thời coi trọng việc   đẩy mạnh phát triển lực lượng sản xuất.                  DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ  Giào dục và Đào tạo, giáo trình “Những nguyên lý cơ  bản của   chủ nghĩa Mác – Lê­nin”, NXB. Chính trị Quốc gia, 2009 2. Bộ  giáo dục đào tạo, Giáo trình “Triết học Mác – Lê­nin”, NXB.  Chính trị quốc gia, 2004 3. PGS. TS. Trần Văn Phòng – PGS. TS. An Như Hải – PGS. TS. Đỗ  Thị Thạch, “Hỏi – đáp Môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác –   Lê­nin”, NXB. Đại học quốc gia Hà Nội, 2011 Page | 8 
  9. 4. Bạch Đăng Minh, “Những nội dung cơ bản của triết học Mác – Lê­ nin”, NXB. Chính trị quốc gia, 1997 5. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh “ hỏi – đáp về Triết học”,  Hà Nội – 1995 6.  http://www.wattpad.com/226000  7.  http://www.lichsuvn.info/forum/showthread.php?t=3894  8.  http://www.doko.vn/luan­van/Van­dung­quy­luat­ve­su­phu­hop­  cua­quan­he­san­xuat­voi­tinh­chat­va­trinh­do­phat­trien­cua­luc­luong­ san­xuat­vao­qua­trinh­pha­53597 Page | 9 
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2