intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề Tài:Thực trạng đầu tư của Intel vào Việt Nam

Chia sẻ: Pham Ngoc Linhdan | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:43

185
lượt xem
54
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Hiện nay,thế giới đang bước sang giai đoạn toàn cầu hóa mạnh mẽ, hội nhập sâu và rộng. Những ảnh hưởng ngày càng lan rộng của các Công ty đa quốc gia cùng với phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ đã thúc đẩy cả xã hội cùng chạy đua trên con đường phát triển. Quá trình chuyên môn hóa, hợp tác hóa ngày càng được chuyên sâu góp phần tăng tổng sản phẩm toàn xã hội. Để hội nhập với nền kinh tế thế giới, chúng ta cũng phải có những sự chuyển mình để không...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề Tài:Thực trạng đầu tư của Intel vào Việt Nam

  1. BÀI LUẬN Đề Tài: Thực trạng đầu tư của Intel vào Việt Nam GVHD: Phùng Nam Phương SVTH: Nguyễn Thanh Thôi 1
  2. MỤC LỤC Lời mở đầu ....................................................................................................................... Chương 1 : ....................................................................................................................... Lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài .................................................................. 1.1.Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài ....................................................................... 1.2.Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài ...................................................................... 1.3.Phân loại đầu tư trực tiếp nước ngoài ......................................................................... 1.4.Ưu & nhược điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài .................................................... Chương 2 : ........................................................................................................................ Tổng Quan Về Tập Đoàn Intel ......................................................................................... 2.1.Tập đoàn Intel ............................................................................................................. 2.2.Intel Việt Nam ............................................................................................................ 2.3.Ngành nghề kinh doanh .............................................................................................. 2.4.Quá trình phát triển ..................................................................................................... 2.5.Vị thế của tập đoàn Intel trên thế giới ........................................................................ Chương 3: ......................................................................................................................... Thực trạng đầu tư của Intel tại Việt Nam ......................................................................... 3.1.Khái quát về môi trường đầu tư Việt Nam ................................................................. 3.1.1.Vị trí địa lý............................................................................................................... 3.1.2.Hệ thống chính trị .................................................................................................... 3.1.3.Tổng quan thị trường Việt Nam .............................................................................. 3.2.Tình hình đầu tư của tập đoàn Intel vào Việt Nam .................................................... 3.2.1.Tình hình đầu tư ...................................................................................................... 3.2.2.Những chính sách kinh doanh tại Việt Nam ........................................................... 3.2.3.Thuận lợi và khó khăn khi đầu tư vào Việt Nam .................................................... 3.2.3.1.Thuận lợi............................................................................................................... 3.2.3.2.Khó khăn............................................................................................................... 3.3.Đánh giá hoạt động đầu tư của Intel vào Việt Nam 3.3.1.Ưu điểm 3.3.2.Nhược điểm 2
  3. Kết luận............................................................................................................................. Trích dẫn ........................................................................................................................... Lời Mở Đầu : Hiện nay,thế giới đang bước sang giai đoạn toàn cầu hóa mạnh mẽ, hội nhập sâu và rộng. Những ảnh hưởng ngày càng lan rộng của các Công ty đa quốc gia cùng với phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ đã thúc đẩy cả xã hội cùng chạy đua trên con đường phát triển. Quá trình chuyên môn hóa, hợp tác hóa ngày càng được chuyên sâu góp phần tăng tổng sản phẩm toàn xã hội. Để hội nhập với nền kinh tế thế giới, chúng ta cũng phải có những sự chuyển mình để không bị gạt ra khỏi vòng quay của sự phát triển. Trong bối cảnh đó, xu hướng mở cửa, hợp tác kinh tế với các nước là một quan điểm nổi bật của chính phủ ta. Thể hiện điều này ngày 19/12/1987 Quốc Hội ta đã thông qua luật đàu tư trực tiếp nước ngoài, cho phép các tổ chức, cá nhân là người nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Xét về tiêu chí phát triển năng động, Việt Nam là một trong 10 quốc gia dẫn đầu thế giới. Vài năm trước, tăng trưởng GDP trung bình hàng năm của Việt Nam là 8% (hiện là 6,8%). Tốc độ tăng trưởng cao là nhờ tiến trình công nghiệp hóa của đất nước với điểm nhấn là các ngành sản xuất tiên tiến như điện tử, công nghệ sinh học…Ngoài ra, một yếu tố không kém phần quan trọng để các nhà đầu tư chọn Việt Nam là sự ổn định về chính trị và xã hội. Nếu thời kỳ đầu những năm 1990, tỷ lệ nghèo đói ở Việt Nam chiếm 58% dân số, thì đến năm 2010, con số này chỉ còn 9,5%. Trong bảng xếp hạng tín nhiệm của Viện Nghiên cứu độc lập Legatum có trụ sở ở Dubai, về mức sống, năm 2011 Việt Nam xếp thứ 61 (tăng 16 bậc so với năm 2010).Việt Nam còn hấp dẫn giới đầu tư bởi chính sách thuế ưu đãi và thị trường lao động dồi dào. Chuyên viên Vladislav Belov thuộc Viện Nghiên cứu châu Âu (Viện Hàn lâm Khoa học Nga) cho rằng Việt Nam không chỉ có lợi thế giá nhân công thấp mà còn có lao động chất lượng cao.“Các nhà đầu tư châu Âu đều cho rằng Việt Nam có lực lượng lao động mang tính sáng tạo cao hơn so với nhiều quốc gia trong khu vực. Theo nhiều chuyên viên Đức, khi cộng tác với người Việt Nam, họ thường nảy sinh nhiều ý tưởng kinh doanh mới mẻ. Trong khi đó, các cấp quản lý tại Việt Nam dành cho nhà đầu tư nước 3
  4. ngoài ngày càng nhiều cơ hội, không chỉ với những cơ sở 100% vốn nước ngoài, mà cả với những đơn vị liên doanh khác”, ông Belov nói. Chính vì lý do trên,Tập đoàn Intel,một tập đoàn sản xuất chip hàng đầu của thế giới,đã đầu tư vào Việt Nam với tổng vốn đầu tư lên đến 1 tỷ USD.Đây là tập đoàn đầu tư với số vốn lớn nhất trong các doanh nghiệp Mỹ đầu tư vào Việt Nam từ trước đến nay. Cũng vì những lý do trên,tôi đã quyết định chọn đề tài “Thực trạng đầu tư của Tập đoàn Intel vào Việt Nam” để tìm hiểu về tập đoàn Intel cũng như những khó khăn,thuận lợi khi Intel đầu tư vào Việt Nam. Kết cấu đề tài: Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và mục lục, đề án gồm 3 chương: Chương 1: Lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài Chương 2: Tổng quan về Tập đoàn Intel Chương 3: Thực trạng đầu tư của Intel tại Việt Nam Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng do kiến thức còn hạn hẹp nên trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu đề tài không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong nhận được sự góp ý của các thầy cô để đề tài ngày một hoàn thiện hơn. Qua đây, tôi xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo trường Đại học Kinh tế - Đại học Đà Nẵng đã giảng dạy, cung cấp cho tôi những kiến thức quý báu về kinh tế quốc tế, xã hội, đầu tư quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi để tôi có thể thực hiện đề tài. Đặc biệt tôi xin chân thành cảm ơn cô Phùng Nam Phương, giảng viên Khoa Thương mại – Du lịch, thời gian qua đã tận tình hướng dẫn, truyền đạt kinh nghiệm giúp cho tôi có thể hoàn thành tốt đề tài này. Xin chân thành cảm ơn ! Đà Nẵng, ngày 25 tháng 4 năm 2012. 4
  5. Chương 1: Lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài 1.1.Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài. Theo quỹ tiền tệ quốc tế IMF, FDI được định nghĩa là “một khoản đầu tư với những quan hệ lâu dài, theo đó một tổ chức trong một nền kinh thế (nhà đầu tư trực tiếp) thu được lợi ích lâu dài từ một doanh nghiệp đặt tại một nền kinh tế khác. Mục đích của nhà đầu tư trực tiếp là muốn có nhiều ảnh hưởng trong việc quản lý doanh nghiệp đặt tại nền kinh tế khác đó.” Hội nghị Liên Hợp Quốc về TM và Phát triển UNCTAD cũng đưa ra một khái niệm về FDI. Theo đó, luồng vốn FDI bao gồm vốn được cung cấp (trực tiếp hoặc thông qua các công ty liên quan khác) bởi nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài cho các doanh nghiệp FDI, hoặc vốn mà nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài nhận được từ doanh nghiệp FDI. FDI gồm có ba bộ phận: vốn cổ phần, thu nhập tái đầu tư và các khoản vay trong nội bộ công ty. Các nhà kinh tế quốc tế định nghĩa : đầu tư trực tiếp nước ngoài là người sở hữu tại nước này mua hoặc kiểm soát một thực thể kinh tế của nước khác. Đó là một khoản tiền mà nhà đầu tư trả cho một thực thể kinh tế của nước ngoài để có ảnh hưởng quyết định đổi với thực thể kinh tế ấy hoặc tăng thêm quyền kiểm soát trong thực thể kinh tế ấy.Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 đưa ra khái niệm: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc tổ chức, cá nhân nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bất kì tài sản nào được chính phủ Việt Nam chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài theo quy định của luật này”. Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) đưa ra khái niệm: “ một doanh nghiệp đầu tư trực tiếp là một DN có tư cách pháp nhân hoặc không có tư cách pháp nhân trong đó nhà đầu tư trực tiếp sở hữu ít nhất 10% cổ phiếu thường hoặc có quyền biểu quyết. Điểm mấu chốt của đầu tư trực tiếp là chủ định thực hiện quyền kiểm soát công ty”. Tuy nhiên không phải tất cả các quốc gia, đều sử dụng mức 10% làm mốc xác định FDI. Trong thực tế có những trường hợp tỷ lệ sở hữu tài sản trong doanh nghiệp của chủ đầu tư nhỏ hơn 10% nhưng họ vẫn được quyền điều hành quản lý doanh nghiệp, trong khi nhiều lúc lớn hơn nhưng vẫn chỉ là người đầu tư gián tiếp. 5
  6. Từ những khái niệm trên có thể hiểu một cách khái quát về đầu tư trực tiếp nước ngoài như sau: “đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI tại một quốc gia là việc nhà đầu tư ở một nươc khác đưa vốn bằng tiền hoặc bất kì tài sản nào vào quốc gia đó để có được quyền sở hữu và quản lý hoặc quyền kiểm soát một thực thể kinh tế tại quốc gia đó, với mục tiêu tối đa hoá lợi ích của mình”. Tài sản trong khái niệm này, theo thông lệ quốc tế, có thể là tài sản hữu hình (máy móc, thiết bị, quy trình công nghệ, bất động sản, các loại hợp đồng và giấy phép có giá trị …), tài sản vô hình (quyền sở hữu tí tuệ, bí quyết và kinh nghiệm quản lý…) hoặc tài sản tài chính (cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, giấy ghi nợ…). Như vậy FDI bao giờ cũng là một dạng quan hệ kinh tế có nhân tố nước ngoài. Hai đặc điểm cơ bản của FDI là: có sự dịch chuyển tư bản trong phạm vi quốc tế và chủ đầu tư (pháp nhân, thể nhân) trực tiếp tham gia vào hoạt động sử dụng vốn và quản lí đối tượng đầu tư. 1.2.Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài. 1.2.1.Đối với nước chủ đầu tư Giúp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư thông qua việc sử dụng những lợi thế sản xuất của nơi tiếp nhận đầu tư, giúp hạ giá thành sản phẩm và nâng cao tỷ suất lợi nhuận của vốn đầu tư. Xây dựng thị trường cung cấp nguyên vật liệu ổn định với giá phải chăng, ví dụ nhờ có đầu tư nước ngoài mà Mỹ nhập khẩu ổn định toàn bộ phốt phát, đồng, thiết, ¾ quặng sắt , mangan v.v… Bành trướng sức mạnh về kinh tế và nâng cao uy tín chính trị trên trường quốc tế: thông qua việc xây dựng nhà máy sản xuất và thị trường tiêu thụ ở nước ngoài, mà các nước xuất khẩu vốn mở rộng được thị trường tiêu thụ, tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch của các nước. Các công ty đa quốc gia và xuyên quốc gia lợi dụng cơ chế quản lý thuế ở các nước khác nhau, mà tổ chức đầu tư ở nhiều nước khác nhau, qua đó thực hiện “chuyển giá” nhằm trốn thuế, tăng lợi nhuận cho công ty. Đầu tư vốn ra nước ngoài giúp các chủ vốn đầu tư phân tán rủi ro do tình hình kinh tế-chính trị trong nước bất ổn định.Làn sóng đầu tư mạnh mẽ của nhà doanh nghiệp Hongkong, Macao, Đài Loan sang các nước công nghiệp phát triển nhằm đề 6
  7. phòng những thay đổi lớn về quản lý kinh doanh sau khi có sự cố sáp nhập của các nước này vào Trung Quốc vào cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21. Đầu tư ra nước ngoài sẽ giúp thay đổi cơ cấu nền kinh tế trong nước heo hướng hiệu quả hơn, thích nghi hơn với sự phân công lao động khu vực và quốc tế mới.Trong 20 năm 1975-1995 khi đồng Yên tăng giá và việc di chuyển sản xuất của các công ty Nhật Bản ra nước ngoài đã tạo điều kiện tốt hơn cho việc liên kết theo chiều ngang trong khu vực.Trong đó, các công ty mẹ ở Nhật Bản chỉ tập trung sản xuất vào các mặt hàng cao cấp, những thiết bị cần thiết để cung cấp cho các chi nhánh của họ ở khắp châu Á, và những khâu kĩ thuật cao đòi hỏi phải có sự nghiên cứu, còn các chi nhánh và hợp doanh đang ngày càng được phát triển tại các nước trong khu vực sẽ được hướng vào sản xuất các mặt hàng cần nhiều lao động, kỹ thuật ở trình độ vừa và thấp, để thay thế cho hàng xuất khẩu từ Nhật Bản, phục vụ cho thị trường địa phương, cung cấp lẫn nhau,xuất khẩu sang nước thứ ba và ngược trở lại Nhật Bản. 1.2.2.Đối với nước nhận đầu tư. 1.2.2.1.Đối với các nước phát triển Giúp giải quyết những vấn đề khó khăn về kinh tế, xã hội trong nước như: thất nghiệp, lạm phát v.v… Việc mua lại những công ty, xí nghiệp có nguy cơ bị phá sản giúp cải thiện tình hình thanh toán, tạo công ăn việc làm mới cho người lao động. Tăng thu ngân sách dưới hình thức các loại thuế để cải thiện tình hình bội chi ngân sách của nước sở tại. Tạo ra môi trường cạnh tranh để thúc đẩy sự phát triển kinh tế và thương mại của nước sở tại. Giúp các nhà doanh nghiệp học hỏi kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước đầu tư. 1.2.2.2.Đối với các nước chậm và đang phát triển Đẩy mạnh tốc độ phát triển nền kinh tế thông qua việc tạo ra những xí nghiệp mới hoặc tăng quy mô của các đơn vị kinh tế. Thu hút thêm lao động giải quyết một phần thất nghiệp của các nước này.Theo thống kê của Liên hiệp quốc, số người thất nghiệp và bán thất nghiệp của các nước chậm và đang phát triển khoảng 35-38% tổng số lao động, cho nên hàng vạn 7
  8. xí nghiệp có vốn FDI hoạt động tại các nước đang phát triển giúp các nước này giải quyết một phần nạn thất nghiệp.Ví dụ như Trung Quốc tính đến tháng 9/2002 chỉ riêng lĩnh vực đầu tư FDI nhà nước đã phê chuẩn hơn 414.000 dự án với tổng số vốn đăng ký là 813,66 tỷ USD, trong đó vốn đầu tư đã thực hiện là 434,78 tỷ USD, giải quyết việc làm cho hàng triệu lao động Trung Quốc.Hay ở Việt Nam kể từ khi có luật đầu tư nước ngoài 12/1987 đến hết năm 2002 đã cấp giấy phép cho 4582 dự án với tổng sô vốn đăng ký 50,3 tỷ USD, giải quyết công ăn việc làm cho gần 400.000 lao động. Các dự án FDI góp phần tạo ra môi trường cạnh tranh, là động lực kích thích nền kinh tế tăng trưởng về lượng cũng như về chất. Giúp các nước chậm phát triển giảm một phần nợ nước ngoài.Số nợ hiện nay khoảng 1500 tỷ USD. Ngoài ra thông qua tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài, các nước đang phát triển có điều kiện tiếp nhận kỹ thuật, công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngoài. 1.3.Phân loại đầu tư trực tiếp nước ngoài. 1.3.1.Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh 1.3.1.1.Khái niệm: Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản ký kết giữa 2 bên hoặc nhiều hoặc nhiều bên để tiến hành đầu tư, kinh doanh ở Việt Nam, trong đó có quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh ở Việt Nam, trong đó quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên mà không thành lập pháp nhân mới.Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được hợp tác với tổ chức, cá nhân nước ngoài để thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh. 1.3.1.2.Ưu điểm Hình thức đầu tư theo hợp đồng BCC có thể giúp các nhà đầu tư tiết kiệm rất nhiều thời gian, công sức cũng như tài chính trong việc thành lập pháp nhân mới cũng như chi phí vận hành doanh nghiệp sau khi nó được thành lập, khi dự án đầu tư kết thúc, các nhà đầu tư cũng không phải tiến hành thủ tục giải thể doanh nghiệp. Vì vậy, hình thức này luôn là ưu tiên số một cho các dự án đầu tư các khu chung cư tại các thành phố lớn vì khi dự án kết thúc, các bên phân chia xong lợi nhuận thì không 8
  9. cần phải tính đến chuyện làm thủ tục giải thể doanh nghiệp nếu như các nhà đầu tư lựa chọn hình thức đầu tư khác. Ngoài ra, trong các dự án đầu tư trên, khi các nhà đầu tư đã lựa chọn hình thức đầu tư theo hợp đồng BCC thì ngay khi các khu chung cư hoàn thành, các bên có thể ngay lập tức bán phần của mình như thỏa thuận phân chia mà không phụ thuộc vào các đối tác còn lại. Với hình thức đầu tư này, các bên có thể hỗ trợ lẫn nhau những thiếu sót, yếu điểm của nhau trong quá trình sản xuất kinh doanh. Ví dụ như đối với những thị trường đầu tư còn mới mẻ, nhà đầu tư nước ngoài sẽ dễ dàng tiếp cận thông qua những đối tác trong nước am hiểu thị trường. Còn các nhà đầu tư trong nước thì có thể được các đối tác nước ngoài hỗ trợ về vốn, nhân lực, công nghệ hiện đại. Như vậy, đối với các nhà đầu tư có thể nói là “đôi bên cùng có lợi” Trong quá trình thực hiện hợp đồng, nhà đầu tư nhân danh tư cách pháp lý độc lập của mình để chủ động thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ. Do đó, nhà đầu tư sẽ rất linh hoạt, độc lập, ít lệ thuộc vào đối tác khi quyết định các vấn đề của dự án đầu tư. Nếu như đối với các hình thức đầu tư phải thành lập một pháp nhân mới, các nhà đầu tư căn cứ trên phần vốn mà mỗi bên bỏ ra để lựa chọn một hoặc một nhóm người đứng đầu, lãnh đạo công ty. Như vậy, những nhà đầu tư có nguồn vốn ít sẽ có ít cơ hội được nắm quản lý, không chủ động trong việc cũng như với số vốn mà họ đã bỏ ra, họ giống như một “chủ nợ” hơn là một nhà đầu tư. Nhưng đối với hình thức đầu tư này, với cơ chế đàm phán để chia sẻ lợi ích cũng như nghĩa vụ trong hoạt động đầu tư, các nhà đầu tư có thể linh hoạt trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình như trong hợp đồng do không có sự ràng buộc về tổ chức bằng một pháp nhân chung của các tổ chức, cá nhân có quan hệ đầu tư với nhau. Do đó, hình thức đầu tư này đã góp phần đáp ứng tốt hơn yêu cầu và sự lựa chọn của nhiều nhà đầu tư khác nhau. 1.3.1.3.Nhược điểm Việc không thành lập pháp nhân mới như phân tích ở trên là một trong những ưu điểm nổi bật nhưng nó cũng chính là mặt hạn chế của hình thức đầu tư này. Chính vì không thành lập một doanh nghiệp mới, do đó dự án đầu tư sẽ gặp khó khăn khi thực hiện các hợp đồng phục vụ cho hợp đồng hợp tác kinh doanh. Cũng chính vì không có một doanh nghiệp liên doanh mới ra đời giữa các nhà đầu tư, do đó, sẽ 9
  10. không có con dấu riêng, và đương nhiên, các nhà đầu tư sẽ phải thỏa thuận lựa chọn một trong con dấu của các nhà đầu tư để phục vụ cho các hoạt động của dự án đầu tư. Việc không phải thành lập pháp nhân mới trong nhiều trường hợp nếu các nhà đầu tư không nghiên cứu kỹ, lựa chọn sai hình thức đầu tư thì nó lại trở thành một hạn chế rất lớn, gây ra nhiều rủi ro mà các nhà đầu tư không lường trước được. Có thể xem trong một ví dụ điển hình trong một dự án đầu tư kinh doanh trường đua ngựa giữa công ty Thiên Mã và Câu lạc bộ Phú Thọ. Việc “mượn” pháp nhân trong dự án đầu tư này đã gây ra không ít rắc rối cho các nhà đầu tư, nhất là trong việc đối ngoại, phân chia lợi nhuận cũng như quyền quản lý công ty. Công ty Thiên Mã, người trực tiếp bỏ tiền ra, thì cảm thấy bị trói buộc, không chủ động vì mọi việc đều phải thông qua con dấu của đối tác. Ngược lại, Câu lạc bộ Phú Thọ thì mang nỗi lo về trách nhiệm của người trực tiếp đóng con dấu. Đó là chưa kể đến trường hợp nếu do bất đồng mà một bên không cho sử dụng con dấu như đã thỏa thuận thì điều gì sẽ xảy ra? Đương nhiên, dự án sẽ phải dừng lại. Ngoài ra, nếu thành lập một pháp nhân mới thì quyền quản lý pháp nhân mới đó sẽ được phân chia theo tỷ lệ số vốn góp do các nhà đầu tư bỏ ra. Nhưng vì không có doanh nghiệp mới ra đời, do đó, quyền quản lý dự án đầu tư sẽ được chia đều cho tất cả các nhà đầu tư, như vậy sẽ có lợi cho các nhà đầu tư bỏ ra ít vốn hơn nhưng lại không công bằng với các nhà đầu tư bỏ nhiều vốn hơn. Pháp luật chưa có các quy định cụ thể về trách nhiệm của các bên và bên thứ ba khi một bên giao kết hợp đồng với bên thứ ba trong quá trình thực hiện hợp đồng BCC. Đây cũng là một hạn chế cần phải chú ý tới nếu các bên lựa chọn hình thức đầu tư này. 1.3.2.Doanh nghiệp liên doanh 1.3.2.1.Khái niệm: Là hình thức đầu tư mà một doanh nghiệp mới được thành lập trên cơ sở góp vốn của 2 hoặc nhiều hơn 2 bên Việt Nam và nước ngoài. 1.3.2.2.Ưu điểm Doanh nghiệp liên doanh là hình thức doanh nghiệp thực sự đem lại nhiều lợi thế cho cả nhà đầu tư Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài. Đối với các nhà đầu tư Việt Nam, khi tham gia doanh nghiệp liên doanh, ngoài việc tượng phân chia lợi nhuận theo tỷ lệ vốn góp, nhà đầu tư việt nam còn có điều kiện tiếp cận với công nghệ hiện 10
  11. đại, phong cách và trình độ quản lý kinh tế tiên tiến. đối với bên nước ngoài, lợi thế được hưởng là được đảm bảo khả năng thành công cao hơn do môi trường kinh doanh, pháp lý hoàn toàn xa lạ nêu không có bên việt nam thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn. 1.3.2.3.Nhược điểm Hình thức doanh nghiệp liên doanh cũng có sự bất lợi là có sự ràng buộc chặt chẽ trong một pháp nhân chung giữa các bên hoàn toàn khác nhau không chỉ về ngôn ngữ mà còn về truyền thống, phong tục, tập quán, phong cách kinh doanh, do vậy có thể phát sinh những mâu thuẫn không dễ gì giải quyết. 1.3.3.Hợp đồng xây dựng-kinh doanh-chuyển giao( BOT,BTO,BT) 1.3.3.1. Hợp đồng BOT Là hình thức đâu tư liên kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong một thời gian nhất định; hết thời hạn, nhà đầu tư chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho Nhà nước Việt Nam. 1.3.3.2.Hợp đồng BTO Là hình thức đâu tư liên kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam, Chính phủ dành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong một thời gian nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận. 1.3.3.3.Hợp đồng BT Là hình thức đầu tư liên kết giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và Nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam, Chính phủ tạo điều kiện cho nhà đầu tư thực hiện một dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hoặc thanh toán cho nhà đầu tư theo thỏa thuận trong hợp đồng BT. 1.3.3.4.Ưu nhược điểm của BOT,BTO,BT a) Đối với nước nhận đầu tư. Ưu điểm : Thu hút vốn đầu tư vào những dự án cơ sở hạ tầng đòi hỏi vốn đầu tư lớn, do đó giảm được sức ép cho ngân hàng Nhà nước, đồng thời nhanh chóng có được công trình kết cấu hạ tầng hoàn chỉnh giúp khơi dậy các nguồn lực trong nước và thu hút thêm FDI để phát triển kinh tế. 11
  12. Nhược điểm : khó tiếp nhận kinh nghiệm quản lý và khó kiểm soát công trình.Mặt khác, nhà nước phải chịu mọi rủi ro ngoài khả năng kiểm soát của nhà đầu tư . b) Đối với nước chủ đầu tư. Ưu điểm:Hiệu quả sử dụng vốn được bảo đảm; chủ động quản lý, điều hành và tự chủ kinh doanh lợi nhuận, hông bị chia sẻ và được nhà nước sở tại đảm bảo, tránh nhưng rủi ro bất thường ngoài khả năng kiểm soát. Nhược điểm:việc đàm phán và thực thi hợp đồng BOT thường gặp nhiều khó khăn tốn kém nhiều thời gian và công sức. 1.3.4.Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. 1.3.4.1.Khái niệm Là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài,do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại Việt Nam, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh.Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài đã thành lập tại Việt Nam được hợp tác với nhau hoặc với nhà đầu tư nước ngoài để thành lập doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài mới tại Việt Nam. 1.3.4.2.Ưu điểm a) Đối với nước chủ đầu tư : Chủ động trong quản lý điều hành doanh nghiệp thực hiện được chiến lược toàn cầu của tập đoàn; triển khai nhanh dự án đầu tư; được quyền chủ động tuyển chọn và đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển chung của tập đoàn b) Đối với nước tiếp nhận vốn đầu tư : Nhà nước thu được ngay tiền thuê đất, tiền thuế mặc dù DN bị lỗ; giải quyết được công ăn việc làm mà không cần bỏ vốn đầu tư; tập trung thu hút vốn và công nghệ của nước ngoài vào những lĩnh vực khuyến khích xuất khẩu; tiếp cận được thị trường nước ngoài. 1.3.4.3.Nhược điểm: c) Đối với nước chủ đầu tư: Chủ đầu tư phải chịu toàn bộ rủi ro trong đầu tư; phải chi phí nhiều hơn cho nghiên cứu tiếp cận thị trường mới; không xâm nhập được vào những lĩnh vực có nhiều lợi nhuận thị trường trong nước lớn, khó quan hệ với các cơ quan quản lý Nhà nước nước sở tại. 12
  13. d) Đối với nước tiếp nhận vốn đầu tư: Khó tiếp thu kinh nghiệm quản lý và công nghệ nước ngoài đê nâng cao trình độ cán bộ quản lý, cán bộ kĩ thuật ở các doanh nghiệp trong nước. 1.3.5.Mua cổ phần hoặc góp vốn để tham gia quản lý hoạt động đầu tư. Đây là một hình thức đầu tư thường gặp trong thực tiễn hiện nay, nhất là khi các nhà đầu tư nước ngoài không muốn vướn nhiều vào các quy trình, thủ tục thành lập phứt tạp, và bên cạnh đó cũng hạn chế được những bỡ ngỡ khi tiếp cận một thị trường.Đối với các doanh nghiệp Việt Nam, với đa phần thuộc thành phần doanh nghiệp nhỏ lẻ, đây cũng là cơ hội cho việc mở rộng đầu tư kinh doanh và thiết lập một vị trí vững chắc hơn với một nguồn vốn dồi dào từ các nhà đầu tư ngoài nước.Sự ra đời của Luật đầu tư và Luật doanh nghiệp thống nhất với định hướng thiết lập sự bình đẵng giữa các nhà đầu tư trong và ngoài nước đã là một động lực rất lớn cho các nhà đầu tư nước ngoài gia nhập vào thị trường Việt Nam.Các doanh nghiệp Việt Nam ra sức kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài tham gia góp vốn mở rộng sản xuất, tuy nhiên thực tiễn áp dụng pháp Luật đầu tư và Luật doanh nghiệp làm phát sinh nhiều vấn đề gây khó khăn và chậm trễ tiến trình trên.Cho đến nay vẫn chưa có một lý giải hợp lý của nhà lập pháp, các cơ quan áp dụng pháp luật lung túng, không tự tìm được hướng giải quyết. 1.3.6.Sáp nhập hay mua lại doanh nghiệp. Sáp nhập được hiểu là việc kết hợp giữa hai hay nhiều công ty để ra đời một pháp nhân mới. Ngược lại, mua bán là một công ty mua lại hoặc thôn tính một công ty khác nhưng không ra đời pháp nhân mới. Mặc dù mua bán và sáp nhập thường được đề cập cùng nhau với một thuật ngữ là M&A (Mergers and Acquisitions) nhưng vẫn có sự khác biệt về bản chất. Khi một công ty mua lại hoặc thôn tính một công ty khác và đặt mình vào vị trí chủ sở hữu mới thì thương vụ đó gọi là mua bán. Dưới khía cạnh pháp lý, công ty bị mua lại không còn tồn tại, bên mua đã “nuốt chửng”, bên bán và cổ phiếu của bên mua không bị ảnh hưởng. Quá trình sáp nhập diễn ra khi hai doanh nghiệp (thường có cùng quy mô) hợp nhất lại thành một công ty mới thay vì hoạt động và sở hữu riêng lẻ. Cổ phiếu của hai công ty sẽ ngừng giao dịch và cổ phiếu của công ty mới sẽ phát hành. Một thương vụ mua bán cũng có thể được gọi là sáp nhập khi cả hai bên quyết định liên kết vì lợi ích chung. Một thương vụ 13
  14. được coi là mua bán hay sáp nhập phụ thuộc vào việc nó có được diễn ra một cách “vui vẻ” giữa hai bên hay bị ép buộc, thâu tóm nhau. Dựa vào cấu trúc của từng doanh nghiệp, có nhiều hình thức sáp nhập khác nhau: sáp nhập ngang hay còn gọi là sáp nhập cùng ngành thường diễn ra với hai công ty cùng cạnh tranh trực tiếp về sản phẩm và thị trường; sáp nhập dọc diễn ra với các doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng, chẳng hạn giữa một công ty với khách hàng hoặc nhà cung cấp của họ; sáp nhập mở rộng thị trường diễn ra với hai công ty có cùng loại sản phẩm, nhưng phân phối ở những thị trường khác nhau; sáp nhập mở rộng sản phẩm diễn ra với hai công ty bán những sản phẩm khác nhau nhưng liên quan trong cùng một thị trường; sáp nhập kiểu tập đoàn là hai công ty không có cùng lĩnh vực kinh doanh, nhưng muốn đa dạng hóa hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh đa ngành nghề... 1.4.Ưu nhược điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài: 1.4.1.Ưu điểm 1.4.1.1.Đối với nước chủ đầu tư: Người chủ đầu tư có thể chủ động điều hành quản lý vốn đầu tư, vì thế đảm bảo hiệu quả của vốn đầu tư cao. Giữ vững và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, công nghệ và thị trường cung cấp nguyên vật liệu. Khai thác được lợi thế của nước tiếp nhận vốn đầu tư, tận dụng được công nghệ cũ, kéo dài được vòng đời sản phẩm, học hỏi được công nghệ nước ngoài. Tránh được các bất lợi khi hoạt động ở trong nước: như chi phí cao và gây ô nhiễm môi trường. Chủ động điều hành quản lý vốn, điều này giúp đảm bảo hiệu quả của vốn đầu tư. Tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch ngày càng tinh vi và xây dựng được cơ sở kinh doanh tại các nước thực thi chính sách bảo hộ. Thông qua các hoạt động đầu tư trực tiếp và nước sở tại sẽ giúp chủ đầu tư tạo ảnh hưởng về mặt kinh tế, chính trị và các mặt khác ở nước sở tại. 1.4.1.2.Đối với nước tiếp nhận đầu tư. 14
  15. Không hạn chế khả năng thu hút vốn từ các chủ đầu tư nước ngoài.Nhiều nước thiếu vốn trầm trọng, nên đối với hình thức đầu tư trực tiếp không quy định mức đóng góp tối đa của mỗi chủ đầu tư, thậm chí đóng góp vốn càng nhiều thì càng được hưởng những ưu đãi về thuế của nước chủ nhà. Thu hút và học hỏi được công nghệ tiên tiến, kỹ năng quản lý hiện đại cũng như khả năng marketing hữu hiệu của nước ngoài. Tạo điều kiện khai thác tốt nhất các lợi thế của mình là những nguồn lực phi vốn ,nâng cao được thu nhập và chất lượng của người lao động. Đầu tư trực tiếp nước ngoài với sự tham gia quản lý của chủ đầu tư nước ngoài giúp sử dụng có hiệu quả vốn góp của chủ đầu tư trong nước tham gia liên doanh hay hợp tác hợp doanh. Không ảnh hưởng đến uy tín tín dụng của nước nhận đầu tư và ít ảnh hưởng xáo trộn cho nền kinh tế tài chính của đất nước khi có biên động lớn. 1.4.2.Nhược điểm 1.4.2.1.Đối với nước chủ đầu tư. Hình thức đầu tư này kém linh hoạt do đó dễ dẫn đến rủi ro mất vốn đầu tư, do môi trường đầu tư của nước tiếp nhận vốn không ổn định. Di chuyển các cơ sở sản xuất ra bên ngoài để đầu tư, gây nên tình trạng bất ổn cho nền kinh tế xã hội nhất là nạn thất nghiệp… Đầu tư trực tiếp có thể gây nên tình trạng lộ bí mật công nghệ. 1.4.2.2.Đối với nước tiếp nhận đầu tư. Nếu quy hoạch đầu tư không hợp lý, dễ dẫn đến tình trạng tài nguyên thiên nhiên bị bóc lột quá mức và gây ô nhiễm môi trường. Nền kinh tế có sự tham gia của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài dẽ phát triển theo chiều hướng phiến diện, mất cân đối. Nền chính trị, xã hội, văn hóa…cũng bị những tác động tiêu cực như: sự phân hóa giàu nghèo, sự di dân ồ ạt ra thành thị. Có khả năng các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trở thành một lực lượng thống trị nền kinh tế, gây mất tự chủ quốc gia. 15
  16. Chương 2 : Tổng Quan Về Tập đoàn Intel 2.1.Tập đoàn Intel. Tập đoàn Intel (Integrated Electronics) thành lập vào ngày 18/7/1968, lúc đó là tập đoàn hợp nhất về thiết bị điện tử, sản xuất ờ Santa Clara, (California, USA) bởi nhà hoá học kiêm vật lí học Gordon E.Moore và Robert Noyce, sau khi họ đã rời khỏi công ty Fairchild Semiconductor.Khi đó Moore đã tuyên bố ‘Chúng ta là những nhà cách mạng thực thụ’ nhưng phải mất đến 30 năm sau những lời nói của ông mới trở thành sự thật. Intel Corporation là công ty sản xuất thiết bị chất bán dẫn lớn nhất thế giới, và là nhà phát minh ra chuỗi vi mạch xử lý thế hệ x86 mà bộ xử lý tìm thấy ở các máy tính cá nhân. Intel làm ra các sản phẩm motherboard chipsets (con chip mạch chủ), network cards (Card mạng lưới) and ICs (mạch tổ hợp), flash memory (bộ nhớ Flash), graphic chips (con chip đồ họa), embedded processors (bộ ghi xử lý), và các thiết bị khác có liên quan đến tin học và sự truyền thông. Lúc đầu Gordon Moore and Robert Noyce muốn đặt tên cho công ty là "Moore Noyce". Tuy nhiên việc phát âm lại giống “more noise” và điều này không thích hợp cho một công ty điện tử. Họ cho rằng tiếng ồn là đặc trưng cho sự giao thoa xấu. Và họ đã sử dụng cái tên NM Electronics cho công ty đúng một năm trước khi quyết định gọi tên công ty là INTegrated ELectronics or "Intel" là từ gọi tắt. Tuy nhiên tên “Intel” đã là một tên thương mại của một chuỗi hệ thống khách sạn và họ đã mua lại trước khi hoạt động. Moore và Noyce bắt đầu tạo nên những bộ nhớ máy tính hiệu quả hơn dựa trên công nghệ bán dẫn. Thiết bị bán dẫn 1103 được tung ra thị trường năm 1970 trở thành thiết bị bán dẫn bán chạy nhất trên thế giới. Tuy nhiên, cơ hội cho bước đột phá quan trọng nhất của họ là khi một công ty Nhật có tên là Busicom đặt hàng thiết kế 12 con chíp dùng trong máy tính. Vào thời đó, mỗi sản phẩm điện tử đòi hỏi phải có một con chíp riêng cho nó, nhưng vị kỹ sư của Intel Ted Hoff nhận thấy rằng ông có thể tạo được một con chíp có khả năng thực hiện những chức năng rất khác nhau – đó là bộ nhớ của những chiếc máy tính sau này. Và phát minh của ông đã thành công. Intel nhận ra họ đã tạo ra một sản phẩm với những ứng dụng có thể gọi là vô hạn. Tuy nhiên vấn đề là ở chỗ, theo như nguyên gốc bản hợp đồng thì Busicom nắm trọn quyền sử dụng sản phẩm. 16
  17. May thay, vào thời điểm đó, Busicom gặp phải khó khăn về tài chính. Vì vậy, Moore và Noyce thương lượng mua lại quyền sử dụng con chip với giá chỉ 60 ngàn USD. Thoạt đầu nó được coi như là một ‘microcomputer’. Intel cho ra đời bộ vi sử lý đầu tiên của mình là 4004 vào năm 1971. Cũng trong thời điểm đó, công ty đưa ra bộ vi xử lý 8008 và vài năm sau những lời tiên đoán của Moore đã trở thành hiện thực – con chíp đã làm một cuộc cách mạnh hoá đối với những sản phẩm như máy đếm tiền, đèn giao thông, máy bơm xăng, hệ thống đặt vé máy bay…- những sản phẩm có rất ít ứng dụng thời đó . Ngay khi con chip được lắp đặt, Intel đã tạo ra những phiên bản nhỏ hơn và mạnh hơn. Đầu những năm 80, IBM bắt đầu thương lượng với Intel về việc sử dụng bộ xử lý 8088 cho một sản phẩm bí mật mới. Trước đó IBM chưa bao giờ sử dụng sản phẩm của một công ty nào khác và những chi tiết vẫn được giữ bí mật. Chỉ đến khi hợp đồng có hiệu lực Intel mới thực sự nhận ra rằng nó đã cung cấp bộ nhớ cho dòng máy PC đầu tiên. Mặc dù vậy, lúc đó, không công ty nào hình dung được thị truờng máy tính gia đình sẽ phát triển như thế nào. Intel lại tiếp tục phát triển những bộ vi xử lý có chức năng cao hơn như bộ xử lý Pentium® năm 1933 và bộ xử lý này trở nên nổi tiếng. Hiện nay, công ty đã đưa ra bộ xử lý Pentium Extreme Edition 840 - bộ xử lý màn hình lõi kép đầu tiên trên thế giới. Những bộ xử lý dual-core và multi-core được thiết bế bao gồm 2 hoặc nhiều lõi (có thể thi hành lệnh một cách hoàn chỉnh) được gắn vào một bộ xử lý duy nhất có khả năng thực hiện nhiều mệnh lệnh cùng một lúc. Khi nó được kết hợp với công nghệ Hyper-Threading của Intel, thiết bị này tạo cho người sử dụng máy tính nhiều cơ hội để sở hữu những sản phẩm audio, video, digital design và những trò chơi điện tử có độ phân giải cao, âm thanh trung thực, hình ảnh 3-D. Theo thống kê vào ngày 25/12/2010, Intel có 82500 nhân viên tại 199 văn phòng và cơ sở sản xuất kinh doanh trên toàn cầu,trong đó 55% nhân viên làm việc tại Hoa Kỳ. Năm 2005 doanh thu của Intel đạt hơn 38 tỷ USD, và Intel xếp thứ 50 trong các công ty lớn nhất thế giới.Đến đầu thế kỷ 21,bộ vi xử lý của Intel đã được tìm thấy trong hơn 80% máy tính trên toàn thế giới. Intel vẫn còn cạnh tranh thông qua một sự kết hợp của tiếp thị thông minh, hỗ trợ nghiên cứu và phát triển, trình độ sản xuất cao, 17
  18. một nền văn hóa quan trọng của công ty, trình độ pháp lý, và liên minh đang diễn ra với Tổng công ty phần mềm khổng lồ Microsoft thường được gọi là 'Wintel. Intel có khả năng sẽ vẫn là một trong những công ty điện tử hàng đầu cho một thời gian khi họ tiếp tục phát triển bộ vi xử lý hiệu quả hơn và tiến một cách nhanh chóng vào các lĩnh vực công nghệ khác. 2.2.Intel Việt Nam Intel thành lập Văn Phòng đại diện tại Thành Phố Hồ Chí Minh vào năm 1997 và Hà Nội vào năm 2008. Trong hơn 10 năm qua, Intel đã phối hợp với Chính phủ Việt Nam (VN) tại trung ương và địa phương, cũng như các đối tác trong và ngoài nước triển khai thành công nhiều dự án nhằm tăng cường ứng dụng Công nghệ Thông tin (CNTT) trong mọi tầng lớp xã hội, góp phần xây dựng ngành CNTT trong nước vững mạnh với các kế hoạch đầu tư vào hạ tầng cơ sở CNTT, và cải cách giáo dục. Về vấn đề chuẩn bị nguồn nhân lực, Intel đang làm việc với Bộ Giáo Dục và Đào Tạo cũng như nhiều trường đại học lớn để cải tiến chất lượng chương trình giảng dạy tại các trường đại học kỹ thuật. Các chương trình hợp tác của Intel bao gồm hỗ trợ giảng viên, chương trình học bổng cho sinh viên, hỗ trợ trang thiết bị. Hiện đang có 54 sinh viên theo học tại ĐH Kỹ thuật Portland, Hoa Kỳ theo học bổng Intel và rất nhiều học bổng cho SV trong nước hoàn tất bậc Cử nhân và Thạc sỹ. 29/10/2010, Intel chính thức khai trương nhà máy kiểm tra và đóng gói chip tại Việt Nam. Địa điểm đặt nhà máy tại Lô I.2, đường D1, khu công nghệ cao Q.9, TP.HCM. Đây là nhà máy lắp ráp và kiểm định chip mới nhất và lớn nhất trong mạng lưới sản xuất của Intel trên toàn thế giới. Theo thông tin được biết, sự kiện sẽ chỉ diễn ra trong khán phòng có sức chứa khoảng 600 người và không được phép tham quan nhà máy… Dự án được khởi công vào tháng 1 năm 2006 với mức đầu tư khởi điểm 300 triệu USD. Tháng 11 năm 2006, Intel công bố tăng quy mô nhà máy lắp ráp và kiểm định chip từ 14,000 mét vuông lên 46,000 mét vuông, đồng thời nâng tổng mức đầu tư lên 1 tỷ USD. Nhà máy chính thức khởi công xây dựng từ tháng 3 năm 2007. Khuôn viên nhà máy bao gồm một tòa nhà văn phòng, một tòa nhà dành cho các dịch vụ công cộng, một nhà kho chứa nguyên vật liệu thô và các sản phẩm đã hoàn thiện, một trạm phân 18
  19. phối điện, một kho chứa hóa chất và một nhà máy lắp ráp, kiểm định chip. Một số thông tin thú vị khác: Diện tích sản xuất rộng 46,000 mét vuông, nhà máy Intel có diện tích lớn gấp 5.5 lần sân bóng đá. Vào thời điểm xây dựng cao độ, có tới hơn 2,300 công nhân xây dựng làm việc tại công trình Tòa nhà văn phòng rộng 24,000 mét vuông và nhà kho tích hợp rộng 7,000 mét vuông cũng được hoàn thành vào tháng 6 năm 2009. Tiếp sau đó, nhà máy rộng 46,000 mét vuông cũng được hoàn thiện và bắt đầu tiến hành lắp đặt công cụ sản xuất từ tháng 12 năm 2009. Đại diện của Intel cho hay, cho tới thời điểm này, nhiều công đoạn để đưa nhà máy sản xuất chip với số vốn đầu tư lên tới 1 tỷ USD của Intel tại Việt Nam đã được hoàn thành đúng tiến độ. Sẽ chính thức đi vào sản xuất vào tháng 7/2010, sản phẩm đầu tiên mà Intel cho “ra lò” ở nhà máy Việt Nam là con chip. Tuy nhiên, nếu như ban đầu, nhà máy Intel ở Việt Nam được dự kiến chỉ sản xuất con chip thì nay đã có sự thay đổi. Tương lai, nhà máy này sẽ sản xuất cả bộ vi xử lý dành cho các thiết bị di động. Hiện giờ nhà máy của Intel đã có khoảng 300 nhân viên trong đó 130 nhân viên đang được đưa đi đào tạo tại Malaysia, 18 sinh viên năm thứ 3 thuộc 5 trường Đại học kỹ thuật lớn của Việt Nam đang được Intel đưa đi đào tạo tại Mỹ. Đến tháng 7/2010, khi nhà máy chính thức đi vào hoạt động sẽ cần thêm 150 nhân Rất có thể không lâu nữa nhà máy viên kỹ thuật và kỹ sư nữa. Đại diện của của Intel ở Việt Nam cũng sẽ sản xuất Intel cho hay, con số nhân lực này hoàn toàn được bộ vi xử lý Intel Core i7 và Ibex nằm trong khả năng đạt được của Intel. Đặc Peak chipset - một trong những thành biệt, nhà máy của Intel tại Việt Nam sẽ nhận tựu được Phó Chủ tịch cấp cao của Intel vào 70% là các sinh viên vừa tốt nghiệp Đại giới thiệu. học, chỉ có 30% các vị trí cần người đã có 19
  20. kinh nghiệm làm việc thực tế. Công suất dự kiến của nhà máy Intel Việt Nam là 820 triệu sản phẩm/năm. Để hoạt động hết công suất, nhà máy của Intel tại Việt Nam sẽ phải mất tới 3-5 năm. Khi đó, doanh thu đem về cho Intel từ các sản phẩm của nhà máy sẽ lên tới 5 đến 15 tỷ USD. Một năm nhìn lại, có thể nói, 2009 là năm Intel toàn cầu đã đạt được những thành tựu đáng kể. Với lĩnh vực di động, Intel đã ra mắt bộ vi xử lý di động Intel Core i7 và Intel Core i7 Extreme Edition mang tính cách mạng của mình, đưa vi kiến trúc Nehalem siêu nhanh và nổi tiếng của mình tới thị trường di động. Những bộ vi xử lý này đã chứng minh hiệu quả tốt nhất khi chơi game, nội dung đa phương tiện kỹ thuật số, hình ảnh, âm nhạc, các ứng dụng doanh nghiệp cùng các phần mềm đa luồng khác… Cũng trong lĩnh vực di động, Intel đã giới thiệu 4 bộ vi xử lý mới, trong đó có một phiên bản tiêu thụ điện năng thấp cùng một chipset phổ thông, nhằm thúc đẩy các laptop “siêu mỏng” phổ thông. Những bộ vi xử lý điện áp cực thấp của Intel sẽ cho phép tạo ra những thiết kế laptop bóng bẩy mới dành cho người tiêu dùng phổ thông có độ dày chưa đến 1 inch (2,54cm) và trọng lượng từ 2 pound (0,908kg) đến 5 pound (2,27kg) với các mức giá phổ thông. Những bộ vi xử lý này còn tiêu thụ ít điện năng hơn giúp kéo dài thời gian hoạt động của pin, mang lại những trải nghiệm mà người tiêu dùng mong đợi từ những laptop sử dụng nền tảng Intel. Trong lĩnh vực máy chủ, có thể kể tới thành tựu nổi bật của Intel là khi đã tạo ra những đột phá với các bộ vi xử lý máy chủ. Intel đã giới thiệu tới 17 bộ vi xử lý cấp độ doanh nghiệp mới, dẫn đầu là các bộ vi xử lý Intel Xeon dòng 5500. Đây là những bộ vi xử lý mang tính cách mạng cao nhất của Intel kể từ khi Intel giới thiệu ra thị trườngcác bộ vi xử lý Intel Pentium Pro gần 15 năm trước. Với máy tính để bàn, năm 2009, Intel đã giới thiệu những bộ vi xử lý Intel Core i7 và Intel Core i5 - vi kiến trúc Nehalem mới nhất đã được mở rộng tới thị trường máy tính để bàn phổ thông và mảng thị trường máy chủ sơ cấp… Ngoài ra, Intel cũng đã đạt được những thành tựu đáng kể trong lĩnh vực Wimax, cải tiến trong sản xuất, các sản phẩm nhúng và điện tử tiêu dùng cũng như trách nhiệm của doanh nghiệp đối với xã hội và tiếp thị. 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2