intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đồ án: Nghiên cứu kỹ thuật vô tuyến nhận thức cho hệ thống lai ghép giữa mạng thông tin vệ tinh và mạng mặt đất

Chia sẻ: Văn Đức Mai | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:117

224
lượt xem
36
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đồ án “Nghiên cứu kỹ thuật vô tuyến nhận thức cho hệ thống lai ghép giữa mạng thông tin vệ tinh và mạng mặt đất” với mục đích nghiên cứu tìm hiểu ứng dụng của vô tuyến nhận thức trong các hệ thống lai ghép vệ tinh - mặt đất.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đồ án: Nghiên cứu kỹ thuật vô tuyến nhận thức cho hệ thống lai ghép giữa mạng thông tin vệ tinh và mạng mặt đất

  1. 1 MỤC LỤC
  2. 2 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ADC Analog­to­digital converter Mạch chuyển đổi tương tự ra  số ADSL Asymmetric Digital Subscriber  Đường dây thuê bao số không  Line đối xứng AGC Automatic gain control Điều khiển độ lợi tự động AS Adaptive system Hệ thống thích nghi AWGN Additive White Gaussian  Tạp âm Gausse trắng cộng  Noise sinh BER Bit Error Rate Tỉ lệ lỗi bit BSC Base Station Controller Bộ điều khiển trạm gốc BSS Broadcast Satellite Services Dịch vụ Vệ tinh Quảng bá BTS Base Transceiver Station Trạm thu phát sóng di động BWA Broadband wireless access Truy nhập không dây băng  thông rộng CDMA Code Division Multiple  Đa truy nhập phân chia theo  Access mã CDN Content Delivery Network Mạng lưới phân phối nội  dung CR Cognitive Radio Vô tuyến nhận thức CSTR Cognitive Satellite Terrestrial  Vô tuyến nhận thức vệ tinh ­  Radios mặt đất DAB Digital audio broadcasting Công nghệ phát thanh kỹ thuật  số FCC Frequency Division Multiple  Đa truy nhập phân chia theo  Access tần số FDMA Frequency Division Multiple  Đa truy nhập phân chia theo  Access tần số FEC Forward Error Correction Hiệu chỉnh lỗi trước FSS Fixed Satellite Services Dịch vụ vệ tinh cố định GEO Geostationary satellite Vệ tinh địa tĩnh
  3. 3 GPRS General Packet Radio Service Dịch vụ vô tuyến gói tổng hợp GPS Global Positioning System Hệ thống định vị toàn cầu GSM Global System for Mobile Hệ thống thông tin di động  toàn cầu HAP High altitude platforms Tầng cao độ HSTS Hybrid Satellite Terrestrial  Hệ thống lai ghép vệ tinh ­  System mặt đất IEEE Institute of Electrical and  Viện kỹ nghệ Điện và Điện  Electronics Engineers tử IF Intermediate Frequency Tần số trung tần IMR Intermediate Module Repeater Bộ lọc mô­đun trung gian IPTV Internet Protocol Television Truyền hình giao thức Internet ISU Incumbent spectral users Người sử dụng phổ tần chính ITK Interference temperature  Nhận biết độ nhiễu knowledge ITU International Telegraph Union Tổ chức viễn thông quốc tế  thuộc Liên hiệp quốc LAN Local Area Network Mạng máy tính cục bộ LNA Low Noise Amplifier Bộ khuếch đại tạp âm thấp MANET Mobile Ad­hoc Networks Mạng tùy biến di động MBMS Multimedia  Hệ thống dịch vụ Quảng bá/  Broadcast/Multicast Services Multicast đa phương tiện MIH Media Independent Handovers Truyền hình độc lập MSS Mobile Satellite Services Dịch vụ Vệ tinh Di động OFDM Orthogonal Frequency  Công nghệ ghép kênh phân  Division Multiplexing chia theo tần số trực giao P2P Peer­to­Peer Mạng ngang hàng
  4. 4 PAN Personal area networks Mạng các nhân PLL Phase­locked loop Vòng khóa pha PLMN Public Land Mobile Network Mạng di động mặt đất công  cộng PSTN Public Switched Telephone  Mạng điện thoại chuyển  Network mạch công cộng PU Primary User Người dùng chính QID Queue IDentifiers Trình xác minh hàng chờ QoS Quality of Service Chất lượng dịch vụ RAN Regional area network Mạng khu vực RCS Return channel via satellite Kênh nhận thông qua vệ tinh REM Radio Environment Maps Bản đồ môi trường vô tuyến RF Radio Frequency Tần số vô tuyến RNC Radio Network Controller Bộ điều khiển thông tin di  động thế hệ 3 SD Satellite Dependent Vệ tinh phụ thuộc S­DMB Satellite digital multimedia  Vệ tinh kỹ thuật số quảng bá  broadcasting đa phương tiện SDR Software Defined Radio Vô tuyến định nghĩa bằng  phần mềm SI Satellite­Independent Vệ tinh độc lập SI­SAP Satellite Independent ­ Service  Điểm Truy cập Dịch vụ Vệ  Access Point tinh độc lập S­RAN Satellite Radio Access  Mạng Truy cập Vô tuyến vệ  Network tinh STC Space­time Coding Mã hóa không­thời gian SU Secondary User Người dùng thứ cấp S­UMTS Satellite component of the  Thành phần Vệ tinh của Hệ  Universal Mobile  thống Viễn thông Di động 
  5. 5 Telecommunication System Toàn cầu TDMA Time Division Multiple   Đa truy nhập phân chia theo  Access thời gian TVRO Television Receiver Only Truyền hình chỉ thu UMTS Universal Mobile  Hệ thống viễn thông di động  Telecommunication System toàn cầu UWB Ultra­Wideband Băng siêu rộng VCO Vol Cotrol OSC Bộ dao động điều khiển bằng  điện áp  VOD Video On Demand Video theo yêu cầu VSAT Very Small Aperture Terminal Trạm thông tin vệ tinh ­ mặt  đất cỡ nhỏ WRAN Wireless Regional Areas  Mạng không dây khu vực Network WWRF Wireless World Research  Diễn đàn Nghiên cứu Thế giới  Forum Không dây
  6. 6 DANH MỤC HÌNH VẼ
  7. 7 DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 1.1: Tóm tắc  ưu điểm và nhược điểm của các hệ  thống đa truy   nhập khác nhau Bảng 2.1 Các cấu trúc mạng cơ bản trong thông tin Bảng 3.1: So sánh xu hướng Công nghệ lai ghép Vệ tinh ­ mặt đất qua  từng thời điểm
  8. 8 LỜI NÓI ĐẦU Ngày nay, với sự bùng nổ của công nghệ, điện thoại thông minh, mạng  xã hội, nhu cầu chia sẻ dữ liệu, hình ảnh, video… gia tăng nhanh chóng gây ra  áp lực rất lớn về  lưu lượng trên các hệ thống truyền tải. Cùng với việc dải  tần ngày càng bị  thu hẹp do nhiều dịch vụ mới được cấp phép dẫn đến yêu  cầu phải tận dụng tối đa tài nguyên phổ tần số. Hiện tại, các hệ thống thông  tin vô tuyến được áp dụng chính sách cấp phát tần số  cố  định. Theo đó, các   ứng dụng khác nhau được cấp phép với những dải tần số  (băng thông) đã  được hoạch định sẵn bởi cơ  quan quy hoạch phổ  tần Quốc gia. Việc cấp   phép dải tần cố định này đảm bảo người dùng dịch vụ   ở  dải tần này không  gây can nhiễu đến những người dùng ở dải tần khác. Tuy có nhiều ưu điểm  nhưng nhược điểm lớn nhất của phương pháp cấp phát tần số  cố  định là  không tận dụng được tối đa tài nguyên băng thông. Theo Ủy ban truyền thông  liên bang Hoa Kì – FCC hiệu suất sử dụng dải tần số đã được cấp phép chỉ  khoảng 15­85% trên phổ tần khả dụng. Điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết đó  là phát triển một công nghệ vô tuyến mới có khả năng nâng cao hiệu suất  sử  dụng phổ tần, tránh lãng phí tài nguyên tần số.   Công nghệ  Cognitive Radio (vô tuyến nhận thức) được phát triển để  đáp  ứng nhu cầu trên. Hệ  thống vô tuyến nhận thức bằng những kỹ  thuật   riêng của mình sẽ  khai thác các dải thông có thời điểm bị  bỏ   tr ống để  cung  cấp băng thông cho các dịch vụ vô tuyến thông qua kiến trúc mạng tiên tiến,  mềm dẻo và khả năng truy cập phổ tần linh hoạt. Cùng với hệ thống lại ghép  vệ tinh ­ mặt đất, việc ngày càng sử dụng các thiết bị thông minh và tăng tải   trên mạng mặt đất để cung cấp các dịch vụ  dữ liệu băng thông cao cùng với   các dịch vụ  thoại, các hệ  thống lai ghép vệ  tinh ­ mặt đất có thể  được sử  dụng hiệu quả và nâng cao hiệu suất sử dụng mạng thông tin vệ tinh để phục  vụ  cho nhu cầu càng ngày càng tăng. Ngoài ra, các vấn đề  trong việc   phủ  sóng  ở mọi nơi, thậm chí ở các vùng sâu vùng xa, với sự hoàn chỉnh các dịch  
  9. 9 vụ  sẵn có ở  khu vực thành thị, có thể  có xu hướng sử  dụng các hệ  thống lai   ghép. Vì vậy,  vô tuyến nhận thức hoạt động trên nền hệ  thống vô tuyến  được  định nghĩa bằng phần mềm, đặc biệt là khi tích hợp với hệ  thống lai  ghép vệ  tinh ­ mặt đất, hứa hẹn là một trong những công nghệ  đầy triển   vọng, phù hợp với tiến trình phát triển của các hệ thống thông tin vô tuyến Đồ  án “Nghiên cứu kỹ  thuật vô tuyến nhận thức cho hệ thống lai   ghép giữa mạng thông tin vệ tinh và mạng mặt đất” với mục đích nghiên  cứu tìm hiểu  ứng dụng của vô tuyến nhận thức trong các hệ  thống lai ghép  vệ  tinh ­ mặt đất. Từ  đó làm tiền đề  phục vụ  cho công tác sau này. Đồ  án   đước chia làm 3 chương: Chương 1: Tổng quan về  thông tin vệ  tinh và kỹ  thuật vô tuyến nhận   thức Chương 2:  Hệ thống mạng mặt đất trong thông tin vệ tinh và tích hợp   hệ thống mặt đất – vệ tinh trong truyền thông đa phương tiện  Chương 3: Vô tuyến nhận thức cho hệ thống lai ghép giữa mạng thông  tin vệ tinh và mạng mặt đất
  10. 10 CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ THÔNG TIN VỆ TINH VÀ KỸ THUẬT  VÔ TUYẾN NHẬN THỨC 1.1 Tổng quan về hệ thống thông tin vệ tinh Thông tin vệ  tinh mới chỉ xuất hiện trong hơn bốn thập kỷ qua nhưng   đã phát triển rất nhanh chóng trên thế giới cũng như trong nước ta, mở ra một   thời kỳ  phát triển mới cho sự  phát triển trong mội lĩnh vực khoa học ­ đời  sống nói chung và đặc biệt trong ngành viễn thông nói riêng. Sau đây, chúng ta   cùng nhau đi tìm hiểu về lịch sử phát triển, đặc diểm, cũng như cấu trúc tổng   thể và nguyên lý hoạt động của thông tin vệ tinh. 1.1.1 Sự ra đời của các hệ thống thông tin vệ tinh Thông tin vô tuyến qua vệ  tinh là thành tựu nghiên cứu trong lĩnh vực   truyền thông và mục tiêu của nó là gia tăng về  mặt cự ly và dung lượng với  chi phí thấp, kết hợp sử dụng hai kĩ thuật tên lửa và vi ba đã mở ra kỷ nguyên  thông tin vệ tinh. Dịch vụ được cung cấp theo cách này bổ sung một cách hữu  ich cho các dich vụ  mà trước đó độc nhất chỉ  do các mạng  ở  dưới đất cung  cấp, sử dụng vô tuyến và cáp. Kỉ  nguyên vũ trụ  được bắt đầu vào năm 1957 với việc phóng vệ  tinh   nhân tao đầu tiên (vệ tinh Sputnik của Liên Xô cũ). Những năm tiếp theo các   vệ  tinh khác cũng lần lượt  được phóng như  SCORE  phát quảng bá (năm  1958),   vệ   tinh   phản   xạ   ECHO(1960),   các   vệ   tinh   chuyển   tiếp   băng   rộng   TELSTAR và RELAY (1962) và vệ tinh địa tĩnh đầu tiên là SYNCOM (1963) Trong năm 1965 vệ  tinh  địa tỉnh thương mại  đầu tiên INTELSAT­1  đánh đấu sự mở đầu cho hàng loạt các vệ tinh INTELSAT. Cùng năm đó, Liên  Xô cũ cũng đã phóng vệ  tinh truyền thông đầu tiên trong loạt vệ  tinh truyền  thông MOLNYA.
  11. 11 1.1.2 Lịch sử phát triển của các hệ thống vệ tinh:  Hệ thống vệ tinh di động Hình 1.1 Sự phát triển của vệ tinh di động. Hình 1.1 thể  hiện một số  mốc quan trọng và các hệ  thống vệ  tinh di   động   chính   (MSSs)   từ   đó   mà   ra.   Điều   thú   vị   mà   ta   cần   lưu   ý,   đó   là  INMARSAT bắt đầu có mặt cùng khoảng thời gian với các nhà khai thác di   động đầu tiên cung cấp các dịch vụ  tương tự  thế  hệ  đầu. Trong giai đoạn   đầu, INMARSAT cung cấp các dịch vụ thoại và tốc độ  dữ  liệu thấp cho các   thị trường hàng hải trên các tàu lớn trong dải L sử dụng vệ tinh phủ sóng toàn 
  12. 12 cầu. Trong giai đoạn 1990­1991, INMARSAT đã bổ  sung các dịch vụ  hàng  không cho máy bay chở  khách và một số  loại xe, với việc giới thiệu các vệ  tinh có công suất cao hơn. Điều này đã được thực hiện trong năm 1997­1998   với hoạt động trên toàn thế giới trong MSSs và giới thiệu phân trang, chuyển   hướng, tăng chỉ số cho máy tính đầu cuối. INMARSAT đã tập trung vào việc   sử  dụng các vệ tinh địa tĩnh (GEO), và vào giữa những năm 1990, một số  hệ  thống   GEO   khu   vực   nổi   lên   trong   cạnh   tranh   (ví   dụ,   OMNITRACS,   EUTELTRACS, AMSC và OPTUS) tập trung vào các phương tiện giao thông  đường bộ và sử dụng cả hai băng L và Ku . Đây chỉ là những thành công mang   tính tương đối, trong khi INMARSAT đã xây dựng được cơ  sở  khách hàng  của mình lên khoảng 250.000. Nghiên cứu chính trong những năm cuối thập  niên 80 và đầu những năm 90 hướng tới các chòm sao tín hiệu không phải là   GEO, chủ yếu để tạo điều kiện cho liên kết ngân sách và giảm sự chậm trễ  cho các dịch vụ thoại tới các thiết bị đầu cuối cầm tay, điều này cho thấy quỹ  đạo thấp trái đất (LEO) và quỹ đạo thường (MEO) dựa trên chòm sao tín hiệu  từ 10­66 vệ tinh để phủ sóng toàn cầu. Lúc này, IRIDIUM và GLOBALSTAR   đã bắt đầu triển khai dịch vụ, nhưng đã quá muộn để  cạnh tranh với sự  lan   rộng của GSM về  phủ  sóng mặt đất và về  kinh doanh, thay vì các nền công  nghệ  đã đi vào “Chương 11 của sự  phá sản” vào đầu những năm 2000. Bài   học rút ra, đó là các chòm sao tín hiệu quá đắt, lên đến 10 tỷ  USD để  triển   khai, trừ khi thị trường có sự  tăng trưởng ban đầu lớn để cung cấp khả năng  hoàn vốn nhanh. Cả  hai hệ thống hiện nay đều đang tồn tại, nhưng ít khách   hàng hơn dự  kiến. (Orbcomm, một nhà cung cấp chủ  yếu các thiết bị  đầu  cuối cố  định LEO, cũng đã chịu số  phận tương tự). ICO ­ hệ  thống MEO   được đề xuất, cũng đã trình làng một vệ tinh trước khi nhận ra rằng việc kinh   doanh này không thành công. Để  giúp phát triển ngành công nghiệp vệ  tinh di động trong tương lai,  một Tổ chức Hệ thống di động Vệ  tinh Cao cấp Châu Âu (ASMS­TF) được  
  13. 13 thành lập vào năm 2001, và ngày nay hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu và   phát triển, tiêu chuẩn và các vấn đề về quản lý [12]. Vào giữa những năm 1990, các siêu vệ tinh GEO lớn hơn được đề xuất   với công suất 5 kW và 100­200 điểm thay vì các thế  hệ  trước của GEO với   công suất 3­4 kW và 5­10 điểm. Một số hệ thống như vậy đã được đề  xuất,   nhưng một trong những hệ  thống đã thành công để  bước vào thị  trường vào  đầu những năm 2000 là THURAYA, dựa trên tiêu chuẩn GMR­1 của Viện  Tiêu chuẩn Viễn thông châu Âu (ETSI), cung cấp các dịch vụ  GSM và Gói  Dịch vụ Tổng Đài vô tuyến (GPRS) Châu Á và một phần của châu Âu. Dù mới chỉ   ở  những ngày đầu tiên, những hệ  thống siêu vệ  tinh GEO   này dường như đã thành công khi tìm kiếm một vị trí thích hợp với thị trường   khách du lịch, xe tải và các khu vực mà di động mặt đất rất đắt tiền để triển  khai. Trong khi đó, INMARSAT đang cung cấp siêu vệ  tinh GEO của riêng  mình, INMARSAT IV (lần đầu tiên ra mắt vào quý I năm 2005) để thực hiện  các dịch vụ  số  hiện có từ  64 đến 432 kb /; từ  mạng diện rộng (GAN) đến   Băng thông rộng GAN (BGAN). Mặc dù các nhà khai thác đã có bước di chuyển từ di động mặt đất sang  CDMA, INMARSAT đã tiếp tục phát triển hệ thống TDMA, nhưng cung cấp   các dịch vụ dựa trên gói 3G tương đương Vì vậy, các bài học kinh nghiệm từ vệ tinh di động là: • Các chòm sao quỹ  đạo LEO và elip (HEO) được cho là quá đắt để  cạnh tranh với GEO hoặc các hệ thống di động, vì vậy thị trường đã quay lại   với GEO. • Vệ tinh về phương diện kinh tế chỉ có thể cung cấp các dịch vụ thích   hợp cho các khu vực không thể  tiếp cận với dịch vụ di động; do đó, đối với  các dịch vụ thị trường đại chúng cần phải có sự tích hợp, chứ không phải để  cạnh tranh, mà là để tích hợp với di động. • Chọn dịch vụ phù hợp nhất với cơ cấu phân chia vệ tinh.
  14. 14 • Sử dụng thuộc tính phủ sóng rộng của vệ tinh. Dựa vào các yếu tố trên, hệ  thống Vô tuyến truyền hình số  vệ  tinh đa  phương tiện (S­DMB) đã được đề  xuất trong các dự  án của Liên minh Châu  Âu (EU) SATIN [10], MoDiS [13] và MAESTRO [14] để cung cấp các dịch vụ  MBMS cho người sử  dụng trong vùng phủ  sóng di động mặt đất cũng như  bên ngoài. Hệ thống S­DMB được đề xuất chủ yếu tập trung vào các dịch vụ  phân phối nội dung hoặc dịch vụ  push type, nơi nội dung được đẩy tới các  thiết bị đầu cuối, bất cứ khi nào các tài nguyên có sẵn và được lưu trữ trong  bộ  nhớ  cache cục bộ để  phục hồi sau này. Cấu trúc được đặc trưng bởi các  bộ  đệm khe hở hoặc bộ lặp mô đun trung gian (IMR) nằm  ở các trạm cơ sở  3G chỉ định, phát tín hiệu MBMS trên đất liền trong dải MSS liền kề, để cho  phép thâm nhập vào khu vực đô thị và đô thị. Một khái niệm tương tự  đã được thông qua trong hệ  thống MBSAT  [15] hiện đang hoạt động tại Nhật Bản và Hàn Quốc, nơi mà xu hướng dịch   vụ là truyền hình di động hơn là nội dung video. Các hệ thống này có sự cạnh   tranh từ  MBMS trong 3G và từ  DVB­H, nhưng cung cấp một thị  trường với   cơ  hội thực sự  mới cho vệ  tinh, và quan trọng nhất là việc phân phối hệ  thống chuẩn đầu tiên. Các hệ  thống DAB thông qua vệ  tinh S­DAB (DARS  ở  Hoa Kỳ) cũng  nên được đề  cập trong bối cảnh này, vì truyền thanh vô tuyến là một ví dụ  khác về  phân chia nội dung. Ý tưởng này được nảy ra khoảng từ  năm 1990,  khi CD radio đầu tiên được trình lên tại Hoa Kỳ. Một số hệ thống đã được đề  xuất bởi các tiêu chuẩn S­DAB được sản xuất với WORLDSPACE [16] vào  giữa những năm 1990, có lẽ là đối thủ hàng đầu với vệ tinh của nó bao gồm  Châu Á, Caribê và Châu Mỹ. Dịch vụ  phát thanh quảng bá số  mặt đất T­DAB đã không được lan  rộng, với mạng lưới U.K. giới hạn có thể  được phát triển tốt nhất. Tại Hoa  Kỳ, vào đầu những năm 2000, hai hệ  thống thương mại bắt đầu hoạt động: 
  15. 15 Đài XM sử  dụng vệ  tinh GEO, và vệ  tinh vô tuyến SIRIUS sử  dụng vệ tinh  HEO. Cả hai hệ thống đều bổ sung khoảng cách mặt đất theo cách tương tự  với hệ thống được đề xuất bởi SDMB và MBSAT. Việc sử dụng các vệ tinh   HEO rất thú vị, vì chúng được phủ  sóng tốt hơn  ở  khu vực đô thị  do góc độ  cao   hơn   và  giảm   số   lượng   các   khoảng  trống  cần   thiết.  Hiện   tại   XM   có   khoảng 3,5 triệu khách hàng, còn SIRIUS có 1,5 triệu khách hàng tại Hoa Kỳ. Khi chúng ta xem xét băng rộng di động trong vệ tinh, thị trường chính  dành cho phương tiện chở khách (máy bay [17], tàu thủy và tàu hỏa) ngoại trừ  hệ  thống INMARSAT BGAN, nơi có nhiều khách hàng hơn có thể  sử  dụng  dịch vụ băng thông. Dịch vụ Connexions của Boeing (CBB) [18] bắt đầu khai  thác các đường truyền băng thông với máy bay vào năm 2002 và hiện đang  theo đuổi các thị  trường khai thác hàng hải. Công nghệ   ở  đây tương tự  như  mô hình cực nhỏ (VSAT) với sự phân bố trong phương tiện. CBB đã lắp đặt  đầu cuối với một số  hãng hàng không. Các hệ  thống VSAT đã bắt đầu hoạt   động kinh doanh dầu ngoài khơi nhưng nhanh chóng mở rộng sang các tàu du   lịch biển và các nhà khai thác lòng biển, sử dụng băng tần Ku và cung cấp các   dịch vụ  thương mại, kỹ  thuật và điều hướng cho hành khách và phi hành  đoàn. Một số  nhà khai thác vệ  tinh thực hiện các dịch vụ  như  vậy. Sự  mở  rộng cũng có thể  được thực hiện đối với phương tiện giao thông đường bộ,  và các dự  án về  chương trình khung của EU 6 (FP6) DRIVE / OVERDRIVE   [19] và FIFTH [20] đã nghiên cứu thị trường xe lửa / xe tải / xe hơi. Các chương trình băng rộng nói chung vẫn còn bị   ảnh hưởng từ  hiệu   quả  sử  dụng khả năng vệ  tinh kém, gây ra tốn kém. Một giải pháp cho điều  này nằm xung quanh việc giới thiệu tiêu chuẩn DVB­S2 mới vào năm 2003  [21]. Về cơ bản là nhằm vào các hệ thống cố định, kết hợp các chương trình  mã hoá và điều chế thích ứng (ACM), khi hoạt động kết nối với kênh vệ tinh   phát đáp (RCS), cho phép tối ưu hóa các thông số truyền cho mỗi kết nối riêng  lẻ  phụ thuộc vào điều kiện đường dẫn. Một loạt các chương trình điều chế 
  16. 16 khóa chuyển pha PSK và PSK thích ứng (APSK) và mã LDPC cung cấp tối ưu   hóa gói theo gói để đáp ứng khi gặp phải các điều kiện kênh thay đổi bất lợi.   Tiêu chuẩn mới cho phép một loạt các đầu vào dữ  liệu bao gồm cả  IP. Kết   hợp sơ  đồ  ACM DVB­S2 với các vệ  tinh đa băng Ka và link hồi đáp DVB­ RCS, công suất vệ  tinh hiện tại có thể  tăng thêm 10 lần hoặc nhiều hơn.   Bước tiếp theo là giới thiệu tính di động vào tiêu chuẩn, sau đó sẽ  cho phép  sử dụng cho kết nối băng thông đa phương tiện di động như đã đề cập ở trên.  Hệ thống vệ tinh cố định Các hệ thống vệ tinh cố định vẫn tiếp tục đóng một vai trò quan trọng   trong mạng lõi, mà trên cơ sở điểm – điểm vẫn có thể cạnh tranh với các liên  kết mặt đất ở  một số  khu vực có phủ  sóng và giảm cơ  sở  hạ  tầng là những   lợi thế. Các nhà khai thác vệ tinh quốc tế lớn như INTELSAT, SES GLOBAL,  và EUTELSAT vẫn là những doanh nghiệp hoạt động hiệu quả. Điều thú vị  cần lưu ý là các mô hình kinh doanh của họ  đã phát triển; họ  đã chuyển từ  trạng thái IGO sang các công ty tư nhân. Họ đã chuyển từ bán băng thông sang   bán các kết nối dịch vụ ­ từ megahertz đến megabit mỗi giây ­ và bây giờ họ  có tài sản gồm cơ  sở  hạ  tầng cũng như  các vệ  tinh. Ngành công nghiệp đã  phát triển rất vừa phải, và phần lớn các vệ  tinh vẫn là loại phát đáp trong  suốt hoạt động ở các băng tần C, Ku và Ka, nhưng với các chùm tia ngày càng   phức tạp. Ống kỹ thuật số vẫn là thành công lớn sử dụng truy cập đa tần số  (FDMA), với TDMA và chuyển mạch kênh TDMA (SS­TDMA) nhưng chưa  thực sự  bắt kịp. Vệ  tinh vẫn giữ  được thể  loại rõ ràng, trừ  một số  vệ  tinh   quảng bá truyền hình kỹ  thuật số  đã chấp nhận chuyển mạch onboard giới   hạn. Quá trình xử lý toàn bộ trên bo mạch đã được xem là quá rủi ro do thiếu   tính linh hoạt của phân bổ  kênh và tốc độ  bit. Mặt khác, lưu lượng truy cập  đã thay đổi, với IP bây giờ là một tỷ lệ phần trăm lớn của toàn bộ  thông qua  các ISP. Vệ  tinh vẫn giữ được công suất từ  thấp đến trung bình, điều đó có  nghĩa là hiệu quả  sử  dụng phổ  tần vô tuyến vẫn thấp so với các hệ  thống 
  17. 17 mặt đất. Như  với di động, chúng ta đã thấy các vệ  tinh cố  định phát triển  riêng biệt với mặt đất trong cả hai tiêu chuẩn và các nhà khai thác nếu không   có sự cung cấp tích hợp. Sự  thành công của các tiêu chuẩn DVB­S / S2  ở  châu Âu cũng đã dẫn  tới các hệ  thống hai chiều kết hợp VSATs với hệ  thống RC hay băng Ku   hoặc Ka. Đây được coi là những cách khác để cung cấp các dịch vụ IP và kết  hợp các mạng lưới. Tuy nhiên, hiệu quả của việc phân phối IP vẫn còn thấp  so với mặt đất, nơi DSL không đối xứng (ADSL) vẫn chiếm  ưu thế   ở  các  nước phát triển. Mạng VSAT  ở Châu Âu chưa thực sự cất cánh như  mong đợi và chưa  đạt được quy mô hoặc khối lượng của các đối tác Hoa Kỳ; chi phí và hiệu  quả là những lý do chính. Vùng cuối cùng của việc sử dụng các vệ tinh cố định là trong truy cập  băng rộng, nơi phạm vi phu sóng và tốc độ thực hiện đã được khỏa lấp. Các   khu vực nông thôn và ngoại thành trên khắp châu Âu và đặc biệt ở Đông Âu là  những vùng mà các thiết bị đầu cuối vệ  tinh đã được triển khai rộng rãi cho   đến thời điểm này. Tuy nhiên, khi ADSL được triển khai dần dần ở các quốc  gia phát triển hơn, chi phí lớn hơn cho vệ tinh không thể cạnh tranh được. Có  nhiều thảo luận về khoảng cách kỹ thuật số (hay khoảng cách thiếu thốn), và   không còn nghi ngờ  gì về  việc các khu vực rộng lớn của châu Âu sẽ  không  được phủ sóng bởi các hệ thống mặt đất rẻ hơn. Tuy nhiên, nó sẽ có ý nghĩa   chính trị để giải quyết vấn đề  này bằng cách sử  dụng vệ  tinh, vì rất khó để  xem làm thế  nào chỉ  với kinh tế thuần túy, sẽ  có thể  hỗ  trợ  chuyển giao vệ  tinh.
  18. 18 Hình 1.2 Cấu trúc hệ thống tích hợp khả thi Vì vậy, thông điệp dành cho các hệ  thống vệ  tinh cố  định trong tương  lai là: • Tích hợp nhiều hơn với các hệ  thống mặt đất, vì vệ  tinh không thể  cạnh tranh ở các khu vực đô thị / ngoại thành, nhưng hiệu quả hơn ở các vùng  nông thôn. Thông qua các tiêu chuẩn tương thích sẽ cho phép các thiết bị rẻ hơn và   cung cấp linh hoạt. • Tăng hiệu quả hệ thống. Để giảm chi phí cho mỗi bit với các vệ tinh  có công suất hạn chế, họ  phải  ứng dụng công nghệ  tiên tiến trước các hệ  thống mặt đất để đạt được hiệu quả cần thiết từ 50­100%. • Cần xử lý oanboard linh hoạt với số lượng chùm liên kết lớn, nghĩa là  xoay quanh băng tần Ka và cao hơn. Xử  lý onboard phải cho phép các kênh   băng thông biến đổi được sử dụng dịch vụ linh hoạt.
  19. 19 • Quy mô hệ thống của các vệ tinh nên nhỏ hơn và công suất cao hơn, để  tránh những chi phí rất cao lên hệ thống. Các vệ tinh như vậy có thể kết nối   với quỹ đạo, và mở rộng và định hình lại khi nhu cầu tăng lên. 1.1.3 Đặc điểm của thông tin vệ tinh Thông tin vệ tinh tuy ra đời muộn nhưng được phát triển nhanh chóng,  bởi nó có nhiều lợi thế so với các hệ thống truyền thông khác, đó là:  Vùng phủ sóng rộng, chỉ cần ba vệ tinh là có thể phủ sóng toàn cầu.  Thiết bị phát sóng của hệ thống thông tin vệ tinh chỉ cần công suất nhỏ.  Việc lắp đặt hoặc di chuyển một hệ  thống thông tin vệ  tinh trên mặt   đất tương đối nhanh chóng, không phụ thuộc vào cấu hình mạng cũng như hệ  thống truyền dẫn.  Hệ thống thông tin vệ tinh có thể phục vụ nhiều dịch vụ khác nhau như  viễn thông thoại và phi thoại, thăm dò địa chất, truyền hình ảnh, quan sát mục   tiêu, nghiên cứu khí tượng, phục vụ quốc phòng an ninh…  Thông tin vệ tinh rất ổn định. Đã có nhiều trường hợp bão to, động đất  mạnh làm cho các phương tiện truyền thông khác mất tác dụng chỉ  còn duy   nhất thông tin vệ tinh hoạt động.  Các thiết bị  đặt trên vệ  tinh có thể  tận dụng năng lượng mặt trời để  cung cấp điện hầu như ngày lẫn đêm. Tuy vậy thông tin vệ tinh cũng có một số nhược điểm đó là:  Kinh phí ban đầu để phóng một vệ tinh vào quỹ đạo khá lớn.  Bức xạ  của sóng vô tuyến trong thông tin vệ  tinh bị  tổn hao lớn   trong môi trường truyền sóng. 1.1.4 Các dạng quỹ đạo của vệ tinh Quỹ đạo của vệ tinh là hành trình của vệ tinh trong không gian mà trong   đó vệ tinh được cân bằng bởi hai lực đối nhau. Hai lực đó là lực hấp dẫn của   trái đất và lực ly tâm được hình thành do độ cong của hành trình vệ tinh. Quỹ  đạo vệ  tinh có 3 thông số  quan trọng đó là: khoảng cách từ  vệ  tinh đến mặt 
  20. 20 đất, hình dạng và góc nghiêng so với mặt bình độ. Một thông số chung của nó  là mặt phẳng chuyển động của vệ tinh phải đi qua tâm trái đất. quỹ đạo của   vệ tinh nằm trên một mặt phẳng có thể  là hình tròn hoặc hình elip. Nếu quỹ  đạo là hình tròn thì tâm của quỹ đạo tròn trùng với tâm của trái đất. Hình 1.3: Các dạng quỹ đạo của vệ tinh Nếu quỹ đạo là hình elip thì có một đầu nằm xa trái đất nhất gọi là viễn   điểm (apogee) và đầu gần trái đất nhất gọi là cận điểm (perigee ) Quỹ đạo thông dụng hiện nay của vệ tinh là những dạng quỹ đạo sau đây a) Các quỹ đạo hình elip: Loại quỹ đạo này đảm bảo phủ sóng các vùng vĩ độ cao dưới một góc  ngẩng lớn. góc ngẩng lớn là đặc biệt cần thiết trong những ứng dụng như ­ Giảm thiểu việc chặn các tia do sự che khuất vệ tinh của các cao ốc và   cây cối ­ Việc bám vệ tinh được dễ dàng hơn. ­ Giảm bớt được tạp âm mà anten trạm mặt đất thu nhận do can nhiễu  từ các hệ thống thông tin vô tuyến dưới mắt đất.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2