
DƯỢC HỌC
BỐI MẪU

Xuất xứ:
Bản Kinh.
Tên Hán Việt khác:
Càn mẫu, Khổ thái, Khổ hoa, Không thảo (Biệt Lục) Manh (Nhĩ Nhã),
Manh dương thật (Bản Thảo Cương Mục), Biên lạp bách hợp (Nhật Bản),
Manh, Thương thảo, Không thái, Càn mẫu, Sách mẫu, Thương sách mẫu,
Mẫu long tinh, Ngõa lung ban, Du đông sách mẫu (Hòa Hán Dược Khảo)
Điềm Bối mẫu (Cương mục thập di).
Tên khoa học:
Fritillaria roylel Hook.
Họ khoa học:
Liliaceae.
Mô tả:
Bối mẫu gồm hai loại:
1. Xuyên bối mẫu (Fritillaria roylei Hook) là loại cây mọc lâu năm,
cao chừng 40-60cm. Lá gồm 3-6 lá mọc vòng, đầu lá cuộn lại. Hoa hình

truông chúc xuống đất, dài 3,5 đến 5cm, ngoài màu vàng lục nhạt. Có ở Tứ
xuyên, Trung Quốc, vì vậy gọi là Xuyên bối mẫu.
2. Triết Bối mẫu (Fritillaria verticillata Willd var Thunbegri Baker):
Cây này khác Xuyên bối mẫu ở chỗ lá hẹp hơn, 3-4 lá mọc vòng và dài 2-
3cm. Cây này có ở Triết giang nên gọi là Triết bối mẫu hoặc Tượng bối
mẫu.
Địa lý:
Chưa tìm thấy ở nước ta, vị này còn phải nhập ở Trung Quốc.
Thu hái, sơ chế:
(1) Xuyên bối mẫu: đào dò về vào khoảng giữa tháng 8-10, rửa sạch,
phơi trong râm cho khô.
(2) Triết bối mẫu: đào dò về sau tiết lập hạ, rửa sạch, rồi lựa loạt lớn
thì tách thành tép riêng, bỏ vỏ ngoài, cho vôi vào để hút chất nhựa, rồi phơi
nắng hoặc sấy khô gọi là ‘Nguyên Bảo Bối’, loại nhỏ gọi là ‘Châu Bối’. Loại
to thường tốt hơn loại nhỏ. Có nơi dùng thứ nhỏ màu trắng đầu nhọn là thứ
tốt nhất gọi là Tiêm Bối.

Phần dùng làm thuốc:
Thân hành, vảy.
Mô tả dược liệu:
1) Xuyên bối mẫu sản xuất ở Tứ xuyên, hình cầu dẹt hoặc gần hình
cầu viên chùy, hợp thành bởi 2 phiến lá vảy dầy mập lớn nhỏ và 2 phiến vảy
nhỏ bọc bên trong, dày khoảng 2-3 phân, vùng đầu nhọn, vùng dưới rộng,
hai phiến lá bên ngoài thể hiện hình tròn trứng trong lõm ngoài lồi hơn,
phẳng trơn màu trắng, 2-3 phiến cánh trong nhỏ dài hẹp màu vàng nhạt có
chất bột có chất bột. Loại sản xuất ở huyện Tòng xuyên như dạng bồng con,
hình tròn bóng trơn sạch sẽ, hơi ngọt, vị này tương đối tốt nên được gọi là
Chân trâu Bối mẫu.
2) Triết bối mẫu sản xuất ở Tượng Sơn (Triết Giang) cho nên người ta
gọi là Tượng Bối mẫu, hình tròn hơi giống bánh bao, họp thành 2 phiến lá
vảy dầy mập và vài phiến lá vảy nhỏ bọc bên trong, lớp ngoài phiến vảy mọc
dài như dạng nguyên bửu (vàng xưa) đường kính khoảng 2,5-3cm đến hơn
3cm, mặt ngoài màu trắng phấn, vùng vỏ tàng dư ghé màu vàng nhạt nâu.
Triết bối mẫu nguyên vẹn chính giữa có 2-3 lá vẩy nhỏ héo teo, mặt bên
ngoài màu xám trắng thường có vết đốm màu vàng nhạt. mặt bên trong màu

nâu có chất bột giòn. Các loại Bối mẫu trắng nặng nhiều bột, khô, không đen
không mốc mọt, hoặc vụn nát là tốt.
Bào chế:
+ Bối mẫu bỏ lõi, sao với gạo nếp cho tới khi vàng, sàng bỏ gạo nếp,
lấy bối mẫu cất dùng. Hoặc sau khi bỏ lõi, tẩm với nước gừng sao vàng (Lôi
Công Bào Chích Luận).
+ Xuyên bối mẫu rút bỏ lõi, sấy khô tán bột dùng sống hoặc tẩm với
nước gừng sao vàng tán bột, khi dùng hoà nước thuốc thang đã sắc mà uống
(loại này không dùng sắc). Thổ bối mẫu loại củ tròn không nhọn đầu. Rửa
sạch, ủ, bào mỏng, phơi khô hoặc tẩm nước gừng sao vàng (Loại này thường
dùng sắc với thuốc) (Trung Dược Học).
Bảo quản:
Để nơi khô ráo, đựng trong thùng lọ, có lót vôi sống dễ bị mọt.
Tác dụng:
+ Xuyên bối mẫu có tác dụng nhuận phế, hóa đàm, chỉ khát, tán kết
(Trung Dược Học).

