Đường lối ngoại giao của Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975)
lượt xem 162
download
Cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của đế quốc Mỹ là cuộc chiến tranh cục bộ lớn nhất thế kỷ này. Xét về quy mô lực lượng tham gia, phương tiện chiến tranh hiện đại được huy động và tính chất ác liệt theo chiều hướng ngày càng tăng suốt 21 năm, đây là cuộc đụng đầu lịch sử giữa đế quốc Mỹ với nhân dân Việt Nam...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Đường lối ngoại giao của Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 - 1975)
- ĐƯỜNG LỐI NGOẠI GIAO CỦA VIỆT NAM TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC(1954-1975) Lời mở đầu I. Cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của đế quốc Mỹ là cuộc chiến tranh cục bộ lớn nhất thế kỷ này. Xét về quy mô lực lượng tham gia, phương tiện chiến tranh hiện đại được huy động và tính chất ác liệt theo chiều hướng ngày càng tăng suốt 21 năm, đây là cuộc đụng đầu lịch sử giữa đế quốc Mỹ với nhân dân Việt Nam - một cuộc đụng đầu, xét về mặt vật chất, là không cân sức. Bởi vì nước Mỹ, một trong những nước lớn nhất và mạnh nhất hành tinh đi xâm lược nước Việt Nam nhỏ và nghèo, lại bị tàn phá trong cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp, chưa kịp hồi phục. Quân đội Mỹ trong vòng 200 năm kể từ khi Hợp chủng quốc Hoa Kỳ thành lập đã tiến hành và tham gia 8 cuộc chiến tranh lớn, nhưng chưa lần nào bại trận. Trong cuộc chiến tranh xâm l ược Việt Nam, Mỹ đã ứng dụng những thành tựu khoa học-kỹ thuật quân sự tiên tiến nhất, mới nhất (trừ vũ khí nguyên tử), sử dụng tối đa sức mạnh và tiềm lực của nước Mỹ chống Việt Nam. Ngoài ra còn có các nước đồng minh của Mỹ tham gia đóng góp lương thực, thuốc men, trang bị kỹ thuật và huấn luyện..., giúp Mỹ tiến hành chiến tranh. Với sức mạnh “không thể tưởng nổi” của nước Mỹ, giới cầm quyền Nhà Trắng, Lầu Năm Góc tin chắc sẽ chiến thắng một cách dễ dàng. Họ muốn chứng minh cho thế giới thấy rằng Mỹ đã tham chiến thì không có một lực lượng chống đ ối nào mà không b ị đè b ẹp va tiêu diệt. Lúc đầu, nhiều người cho rằng trong cuộc chiến đấu không cân sức này, nhân dân Việt Nam khó có thể đứng vững. Song, với thắng lợi của cuộc kháng chiến, nhân dân Việt Nam đã làm cho cả thế giới kinh ngạc. Có rất nhiều yếu tố tạo nên s ự thắng l ợi vẻ vang này trong đó thì hoạt động đối ngoại và đấu tranh ngoại giao là một y ếu tố quan trọng đóng góp cho thắng lợi này. Với đường lối và chính sách ngoại giao đúng đắn, Đảng ta đã xây dựng được một mặt trận nhân dân thế giới rộng rãi đoàn kết ủng hộ Việt Nam chống Mỹ xâm lược. Cách mạng Việt Nam đã tranh thủ tập hợp đ ược một lực lượng quốc tế mạnh mẽ góp phần đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn. Trang 1
- II. Đường lối ngoại giao từ 1954-1964 1/ BỐI CẢNH LỊCH SỬ: Thuận lợi: Sau Chiến tranh thế giới lần thứ II, mục tiêu chủ yếu của Mỹ là tìm cách ngăn chặn và tiêu diệt hệ thống chủ nghĩa xã hội nhưng âm mưu đó chưa thể thực hiện được khi hệ thống chủ nghĩa xã hội đang lan rộng từ châu Âu sang châu Á và ngày càng phát triển mạnh. Liên Xô - trụ cột, thành trì của chủ nghĩa xã hội không bị suy yếu mà trái lại còn hùng mạnh và vững chắc hơn trước. Sức mạnh về kinh tế và quốc phòng của Liên Xô đã làm đảo lộn chiến lược “trả đũa ồ ạt” của đế quốc Mỹ. Mùa hè năm 1955, Chính phủ các nước Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp họp ở Giơnevơ Liên Xô đã góp phần tích cực làm cho Hội nghị nhất trí tuyên bố cùng nhau làm dịu đi tình hình thế giới, gạt bỏ mối đe doạ của chiến tranh. Tình hữu nghị của Liên Xô và các nước Á - Phi ngày càng được củng cố, tạo điều kiện thuận lợi cho việc hiểu biết chính sách đối ngoại hoà bình hữu nghị và thiện chí của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác. Các nước Đông Âu là những nước bị tàn phá nặng nề trong cuộc Chiến tranh th ế giới lần thứ hai. Sau khi hoà bình được lập lại, với sự giúp đỡ của Liên Xô, nhân dân lao động ở những nước này xây dựng lại đất nước, khôi phục và phát triển nền kinh tế quốc dân với tốc độ khá nhanh. Cùng với Liên Xô, Trung Quốc cũng bước vào thời kỳ cách mạng xã hội chủ nghĩa, thực hiện nhiệm vụ đưa Trung Quốc từ một nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Chính quy ền nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã đoàn kết được toàn dân hướng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ những thành quả cách mạng đã giành được. Trong những năm 1954-1955, tình hữu nghị giữa Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa với các nước Á - Phi được mở rộng và phát triển lên một bước mới. Quan hệ hoà bình, hữu nghị, hợp tác Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu trong những năm 50 đã thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của cách mạng thế giới. Cùng với sự lớn mạnh của hệ thống xã hội chủ nghĩa, phong trào giải phóng dân tộc có những bước phát triển mới, bao trùm các nước Trung Đông, lan nhanh sang Châu Phi và Mỹ Latinh, làm tan rã từng mảng hệ thống thuộc địa, đưa nhiều quốc gia bước vào thời kỳ độc lập về chính trị, thoát khỏi tình trạng lệ thuộc về kinh tế. Tháng Trang 2
- 4-1955, Hội nghị Băngđung được triệu tập với sự tham gia của 29 nước Á, Phi. Hội nghị đã đánh dấu việc các nước Á, Phi quyết định bước lên vũ đài lịch sử, đoàn kết với nhau từ những phong trào lẻ tẻ, tách rời, liên kết với nhau trong một mặt tr ận thống nhất của các dân tộc bị áp bức chống chủ nghĩa đế quốc thực dân. Sau Hội nghị Băngđung, phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ như vũ bão, nhiều nước Á, Phi, Mỹ Latinh giành độc lập ở mức độ khác nhau. Châu Á - đối tượng xâm lược của các đế quốc châu Âu và Bắc Mỹ từ hàng trăm năm, cuộc đấu tranh của nhân dân các dân tộc ở đây được tiếp thêm sức mạnh rõ rệt, đặc biệt là ở Đông Dương, sự đoàn kết gắn bó giữa nhân dân ba nước Việt Nam – Lào – Campuchia càng thêm chặt chẽ, để chuẩn bị đối phó với những thủ đoạn xâm lược kiểu thực dân mới mà đế quốc Mỹ đang triển khai tích cực. Với việc công nhận hàng loạt các nước Á, Phi, Mỹ Latinh giành độc lập thêm vào đó là sự phát triển mạnh mẽ của phong trào vì hoà bình dân chủ và tiến bộ của giai cấp công nhân ở các nước tư bản các nước thì đế quốc phương Tây phải thừa nhận sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên toàn thế giới. Như vậy, có thể thấy rằng, sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, tình hình thế giới có những thuận lợi đáng kể: chủ nghĩa xã hội đã hình thành hệ thống và phát triển mạnh mẽ khắp toàn cầu, phong trào giải phóng dân tộc và phong trào dân chủ vì hoà bình, tiến bộ trên thế giới nổ ra rộng rãi, sôi nổi. Sức mạnh tổng hợp của ba y ếu tố trên đã tạo nên thế tiến công toàn diện vào chủ nghĩa đế quốc, cổ vũ phong trào cách mạng thế giới nói chung, phong trào cách mạng ở Việt Nam thời kỳ 1956-1965 nói riêng. Khó khăn: đế quốc Mỹ có tiềm lực về kinh tế, quân sự hùng mạnh, âm mưu làm bá chủ thế giới với các chiến lược toàn cầu phản cách mạng. Sau Chiến tranh thế giới II, Mỹ thực hiện chiến lược toàn cầu, ráo riết chạy đua vũ trang, can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của các nước, tổ chức đảo chính, dựng lên những chính quyền bù nhìn tay sai. Chiến lược toàn cầu của Mỹ gồm có chiến lược chung (chiến lược tổng quát) và chiến lược quân sự toàn cầu. Tiến hành bao vây cấm vận về kinh tế, xúc tiến thành lập các khối quân sự, xây dựng hàng ngàn căn cứ hải lục không quân, chạy đua vũ trang… để nhanh chóng có thể thực hiện được âm mưu bá chủ toàn cầu của mình. Sau một thời gian dài tiến hành chiến tranh lạnh và chạy đua vũ trang, cuộc ganh đua giữa hai cường quốc Xô - Mỹ đã bắt đầu chững lại, thay vào đó là xu thế hoà hoãn. Xu Trang 3
- thế này được khẳng định rõ hơn với Hiệp định Đình chiến ở Triều Tiên và Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương. Từ sau Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ XX (1956), N.Khơrútxôp chính thức lên nắm quyền, đưa ra kế hoạch nhanh chóng hoàn thành xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa cộng sản trong vòng 20 năm. Để thực hiện mục tiêu đó, Liên Xô đã đề nghị với Mỹ giảm bớt chạy đua vũ trang, giữ nguyên trạng Châu Âu với khẩu hiệu “Thi đua hoà bình”, “Chung sống hoà bình, tập trung xây dựng kinh tế, ổn định tình hình chính trị”. Đối với phong trào cách mạng thế giới, Liên Xô ch ủ tr ương đấu tranh giành chính quyền bằng phương pháp hoà bình. Nhìn chung, lúc này Đông Nam Á nói chung và Đông Dương nói riêng không phải là mối quan tâm hàng đầu của Liên Xô. Còn đối với Việt Nam, Liên Xô tự đặt vị trí của mình là quan sát viên, tránh đụng đầu với Mỹ. Liên Xô thúc đẩy việc thi hành các đi ều khoản của Hiệp định Giơnevơ về tập kết, chuyển quân, giải phóng miền Bắc, viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hoà khôi phục và xây dựng kinh tế. Coi miền Nam Việt Nam là một bộ phận của phong trào độc lập dân tộc, Liên Xô muốn Việt Nam đấu tranh chính trị, pháp lý để từng bước giải quyết vấn đề miền Nam. Liên Xô đã phản ứng một cách dè dặt, không dứt khoát với việc Mỹ - Diệm phá hoại Hiệp định Giơnevơ. Năm 1957, Liên Xô đề nghị kết nạp cả miền Nam và Bắc Việt Nam vào Liên Hợp Quốc. Điều đó chứng tỏ trên thực tế chủ trương hoà hoãn Xô - Mỹ buộc Liên Xô thừa nhận khu vực ảnh hưởng của Mỹ ở Châu Á. Sau khi hoà bình lập lại ở Đông Dương, Trung Quốc tăng cường quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa, duy trì và mở rộng quan hệ với Liên Xô, tỏ thái độ hoà hoãn với Mỹ và tìm cách bình thường hoá với một số nước phương Tây. Trên con đường tập hợp lực lượng, Trung Quốc chủ trương lấy vấn đề ủng hộ Việt Nam làm khẩu hiệu thu phục nhân tâm. Trung Quốc xem Việt Nam là đối tác trung gian tốt nhất để có thể đ ưa ra đàm phán với Liên Xô và Mỹ khi cần thiết. Để khống chế được Việt Nam, Trung Quốc vận động Việt Nam thi hành tốt Hiệp định Giơnevơ năm 1954, viện trợ cho Việt Nam hàn gắn vết thương chiến tranh. Riêng đối với miền Nam, Trung Quốc cho rằng ta nên trường kỳ mai phục, không nên nóng vội phát động đấu tranh vũ trang. Nhiệm vụ trước mắt của cách mạng Việt Nam là tập trung xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc vững mạnh, trở thành cơ sở vững chắc cho cách mạng cả nước. Ngay trong thời gian Hội nghị Giơnevơ diễn ra Trung Quốc đã nhiều lần ngăn cản mục đích của Việt Minh bằng chính sách cổ điển đó của họ. Lập trường của Trung Quốc là “Trung Quốc có thể chấp nhận Việt Nam có hai chính quyền (Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà và Trang 4
- Chính phủ Bảo Đại)”. Những người lãnh đạo Trung Quốc muốn chấp dứt chiến tranh ở Việt Nam theo giải pháp kiểu Triều Tiên,Trung Quốc hy vọng tạo một khu đệm ở Đông Nam Á, ngăn chặn Mỹ vào thay thế Pháp ở Đông Dương, bảo bảo an ninh biên giới phía Nam của Trung Quốc. Song song với xu thế hoà hoãn Xô-Mỹ, trong thời gian này, lịch sử thế giới đã chứng kiến những bất đồng nảy sinh trong phe xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là mâu thuẫn Xô - Trung. Thực ra, mâu thuẫn này đã xuất hiện từ năm 1945 sau khi Hội nghị Ianta diễn ra, Mao Trạch Đông đã không tán thành việc đi theo đường lối của Liên Xô, ông ch ủ trương dựa vào Mỹ để tiến lên. Mâu thuẫn Xô - Trung đã làm cho tình hình thế giới phức tạp, từ một trụ cột của các nước xã hội chủ nghĩa, Trung Quốc đã xem Liên Xô là kẻ thù thứ nhất của phong trào cách mạng thế giới. Mối quan hệ Liên Xô - Trung Quốc và Mỹ đã có những tác động mạnh mẽ tới Việt Nam nói riêng, các nước thuộc đ ịa nói chung thời kỳ này. Cả Liên Xô và Trung Quốc trong xu thế hoà hoãn với Mỹ và mâu thuẫn với nhau như vậy đều muốn sử dụng Việt Nam như một lá bài trong các cuộc thương thuyết vì quyền lợi của họ. Trong hoàn cảnh như vậy, Việt Nam chịu sức ép rất lớn từ cả hai phía Liên Xô, Trung Quốc và Việt Nam sẽ phải có chính sách chiến l ược như thế nào trong một tổng thể quan hệ Việt Nam - Trung Quốc - Liên Xô - Mỹ chồng chéo, đan xen nhau. Đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam thời kỳ này phải trên cơ sở phân tích một cách hợp lý, phù hợp với từng nước, dựa trên nguyên tắc đối ngoại chung làm sao vừa thu hẹp được những bất đồng giữa các nước đồng minh vừa giữ vững được đường lối độc lập, tự chủ của mình. 2/QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI a)Những chủ trương mới của Đảng về đối ngoại (từ 7/1954 đến 7/1956): Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khoá II), từ ngày 15 đ ến ngày 18-7-1954, đã xác định: đế quốc Mỹ là kẻ thù chính, nguy hiểm trước mắt của nhân dân Việt Nam. Đảng sớm xác định được kẻ thù mới của cách mạng và ngày càng nhận rõ âm mưu cơ bản của đế quốc Mỹ là tiêu diệt bằng được phong trào yêu nước và cách mạng của nhân dân Việt Nam, chia cắt lâu dài đất nước Việt Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới, căn cứ quân sự của Mỹ. Với thắng lợi của Hiệp định Giơnevơ, đồng bào miền Nam được sống trong hoà bình, cán bộ, chiến sỹ, đồng bào miền Nam đã dày dạn trong chín năm kháng chi ến, có nhiều kinh nghiệm và quyết tâm đấu tranh; các cơ sở Đảng và quần chúng phát tri ển Trang 5
- mạnh và trưởng thành trong kháng chiến. Tuy vậy nhưng lúc này, đế quốc Mỹ, thực dân Pháp và bọn thân Mỹ không để cho ta kiến thiết hoà bình và thống nhất toàn quốc bằng tổng tuyển cử tự do một cách thuận lợi. bọn chúng tiến hành xây dựng chính quyền tay sai độc tài phát xít Ngô Đình Diệm, ra sức xây dựng lại và nắm trọn quyền chỉ huy quân ngụy trước đó là của Pháp, tổ chức các đảng phái phản động thân Mỹ. Biện pháp chiến lược cơ bản của chúng là thực hành chính sách“tố cộng, diệt cộng”, tập trung đánh phá cách mạng miền Nam vô cùng tàn khốc. Sau 2 tháng, ngày 5-9-1954, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp Hội nghị bổ sung và cụ thể hoá Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 của Ban chấp hành Trung ương Đảng. Hội nghị đã chỉ ra hai đặc điểm lớn ảnh hưởng đến đường lối, chủ trương cách mạng của nước ta là Việt Nam đang trong giai đoạn từ chiến tranh chuyển sang hoà bình và Nam Bắc tạm thời phân làm 2 vùng. Vì vậy, nhiệm vụ chung của Đảng là đoàn kết lãnh đạo nhân dân đấu tranh đòi thi hành hiệp định đình chiến để cũng cố hòa bình, ra sức hoàn thành cuộc cải cách ruộng đất, xây dựng cơ sở vật chất l ực l ượng ở mi ền Bắc, giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh ở miền Nam,thực hiện thống nhất hoàn thành độc lập dân tộc, dân chủ trong toàn quốc. Hội nghị xác định nhiệm vụ cụ thể của cách mạng miền Nam là lãnh đạo nhân dân miền Nam thực hiện Hiệp định đình chiến, củng cố hoà bình, thực hiện tự do dân chủ (tự do ngôn luận, tự do hội h ọp, t ự do t ổ chức, tự do đi lại...), cải thiện dân sinh, thực hiện thống nhất và tranh thủ đ ộc l ập. Đồng thời, lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống hoạt động khủng bố, đàn áp, phá cơ sở của ta, bắt bớ cán bộ ta và quần chúng cách mạng, chống những hoạt động tiến công của địch, ngụy, giữ lấy quyền lợi quần chúng đã giành được trong thời kỳ kháng chiến, nhất là ở những vùng căn cứ địa và vùng du kích cũ của ta. Với phương châm đấu tranh đó là kết hợp công tác hợp pháp và công tác không hợp pháp, l ợi dụng các hình th ức t ổ chức hoạt động hợp pháp để tập hợp và lãnh đạo quần chúng đấu tranh. Trong hoàn cảnh hiện tại cần phải hết sức bình tĩnh để phân tích tình hình, trên cơ sở những phân tích khoa học trước yêu cầu của thực tiễn mới có thể có đ ược đối sách thích hợp. Cuộc đấu tranh ở Việt Nam bây giờ đã không còn mang ý nghĩa đơn thuần của một cuộc chiến tranh cục bộ nữa mà ngày càng có ý nghĩa của sự đ ối đầu mang tính chất quốc tế. Những khó khăn trong nước cùng với những điều kiện bất lợi khác của tình hình cách mạng trên thế giới lúc này chưa thể cho phép Đảng ta phát động một cuộc chiến tranh mới để thống nhất đất nước. Cho nên lúc này chúng ta vừa giữ gìn lực Trang 6
- cách mạng đồng thời tiến hành đấu tranh liên tục trong khuôn khổ của hiệp định Giơnevơ trong đó thì hình thức đấu tranh chính trị là chủ yếu. Hội nghị Giơnevơ đã làm cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà có thêm những khả năng mới để mở rộng quan hệ với nước ngoài. Để cụ thể hoá những nhiệm vụ chung đó, Bộ Chính trị ra bản chỉ thị về tình hình và nhiệm vụ công tác mới cho Đảng bộ miền Nam (9-1954), trong đó có công tác ngoại giao và chính sách đối ngoại. Chỉ thị khẳng định “Chính sách ngoại giao của ta là xây dựng và phát triển quan hệ ngoại giao với bất cứ nước nào dựa theo nguyên tắc bình đẳng, hai bên đều có lợi và tôn trọng lãnh thổ, chủ quyền của nhau. Phương châm chính sách ngoại giao của ta là chống chính sách chiến tranh của đế quốc Mỹ, chống Mỹ tổ chức khối xâm lược Đông Nam Á, củng cố hoà bình ở Đông Dương và bảo vệ hoà bình Đông Nam Á và toàn thế giới”. Trên cơ sở phương châm đó, “mối quan hệ giữa Việt Nam dân chủ Cộng hoà với nước Pháp cần tiếp tục dùng hình thức thương lượng và đàm phán để điều chỉnh, tránh quá găng để đến nỗi tan vỡ. Tranh thủ đôi bên cử đại diện đóng ở kinh thành của nhau”. Đồng thời, nên “mở rộng quan hệ kinh tế, mậu dịch với nước Pháp trên cở sở bình đẳng và cùng có lợi. Quan hệ với nhân dân nước Pháp cần được tăng cường... Làm cho nhân dân hai nước Việt và Pháp liên hợp chặt chẽ hơn nữa để củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất đất nước, phản đối và ngăn ngừa sự gây hấn của Mỹ và phe thân Mỹ”. Bên cạnh đó, cần phải tranh thủ mở rộng quan hệ với những nước Đông Nam Á như Ấn Độ, Nam Dương, Miến Điện... “làm cho Chính phủ những nước đó đồng tình với nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà hoặc ít nhất cũng giữ trung lập, có thiện cảm đối với nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và có thái độ khinh bỉ chính quyền Bảo Đại, Ngô Đình Diệm”. Chính phủ Việt Nam cũng tìm mọi cách tăng cường tình hữu nghị giữa nước ta và hai nước Lào, Cao Miên; tăng cường đoàn kết giữa nhân dân Việt Nam, Lào và Cao Miên. Xây dựng mối quan hệ hoà hoãn với Lào, Cao Miên cùng với việc tiếp tục phát triển và củng cố tình hữu nghị với Liên Xô, Trung Quốc và tất c ả các n ước XHCN trên thế giới là điều kiện quan trọng để củng cố hoà bình ở Đông Dương và tranh thủ độc lập, thống nhất của nước ta. Trước tình hình đế quốc Mỹ ngày càng bộc lộ rõ âm mưu và bản chất ra s ức phá hoại Hiệp định Giơnevơ, xây dựng chính quyền thực dân mới ở miền Nam, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7(8/1955) chủ trương đẩy mạnh cuộc đấu tranh chính trị của nhân dân miền Nam. Hội nghị khẳng định kẻ thù cụ thể trước mắt Trang 7
- của nhân dân ta hiện nay là “đế quốc Mỹ, phái thực dân Pháp phản hiệp đ ịnh và b ọn Ngô Đình Diệm, đế quốc Mỹ là kẻ thù đầu sỏ và nguy hại nhất” . Vì vậy, mục tiêu đấu tranh trước mắt của cách mạng vẫn không thay đổi “chĩa mũi nhọn đấu tranh vào đ ế quốc Mỹ; triệt để lợi dụng mâu thuẫn giữa Mỹ và Pháp, giữa bọn thân Mỹ và bọn thân Pháp, giữa phái thực dân Pháp thân Mỹ và những phần tử thực dân Pháp chống Mỹ. Đoàn kết bất cứ người nào ta có thể đoàn kết được, tranh thủ bất cứ người nào ta có thể tranh thủ được, trung lập bất cứ người nào ta có thể trung lập được, cốt nhằm phân hoá kẻ thù đến cao độ và cô lập chúng, đồng thời kiếm thêm nhiều bạn cả trong nước và ngoài nước”. Trên cơ sở đó, Hội nghị chủ trương: “Đẩy mạnh công tác ngoại giao, tăng cường đoàn kết hữu nghị với các nước bạn, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của nhân dân thế giới” và coi đó là “một trong những công tác lớn”. Phương châm chính sách ngoại giao của ta là “Củng cố không ngừng tình đoàn kết hữu nghị với Liên Xô, Trung Quốc và các nước Dân chủ nhân dân; thực hiện việc phối hợp chặt chẽ giữa các nước anh em trong hoạt động quốc tế và trong đấu tranh ngoại giao; giao hảo với bất cứ nước nào cùng ta công nhận năm nguyên tắc chung hoà bình; kiên quyết và bền bỉ dùng cách thương lượng để giải quyết mọi vấn đề tranh chấp quốc tế (đồng thời ra sức củng cố quốc phòng để sẵn sàng đập tan mọi kế hoạch gây chiến của đ ế quốc Mỹ và phe lũ hiếu chiến)”. Để thực hiện phương châm, chính sách trên, cần chuẩn bị cử đại sứ hay đại biểu đi các nước anh em mà ta chưa cử đến, chú trọng đặt quan hệ ngoại giao bình thường với hai chính phủ nhà vua Lào và Cao Miên, với nước Pháp và các nước Đông Nam Á. Đồng thời xúc tiến công tác tuyên truyền quốc tế, nhằm tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân thế giới đối với cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta, làm cho nhân dân thế giới nhận rõ lập trường của ta là đứng về phe dân chủ nhân dân và xã hội chủ nghĩa do Liên Xô lãnh đạo. Thời kỳ mới của cuộc đấu tranh chính trị đã đặt trước nhân dân ta một nhiệm vụ quan trọng là “đấu tranh kiên quyết và bền bỉ để thực hiện thống nhất nước nhà bằng tổng tuyển cử tự do trong toàn quốc, đồng thời ngăn ngừa chiến tranh trở lại Đông Dương” Về vấn đề này, lập trường, quan điểm của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam là hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ. Việt Nam phải được thực sự thống nhất, vì có thống nhất mới có điều kiện hoàn thành độc lập và dân chủ trong c ả n ước. Vì vậy, chủ trương của chúng ta hiện nay là đấu tranh để hoà bình, thống nhất n ước nhà. Tuy nhiên, cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà bằng phương pháp hoà bình lại là Trang 8
- một cuộc đấu tranh vô cùng gian khổ và phức tạp. Trong hoàn cảnh đất nước bị chia cắt với hai chế độ chính trị, hai chế độ xã hội khác nhau, muốn giành thắng lợi, việc cấp thiết là mở rộng và củng cố Mặt trận Dân tộc thống nhất trong cả nước, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp, đảng phái, các dân tộc, các tôn giáo quyết tâm đè bẹp âm mưu chia cắt lâu dài Việt Nam của đế quốc Mỹ. Vì vậy “Mặt trận dân tộc thống nhất cần có một bản cương lĩnh chung phù hợp với tình hình thực tế của hai miền, làm cơ sở tập hợp mọi lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình trong cả nước để đấu tranh chống đế quốc Mỹ và bọn thân Mỹ, bọn chia rẽ, bọn ngoan cố, đặng củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất nước nhà, trên cở sở độc lập và dân chủ, tiến tới xây dựng một n ước Vi ệt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh” . Phương châm chung là thống nhất dần từng bước, thống nhất một phần còn hơn không thống nhất, thống nhất dần từng bước còn hơn là chia cắt trường kỳ. Cần tuy ệt đối khắc phục quan điểm sai lầm cho rằng nước Việt Nam phải hoàn toàn thống nhất về mọi mặt ngay sau khi tổng tuyển cử; hoặc là nước Việt Nam phải thống nhất trên cơ sở hoàn toàn dân chủ mới ngay từ đầu. Bản Cương lĩnh chung đề ra chính sách c ủa nước Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực và chính sách về ngoại giao: “Chính phủ Trung ương sẽ theo đuổi một chính sách ngoại giao dựa trên năm nguyên tắc chung sống hoà bình, một mặt đảm bảo độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của nước nhà, một mặt phát triển quan hệ kinh tế và văn hoá với các quốc gia trên nguyên t ắc bình đẳng và hai bên cùng có lợi, đồng thời kiên quyết bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới”, bản Cương lĩnh chung giúp chúng ta không những tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ tích cực của nhân dân Pháp và nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới mà còn tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ của chính phủ một số nước, cô lập đế quốc Mỹ, tạo điều kiện thuận lợi ở ngoài nước cho sự nghiệp thống nhất Tổ quốc. b)Những chủ trương của Đảng về đối ngoại từ 7/1956 đến 1958 Đến giữa năm 1956, Mỹ - Diệm bộc lộ rõ âm mưu chiếm đóng và chia cắt l ầu dài miền Nam Việt Nam. Tất cả mọi hoạt động chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá của chúng ở miền Nam từ trước đến nay và sau này đều nhằm thực hiện âm mưu thâm độc đó. Để lừa bịp dư luận, chính quyền miền Nam đã tuyên bố những điều xảo trá về "hoà bình, thống nhất, tổng tuyển cử tự do..." song bản chất của chúng vẫn là không công nhận Hiệp định Giơnevơ; cơ sở pháp lý của Hiệp định Giơnevơ bị Mỹ - Diệm phá hoại thêm một bước nữa, làm cho tình hình thêm nghiêm trọng. Mỹ - Diệm ra sức phá hoại Hiệp định Giơnevơ, khủng bố trả thù những người kháng chiến, bóp nghẹt các quyền Trang 9
- tự do dân chủ gây kho chiến tranh, chuyển vũ khí vào miền Nam, cắt đứt quan hệ Bắc - Nam. Mỹ - Diệm thúc ép Pháp rút quân khỏi miền Nam, đồng thời tìm mọi cách chèn ép và nắm dần cơ sở kinh tế của Pháp. Chúng liên tiếp tiến hành chính sách "tố cộng, diệt cộng", đàn áp các phong trào cách mạng, Mỹ - Diệm khủng bố vô cùng dã man nhằm phân hoá giữa Đảng và quần chúng, buộc những người lưng chừng phải có thái độ dứt khoát, buộc những người đầu hàng phải thật sự làm tay sai cho chúng. Mỹ - Diệm đã đẩy cách mạng miền Nam vào thời kỳ khó khăn chưa từng có. Một mặt Mỹ - Diệm xúc tiến việc hất cẳng Pháp ra khỏi miền Nam nhưng mặt khác do sức đấu tranh của nhân dân ta và dư luận thế giới, chúng phải ra vẻ mềm dẻo, khéo léo để lừa gạt dư luận. Về phía Pháp, lúc này Pháp đã hoàn toàn bất l ực, chấp nhận rút quân nhằm cứu vãn một chút quyền lợi kinh tế còn lại ở miền Nam và giữ các quyền lợi hiện có ở Cao Miên và Lào. Đế quốc Anh tuy mâu thuẫn với Mỹ nhưng vẫn thống nhất ở chỗ chống phá cách mạng Việt Nam, không muốn có cuộc tổng tuyển cử tháng 7-1956 và đồng tình với Mỹ trong việc Pháp rút quân. Như vậy, giữa Anh, Mỹ, Pháp lúc này đã có sự thoả hiệp với nhau nhằm mục tiêu phá hoại Hiệp đ ịnh Giơnevơ, phá hoại cuộc tổng tuyển cử 1956. Tình hình trên đây cũng cho ta thấy rõ, cuộc đ ấu tranh thực hiện Hiệp định Giơnevơ thống nhất nước nhà là cuộc đấu tranh gian khổ, phức tạp, phải hết sức dẻo dai, bền bỉ. Song bên cạnh đó, lúc này cách mạng miền Nam cũng đứng trước nhiều thuận lợi căn bản: đó là cuộc đấu tranh của ta th ực hi ện th ống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập, dân chủ và bằng phương pháp hoà bình ngày càng được nhân dân trong nước tham gia tích cực, được nhân dân thế giới đồng tình và ủng hộ. Lực lượng cách mạng miền Nam ngày càng lớn mạnh trên cơ sở bản Cương lĩnh Mặt trận Tổ quốc Việt Nam còn bọn đế quốc Mỹ, Anh, Pháp tuy tạm thời thoả thuận với nhau để chống cách mạng Việt Nam nhưng mâu thuẫn trong nội bộ các n ước đ ế quốc với nhau về căn bản không giải quyết được. Trung ương Đảng nhấn mạnh những nhiệm vụ quan trọng lúc này là ra sức củng cố miền Bắc, giữ vững và phát triển cuộc đấu tranh miền Nam, tăng cường đấu tranh ngoại giao, và trước mắt là phải hết sức tăng cường cuộc đấu tranh đ ể khôi phục và phát triển quan hệ bình thường giữa miền Nam và miền Bắc. Trong đó, việc tăng cường đấu tranh ngoại giao được đặc biệt chú trọng. Cho nên chủ trương lúc này của Đảng ta là tăng cường việc tuyên truyền ra ngoài nước, vạch trần âm mưu của Mỹ - Diệm ở miền Nam phá hoại hoà bình, thống nhất và vi phạm Hiệp định Giơnevơ; nêu cao ý chí hoà bình của ta và chính sách tôn trọng Hiệp đ ịnh Giơnevơ c ủa ta. Yêu c ầu Trang 10
- thực tiễn lúc này cho thấy làm thế nào để vừa phát huy được sức mạnh của quần chúng nhân dân, vừa tranh thủ tối đa sự giúp đỡ, ủng hộ của các nước bạn, vừa kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để tạo nên sức mạnh tổng hợp chiến đấu và chiến thắng kẻ thù. Trước tình hình địch thẳng tay khủng bố, tàn sát phong trào cách mạng, nhiều vấn đề xuất hiện trong thực tiễn đấu tranh của nhân dân miền Nam, cuối 1956 - đầu 1957, đồng chí Lê Duẩn trong bản Dự thảo đề cương cách mạng miền Nam, trong đó khẳng định ba nhiệm vụ quan trọng nhất làm đường lối chung cho toàn bộ công tác cách mạng hiện nay của toàn quốc là: củng cố thật vững chắc miền Bắc, đẩy mạnh phong trào cách mạng miền Nam và tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân yêu chuộng hoà bình, dân chủ, độc lập dân tộc trên thế giới. Ba nhiệm vụ ấy không thể tách rời, có mối liên quan mật thiết với nhau. Có làm tròn ba nhiệm vụ ấy, cách mạng giải phóng dân tộc của nhân dân ta mới đi đến thành công. c)Những chủ trương của Đảng về đối ngoại 1959-1960: Bước sang năm 1959, Mỹ - Diệm đặc biệt chú trọng tăng cường khủng bố đàn áp ở Nam Bộ tập trung lực lượng phản động càn quét ở từng nơi, gây cho nhân dân và cơ sở ta nhiều thiệt hại, ở những vùng có cơ sở phản động, chúng chú trọng dùng mật thám đi sâu tìm cơ sở ta để đánh cho trúng đích. Mỹ - Diệm dùng cách lừa bịp, mị dân để tạo cho chúng một cơ sở chính trị trong quần chúng, dùng chính trị để lãnh đạo quần chúng. Mỹ - Diệm không thể tách rời được phương pháp căn bản của chúng là dựa vào khủng bố, dùng công an, mật thám uy hiếp quần chúng nhằm làm cho quần chúng khiếp sợ, bị động, phải khuất phục theo chế độ thống trị của chúng. Mặc dù vậy, chúng không những không đàn áp được ý chí hoà bình thống nhất, độc lập và dân chủ của nhân dân ta mà trái lại, các lực lượng yêu nước ngày càng lớn mạnh. Ảnh hưởng của Đảng nói chung không bị giảm sút mà nhiều nơi ở Nam Bộ còn vững vàng hơn. Đảng ta cũng nhận định thực lực của quân đội Mỹ lúc này không mạnh hơn so với của quân Pháp lúc trước, do quân đội viễn chinh Pháp là một quân đội xây dựng với một ý thức quân đ ội của một cường quốc đi xâm lược, còn quân đội miền Nam mặc dù Mỹ ráo riết huấn luyện kỹ thuật, cố gắng tác động tinh thần nhằm biến nó thành một quân đ ội hiếu chiến có ý thức xâm lược nhưng trong hoàn cảnh lịch sử nước ta ngày nay, với thành phần binh lính là người Việt Nam, quân đội đó không thể trở thành một công cụ đắc lực của đế quốc Mỹ…. Mỹ - Diệm lấy lực lượng quân sự là chủ yếu để tấn công, đàn áp và tiêu diệt cách mạng miền Nam. Trong khi đó, Đảng ta lại chủ trương chuyển từ đấu tranh vũ trang sang đấu tranh chính trị. Điều đó cũng có nghĩa là ta đã hạ thấp hình thức đấu tranh khi so sánh lực lượng không có lợi cho ta. Lực lượng chính trị của ta không đủ Trang 11
- sức đánh đổ chúng. Đó là nguyên nhân giải thích vì sao mặc dù chính quyền Mỹ - Diệm ở miền Nam về mặt chính trị căn bản là yếu nhưng vẫn tồn tại ở miền Nam trong mấy năm qua. Trong hoàn cảnh như vậy, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 15 (1/1959) đã họp và nêu rõ hai mâu thuẫn cơ bản mà hiện nay cách mạng Việt Nam đang phải giải quyết một là mâu thuẫn giữa một bên là chủ nghĩa đế quốc xâm l ược, giai cấp địa chủ phong kiến và bọn tư sản mại bản quan liêu thống trị ở miền Nam với một bên là dân tộc Việt Nam và nhân dân cả nước Việt Nam, bao gồm nhân dân miền Bắc và nhân dân miền Nam; hai là Mâu thuẫn giữa con đường xã hội chủ nghĩa và con đường tư bản chủ nghĩa ở miền Bắc. Căn cứ vào đó, Hội nghị lần thứ 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhận định nhiệm vụ chung của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đ ấu tranh đ ể giữ vững hoà bình; thực hiện thống nhất nước nhà trên cở sở độc lập và dân chủ, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước; ra sức c ủng c ố miền Bắc và đưa miền Bắc tiến lên xã hội chủ nghĩa; xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh; tích cực góp phần bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và trên thế giới. Trong đó, cách mạng miền Nam hiện nay tiếp tục cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đánh đổ chủ nghĩa đế quốc và nửa phong kiến ở miền Nam để thực hiện thống nhất nước nhà với con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là con đường bạo lực, lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang đ ể đánh đổ quyền thống trị của đế quốc phong kiến, dựng nên chính quyền cách mạng của nhân dân. Để có thể lật đổ được chế độ Mỹ-Diệm, thì chúng ta cần phải có thời gian để xây dựng cũng cố phát triển lực lượng cách mạng. Tuy nhiên dưới sức đàn áp của Mỹ thì dường như đối với quân ta khả năng hòa bình để phát triển là rất ít nên chúng ta c ần phải tranh thủ tận dụng hết những khả năng có được. Nghị quyết 15 cũng khẳng đ ịnh mối quan hệ gắn bó giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam có tác dụng cổ vũ phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ Latinh, thúc đẩy quá trình tan rã của chủ nghĩa thực dân trên toàn thế giới. Ngược lại, mọi thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc và phong trào vì hoà bình, dân chủ trên thế giới sẽ làm suy yếu thế lực của chủ nghĩa đế quốc. Muốn thống nhất nước nhà cần phải xây dựng, củng cố và phát triển lực lượng để hoàn thành Trang 12
- nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước dựa trên cơ sở miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời giữ vững và đẩy mạnh phong trào cách mạng miền Nam. Quá trình hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước là quá trình tích cực phát huy tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời cũng là quá trình tập hợp rộng rãi mọi lực lượng yêu nước, tiến bộ ở miền Nam để đấu tranh chống Mỹ – Diệm, tiến lên làm thất bại chính sách can thiệp của đế quốc Mỹ, đánh đổ tập đoàn thống trị tay sai Ngô Đình Diệm, thành lập một chính quyền liên hợp dân tộc dân chủ, tạo điều kiện thuận lợi nhất để hoà bình thống nhất nước nhà. Chủ trương của Đảng ta là đấu tranh thống nhất nước nhà bằng còn đ ường hòa bình. Việc đề ra cách giải quyết vấn đề thống nhất trên cơ sở độc lập, dân chủ, theo nguyên tắc hai miền bàn bạc, cùng thoả thuận với nhau là hoàn toàn hợp lý, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân ta và lợi ích của phong trào hoà bình thế giới. Song chừng nào còn Mỹ – Diệm ở miền Nam thì tình trạng đất nước bị chia cắt và khả năng chiến tranh vẫn tồn tại. Vì vậy, để thực hiện thống nhất nước nhà và giành hoà bình lâu dài ở Việt Nam, nhân dân ta không thể có con đường nào khác hơn là phải tích cực xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa và tiến hành đấu tranh gian khổ ở miền Nam. Hiệp định Giơnevơ có tác dụng hạn chế một phần âm mưu gây chiến của địch và có lợi cho công cuộc đấu tranh chính trị thống nhất nước nhà, có lợi cho sự nghiệp cách mạng của chúng ta. Chúng ta phải triệt để sử dụng nó song cần nhận rõ nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng không phải là Hiệp định Giơnevơ mà là lực lượng đấu tranh của quần chúng nhân dân cả nước. Để thực hiện được những nhiệm vụ đó, ở miền Nam cần có Mặt trận dân tộc thống nhất riêng cho phù hợp với tính chất và nhiệm vụ của nó nhằm tập hợp rộng rãi các lực lượng chống đế quốc và tay sai, đoàn kết tất cả các dân tộc đa s ố và thi ểu s ố, các đảng phái, các tôn giáo và những cá nhân yêu nước, đoàn kết với ngoại kiều, đ ặc biệt là Hoa kiều. Phải tranh thủ đoàn kết mọi người có thể đoàn kết được, phải trung lập mọi người có thể trung lập được, kể cả những người có ít nhiều khuynh hướng chống Mỹ – Diệm trong chính quyền miền Nam. Năm 1960, miền Bắc về căn bản đã hoàn thành nhiệm vụ còn lại của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đánh đổ giai cấp địa chủ phong kiến, giải phóng cho giai cấp nông dân; tiến hành khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, công Trang 13
- cuộc cải tạo XHCN đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh đã hoàn thành. Ở miền Nam, sau thắng lợi của phong trào Đồng Khởi, cuộc đấu tranh của đồng bào miền Nam chống đế quốc Mỹ và tay sai Ngô Đình Diệm được giữ vững và ngày càng phát triển. Nhân dân cả nước một lòng phấn đấu và được sự đồng tình ủng hộ rộng rãi của nhân dân thế giới. Diễn ra trong hoàn cảnh trên, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ 3 của Đ ảng (9- 1960) đã chỉ ra 2 nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện tại: Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc; Hai là, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước. Hai nhiệm vụ ấy có quan hệ mật thiết và có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau. Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam và sự nghiệp thống nhất nước nhà. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam có vai trò quyết định trực tiếp đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước. Và đường lối đối ngoại của Đảng ta đề ra đó là: -Ra sức góp phần tăng cường lực lượng của phe xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đ ứng đầu, tăng cường sự đoàn kết nhất trí và củng cố tình hữu nghị không gì lay chuyển nổi giữa nước ta và các nước xã hội chủ nghĩa anh em; phát triển quan hệ hợp tác tương trợ với các nước anh em theo những nguyên tắc của quốc tế vô sản - Kiên quyết cùng các nước anh em và nhân dân yêu chuộng hoà bình và tiến bộ trên thế giới tiếp tục chung sức đấu tranh để bảo vệ và củng cố hoà bình; chống l ại chính sách xâm lược và chính sách gây chiến của đế quốc Mỹ, thực hiện chung sống hoà bình giữa các nước có chế độ chính trị và xã hội khác nhau, thực hiện giải trừ toàn diện và triệt để và cấm vũ khí và nguyên tử hạt nhân, thủ tiêu các căn cứ quân sự ở nước ngoài và các khối quân sự xâm lược, tiến tới thành lập hệ thống an ninh tập thể ở châu Âu, Châu Á. - Ra sức ủng hộ phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và giành độc lập dân tộc của nhân dân các nước châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh. Tăng cường quan hệ hữu nghị với các nước dân chủ nhân dân, phát triển sự hợp tác kinh tế và văn hoá với các nước đó trên cơ sở 5 nguyên tắc chung sống hoà bình và tinh thần Hội nghị Băngđung. Trang 14
- + Chúng ta hoan nghênh và ủng hộ đường lối hoà bình trung lập thật sự và hoà hợp dân tộc và mong muốn xây dựng quan hệ hữu nghị với vương quốc Campuchia. + Chúng ta ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân Lào nhằm thực hiện đ ường l ối hoà bình trung lập thật sự và hoà hợp dân tộc và mong muốn xây dựng quan hệ với vương quốc Lào. + Đối với tất cả các nước khác, chúng ta sẵn sàng đặt quan hệ hữu nghị trên c ơ sở bình đẳng và hai bên cùng có lợi. - Kiên quyết đấu tranh làm cho Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương được thi hành đầy đủ nhằm duy trì hoà bình ở Đông Dương và Đông Nam Á. - Đi đôi với việc xây dựng và tăng cường quan hệ giữa chính phủ ta và chính phủ các nước, cần mở rộng mối quan hệ hữu nghị giữa nhân dân ta và nhân dân các nước. c)Những chủ trương của Đảng về đối ngoại 1961-1965: Để tránh thất bại hoàn toàn ở miền Nam Việt Nam sau cuộc "Đồng khởi" (1959- 1960), Mỹ buộc phải thay đổi chiến lược, từ chiến lược "Chiến tranh đơn phương" (l954-1960) sang chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" (1961-1965). Thực hiện kế hoạch chiến lược trên, Mỹ tăng nhanh viện trợ quân sự cho Diệm, đưa vào miền Nam số lượng ngày càng lớn "cố vấn" quân sự và lực lượng hỗ trợ chiến đấu. Quân ngụy được trang bị hiện đại, sử dụng phổ biến các chiến thuật mới. Được sự hỗ trợ chiến đấu và chỉ huy của cố vấn Mỹ, quân ngụy liên tiếp mở nhiều cuộc hành quân càn quét nhằm tiêu diệt lực lượng cách mạng, tiến hành nhiều hoạt động phá hoại miền Bắc, hoạt động kiểm soát, phong tỏa biên giới và vùng biển. Dựa vào lực lượng quân sự và bằng những cuộc hành quân càn quét, chính quyền Sài Gòn đã ráo riết dồn dân, lập ấp chiến lược. Ấp chiến lược được coi là quốc sách và gần như một cuộc chiến tranh t ổng l ực nhằm đẩy lực lượng cách mạng ra khỏi các xã, ấp, tách dân khỏi cách mạng tiến tới nắm dân, thực hiện chương trình bình định miền Nam. Tình hình đất nước lúc bấy giờ thì miền Bắc tiếp tục xây dựng cơ sở nền tảng cho CNXH còn miền Nam thì chiến đấu chống chiến lược chiến tranh đặc biệt của đế quốc Mỹ. Và phương hướng đối ngoại của Đảng ta trong thời gian này đó là giương cao ngọn cờ thi hành Hiệp định Giơnevơ, đấu tranh trên mặt trận dư luận quốc tế. Đồng thời Đảng, Trang 15
- Nhà nước ta cũng đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, tiếp tục nâng cao địa vị quốc tế của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân toàn thế giới đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất Tổ quốc của nhân dân ta. Trong năm 1961, nước ta đặt quan hệ ngoại giao với các nước cộng hoà Ghinê, Mali, vương quốc Marốc, đặc biệt là với Cuba, lá cờ đầu của chủ nghĩa xã hội ở Tây bán cầu. Trung tuần tháng 8-1961, đoàn đại biểu Chính phủ ta do Thủ tướng Phạm Văn Đồng dẫn đầu đi thăm Trung Quốc, Triều Tiên, Mông Cổ, Liên Xô, Tiệp Khắc, Ba Lan. Từ năm 1963 đến đầu năm 1965, nước ta đặt đại sứ ở Angiêri, Iêmen, Cônggô, Gana, Inđônêxia và cộng hoà Arập thống nhất. Đối với sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ xâm lược, ngày 3-8-1962, Uỷ ban đoàn kết Á - Phi của Liên Xô ký tuyên bố chung với Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam lên án tội ác xâm lược của Mỹ, bày tỏ sự đồng tình ủng hộ cuộc đấu tranh yêu nước của nhân dân ta. Các nước thế giới thứ ba ở châu Á như Lào, Campuchia, Miến Điện, Thái Lan, Malaixia, Ấn Độ; ở châu Phi, Mỹ Latinh như Angiêri, Ănggôla, Nicaragoa, Vênêduyêla... đều đồng tình ủng hộ nhân dân ta chống đế quốc Mỹ xâm lược. Lúc này trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trong nội bộ các nước xã hội chủ nghĩa - nhất là Liên Xô, Trung Quốc đã xuất hiện những bất đồng, Liên Xô theo đường lối đối ngoại cùng tồn tại hoà bình giữa các chế độ xã hội chính trị khác nhau, giữ cách mạng trong thế phòng ngự. Mâu thuẫn Liên Xô, Trung Quốc phát sinh và ngày càng gay gắt. Chiến lược đấu tranh chống đế quốc Mỹ của các nước lớn trong phe xã hội chủ nghĩa khác với chiến lược của Đảng ta. Trước những diễn biến phức tạp c ủa tình hình quốc tế và nội bộ phe xã hội chủ nghĩa, Đảng ta tự xác đ ịnh nhiệm vụ cho mình là tập trung mũi nhọn đấu tranh chống đế quốc Mỹ, kiên trì chống những mặt tiêu cực trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, củng cố sự đoàn kết giữa các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Ngày 10-2-1963, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra tuyên bố đề nghị các đảng anh em đình chỉ công kích lẫn nhau trên báo chí và đài phát thanh, họp nhau đề khắc phục bất đồng. Để tiếp tục làm tròn nghĩa vụ quốc tế của mình, góp phần tăng cường s ự đoàn kết nhất trí giữa các đảng và các nước anh em, đầu tháng 12-1963 Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp phân tích đặc điểm tình hình thế giới và nhiệm vụ của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, nêu rõ lập tr ường, quan đi ểm c ủa Đảng ta trên một số vấn đề có tính nguyên tắc về chiến lược và sách l ược c ủa phong Trang 16
- trào cộng sản và công nhân quốc tế. Hội nghị nhận định: Cách mạng thế giới đang ở thế tiến công và tiến công liên tục vào chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ. Phương thức đấu tranh của phong trào cách mạng thế giới lúc này là phải đánh lui từng bước, đánh đổ từng bộ phận, giành thắng lợi từng bước tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn cho hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Đi đôi với cuộc đấu tranh kiên quyết chống chủ nghĩa đế quốc, Đảng ta ra sức đấu tranh chống chủ nghĩa xét lại và chủ nghĩa cơ hội dưới mọi màu sắc, chống khuynh hướng chia rẽ và những hành động biệt phái, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, bảo vệ phong trào cộng sản quốc tế, bảo vệ Liên Xô, Trung Quốc, bảo vệ cộng đồng xã hội chủ nghĩa. Dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác- Lênin, chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa chân chính và với sách lược mềm dẻo, Đảng ta đã tranh thủ được sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác và sự ủng hộ nhiệt tình của các đảng cộng sản, công nhân quốc tế, thực hiện được trên thực tế mặt trận thế giới chống Mỹ, ủng hộ Việt Nam. ĐƯỜNG LỐI NGOẠI GIAO TỪ 1965-1975 III. 1/ BỐI CẢNH LỊCH SỬ: Từ đầu năm 1965, để cứu vãn nguy cơ sụp đổ của chế độ Sài Gòn và sự phá sản của chiến lược chiến tranh đặc biệt, đế quốc Mỹ đã ồ ạt đưa quân Mỹ và chư hầu vào miền Nam, tiến hành chiến tranh cục bộ với quy mô lớn; đồng thời dùng không quân hải quân tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc. Trước tình hình đó, Đảng ta quyết định phát động cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước trên phạm vi toàn quốc. Thuận lợi: Khi bước vào cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, cách mạng thế giới đang ở thế tiến công. Ở miền Bắc, kế hoạch 5 năm lần thứ nhất đã đạt và vượt các mục tiêu đã đề ra về kinh tế, văn hóa. Sự chi viện sức người, sức của của miền Bắc cho cách mạng miền Nam được đẩy mạnh theo cả đường bộ và đường biển. Ở miền Nam, vượt qua những khó khăn gian khổ trong những năm 1961-1962, năm 1963, cuộc đấu tranh của quân dân ta đã có những bước phát triển mới. Ba công cụ của chiến tranh đặc biệt(ngụy quân-ngụy quyền, ấp chiến lược và đô thị) đều bị quân ta tấn công liên tục. Đến đầu năm 1965, chiến lược chiến tranh đặc biệt của đế quốc Mỹ được triển khai đến mức cao nhất đã bị phá sản. Trang 17
- Khó khăn: sự bất đồng giữa Liên Xô và Trung Quốc ngày càng trở nên gay gắt không có lợi cho cách mạng Việt Nam. Mỹ thực hiện chiến lược chiến tranh cục bộ ồ ạt đưa quân đội viễn chinh Mỹ và chư hầu vào miền Nam đã gây tương quan bất lợi cho l ực lượng cách mạng miền Nam. 2/QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI a) Những chủ trương mới của Đảng về đối ngoại giai đoạn 1965-1968 Ta bước vào giai đoạn cao điểm của cuộc kháng chiến chống Mỹ trong bối cảnh quốc tế có những đặc điểm nổi bật như: Chiến tranh lạnh và chạy đua vũ trang giữa hai khối diễn ra gay gắt, tuy nhiên xu thế hòa hoãn vẫn phát triển; hệ thống XHCN khủng hoảng nghiêm trọng với mâu thuẫn Xô-Trung đang trong giai đoạn căng thẳng nhất còn hệ thống tư bản cũng có những chia rẽ, rạn nứt; phong trào dân tộc phát triển mạnh mẽ dẫn đến sự sụp đổ của chủ nghĩa tư bản. Giai đoạn 1965-1968 là giai đoạn quy ết liệt nhất trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam. Sau thất bại nặng nề trong chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, Mỹ chuyển hướng sử dụng chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, đưa quân Mỹ và quân đội của các nước chư hầu vào trực tiếp chiến đấu ở chiến trường miền Nam cũng như sử dụng hải quân, không quân đánh phá miền Bắc. Chiến tranh cục bộ là loại hình chiến tranh xâm lược thực dân mới nằm trong chiến lược quân sự toàn cầu phản ứng linh hoạt của Mỹ. Chiến tranh cục bộ bắt đầu từ giữa năm 1965 được tiến hành bằng lực lượng của quân viễn chinh Mỹ, quân đồng minh và quân ngụy tay sai ở miền Nam, trong đó quân Mỹ giữ vai trò quan trọng và không ngừng tăng lên về số lượng và trang bị, nhằm chống lại các lực lượng cách mạng và nhân dân ta. Ỷ vào ưu thế quân sự cộng với quân đông, vũ khí hiện đại, hoả lực mạnh, cơ động nhanh, Mĩ đã mở hàng loạt cuộc hành quân lớn với mục tiêu “tìm diệt và bình định” nhằm vào các căn cứ cách mạng bắt đầu là cuộc hành quân “tìm diệt” mang tên “ánh sáng sao”, đánh vào căn cứ của ta ở Vạn Tường – Quảng Ngãi.Tiếp đó Mĩ mở liên tiếp hai cuộc phản công lớn trong hai mùa khô 1965 - 1966 và 1966 - 1967 với hàng loạt cuộc hành quân “tìm diệt” và “bình định” vào những vùng “đất thánh Việt Cộng”, hòng tiêu diệt cơ quan đầu não và lực lượng kháng chiến của ta. Còn tại miền Bắc thì Mĩ đã huy động hàng nghìn máy bay tối tân, thuộc 50 loại khác nhau, trong đó có cả máy bay B52, F11 cùng các loại vũ khí hiện đại và một lực lượng hải quân thường xuyên có mặt ở Thái Bình Dương, các căn cứ hải quân ở Nam Việt Nam và các nước Đông Nam Á khác. Lực lượng không quân và hải quân Mĩ đã ném bom, bắn phá liên tục với cường Trang 18
- độ ngày càng tăng. Trung bình mỗi ngày, miền Bắc phải hứng chịu khoảng 1.600 tấn bom đạn của Mĩ trút xuống. Mục tiêu tấn công của Mĩ không chỉ là các căn c ứ quân s ự mà còn bao gồm cả những mục tiêu dân sự: các nhà máy, xí nghiệp, hầm mỏ, công trình thủy lợi, khu dân cư, trường học, bệnh viện, nhà thờ, nhà trẻ, chùa chiềng… Trên cơ sở nhận định tình hình Đảng đề ra chủ trương chiến lược mới cho ta phát động được toàn dân toàn diện và dựa vào sức mình là chính, kiên quy ết đánh bại chi ến tranh phá hoại của đế quốc Mĩ trên miền Bắc để bảo vệ vững chắc miền Nam, tiếp tục xây dựng CNXH trong hoàn cảnh có chiến tranh, làm nghĩa vụ của hậu phương lớn với miền Nam tiền tuyến lớn và đường lối đối ngoại hàng đầu của ta là phải tiếp tục đoàn kết các nước trong phe XHCN, tranh thủ sự ủng hộ, viện trợ của các nước anh em, đặc biệt là Liên Xô. Trước mối quan hệ nhạy cảm giữa Liên Xô và Trung Quốc, ta có sách lược chung, nhất quán (khéo léo tranh thủ hết sức sự giúp đỡ từ phía bạn, đồng thời tránh làm cho mâu thuẫn giữa hai nước thêm sâu sắc). Đặc biệt trong quan hệ với Liên Xô, “ta không để cho bạn có điều kiện tác động trực tiếp vào cách đi ều hành c ủa cuộc chiến tranh, không để Liên Xô làm trung gian giữa ta với Mỹ” . Bên cạnh đó cũng có những chính sách tăng cường tuyên truyền vận động quốc tế và đẩy mạnh ngoại giao kéo Mỹ xuống thang chiến tranh. Những chủ trương mới của Đảng về đối ngoại giai đoạn 1968-1973 b) Quân sự và ngoại giao là hai mặt trận gắn liền hữu cơ và hỗ trợ l ẫn nhau. Thật vậy, những gì giành được trên chiến trường sẽ không được khẳng định nếu không có nghệ thuật giành thắng lợi trên bàn đàm phán. Cũng như thắng lợi trên bàn đàm phán tạo thêm điều kiện thuận lợi để giành thắng lợi lớn hơn trên chiến trường. Đến năm 1968, ta giành được thắng lợi về quân sự. Đó là cuộc tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân năm 1968. Điều đó đã mở ra bước ngoặt mới của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta: Đánh bại chiến lược Chiến tranh Cục bộ và làm lung lay ý chí xâm lược của Mỹ, buộc Mỹ phải tuyên bố “ phi Mỹ hóa” chiến tranh ở miền Nam (cùng với thất bại trong cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc), ngừng ném bom bắn phá miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra (3/1968), chịu nhượng bộ và đi bước trước trên con đường tới bàn đàm phán. Đây không những là sự thừa nhận về sự phá sản c ủa chi ến tranh phá hoại bằng không quân, mà còn là quá trình xuống thang chiến tranh của Mỹ. Có thể nói, thắng lợi về quân sự 1968 đã mở cánh cửa cho bàn đàm phán ngo ại giao. Nhưng đến 31/10/1968, Johnson mới ra lệnh cho không quân và hải quân Mỹ chấm dứt mọi cuộc đánh phá chống Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Và ngày 2/11/1968, Việt Nam Trang 19
- Dân Chủ Cộng Hòa ra tuyên bố ghi nhận việc Mỹ chấp nhận chấm dứt không điều kiện ném bom và mọi hành động chiến tranh chống Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Đáp ứng được mục đích ban đầu đặt ra, ta mở ra hội nghị bốn bên hiệp định Paris. Đó là kết quả của việc nắm vững thời cơ, phối hợp giữa tiến công quân sự và tiến công chính trị, tiến công liên tục và sắc bén, kiên trì giữ vững nguyên tắc, khéo léo vận dụng sách lược vừa kiên quyết vừa linh hoạt buộc Mỹ phải rút quân và nhận một giải pháp chính trị đáp ứng yêu cầu cơ bản của ta. Đồng thời với việc kí kết hiệp định Paris Chính phủ ta cũng tăng cường và cũng cố tình đoàn kết ba nước Đông Dương: Ở Lào, quân tình nguy ện Việt Nam phối hợp với bạn mở chiến dịch giải phóng hoàn toàn vùng cánh đ ồng chum Xiêng - Khoảng, đập tan mọi cố gắng về quân sự của Mỹ và tay sai ở một địa bàn chiến lược quan trọng này, giáng một đòn nặng vào âm mưu tăng cường chiến tranh đặc biệt ở Lào của Mỹ. Trên cơ sở đó,ngày 6/3/1970, Mặt trận Lào yêu nước đã đ ề ra giải pháp chính trị năm điểm nhằm chấm dứt chiến tranh xâm lược của Mỹ, nhằm lập lại hòa bình ở Lào trên cơ sở hiệp định Giơnevơ năm 1962 và xây dựng một nước Lào hòa bình, độc lập, trung lập, dân chủ, thống nhất và thịnh vượng.Tình hình ở Campuchia cũng không kém phần quyết liệt. Ta phối hợp với nước bạn đẩy mạnh tiến công đ ịch, hỗ trợ nhân dân Campuchia nổi dậy giải phóng một vùng rộng lớn từ phía Bắc tỉnh Ratanakiri đến Nam tỉnh Campốt. Nối tiếp thắng lợi đó, trong hai ngày 24 và 25/4/1970,hội nghị cấp cao ba nước Đông Dương được tổ chức ở Trung Quốc, đã thảo luận nhiều vấn đề quan trọng liên quan đến sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước và nhất trí ra ”tuyên bố chung”, mà thực chất được xem là cương lĩnh đấu tranh chung của ba nước trên bán đảo Đông Dương. Đây được xem là cột mốc đánh dấu một giai đoạn phát triển mới của tình đoàn kết gắn bó giữa cách mạng và nhân dân ba nước Đông Dương. Từ đó liên minh chiến đấu Việt, Lào, Campuchia đã hình thành và ngày càng được củng cố vững chắc. Đó là một thắng lợi lớn trên mặt trận ngoại giao c ủa nhân dân ta và khu vực. Với thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ trên không, mọi âm mưu để chiếm ưu thế trên bàn đàm phán bị đánh bại Mỹ buộc phải cử đại diện đến Paris để nối lại cuộc đàm phán với thế bị động. Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký tắt ngày 23/1/1973 giữa hai đại diện chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Hoa Kỳ, và ký chính thức ngày 27/1/1973 giữa bốn bộ trưởng đại diện các chính phủ tham dự hội nghị tại trung tâm các hội nghị quốc tế Clêbe ( Paris). Kể từ đây hiệp định Paris bắt đầu có hiệu lực từ ngày ký kết. Trang 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Giáo án bài 9: Nói quá - Ngữ văn 8
5 p | 549 | 36
-
Kiến thức lớp 12 "Ông già và biển cả" - Ernest Hemingway –phần2
4 p | 222 | 34
-
Giáo án tuần 10 bài LTVC: Mở rộng vốn từ: từ ngữ về họ hàng - Tiếng việt 2 - GV. Hoàng Quân
4 p | 406 | 26
-
QUAN HỆ THƯƠNG MAI VIỆT NAM TRUNG QUỐC
10 p | 90 | 24
-
Giáo án bài Chính tả (Nghe - viết): Trên chiếc bè. Phân biệt iê/yê, r/d/gi, ân/âng - Tiếng việt 2 - GV. T.Tú Linh
4 p | 383 | 21
-
Giáo án bài LTVC: Tên riêng và cách viết tên riêng. Câu kiểu Ai là gì? - Tiếng việt 2 - GV. T.Tú Linh
4 p | 544 | 18
-
Giáo án bài Tập làm văn: Khen ngợi. Kể ngắn về con vật - Tiếng việt 2 - GV. T.Tú Linh
5 p | 395 | 18
-
Giáo án bài 4: Đại từ - Ngữ văn 7 - GV.T.T.Chi
9 p | 146 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn