intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân Thị trấn Đồng Văn (1945-2015)

Chia sẻ: Hoangnhanduc | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:153

12
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Cuốn sách "Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân Thị trấn Đồng Văn (1945-2015)" giới thiệu khái quát về sự hình thành, phát triển của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc thị trấn Đồng Văn qua các thời kỳ lịch sử (1945-2015), nêu bật quá trình lãnh đạo, chỉ đạo và những bài học kinh nghiệm của Đảng bộ trên tất cả các mặt, những đóng góp to lớn của nhân dân các dân tộc, làm tài liệu nghiên cứu, giáo dục bồi dưỡng cho cán bộ đảng viên và nhân dân các dân tộc, lòng tự hào về truyền thống cách mạng.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân Thị trấn Đồng Văn (1945-2015)

  1. ĐẢNG BỘ HUYỆN ĐỒNG VĂN ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN ĐỒNG VĂN * TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN THỊ TRẤN ĐỒNG VĂN (1945-2015) Hà Giang, năm 2015 1
  2. 2
  3. LỜI GIỚI THIỆU Thị trấn Đồng Văn được thành lập năm 2009 trên cơ sở xã Đồng Văn theo Nghị định số 11/NĐ-CP, ngày 31/3/2009 của Chính phủ; đơn vị hành chính năm 2015 của thị trấn gồm 22 thôn, tổ dân phố (7 tổ dân phố, 15 thôn, trong đó 3 thôn giáp biên giới: Mã Tìa, Mã Pắng, Thiên Hương), dân số có 6.555 người và 17 dân tộc anh em cùng chung sống. Đồng Văn là thị trấn biên giới, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh của huyện Đồng Văn và Công viên địa chất toàn cầu cao nguyên đá Đồng Văn. Trải qua các giai đoạn lịch sử (1945-2015), dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Chi bộ Đảng xã Đồng Văn (từ tháng 9/1949), Đảng bộ xã Đồng Văn (từ tháng 7/1989), Đảng bộ thị trấn Đồng Văn (từ tháng 3/2009), nhân dân các dân tộc trên địa bàn thị trấn luôn nêu cao tinh thần đoàn kết đấu tranh cách mạng, tích cực lao động sản xuất, phục vụ chiến đấu, đóng góp nhiều sức người, sức của trong 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và thời kỳ bảo vệ Tổ quốc. Trong thời kỳ thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, nhân dân các dân tộc thị trấn Đồng Văn luôn năng động, sáng tạo trong lao động sản xuất, học tập công tác, xây dựng thị trấn Đồng Văn vững về chính trị, giàu về kinh tế, sáng về văn hóa - xã hội, mạnh về quốc phòng - an ninh. Để tổng kết kinh nghiệm, ôn lại truyền thống cách mạng vẻ vang của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc thị trấn Đồng Văn, rút ra những bài học lịch sử bổ ích phục vụ công tác nghiên cứu, chỉ đạo và giáo dục truyền thống lịch sử. 3
  4. Đáp ứng yêu cầu của cán bộ, đảng viên và nhân dân, Ban Thường vụ Đảng uỷ thị trấn chỉ đạo nghiên cứu biên soạn cuốn “Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân thị trấn Đồng Văn (1945-2015)”. Cuốn sách giới thiệu khái quát về sự hình thành, phát triển của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc thị trấn Đồng Văn qua các thời kỳ lịch sử (1945-2015), nêu bật quá trình lãnh đạo, chỉ đạo và những bài học kinh nghiệm của Đảng bộ trên tất cả các mặt, những đóng góp to lớn của nhân dân các dân tộc, làm tài liệu nghiên cứu, giáo dục bồi dưỡng cho cán bộ đảng viên và nhân dân các dân tộc, lòng tự hào về truyền thống cách mạng. Trên cơ sở đó kế thừa và phát huy truyền thống cách mạng của các thế hệ cha anh, quyết tâm vượt qua mọi khó khăn thử thách, hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong quá trình sưu tầm, nghiên cứu và biên soạn, Ban Chấp hành Đảng bộ thị trấn luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo của Thường trực Huyện ủy, sự phối hợp, giúp đỡ của Ban Tuyên giáo Huyện uỷ và sự chỉ đạo, giúp đỡ của về chuyên môn của Phòng Lý luận Chính trị - Lịch sử Đảng, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy cùng với sự đóng góp ý kiến quý báu của cán bộ, đảng viên và nhân dân đã từng tham gia hoạt động, công tác qua các thời kỳ trên địa bàn thị trấn. Mặc dù Ban biên soạn đã có nhiều cố gắng, với tinh thần trách nhiệm cao, nhưng trong quá trình thực hiện còn gặp nhiều khó khăn, nguồn tài liệu thành văn bị thất lạc nhiều, các nhân chứng lịch sử tuổi đã cao, trí nhớ có phần suy giảm... Vì vậy, nội dung cuốn sách không thể tránh khỏi 4
  5. những thiếu sót. Chúng tôi rất mong nhận được sự tham gia góp ý của các đồng chí và bạn đọc để cuốn sách được hoàn thiện hơn trong lần tái bản sau. Nhân dịp cuốn sách được xuất bản, Ban Thường vụ Đảng ủy thị trấn Đồng Văn xin chân thành cảm ơn sự chỉ đạo và giúp đỡ quý báu của các cơ quan, đơn vị, cá nhân đã giúp đỡ để nội dung cuốn sách được đảm bảo hơn về tính Đảng, tính khoa học... Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách “Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân Thị trấn Đồng Văn (1945-2015)” đến toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân thị trấn cùng bạn đọc. T/M BCH ĐẢNG BỘ THỊ TRẤN BÍ THƯ HOÀNG NGỌC LINH 5
  6. Phần một KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN - XÃ HỘI VÀ CON NGƯỜI THỊ TRẤN ĐỒNG VĂN Thị trấn Đồng Văn nằm ở vị trí địa lý 23 độ 17’ vĩ Bắc, 105 độ 19 ’ kinh Đông. Là Thị trấn biên giới, nằm ở trung tâm Công viên địa chất toàn cầu cao nguyên đá Đồng Văn. Phía Đông giáp xã Thượng Phùng (huyện Mèo Vạc), phía Tây giáp xã Thài Phìn Tủng (huyện Đồng Văn), phía Nam giáp các xã Thài Phìn Tủng, Tả Phìn, Tả Lủng (huyện Đồng Văn) và xã Pải Lủng (huyện Mèo Vạc), phía Bắc giáp xã Ma Lé (huyện Đồng Văn) và trấn Điền Bồng, Ma Ly Pho, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Diện tích đất tự nhiên của thị trấn là 3.030,65 ha. Trong đó, đất nông nghiệp có 1.692,50 ha, đất lâm nghiệp có 714,22 ha, đất chưa sử dụng được do có diện tích núi đá lớn là 1.229,08 ha. Trên địa bàn thị trấn có nhiều loại đất khác nhau, như: đất đỏ bazan, đất nâu, đất pherarit, đất xám bạc màu. Thị trấn Đồng Văn có chiều dài đường địa giới hành chính là 37.634m. Trong đó tuyến Đồng Văn - Thượng Phùng dài 6.538m, tuyến Đồng Văn - Pải Lủng (huyện Mèo Vạc) dài 5.797m, tuyến Đồng Văn - Ma Lé dài 3.995m, tuyến Đồng Văn - Thài Phìn Tủng dài 6.959m, tuyến Đồng Văn - Tả Phìn dài 1.478 m, tuyến Đồng Văn - Tả Lủng dài 2.889m. Thị trấn có đường biên giới giáp Trung Quốc dài 1,8 km. 6
  7. Địa hình thị trấn bị chia cắt tương đối mạnh, chủ yếu là đồi, núi đá dốc. Độ cao trung bình là 1.200m so với mực nước biển. Thị trấn có nhiều núi đá cao, độ dốc lớn. Hàng năm, vào mùa mưa lũ lượng đất dễ bị xói mòn, do đó diện tích đất bạc màu trên địa bàn thị trấn ngày càng tăng. Thị trấn Đồng Văn nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa. Mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 9. Mùa đông kéo dài từ tháng 10 năm trước đến tháng 4 năm sau. Mùa đông khô hạn gây nên tình trạng thiếu nước phục vụ cho sinh hoạt, sản xuất. Hàng năm, nhiệt độ trung bình đạt từ 20-23 độ C. Nhìn chung, điều kiện tự nhiên của thị trấn tương đối khắc nghiệt, gây ra không ít khó khăn cho việc phát triển kinh tế - xã hội. Về giao thông, trước cách mạng tháng 8/1945, hệ thống giao thông vận tải hầu như chưa có gì, chủ yếu là đường mòn đi bộ cho người và ngựa. Đến nay ngoài trục giao thông chính là Quốc lộ 4C, hệ thống đường giao thông cơ giới liên xã, liên thôn đã được xây dựng cơ bản, 100% các thôn có đường liên thôn loại B, 12/15 thôn có đường ô tô đến trung tâm thôn, rất thuận lợi cho tổ chức sản xuất, chiến đấu, phát triển kinh tế, văn hóa xã hội. Tuy nhiên, trong mùa mưa, lũ quét thường xảy ra, gây ra tình trạng sạt lở đường và ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống sinh hoạt và sản xuất của nhân dân. Thị trấn Đồng Văn có nhiều điểm di tích văn hóa du lịch nổi tiếng như: Phố cổ Đồng Văn, Đồn Cao, làng văn hoá Thiên Hương, rừng đa Thiên Hương, Mã Tìa; các miếu thờ đầu nguồn nước, quan hoàng, đền thờ Đại thế Quan Minh, Quan âm Bồ tát... hàng năm, các điểm di tích văn hóa 7
  8. du lịch đã thu hút hàng chục ngàn du khách thập phương ở trong và ngoài nước đến tham quan, du lịch. Bên cạnh đó, thị trấn Đồng Văn là địa bàn chứa đựng nhiều giá trị văn hoá truyền thống của đồng bào các dân tộc như: Mông, Dao, Cờ Lao, Tày, Giấy, Lô Lô, Kinh... Dân tộc Mông với phong tục thờ cúng ông bà, tổ tiên. Đặc biệt, tiếng khèn của đồng bào dân tộc Mông đã trở thành một loại nhạc cụ truyền thống và thu hút được sự quan tâm của nhiều du khách khi đặt chân đến đây. Người dân Thị trấn Đồng Văn rất thân thiện và hiếu khách. Những phiên chợ Đồng Văn… cùng với các phong tục tập quán, các lễ hội đặc sắc của đồng bào dân tộc đã làm bao du khách say đắm khi đến với nơi đây. Trải qua những năm tháng sinh sống và phát triển sản xuất, người dân thị trấn Đồng Văn sống hòa quyện cùng với đá: dọn đá để dựng nhà, để có đất trồng trọt, khoét đá để tìm dòng nước ngọt, dựng đá thành tường rào bao quanh làng xóm. Đá giữ nước, giữ đất để canh tác ruộng bậc thang. Trong những năm kháng chiến, người dân đã dựng đá làm thành lũy để bảo vệ thôn, xóm, bảo vệ biên cương Tổ quốc. Trong phát triển sản xuất, người dân Đồng Văn tích cực khai phá, cải tạo đất đai tạo ra những thửa ruộng bậc thang, những nương rẫy tốt. Trồng trọt và chăn nuôi đã trở thành nghề chính của nhân dân. Cây ngô là cây lương thực chính được nhân dân thị trấn tập trung phát triển đồng thời các cây ăn quả, như: táo, đào, lê… và các loại cây rau, đậu khác, như: đậu, khoai, lanh, ý dĩ, tam giác mạch, riềng… cũng được phát triển. Trong chăn nuôi, đồng bào các dân tộc thị trấn đã tận dụng nguồn đất rải rác trên các mỏm đá để trồng cỏ phục vụ chăn nuôi gia súc. 8
  9. Mỗi đồng bào các dân tộc trên địa bàn thị trấn cũng có những nét đặc trưng, thế mạnh riêng trong phát triển sản xuất: đồng bào dân tộc Mông chủ yếu là làm nương trồng ngô và hoa màu; đồng bào dân tộc Tày, Giấy chủ yếu là làm lúa nước và ngô, kết hợp các nghề phụ; một số dân tộc Kinh, Tày làm nghề buôn bán nhỏ ở trung tâm thị trấn. Đặc biệt, người dân thị trấn Đồng Văn rất thành thạo và khéo léo trong nghề thủ công như đan lát mây tre, đặc biệt nghề dệt vải từ sợi lanh của chị em phụ nữ đã tạo nên những bộ trang phục đặc trưng của dân tộc. Sản phẩm hàng hóa từ nghề dệt vải đã thu hút được nhiều khách du lịch khi đặt chân đến đây Đã bao đời nay, đồng bào các dân tộc thị trấn Đồng Văn cư trú theo quan hệ huyết thống hoặc sống xen kẽ với nhau. Người dân Đồng Văn luôn giữ gìn truyền thống đoàn kết, tinh thần dũng cảm đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Bao thế hệ người Đồng Văn đã mài sắc ý chí căm thù, nêu cao tinh thần quật khởi trước các thế lực phong kiến cường quyền áp bức bóc lột và thực dân, phát xít xâm lược. Đó là nét tính cách truyền thống thẳng thắn và trung thực, hiên ngang kiên cường và bất khuất của con người nơi đây. Điển hình cho tinh thần đấu tranh chống cường quyền áp bức là đồng bào các dân tộc theo các thủ lĩnh của mình để chống lại các thế lực cát cứ phong kiến. Khi thực dân Pháp đặt chân lên vùng đất Đồng Văn, nhân dân Đồng Văn đã đứng lên đánh trả quyết liệt để bảo vệ chủ quyền quê hương mình. Tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa của thủ lĩnh Sùng Mý Chảng năm 1911-1912 ở xã Đồng Văn. Người thủ lĩnh này đã tập hợp quần chúng dấy binh đánh bại lực lượng của thực dân Pháp, lấy núi Tù Sán làm căn cứ khởi nghĩa. 9
  10. Có thể khẳng định, tinh thần đoàn kết gắn bó, kiên cường trong lao động sản xuất, kiên quyết đấu tranh chống ngoại xâm chính là cơ sở để gắn kết các dân tộc trong cộng đồng cùng đấu tranh để sinh tồn và phát triển. Tinh thần đó của đồng bào các dân tộc thị trấn càng được phát huy cao độ kể từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ lối, dẫn đường. Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời. Nhân dân vui mừng thoát khỏi cảnh nô lệ, được làm chủ vận mệnh của mình, làm chủ đất nước. Thời gian này, thị trấn Đồng Văn hình thành một số làng dân cư sống rải rác ở xung quanh các triền núi cao với khoảng hơn một trăm hộ. Đời sống của người dân hết sức khó khăn, diện tích đất sản xuất rất ít do chưa được cải tạo, khai phá nhiều. Thời điểm Cách mạng tháng Tám năm 1945, xã Đồng Văn gồm 5 thôn: Chúng Mung, Sảng Ma Sao, Đậu Chúa, Má Ú, Khai Hoang. Năm 1961, xã Đồng Văn đã có 17 thôn. Đến năm 1991, có 22 thôn gồm: Quyết Tiến, Đồng Tâm, Đồng Thanh, Đoàn Kết, Xóm Mới, Ngài Lủng, Tù Sán, Pố Lổ, Sì Phài, Má Pắng, Má Tìa, Khai Hoang, Thiên Hương, Lài Cò, Má Lủ, Bản Mồ, Lùng Lú, Má Ú, Quán Dín Ngài, Đậu Chúa, Chúng Mung, Sảng Ma Sao. Trung tâm xã Đồng Văn trở thành trung tâm của huyện Đồng Văn từ ngày 11/12/1992, nơi đóng các cơ quan của Huyện ủy, HĐND, UBND, các ngành các cấp của huyện Đồng Văn. Trải qua các giai đoạn phát triển về địa giới hành chính, đến năm 2009, thị trấn Đồng Văn được thành lập gồm 22 thôn, tổ dân phố (7 tổ dân phố, 15 thôn, trong đó có 3 thôn giáp biên giới). 10
  11. Dân số xã Đồng Văn được phát triển qua các thời kỳ: năm 1962 có 285 hộ/1.347 nhân khẩu; đến năm 1991 tăng lên 672 hộ/3.953 nhân khẩu; năm 2014 tăng lên 1.505 hộ/6.555 nhân khẩu với 17 dân tộc anh em cùng chung sống. Trong đó, dân tộc Mông chiếm 42,85%, dân tộc Kinh chiếm 18,93%, dân tộc Tày chiếm 13,62%, dân tộc Giấy là 12,69% và các dân tộc ít người khác. Hệ thống chính trị của xã luôn được củng cố kiện toàn, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo, tổ chức thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị ở địa phương. Từ Chi bộ Đảng xã Đồng Văn với 4 đảng viên thành lập (năm 1949) đến nay đã phát triển thành Đảng bộ thị trấn Đồng Văn; năm 2015, toàn Đảng bộ thị trấn gồm 361 đảng viên, 29 chi bộ trực thuộc: 7 Chi bộ tổ dân phố, 15 Chi bộ thôn bản, 1 Chi bộ cơ quan, 4 Chi bộ trường học, 1 Chi bộ quân sự thị trấn, 1 Chi bộ trạm y tế. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cùng với sự nỗ lực, vận dụng sáng tạo chủ trương, đường lối của Đảng, Đảng bộ tỉnh, huyện qua các thời kỳ, đặc biệt là thời kỳ thực hiện đường lối đổi mới vào điều kiện thực tiễn cụ thể của địa phương qua các giai đoạn cách mạng, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng nâng cao, điều kiện kinh tế - xã hội không ngừng phát triển. Cơ sở hạ tầng (điện, đường, trường, trạm) được đầu tư xây dựng cơ bản. Nhân dân đã được hưởng những phúc lợi xã hội của chế độ xã hội chủ nghĩa. Đến năm 2015, 100% các thôn, bản đều được xem truyền hình và được phủ sóng dịch vụ viễn thông, trên 70% hộ có ti vi, 80% số hộ có máy điện thoại di động, 30% số hộ sử dụng dịch vụ Internet. 11
  12. Văn hóa – xã hội trên địa bàn thị trấn từng bước được nâng cao, phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư được thực hiện và đạt kết quả tích cực. Nếp sống văn hóa mới ngày càng xây dựng vững chắc... Tỷ lệ huy động học sinh đến trường đạt 98,89%, tỷ lệ học sinh khá, giỏi ngày càng nâng cao. Công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân không ngừng được nâng cao, nhiều dịch bệnh đã được đẩy lùi, như: quai bị, sốt và ho. Đến nay, trên địa bàn Thị trấn có 1 Hợp tác xã khai thác đá làm đồ mỹ nghệ với nhiều sản phẩn được du khách ưa thích, 4 cơ sở sản xuất gạch bê tông và vật liệu xây dựng, 1 xưởng sửa chữa ô tô, 7 cửa hàng sửa chữa xe máy; 6 cơ sở hàn xì, 35 công ty, Hợp tác xã dịch vụ thương mại và một số nhà nghỉ, khách sạn… Tuy nhiên, do điều kiện địa hình phức tạp, thời tiết, khí hậu diễn biến thất thường, rét đậm, rét hại, mưa đá, lốc xoáy thường xuyên xảy ra, thiếu đất canh tác, thiếu nước sinh hoạt, trình độ dân trí không đồng đều nên tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo có nguy cơ tái nghèo cao; một bộ phận quần chúng nhân dân còn tư tưởng trông trờ, ỷ lại vào sự đầu tư của Nhà nước, chưa nỗ lực vươn lên trong xóa đói giảm nghèo. 12
  13. Phần hai QUÁ TRÌNH ĐẤU TRANH CÁCH MẠNG DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG (1945-2015) I. NHÂN DÂN CÁC DÂN TỘC XÃ ĐỒNG VĂN TRONG CUỘC ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN VÀ KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1945-1954) Sau thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga, chủ nghĩa Mác-Lênin được đồng chí Nguyễn Ái Quốc và các tổ chức cách mạng truyền bá vào trong nước dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3/2/1930. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối của cách mạng Việt Nam. Ngày 19/5/1941 Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam Độc lập Đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) với sứ mệnh là tổ chức, tập hợp rộng rãi các lực lượng quần chúng để thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Mặt trận Việt Minh, phong trào đấu tranh cách mạng cả nước phát triển ngày càng mạnh mẽ. Tại Hà Giang, do điều kiện tự nhiên và xã hội của tỉnh miền núi có nhiều khó khăn, nên phong trào cách mạng phát triển muộn hơn. Từ năm 1939 phong trào cách mạng ở Hà Giang mới được nhen nhóm gây dựng và từ năm 1943 phát triển mạnh. Tại châu Đồng Văn, tháng 5/1944 một số cán bộ Việt Minh đã tới khu vực Nhiêu Lai, 13
  14. Nam Lai, nơi giáp ranh 3 tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Hà Giang để củng cố cơ sở cách mạng đã gây dựng từ năm 1943 và chuẩn bị phát triển cơ sở cách mạng vào các xã thuộc châu Đồng Văn và châu Vị Xuyên. Tháng 6 năm 1944 cơ sở cách mạng được xây dựng ở các xã Phiên Luông, Ngọc Long. Tháng 7 năm 1945 cơ sở cách mạng phát triển tới các xã Du Già, Đường Thượng, Ngam La. Sau đó phát triển tới các xã Thái An, Đông Hà, Nghĩa Thuận (Quản Bạ). Đồng bào các dân tộc được tuyên truyền chủ trương đánh Tây, đuổi Nhật của Mặt trận Việt Minh. Cán bộ Việt Minh đi tới đâu cũng nhận được sự đồng tình ủng hộ của đồng bào các dân tộc, ở nhiều thôn, bản, đồng bào tổ chức ăn thề quyết tâm theo cách mạng, Ban Việt Minh ở các xóm, xã được thành lập, quần chúng được tổ chức vào các đoàn thể Việt Minh. Ngày 15/9/1944 tại Nam Lai, Hội nghị cán bộ Việt Minh các xã Ngọc Long, Du Già, Đường Thượng, Ngâm La, Mậu Duệ đã họp để thành lập Ban Việt Minh tổng Đường Thượng (còn gọi là khu Đường Thượng) gồm 5 thành viên do ông Lò Vạn Quả (dân tộc Mông, ở Đường Thượng) làm Chủ tịch. Nhiệm vụ của Ban Việt Minh tổng Đường Thượng là vận động đồng bào các dân tộc tham gia phong trào Việt Minh, tổ chức các đoàn thể cứu quốc như Hội Thanh niên cứu quốc, Hội Phụ nữ cứu quốc, Hội Nông dân cứu quốc. Một đội du kích tự vệ gồm 14 người được thành lập làm nòng cốt cho việc bảo vệ và phát triển phong trào cách mạng. Tới cuối năm 1944 phong trào cách mạng ở Đường Thượng lan rộng ra khắp các xã thuộc khu Đông Minh. Chính quyền địch ở tổng Đường Thượng do Bang tá Đèo 14
  15. Văn Ất cầm đầu mất tác dụng, các tổng giáp, mã phài ở các xã đều mang triện về nộp cho Việt Minh. Trên thực tế Ủy ban Việt Minh đã trở thành chính quyền cách mạng của nhân dân, trực tiếp giải quyết các công việc liên quan đến đời sống kinh tế xã hội của nhân dân. Tháng 7 năm 1945 Ủy ban Hành chính lâm thời khu Đông Minh được thành lập gồm 4 thành viên do ông Nguyễn Doãn Quí làm Chủ tịch, ông Minh Hùng phụ trách quân sự. 1 Trung đội du kích tập trung gồm 30 người được thành lập. Cơ sở cách mạng ở tổng Đường Thượng là cơ sở cách mạng đầu tiên có tác dụng thúc đẩy phát triển phong trào cách mạng ở 4 huyện miền núi phía Bắc Hà Giang sau này. Đầu năm 1945 chiến tranh thế giới thứ 2 đã bước vào giai đoạn cuối. Những chiến thắng to lớn, dồn dập của phe Đồng minh, chủ yếu là Hồng quân Liên Xô đã tác động mạnh tới tình hình Đông Dương, cổ vũ mạnh mẽ phong trào cách mạng giải phóng dân tộc. Ngày 9/3/1945 phát xít Nhật đảo chính, hất cẳng thực dân Pháp, độc chiếm Đông Dương. Tại Hà Giang, phát xít Nhật nhanh chóng nắm và củng cố lại chính quyền tay sai ở địa phương. Quân Nhật liên tiếp mở các cuộc hành quân đi cướp bóc các nơi trong tỉnh. Tới giữa năm 1945, lực lượng cách mạng ở Hà Giang đã phát triển ở hầu hết các xã thuộc châu Vị Xuyên, Bắc Quang và các tiểu khu Bắc Mê, Quản Bạ, Yên Minh với 2/3 diện tích toàn tỉnh và hàng vạn quần chúng được giác ngộ cách mạng. Trên địa bàn châu Đồng Văn, cơ sở cách mạng phát triển mạnh ở các tiểu khu Đông Minh, Quản Bạ, còn ở Đồng Văn và Mèo Vạc do Thổ ty phong kiến tăng cường kiểm soát nên các cán bộ Việt Minh chưa tổ chức xây dựng được cơ sở cách mạng. 15
  16. Tháng 8 năm 1945 chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc, nhân lúc phát xít Nhật và bọn tay sai đang hoang mang cực độ, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã nổi dậy tổng khởi nghĩa và giành thắng lợi trên phạm vi cả nước. Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh, người đứng đầu Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà do tuyên bố nước nhà độc lập trước quốc dân và thế giới. Từ đây, cách mạng nước ta bước sang một kỷ nguyên mới, độc lập dân tộc dân chủ và đi lên CNXH. Sự kiện trọng đại ấy đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào cách mạng ở Hà Giang tiến nhanh vào giai đoạn đấu tranh giành chính quyền toàn tỉnh. Đi đôi với các biện pháp tranh thủ thuyết phục lôi kéo về chính trị, kết hợp với dùng áp lực quân sự, ta giải phóng châu Bắc Quang ngày 5/11/1945, châu Hoàng Su Phì ngày 15/11/1945, tiểu khu Quản Bạ (châu Vị Xuyên) và tiểu khu Yên Minh (châu Đồng Văn) ngày 21/11/1945; thị xã Hà Giang ngày 8/12/1/45… cuộc đấu tranh giành chính quyền cách mạng trong toàn tỉnh cơ bản hoàn thành thắng lợi. Tại châu Đồng Văn, do thế lực Thổ ty, Bang tá, Tổng giáp, Mã phài còn mạnh, nên ta vẫn duy trì chế độ Thổ ty đồng thời đẩy mạnh vận động tuyên truyền cách mạng trong vùng Thổ ty. Đối với Vương Chí Sình, một Bang tá lớn có thế lực trong đồng bào Mông ở Đồng Văn, cán bộ Việt Minh đã tiếp cận, tuyên truyền chủ trương chính sách của Mặt trận Việt Minh, vận động ông ủng hộ Việt Minh, tạo điều kiện để ông về Hà Nội gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người đã giao cho Vương Chí Sình làm Chủ tịch Ủy ban Hành chính huyện Đồng Văn. Như vậy, ở Đồng Văn nói chung, xã Đồng 16
  17. Văn nói riêng không có cuộc đấu tranh giành chính quyền như các nơi khác, mà trên thực tế ta tạm thời thừa nhận chính quyền của Thổ ty với danh nghĩa “Ủy ban Hành chính” để từng bước cải tạo chính quyền của Thổ ty thành chính quyền cách mạng. Bên cạnh những điều kiện thuận lợi, chính quyền nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa non trẻ đã sớm phải đương đầu với những khó khăn thử thách tưởng chừng không thể vượt qua. Những tàn dư xã hội cũ, hậu quả của gần một thế kỷ dưới chế độ thuộc địa nửa phong kiến trở thành một thách thức đối với dân tộc ta. Đất nước ta vừa ra đời đã đứng trước những khó khăn thử thách nghiêm trọng: Nạn đói, nạn mù chữ, thiên tai, địch họa. Ở miền Bắc, gần 20 vạn quân Tưởng lấy danh nghĩa Đồng Minh giải giáp quân đội Nhật tràn vào miền Bắc nước ta, bọn phản động tay sai núp bóng bám theo. Ở miền Nam, quân đội Anh kéo vào, theo sau chúng là một số đơn vị quân đội Pháp. Ngày 23/9/1945 thực dân Pháp gây chiến ở Sài Gòn mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai. Trước tình hình đó, ngày 25/11/1945 Trung ương Đảng ra Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc, xác định kẻ thù chính của nhân dân ta lúc ngày là thực dân Pháp xâm lăng. Thực hiện Chỉ thị của Trung ương Đảng, các cấp chính quyền ở khu Yên Minh đẩy mạnh tuyên truyền vận động nhân dân hiểu rõ âm mưu xâm lược của thực dân Pháp, chống giặc đói, giặc dốt, xây dựng cơ sở cách mạng trong nhân dân. Lực lượng an ninh được tăng cường nhằm giữ vững trật tự trị an, chống bọn gián điệp, chỉ điểm, đặc vụ phản cách mạng. 17
  18. Trong bối cảnh lịch sử chung của toàn quốc sau thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945, Đảng bộ và chính quyền lâm thời của tỉnh vừa mới thành lập đã phải đương đầu ngay với sự quấy phá của các thế lực phản động. Quân đoàn 52 của Tưởng Giới Thạch ra sức quấy nhiễu, lùng sục vào các vùng lân cận Thị xã Hà Giang cướp của, giết hại đồng bào ta. Chúng tìm mọi cách để thực hiện âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng. Nhân cơ hội này, bọn Việt Nam Quốc dân Đảng tụ tập lực lượng để gây áp lực với chính quyền cách mạng. Để hợp pháp hoá chính quyền dân chủ nhân dân các cấp từ Trung ương đến địa phương, Trung ương Đảng chủ trương tổ chức cuộc tổng tuyển cử trong toàn quốc, bầu ra Quốc hội, Hội đồng Nhân dân các cấp. Thực hiện chủ trương của Đảng, ngày 6/1/1946 trong không khí tưng bừng phấn khởi của quân và dân cả nước, nhân dân các dân tộc xã Đồng Văn nô nức đi bầu cử, bầu ra 2 đại biểu (ông Nguyễn Thanh Phong, Chủ tịch lâm thời Uỷ ban hành chính tỉnh và ông Vương Chí Sình, Chủ tịch Uỷ ban Hành chính huyện Đồng Văn) vào Quốc hội khoá đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Thắng lợi này đã làm thất bại âm mưu chia rẽ, phá hoại chính quyền cách mạng của địch. Hệ thống chính quyền các cấp được củng cố. Một cuộc sống mới của nhân dân các dân tộc được xây dựng. Các dân tộc giúp đỡ tương trợ lẫn nhau, tích cực tham gia vào các hội cứu quốc, tham gia các phong trào cách mạng, đẩy lùi “giặc đói, giặc dốt” xóa bỏ hủ tục lạc hậu, thực hiện đời sống mới. Cuối năm 1946, quan hệ giữa Chính phủ Việt Nam và Pháp hết sức căng thẳng, ngày 20/11/1946 thực dân Pháp nổ 18
  19. súng đánh chiếm Hải Phòng, Lạng Sơn, đổ bộ hàng ngàn quân lên cảng Đà Nẵng. Tại Hà Nội, Pháp luôn khiêu khích và gây ra nhiều vụ đổ máu. Chúng còn ngang ngược gửi tối hậu thư đòi giải tán Chính quyền Trung ương và lực lượng vũ trang ta, thực chất là bắt ta đầu hàng. Trước tình hình đó, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: “Chúng ta cần hòa bình để xây dựng nước nhà, cho nên chúng ta đã ép lòng mà nhân nhượng để giữ hòa bình. Dù thực dân pháp đã bội ước, đã gây chiến tranh, nhưng gần một năm tạm hòa bình đã cho chúng ta thời cơ để xây dựng lực lượng căn bản. Khi Pháp đã cố ý gây chiến tranh, chúng ta không thể nhịn nữa thì cuộc kháng chiến toàn quốc bắt đầu”1. Ngày 19/12/1946 Hồ Chủ Tịch ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Ngày 22/12/1946 Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Toàn dân Kháng chiến. Chỉ thị nêu rõ mục đích cuộc kháng chiến là giành độc lập và thống nhất tổ quốc. Đường lối chỉ đạo toàn bộ cuộc kháng chiến là toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh. Nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Hồ Chủ Tịch và thực hiện Chỉ thị của Trung ương Đảng, cả dân tộc Việt Nam đã đoàn kết một lòng, đứng lên kháng chiến chống thực dân Pháp. Trước yêu cầu nhiệm vụ chuẩn bị kháng chiến chống Pháp, Ủy ban Hành chính huyện, xã được đổi thành Ủy ban Kháng chiến Hành chính (UBKCHC). Mặt trận và các tổ chức quần chúng như thanh niên, phụ nữ, nông dân, thiếu nhi được củng cố, tích cực vận động nhân dân hăng hái tăng gia sản xuất, phục vụ kháng chiến, kiến quốc. Lực lượng dân 1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, t.6, tr.612. 19
  20. quân du kích tại các xã được xây dựng nhằm thực hiện nhiệm vụ giữ vững trật tự trị an, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ địa phương, mặc dù lúc này Thổ ty, Tổng giáp vẫn nắm giữ quyền lực chủ yếu. Để chuẩn bị cho nhiệm vụ xây dựng chính quyền, sau cách mạng tháng Tám 1945, một số thanh niên ưu tú tại địa phương đã được cử đi học văn hóa, bồi dưỡng nghiệp vụ để trở thành những cán bộ cho địa phương. Hưởng ứng lời kêu gọi “diệt giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm” của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, sự chỉ đạo trực tiếp của cán bộ Việt Minh, nhân dân xã Đồng Văn đã hăng hái, tích cực tăng gia sản xuất với khẩu hiệu “Tấc đất, tấc vàng” sản xuất để cứu đói và ủng hộ kháng chiến kiến quốc. Về văn hóa - xã hội có nhiều chuyển biến đáng phấn khởi. Trước cách mạng tháng Tám năm 1945, nhân dân xã Đồng Văn không có người biết chữ. Sau khi có sắc lệnh “Bình dân học vụ” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phong trào “xóa mù chữ” ở xã Đồng Văn diễn ra sôi nổi, trong một thời gian ngắn đã có hàng trăm người biết đọc, biết viết. Một số người xóa xong mù chữ được đi đào tạo giáo viên cấp tốc về phục vụ việc giảng dạy cho con em, nhân dân địa phương. Đi đôi với phong trào xóa mù chữ, việc thực hiện xây dựng nếp sống văn hóa mới, phong trào vệ sinh được nhân dân tích cực hưởng ứng. Những năm 1946-1948 cơ sở cách mạng của ta ở Đồng Văn chỉ có ở khu Yên Minh, trong vùng Thổ ty mới có một vài cơ sở ngầm, bởi lúc đó thế lực Thổ ty, Bang tá còn rất mạnh. Dựa vào danh nghĩa Chủ tịch huyện và lợi dụng tình thế cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của ta còn nhiều 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2