intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Bản Ngò (1962-2015): Phần 1

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:83

4
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Bản Ngò (1962-2015): Phần 1 cung cấp cho người đọc những kiến thức như: Điều kiện tự nhiên - xã hội và con người xã Bản Ngò; dưới sự lãnh đạo của đảng, nhân dân các dân tộc xã Bản Ngò đẩy mạnh sản xuất, giữ gìn an ninh trật tự; cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội, góp phần kháng chiến chống đế quốc Mỹ 1963 - 1975;... Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Bản Ngò (1962-2015): Phần 1

  1. HUYỆN ỦY XÍN MẦN BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ XÃ BẢN NGÒ TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN XÃ BẢN NGÒ (1962 - 2015)
  2. 2
  3. LỜI GIỚI THIỆU Được tách ra từ xã Cốc Pài từ năm 1962 đến nay, Đảng bộ xã Bản Ngò đã trải qua chặng đường hơn năm mươi năm xây dựng và trưởng thành. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ xã, nhân dân các dân tộc trong xã phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân, dấy lên các phong trào cách mạng trong lao động, chiến đấu, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đạt được nhiều thành tựu to lớn, đưa Bản Ngò cùng cả nước tiến bước trên con đường đấu tranh giành độc lập, tự do xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong quá trình lãnh đạo và chỉ đạo phong trào cách mạng ở địa phương, Đảng bộ đã đúc kết được những bài học và kinh nghiệm lịch sử quý báu có ý nghĩa sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn. Thực hiện Kế hoạch số 168-KH/HU, ngày 24/8/2018 của Ban Thường vụ Huyện ủy Xín Mần về “thực hiện Chỉ thị số 20-CT/TW, ngày 18/01/2018 của Ban Bí thư về tiếp tục tăng cường, nâng cao chất lượng nghiên cứu, biên soạn, tuyên truyền, giáo dục lịch sử Đảng”, Ban Thường vụ Đảng ủy xã Bản Ngò khóa XIX nhiệm kỳ 2015 - 2020 đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo trong việc triển khai tổ chức sưu tầm tư liệu, nghiên cứu, biên soạn, xuất bản cuốn sách Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Bản Ngò 1962 - 2015. Nội dung cuốn sách ghi lại những chặng đường lịch sử đấu tranh cách mạng đầy gian khổ, nhưng vô cùng vẻ 3
  4. vang của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc xã Bản Ngò trong quá trình đấu tranh xây dựng quê hương, bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Cuốn sách là một tài liệu quý, góp phần tích cực vào việc giáo dục nhằm nâng cao niềm tự hào của cán bộ, đảng viên và nhân dân các dân tộc xã Bản Ngò, về truyền thống cách mạng; bồi dưỡng cho thế hệ trẻ tinh thần yêu nước, tình đoàn kết, chủ động sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, hăng say trong lao động sản xuất, tích cực xóa đói, giảm nghèo xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, văn minh. Trong quá trình tiến hành biên soạn cuốn sách, Đảng ủy đã sưu tầm, tiếp thu, chọn lọc được nhiều tư liệu có giá trị và những ý kiến đóng góp của các đồng chí nguyên là lãnh đạo xã qua các thời kỳ, cán bộ, đảng viên và nhân dân xã Bản Ngò; sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Ban Thường vụ Huyện ủy Xín Mần; đặc biệt là sự phối hợp giúp đỡ tận tình của Ban Tuyên giáo Huyện ủy. Ban Thường vụ Đảng ủy xã Bản Ngò xin chân thành cảm ơn các cơ quan, đơn vị và cá nhân đã tận tình giúp đỡ trong quá trình sưu tầm, nghiên cứu, biên soạn và xuất bản cuốn sách Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Bản Ngò 1962– 2015. Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc sưu tầm tư liệu, nghiên cứu và biên soạn nhưng do nguồn tư liệu thành văn bị thất lạc nhiều, các nhân chứng lịch sử qua các thời kỳ, đặc biệt là thời kỳ kháng chiến chống Mỹ không còn nhiều... do đó cuốn sách khó tránh khỏi 4
  5. những thiếu sót. Ban Thường vụ Đảng ủy rất mong những ý kiến đóng góp của các đồng chí và bạn đọc gần xa để trong dịp tái bản cuốn sách đạt chất lượng cao hơn. Tháng …. năm 2019 TM. BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ XÃ BẢN NGÒ BÍ THƯ Lê Văn Tiến 5
  6. Chương I ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN - XÃ HỘI VÀ CON NGƯỜI XÃ BẢN NGÒ 1. Điều kiện tự nhiên Xã Bản Ngò là xã vùng cao núi đất, cách trung tâm huyện Xín Mần khoảng 7,5 km về phía Nam của huyện. Phía Bắc tiếp giáp với thị trấn Cốc Pài và một phần tiếp giáp với xã Nàn Ma; phía Đông tiếp giáp với xã Tả Nhìu; phía Nam tiếp giáp với xã Nấm Dẩn và phía Tây tiếp giáp với huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai. Địa hình của xã được cấu tạo tương đối phức tạp, có độ dốc lớn, nhiều khe sâu chia cắt. Hệ thống sông suối của xã phân bổ tương đối đồng đều, hầu như thôn nào cũng có, lớn nhất là suối Nấm Dẩn được bắt nguồn từ đỉnh Đèo Gió sau khi qua xã Nấm Dẩn, chảy dọc qua và ngăn cách giữa xã Bản Ngò với xã Tả Nhìu, có chiều dài khoảng 2,7 km và từ đây đổ vào dòng chính sông chảy trở thành một hẻm sâu. Ngoài ra xã còn có con suối chính là suối Bản Ngò, bắt nguồn từ phía sau thôn Sung Lẳm xã Tả Củ Tỷ huyện Bắc Hà tỉnh Lào Cai, chảy theo hướng tây – bắc về thôn Nậm Phàng, qua thôn Đoàn Kết, thôn Thắng Lợi sau cùng đến thôn Táo Hạ xã Bản Ngò. Từ đây con suối hòa với dòng suối Nấm Dẩn đổ về sông Chảy tạo thành giáp ranh giữa xã với thị trấn Cốc Pài, xã Nàn Ma của huyện. Với hệ thống sông, suối kể trên đã làm phong phú thêm địa hình của xã Bản Ngò với cảnh quan núi cao, vực sâu. 6
  7. Khí hậu, thời tiết của xã nằm trong vùng khí hậu rừng núi nhiệt đới, gió mùa. Thu Tà có lượng mưa trung bình hàng năm rất lớn, độ ẩm cao, lượng chiếu sáng lớn, chia thành hai mùa rõ rệt và hay thay đổi thất thường. Mùa nóng kéo dài từ tháng 4 đến tháng 9, nhiệt độ trung bình 280C; mùa rét từ tháng 10 đến tháng 3, nhiệt độ trung bình 150C có lúc xuống dưới 100C. Điều kiện khí hậu trên đã tạo thuận lợi cho thảm thực vật phát triển, nhất là rừng, cây dược liệu và cây công nghiệp. Tuy nhiên, Thu Tà hay có gió lốc mạnh, mưa lớn gây sạt lở đất và lũ quét, sương muối và chịu ảnh hưởng của gió mùa đông bắc. Tổng diện tích toàn xã 1.944,5 ha, trong đó diện tích đất nông nghiệp 1.710 ha, đất trồng cây hàng năm 234,5 ha, còn lại các loại đất khác. Xã Bản Ngò có nhiều tiềm năng cho việc phát triển lâm nghiệp và các loại cây công nghiệp dài ngày; trên rừng có hệ động, thực vật phong phú và đa dạng về chủng loại. Thảm thực vật gồm có nhiều gỗ quý, nhưng đến nay, do tập quán du canh, phát nương, làm rẫy từ lâu đời và do ý thức bảo vệ và phát triển rừng chưa cao, tình trạng khai thác gỗ và săn bắt động vật bừa bãi,… đã làm cho vốn rừng, quỹ động thực vật ngày càng cạn kiệt, nhiều loài gỗ quý, động vật quý hiếm không còn trên địa bàn xã. Là một xã có địa hình phức tạp, đồi núi dốc, bị chia cắt bởi nhiều khe núi, suối đã hạn chế trong giao thông, đi lại, sinh hoạt; đồng thời cũng là một trong những nhân tố kìm hãm quá trình trao đổi hàng hóa và sự phát 7
  8. triển kinh tế của địa phương. Hàng năm, đến mùa mưa lũ, gây sạt lở, sói mòn làm ách tắc giao thông, ảnh hưởng đến sản xuất của bà con nhân dân. Để khắc phục những khó khăn, trở ngại về điều kiện tự nhiên, đồng bào các dân tộc nơi đây đã biết tận dụng và khai thác những mặt thuận lợi của tự nhiên, gắn với thực hiện điều chỉnh mùa vụ thích hợp với điều kiện thời tiết trong năm, phục vụ đắc lực cho sản xuất nông lâm nghiệp và sinh hoạt. Tất cả những điều kiện tự nhiên đó đã tạo nên những khó khăn, thách thức không nhỏ trên con đường phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội và quốc phòng - an ninh của xã... Điều này đòi hỏi Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong xã cần phải cố gắng và nỗ lực hơn nữa trong việc khắc phục những khó khăn, trở ngại của tự nhiên, đồng thời tìm ra hướng phát triển thích hợp cho mình. 2. Điều kiện kinh tế - xã hội Bản Ngò là tên gọi mới của địa phương. Trong chặng đường dài lịch sử của thời dựng nước, vùng đất này là một phần nhỏ của Châu Vị Xuyên thuộc trấn Tuyên Quang của Nhà nước Đại Việt, do thổ tù họ Ma nối đời quản trị. Dưới thời pháp thuộc, toàn bộ phủ Tương Yên, trong đó có Vị Xuyên thuộc khu quân sự số 2, tỉnh Tuyên Quang. Ngày 20/8/1891, tỉnh Hà Giang được thành lập trên cơ sở phủ Tương Yên và huyện Vĩnh Tuy, thuộc đạo quan binh ba. Từ đó huyện Vị Xuyên thuộc tỉnh Hà Giang; về sau huyện Vị Xuyên 8
  9. được chia thành 02 huyện: huyện Vị Xuyên và huyện Hoàng Su Phì; thời kỳ này, vùng đất Bản Ngò thuộc xã Cốc Pài của huyện Hoàng Su Phì. Đến ngày 15/12/1962, thực hiện quyết định số 211-CP của Hội đồng Chính phủ, xã Bản Ngò1 được thành lập trên cơ sở tách ra từ xã Cốc Pài; tiếp đó là ngày 01/04/1965 huyện Hoàng Su Phì được chia thành hai huyện: Hoàng Su Phì và Xín Mần2. Đến năm 2015, xã Bản Ngò có 9 thôn gồm các thôn: Táo Thượng, Đoàn Kết, Nậm Phàng, Xín Chải, Chù Trải, Đán Khao, Thính Tằng, Táo Hạ. Trong cơ cấu kinh tế của xã, sản xuất nông nghiệp vẫn là ngành sản xuất chính. Ngoài gieo trồng cây lương thực là chủ yếu cây lúa, cây ngô, trên địa bàn xã còn trồng một số loại cây có giá trị kinh tế, như: sắn, dong giềng, khoai lang và các cây công nghiệp ngắn ngày (đậu tương, chè, mía), cây thực phẩm (bí, rau, đậu các loại), vv... Về chăn nuôi, trên địa bàn xã chủ yếu là phát triển đàn trâu, bò, dê và lợn để lấy thịt, sức kéo và phân bón phục vụ sản xuất. Ngoài ra còn phát triển chăn nuôi các vật nuôi phổ biến như gà, vịt, ngan, cá, ong mật và một số vật nuôi khác. Về sản xuất công nghiệp, nhìn chung chưa phát triển. Ngoài một số ngành, nghề truyền thống như rèn đúc, nông cụ sản xuất cầm tay, dệt vải lanh, thổ cẩm, vv… trong những năm gầy đây, trên địa bàn xã đã hình thành và phát 1 Gồm 6 hợp tác xã: Làng Táo, Bản Mẩu, Nậm Phàng, Xín Chải, Đán Khao, Trù Chải. 2 Lúc này, xã Bản Ngò là 1 trong 18 xã của huyện Xín Mần. 9
  10. triển thêm một số ngành nghề khác, như: chế biến nông sản (say xát ngô, lúa). Song, quy mô sản xuất vẫn còn nhỏ lẻ, manh mún, phân tán, năng lực sản xuất thấp. Do vậy giá trị sản xuất công nghiệp chưa cao. Xã Bản Ngò có 07 dân tộc anh em cùng sinh sống, gồm dân tộc Nùng (Chiếm 39,08%), Tày (chiếm 25,88%), Mông (chiếm 17,94%), Dao (chiếm 5,42%); còn lại là dân tộc La Chí và Kinh. Theo số liệu thống kê của Phòng Thống kê huyện Xín Mần, tính đến năm 2015, xã Bản Ngò có 3.515 người, với mật độ là 174 người/km2. Trải qua bao thăng trầm lịch sử, trong quá trình lao động và sáng tạo, chinh phục tự nhiên không mệt mỏi, con người nơi đây đã tạo dựng cho mình một thế ứng xử với tự nhiên - xã hội để tồn tại và không ngừng phát triển. Trong quá trình phát triển ấy đồng thời cũng tạo ra những nét bản sắc văn hóa của từng dân tộc thống nhất trong một cộng đồng, qua đó tạo ra một tinh thần đoàn kết, tương trợ lẫn nhau trong lao động sản xuất cũng như quá trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm, bảo vệ quê hương. Tinh thần này càng được thể hiện một cách mạnh mẽ từ khi có Đảng dẫn đường, chỉ lối. Trong những năm 1930 đến năm 1940 của thế kỷ XX, màn đêm của chủ nghĩa thực dân phong kiến vẫn còn bao trùm dầy đặc trên đất nước ta. Khi đó, vùng Bản Ngò (thuộc xã Cốc Pài - huyện Hoàng Su Phì) chưa có cơ sở Đảng, lúc này mọi hoạt động của địa phương trong đấu tranh cách mạng, giành và củng cố bảo vệ 10
  11. chính quyền đều đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của cán bộ Việt Minh. Đặc biệt từ khi có chi bộ Đảng đầu tiên ở Hoàng Su Phì cũng đồng thời khi ấy ánh sáng cách mạng của Đảng đã bắt đầu nhen nhóm. Từ người cách mạng đầu tiên là đồng chí Lê Minh Cầm (tức Mai Anh), đồng chí Tu, đồng chí Minh đến với Hoàng Su Phì để vận động, giác ngộ tinh thần cách mạng của nhân dân và được bà con nhân dân các dân tộc trong vùng đùm bọc, một lòng ủng hộ. Từ đó đã dần xây dựng được căn cứ cách mạng vững chắc, tạo thế bàn đạp cho việc đánh Pháp, tiễu Phỉ và bọn thổ ty tay sai, giải phóng huyện Hoàng Su Phì, góp phần cùng cả nước làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954. Trong những giai đoạn tiếp theo qua các cuộc kháng chiến chống Mỹ và chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc, bên cạnh việc đẩy mạnh sản xuất, xây dựng địa phương, nhân dân trong vùng đã không ngừng tham gia đóng góp về sức người, sức của cùng cả nước làm nên những thắng lợi to lớn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cùng với truyền thống lao động và đấu tranh, trong đời sống xã hội của nhân dân xã Bản Ngò còn chứa đựng nhiều bản sắc văn hóa đa dạng và phong phú, tiêu biểu là lễ hội "Cúng Rừng", “Cúng Miếu” của các dân tộc đang sinh sống trên địa bàn xã, không để chỉ cầu các vị thần rừng, thần núi phù hộ cho thời tiết thuận lợi, mùa màng bội thu, mà còn là nét sinh hoạt văn hóa của cộng 11
  12. đồng các dân tộc nơi đây. Sau mỗi mùa vụ, những dịp lễ hội, lễ tiết… đồng bào nơi đây thường tổ chức sinh hoạt văn hóa, văn nghệ dân gian vui nhộn... Ngoài ra, còn có nhiều hình thức sinh hoạt văn hóa truyền thống mang tính tập thể của từng dân tộc nhưng đến nay vì nhiều lý do tác động đã bị mai một đi nhiều. Ngày nay, được sự quan tâm đầu tư của Đảng và Nhà nước, cùng với sự cố gắng, nỗ lực không ngừng của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân các dân tộc xã Bản Ngò đã không ngừng nâng lên, nhân dân xã Bản Ngò đã được hưởng những phúc lợi về vật chất, tinh thần, như: điện lưới Quốc gia; hệ thống đường giao thông… Việc thực hiện các phong trào văn hóa, gia đình văn hóa đã được thực hiện và đạt được những kết quả tốt đẹp, nếp sống văn hóa mới được xây dựng vững chắc. Sau hơn 56 năm được thành lập, tiếp tục phát huy truyền thống yêu nước, tinh thần đoàn kết, cần cù trong lao động sản xuất, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, Đảng bộ và nhân dân xã Bản Ngò từng bước khắc phục mọi khó khăn, hàn gắn vết thương chiến tranh, từng bước vươn lên xây dựng quê hương. Trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc xã Bản Ngò lại vững bước đi lên, phát huy thế mạnh, khơi dậy tiềm năng, đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, quyết tâm bảo vệ và xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, phấn đấu thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 12
  13. 3. Nhân dân các dân tộc xã Bản Ngò thời kỳ trước năm 1962 Thời kỳ này, Bản Ngò là một vùng thuộc địa giới hành chính của xã Cốc Pài thuộc huyện Hoàng Su Phì, bị thực dân Pháp chiếm đóng từ rất sớm. Dưới ách thống trị của thực dân Pháp và tay sai, trực tiếp do tên Cháng Séo Khún cầm đầu đã làm đời sống của nhân dân các dân tộc vùng Bản Ngò vô cùng cực khổ, nhân dân phải chịu những thứ thuế phải đóng góp như ở vùng xuôi (thuế đinh, thuế điền, thuế thổ canh) chúng còn đặt ra các loại thuế khác như thuế ngựa thồ, thuế gia ốc (bếp lửa), thuế rửa bát, thuế nuôi quân (nộp bằng hiện vật để nuôi lính dõng ở các đồn), thuế thuốc phiện và nhiều loại hiện vật phải nộp khác. Người dân ốm đau không có nơi và có thuốc để chữa trị.v.v... thanh niên bị bắt ép đi phu, đi lính phục vụ cho việc cai trị và khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Trước sự cai trị, bóc lột của thực dân Pháp, đời sống của nhân dân các dân tộc ở địa phương ngày càng trở nên cơ cực, điêu đứng. Đầu năm 1942, quân Nhật đến Hà Giang mở rộng chiếm đóng toàn tỉnh. Năm 1945, tình hình thế giới có nhiều chuyển biến, quân đội Nhật liên tiếp bị thất bại trên các mặt trận Thái Bình Dương, Đông Bắc Á, Đông Nam Á, trong khi đó mâu thuẫn đối kháng giữa Nhật và Pháp ngày càng gay gắt ở Đông Dương. Đêm mùng 09/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, trước bối cảnh đó, Trung ương Đảng đã nhận định: Sau cuộc đảo chính này, phát xít Nhật sẽ là kẻ thù chính của nhân dân Đông 13
  14. Dương và phát động cao trào kháng Nhật trong phạm vi cả nước làm tiền đề chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền khi đủ điều kiện. Tháng 4 và tháng 5 năm 1945, trước phong trào cách mạng lan rộng ở Hà Giang, quân Nhật co cụm lại. Cùng lúc đó, bọn Quốc dân đảng tràn vào địa phương, ra sức vơ vét cướp bóc của cải của nhân dân xã Cốc Pài, khiến nhân dân trong xã càng thêm điêu đứng, khổ cực. Tháng 8/1945, chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc với sự toàn thắng của phe đồng minh. Tình hình ấy là điều kiện khách quan thuận lợi cho cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta. Ở trong nước, nhằm vào lúc phát xít Nhật và bọn tay sai đang hoang mang cực độ, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Đông Dương, bằng chí căm thù sôi sục và tinh thần quyết thắng đã nổi dậy tổng khởi nghĩa và đã giành được thắng lợi. Ngày 02/9/1945, Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu tuyên bố nước nhà độc lập trước quốc dân và toàn thế giới. Những sự kiện trọng đại ấy đã cổ vũ và thúc đẩy mạnh mẽ phong trào cách mạng ở Hà Giang tiến nhanh vào giai đoạn đấu tranh giành chính quyền toàn tỉnh. Quần chúng nhân dân các dân tộc tỉnh Hà Giang càng thêm phấn khởi, tin tưởng và kiên quyết đưa cuộc đấu tranh đến toàn thắng. Ngày 29/8/1945, quân Nhật rút khỏi Hà Giang thì ngay chiều 30/8/1945, quân đội Tưởng kéo vào Bản 14
  15. Máy, Xín Mần, Khuôn Lùng... Đi đến đâu, chúng đều cướp lương thực, thực phẩm, bắt nhiều người đi phục dịch gây nên lòng căm thù cao độ trong nhân dân các dân tộc trong huyện. Ngày 5/11/1945, huyện lỵ Bắc Quang được giải phóng. Thắng lợi này đã tác động mạnh mẽ tới nhân dân các dân tộc xã Cốc Pài, Bản Ngò, đã tạo thêm niềm phấn khởi, với một ý chí giành độc lập, tự do; đồng thời làm cho mâu thuẫn giữa thổ ty, cường hào địa phương với tàn quân Quốc dân Đảng ngày càng thêm sâu sắc. Chớp được thời cơ, ta đưa 2 tiểu đội từ Bắc Quang tiến vào giải phóng Hoàng Su Phì. Cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt, căng thẳng và không cân sức giữa một bên là quân ta với vũ khí thô sơ và không đầy đủ với một bên là bọn Quốc dân đảng có lực lượng đông với nhiều vũ khí lại dựa vào bọn phản động tay sai. Nhưng với lòng dũng cảm, kiên cường, quân ta đã đánh quyết liệt, đánh đến cùng, đồng thời ta vừa tiếp tục tổ chức bao vây địch, vừa động viên thuyết phục, tuyên truyền giác ngộ đồng bào theo cách mạng. Nhân dân phấn khởi ủng hộ bộ đội lương thực, thực phẩm, may cờ đỏ sao vàng… Địch bị cô lập cao độ, đêm 12/11/1945, chúng bỏ chạy sang Trung Quốc. Ngày 13/11/1945, ta làm chủ huyện lỵ Hoàng Su Phì. Ngày 15/11/1945, nhân dân Hoàng Su Phì họp mít tinh chào mừng quê hương được giải phóng. Cờ đỏ sao vàng tung bay trên bầu trời huyện Hoàng Su Phì. Nhân dân các dân tộc ở Hoàng Su Phì, trong đó có vùng Bản Ngò, bắt đầu làm chủ cuộc sống của mình. 15
  16. Tiếp đó, ngày 8/12/1945, thị xã Hà Giang được giải phóng, ngày 25/12/1945, nhân dân các dân tộc Thị xã Hà Giang và Đại biểu các địa phương vui mừng, phấn khởi mít tinh chào mừng Ủy ban hành chính lâm thời của tỉnh do đồng chí Thanh Phong làm Chủ tịch. Song song với việc thành lập UBHC lâm thời của tỉnh, cùng ngày xứ ủy Bắc Kỳ ký quyết định thành lập Đảng bộ tỉnh Hà Giang, đồng chí Hồng Quân được chỉ định làm Bí thư Tỉnh ủy lâm thời. Có thể nói, đây là sự kiện có ý nghĩa quan trọng, đánh dấu mốc kết thúc giai đoạn đấu tranh giành chính quyền trong phạm vi toàn tỉnh. Cách mạng tháng tám thành công, Đất nước được độc lập, tự do, Tổ quốc thống nhất, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Đảng ta trở thành Đảng Cộng sản đầu tiên ở Đông Nam Á giành được chính quyền. Một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đã mở ra cho dân tộc Việt Nam. Chính phủ lâm thời do đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch đã ra mắt quốc dân đồng bào, trong cuộc mít tinh tuyên bố độc lập tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội. Chính phủ đã tuyên thệ triệt để thi hành đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản và Mặt trận Việt Minh để lãnh đạo nhân dân phát huy thắng lợi của cách mạng, giữ vững nền độc lập dân tộc, bảo vệ chính quyền, kiến thiết nước nhà giàu mạnh. Tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã trở thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực 16
  17. lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy” vang dội núi sông, khích lệ nhân dân cả nước, đồng bào Hà Giang, trong đó có cán bộ và nhân dân các dân tộc xã Cốc Pài nói chung và vùng Bản Ngò nói riêng. Thể hiện quyết tâm đó, ngày 3-9-1945, trong phiên họp đầu tiên, Hội đồng Chính phủ đã nêu ra sáu nhiệm vụ cấp bách phải thực hiện trong cả nước, ở mỗi địa phương, tỉnh, huyện và làng xã. Đó là, phải tích cực chống nạn đói, nạn dốt, bỏ thói hư, tật xấu, cấm hút thuốc phiện; bỏ thuế thân, thuế chợ, thuế đò,… khắc phục hậu quả của ách thống trị do thực dân Pháp và phát xít Nhật để lại; xây dựng đời sống mới tốt đẹp, lành mạnh; thi hành chính sách tự do tín ngưỡng, nam nữ bình đẳng, bình quyền; đoàn kết dân tộc, đoàn kết lương giáo; tổ chức tổng tuyển cử tự do phổ thông đầu phiếu bầu ra Quốc hội, để Quốc hội ban hành Hiến pháp và thành lập Chính phủ chính thức. Ngày 6 tháng 1 năm 1946, cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội với chế độ phổ thông đầu phiếu đã được tổ chức trong cả nước, nhân dân các dân tộc xã Cốc Pài, trong đó có nhân dân vùng Bản Ngò, cùng nhân dân cả nước cầm lá phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội, cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước. Trong hoàn cảnh thù trong giặc ngoài ra sức chống phá, tổng tuyển cử đầu tiên thật sự là một cuộc đấu tranh gay go, quyết liệt để xác lập quyền làm chủ của nhân dân, của Nhà nước về mặt pháp lý. Với ý thức “lá phiếu 17
  18. là viên đạn diệt thù”, nhân dân bất chấp sự đe dọa và phá hoại của bọn phản động, vẫn nô nức đi làm nghĩa vụ công dân. Nhân dân cả nước đã bầu 333 đại biểu Quốc hội khóa I, thể hiện sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc, một sức mạnh có ý nghĩa quyết định trong công cuộc củng cố chính quyền cách mạng. Không lâu sau đó, khi đất nước đứng trước nguy thù trong, giặc ngoài đe dọa, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ nằm giữa vòng vây bốn phía của chủ nghĩa đế quốc và bọn phản động quốc tế, Bác Hồ đã khái quát và nhấn mạnh ba nhiệm vụ chủ yếu của chính quyền cách mạng lúc này là chống giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Ba nhiệm vụ đó phải đi liền với nhau. Đi đôi với nhiệm vụ xây dựng chính quyền, thực hiện ba nhiệm vụ chủ yếu của chính quyền cách mạng. Ta luôn chú ý làm tốt công tác trấn áp bọn tay sai phản động, thổ phỉ thường xuyên gây rối, quấy phá chính quyền và nhân dân. Đồng thời tổ chức cho bộ đội tiếp tục tấn công làm chủ các đồn Bản Máy, Xín Mần. Mặt khác giúp đỡ nhân dân ổn định đời sống, phát triển sản xuất, thành lập lực lượng công an nhằm củng cố, xây dựng lực lượng đấu tranh phản cách mạng tiêu diệt bọn gián điệp, chỉ điểm, đặc vụ. Để tranh thủ thời gian hòa hoãn, xây dựng lại lực lượng, ta đã ký hiệp ước Hoa – Pháp ký kết ngày 28-2- 1946. Trung ương Đảng và Chính Phủ ta đã ký hiệp định sơ bộ (6-3-1946) và bản tạm ước (14-9-1946). Nhưng với mưu đồ xâm lược nước ta thực dân Pháp bội 18
  19. ước Hiệp định 6-3 và Tạm ước 14-9-1946, chúng ngang ngược tấn công Hải Phòng, Hà Nội, Lạng Sơn… bộc lộ rõ dã tâm cướp nước ta một lần nữa. Ngày 19-12-1946, không còn khả năng cứu vãn hòa bình, để bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ động phát động cuộc kháng chiến toàn quốc, với phương châm toàn dân, toàn diện và trường kỳ kháng chiến. Trung ương Đảng ra Chỉ thị Toàn dân kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến - Hịch cứu nước kêu gọi đồng bào cả nước đứng lên kháng chiến: “...Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp, cứu nước”... Hưởng ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-12-1946), Nhân dân các dân tộc xã Cốc Pài trong đó có vùng Bản Ngò đoàn kết đứng lên cùng đồng bào cả nước chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Thực hiện chủ trương tiêu thổ kháng chiến “Phá cho rộng, phá cho sâu, phá cho bọn Pháp không lợi dụng được” và triển khai tinh thần Hội nghị quân sự toàn quốc (lần thứ nhất từ ngày 12 đến 16-1-1947) nhanh chóng phát triển chiến tranh du kích ngăn chặn bước tiến của quân thù”. Nhân dân các dân tộc xã Cốc Pài xây 19
  20. dựng khối đoàn kết toàn dân, xây dựng lực lượng mọi mặt cho cuộc kháng chiến. Thực hiện sự chỉ đạo của Ủy ban kháng chiến hành chính xã lãnh đạo huy động nhân dân tổ chức. Đặc biệt, để kịp thời lãnh chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ vừa kháng chiến chống thực dân Pháp, vừa tiễu trừ bọn thổ phỉ đang hoạt động mạnh ở khu vực phía Tây của tỉnh, ngày 16-5-1947, Tỉnh ủy Hà Giang đã ra quyết định thành lập chi bộ cơ quan huyện Hoàng Su Phì và chỉ định đồng chí Lê Minh Cầm (tức Mai Anh) làm Bí thư Chi bộ. Tình hình chung của huyện lúc này đang gặp vô vàn khó khăn thử thách, kinh tế kiệt quệ, đại đa số nhân dân mù chữ, công tác chăm sóc sức khỏe của người dân gặp khó khăn, dịch bệnh hoành hành, các tổ chức quần chúng cơ sở đang trong quá trình hình thành. Chi bộ sau khi được thành lập đã kịp thời chỉ đạo, tổ chức kiện toàn các cơ sở hội Cứu quốc, hội Việt Minh từ huyện đến xã. Bên cạnh đó Chi bộ đã kịp thời chỉ đạo nhiệm vụ trấn áp bọn phản động quấy nhiễu gây ảnh hưởng đến tình hình an ninh trên địa bàn, xáo trộn cuộc sống của nhân dân. Từ tháng 7 đến tháng 8 – 1947, xảy ra liên tiếp các vụ cướp của, giết người tại các xã Xín Mần, Bản Máy, Cốc Pài do Quốc dân đảng và bọn thổ phỉ gây ra. Nghiêm trọng hơn xảy ra vụ loạn “cờ trắng” do tên Chảo Sành Phú, người Dao cầm đầu, tên này đã tiến hành hàng loạt vụ giết người, cướp của với thủ đoạn dã man, tàn độc tại các xã Lùng Chún, Khuôn Lùng, đồng thời chúng đề ra khẩu hiệu: “giết Tày lấy ruộng, giết Kinh lấy muối, giết 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2