Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Lũng Thầu (1961-2018): Phần 1
lượt xem 1
download
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Lũng Thầu (1961-2018): Phần 1 được biên soạn gồm các nội dung chính sau: Khái quát về điều kiện tự nhiên – xã hội xã Lũng Thầu; Chi bộ đảng xã Lũng Thầu lãnh đạo nhân dân trong xã đẩy mạnh sản xuất, tích cực chi viện cho tiền tuyến đánh Mỹ, giải phóng Miền nam, thống nhất đất nước (1961 - 1975). Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Lũng Thầu (1961-2018): Phần 1
- 1 ĐẢNG BỘ HUYỆN ĐỒNG VĂN BCH ĐẢNG BỘ XÃ LŨNG THẦU TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN XÃ LŨNG THẦU (1961 - 2018) Xuất bản năm 2020
- 2 LỜI GIỚI THIỆU Lũng Thầu là một xã nội địa của huyện Đồng Văn, được tách ra từ xã Vần Chải năm 1961, nhưng vùng đất và con người nơi đây đã có từ lâu đời. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, các thế hệ cán bộ và nhân dân đã không ngừng nỗ lực, xây dựng để Lũng Thầu phát triển mạnh mẽ như hôm nay. Với mục đích ghi lại những chặng đường lịch sử đầy cam go, thử thách nhưng hào hùng, vẻ vang của quê hương. Nội dung cuốn “Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc xã Lũng Thầu (1961 - 2018)” phản ánh đầy đủ lịch sử hình thành vùng đất, con người xã Lũng Thầu, quá trình ra đời của chi bộ, Đảng bộ xã và nhiều sự kiện quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển của xã Lũng Thầu suốt chiều dài lịch sử. Đây là một sự kiện hết sức quan trọng và đáng tự hào của Đảng bộ và nhân dân trong xã, góp phần tích cực trong việc tuyên truyền, giáo dục truyền thống cách mạng của địa phương, giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là giáo dục thế hệ trẻ phát huy truyền thống vẻ vang của dân tộc, của quê hương đất nước. Là việc làm thể hiện sự kính trọng, lòng biết ơn sâu sắc đối với các vị lãnh đạo của xã qua các thời kỳ, các gia đình cách mạng đã cống hiến công sức và tài sản cho các cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình sưu tầm, nghiên cứu và biên soạn, Ban Thường vụ Đảng ủy xã luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo của Ban Thường vụ Huyện ủy, sự phối hợp, giúp đỡ của Ban Tuyên giáo Huyện uỷ, Phòng Lý luận Chính trị và Lịch sử Đảng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, cùng với sự đóng góp ý kiến quý báu của cán bộ, đảng viên và nhân dân, đặc biệt là sự đóng góp của các đồng chí cán bộ chủ chốt của xã qua các thời kỳ. Mặc dù Ban biên soạn đã có nhiều cố gắng, với tinh thần trách nhiệm cao, nhưng trong quá trình thực hiện còn gặp nhiều khó khăn, như: nguồn tài liệu không đầy đủ, các nhân chứng lịch sử tuổi đã cao, trí nhớ có phần suy giảm, bên cạnh đó, trình độ của cán bộ Ban biên soạn có hạn, nên không tránh khỏi những thiếu sót. Ban Thường vụ Đảng ủy xã Lũng Thầu mong nhận được sự tham gia, góp ý của các đồng chí và bạn đọc để cuốn sách được hoàn thiện hơn trong lần tái bản tiếp theo. Đây là lần đầu tiên sưu tầm, biên soạn và phát hành nên dù đã có nhiều cố gắng nhưng cuốn sách khó tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Vì vậy, Ban Chấp hành Đảng bộ xã Lũng Thầu rất mong tiếp tục nhận được những ý kiến đóng góp, bổ sung của các đồng chí cán bộ, đảng viên và nhân dân trong xã cùng bạn đọc gần xa để cuốn sách được hoàn thiện hơn trong lần xuất bản sau. Xin trân trọng giới thiệu đến toàn thể cán bộ, đảng viên, nhân dân cùng bạn đọc! T/M BCH ĐẢNG BỘ XÃ LŨNG THẦU Giàng Mí Say Ủy viên BCH Đảng bộ huyện – Bí thư Đảng ủy
- 3 Phần một KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN - XÃ HỘI XÃ LŨNG THẦU 1. Điều kiện tự nhiên Lũng Thầu là một xã vùng cao núi đá, nằm cách trung tâm huyện 40 km về phía Tây của huyện Đồng Văn. Phía Bắc và phía Đông giáp xã xã Phố Cáo; phía Tây giáp huyện Yên Minh; phía Nam giáp xã Vần Chải. Xã có địa hình đồi núi cao, bị chia cắt mạnh, không đồng nhất, thấp dần về phía xã Vần Chải và huyện Yên Minh nên có độ dốc rất lớn gây khó khăn cho việc canh tác, phát triển sản xuất nông - lâm nghiệp cũng như đời sống sinh hoạt của nhân dân. Diện tích đất tự nhiên từ sau khi chia tách thành lập xã năm 1961, đến năm 1978 là 1.466,4 ha, đất nông nghiệp 316,1 ha, đất lâm nghiệp 163 ha, đất chuyên dùng 8,6 ha; đất có khả năng lâm nghiệp 166,9 ha, đất khác 702,2 ha. Đến năm 2018, tổng diện tích đất tự nhiên của xã là 1.490,38 ha, trong đó đất nông nghiệp 1.158,03 ha, nhóm đất phi nông nghiệp 92,33 ha, nhóm đất chưa sử dụng là 204,02 ha1. Quỹ đất chưa sử dụng trên địa bàn xã chủ yếu là núi đá chưa có rừng cây, đây là tiềm năng trong khai thác và sử dụng quỹ đất của xã trong tương lai. Địa hình xã Lũng Thầu nhìn chung rất phức tạp, chủ yếu là núi đá vôi có địa hình chia cắt mạnh, độ cao bình quân 1.200m so với mặt nước biển, độ dốc lớn có nhiều đỉnh núi đá cao phổ biến từ trên 1.390 m đến 1.710 m, cấu tạo địa chất chủ yếu là đá vôi, Karst phát triển mạnh. Diện tích đất bằng thung lũng và núi đất pha đá chiếm tỷ lệ ít, bao gồm các thung lũng chân núi đá, hầu hết diện tích đất này đã được đưa vào khai thác sử dụng trồng cây nông nghiệp hàng năm. Về khí hậu, theo số liệu thống kê hàng năm cho thấy, xã Lũng Thầu nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa mang tính lục địa khá rõ rệt, lượng mưa trung bình năm từ 1760 đến 2000 mm, tập trung từ tháng 5 đến tháng 8, lượng bốc hơi trung bình 730 mm. Tuy nhiên do nằm trên cao nguyên đá vôi, khả năng giữ nước kém nên tình trạng thiếu nước khá nghiêm trọng về mùa khô. Do vậy ảnh hưởng rất lớn đến cây trồng và vật nuôi. Về thuỷ văn, nhìn chung nguồn nước mặt cũng như nước ngầm rất khan hiếm điều đó ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất và đời sống sinh hoạt của người dân địa phương. Hệ thủy văn trong xã phụ thuộc theo mùa, mùa mưa ít nước, mùa khô hầu như không có nước kể cả sản xuất và nước sinh hoạt. Đặc biệt, địa bàn xã Lũng Thầu là điểm giao nhau giữa vùng thấp núi đất của Yên Minh và vùng cao núi đá của Đồng Văn nên về mùa mưa thường xảy ra mưa đá, gió lốc cục bộ, về mùa khô thường có sương mù dày đặc nhất là khu vực dốc Thẩm Mã làm ảnh hưởng rất lớn tới tầm nhìn của các phương tiện qua lại khu vực này, bên cạnh đó tình trạng sương muối thường xuyên xuất hiện trong mùa khô, thời tiết khô hanh ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống của nhân dân. 1 Nghị quyết số 01/NQ-HĐND ngày 29/6/2018 của HĐND huyện Đồng Văn về Điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang.
- 4 Về tài nguyên đất: (-) Nhóm đất đỏ vàng: Đây là nhóm đất chiếm tỷ lệ lớn nhất, phát triển tại chỗ với quá trình hình thành đặc trưng của vùng nhiệt đới ẩm - quá trình feralit. Do địa hình dốc nên quá trình này diễn ra trong điều kiện các silicat bị rửa trôi và các hợp chất sắt, nhôm được tích luỹ. Vỏ phong hoá giầu ôxit và hydroxit sắt hình thành các loại đất có màu đỏ vàng. Nhóm đất này có các loại đất chính sau: Đất đỏ vàng trên đá sét và biến chất (Fs), đất đỏ vàng trên đá macma axit (Fa), đất vàng nhạt trên đá cát (Fq), đất mùn nâu vàng trên đá vôi (Fv). Nhóm đất này thích hợp với nhiều loại cây như cây lương thực và màu, cây công nghiệp, cây ăn quả. (-) Nhóm đất mùn vàng đỏ trên núi: Nhóm đất này cũng phát triển tại chỗ. Trên đất nương rẫy, nhóm đất này có các loại đất chính sau: Đất mùn vàng đỏ trên đá sét và biến chất (Hs), đất mùn vàng nhạt trên đá cát (Hq), đất mùn vàng đỏ trên đá macma axit (Ha). Đây cũng là nhóm đất thích hợp với hầu hết các loại cây trồng cũng như cây lương thực, cây công nghiệp ngắn ngày, cây ăn quả và cây lâm nghiệp. Là xã vùng cao núi đá, nhưng lại không có tài nguyên về khoáng sản, vì vậy đất đai là nguồn tài nguyên đặc biệt và quan trọng của người dân địa phương. Tài nguyên rừng chiếm vị trí quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, tuy nhiên, diện tích rừng trên địa bàn xã rất ít, rừng nghèo và đã bị khai thác cạn kiệt, diện tích rừng hiện nay chủ yếu khoanh nuôi, phục hồi rừng nên độ che phủ thấp. 2. Điều kiện xã hội Trước năm 1961, Lũng Thầu là một thôn của xã Vần Chải. Ngày 5/7/1961 Hội đồng Chính phủ ban hành quyết định số 91-CP chia 13 xã thuộc huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang, khu tự trị Việt Bắc thành những xã mới. Xã Vần Chải được chia thành 2 xã mới là Vần Chải và Lũng Thầu. Theo đó, Lũng Thầu gồm có 3 thôn: Mô-Sui (Mỏ Xí), Sang-Tung (Sá Tủng2 - thuộc 2 thôn Tủng A và Tủng B ngày nay) và Chang-Dinh (Chá Dính), tổng số 138 hộ/645 nhân khẩu. Năm 1962 (theo Quyết định số 211-CP ngày 15/12/1962 của Hội đồng Chính phủ, chia và sáp nhập các đơn vị hành chính thuộc tỉnh Hà Giang) chia huyện Đồng Văn và huyện Vị Xuyên thành 5 huyện: Đồng Văn, Mèo Vạc, Yên Minh, Quản Bạ và Vị Xuyên. Theo đó, xã Lũng Thầu thuộc huyện Đồng Văn cho đến ngày nay. Giai đoạn 1961 - 1965, Lũng Thầu có 3 hợp tác xã/5 bản, từ 1965 đến 2005 có 4 hợp tác xã /6 bản, từ 2005 đến nay là 6 thôn. Năm 2005, tách thôn Mỏ Xí thành Mỏ Xí và Há Đề; tách thôn Sang Tung (Sá Tủng) thành Tủng A, Tủng B. Thực chất, đã hình thành 6 thôn từ sau năm 1965, nhưng đến năm 2005 khi các chức danh Trưởng thôn được hưởng phụ cấp theo quy định của Nhà nước, thì Lũng Thầu chính thức được công nhận có 6 thôn. Năm 2001, xã vận động được 22 hộ, với trên 100 nhân khẩu đi xây dựng kinh tế mới tại huyện Bắc Mê. Đến hết năm 2017, toàn xã có 6 thôn, gồm: Tủng A, Tủng B, Cá Lủng, Chá Dính, Mỏ Xí, Há Đề, với tổng số 450 hộ/2.170 khẩu, gồm các dân tộc Mông, 2 Sá Tủng: theo tiếng địa phương có nghĩa là hang thông hai đầu.
- 5 Kinh, Tày, Mường, Hoa Hán, Cao Lan, Nùng, Dao, Giấy. Trong đó, dân tộc Mông chiếm 94,6%, còn các dân tộc khác chủ yếu là cán bộ, công chức sinh sống lại địa bàn. Trước cách mạng tháng Tám năm 1945, hệ thống giao thông vận tải chủ yếu là đường mòn đi bộ cho người và ngựa. Đầu năm 1962, tuyến đường Hạnh phúc được mở đến dốc Thẩm Mã, mở ra một tương lai cho người dân vùng cao nguyên đá; năm 1997, tuyến đường ô tô từ Thẩm Mã đến trung tâm xã Lũng Thầu được khai thông, từ đây tuyến đường “Dốc bốn chân” và “Dốc tám hào” trở thành con đường đi vào lịch sử3. Đến năm 2018, 6/6 thôn đã có đường đến trung tâm thôn, trong đó 4/6 thôn đã được bê tông hóa, đảm bảo giao thông thông suốt 4 mùa, góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Về cơ sở vật chất cơ bản đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, trụ sở xã, trường lớp học, trạm y tế xã được xây dựng khang trang, 6 thôn bản được xây dựng điểm trường; 100% thôn bản được xây dựng trụ sở kiêm nhà văn hóa thôn; tỉ lệ thôn có điện lưới Quốc gia là 6/6 thôn, tỉ lệ hộ sử dụng điện là 98%, tỉ lệ hộ có nước sinh hoạt là 90%, số thôn có lớp mẫu giáo là 6/6 thôn. Trạm y tế cơ bản đã đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh cho nhân dân, trường lớp học nhà lưu trú giáo viên, nhà lưu trú học sinh tại trường chính, các điểm trường đã được xây dựng đáp ứng với nhu cầu số lượng học sinh hiện nay. Toàn xã có 3/6 làng văn hóa; số gia đình văn hóa là 210 hộ, chiếm 46,77 % tổng số hộ trong toàn xã; 75% hộ gia đình được xem ti vi. Hàng năm tổ chức tốt ngày hội đại đoàn kết các dân tộc ở khu dân cư, nhân dịp kỷ niệm ngày thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam. Phong trào giáo dục ở Lũng Thầu được triển khai từ thời kỳ 1957 - 1959 với lớp bình dân học vụ, sau khi thành lập xã trường học được mở tại trung tâm, với lớp vỡ lòng, lớp 1 và lớp ánh sáng văn hóa. Năm 1988, Lũng Thầu là xã đầu tiên của huyện Đồng Văn tổ chức được lớp học Nội trú dân nuôi, đây là mô hình giáo dục tiên tiến và toàn diện nhất trong giai đoạn này, từ đây mô hình Trường Nội trú dân nuôi ở Lũng Thầu được đánh giá, rút kinh nghiệm và nhân rộng ra tất cả các xã trên địa bàn huyện. Năm 1999, xã được công nhận đạt chuẩn quốc gia về Xóa mù chữ và Phổ cập giáo dục Tiểu học, năm 2005 hoàn thành Phổ cập Trung học cơ sở. Đến nay, xã tiếp tục duy trì thành quả xóa mù chữ, PCGDTH, PCTHCS, Phổ cập giáo dục Tiểu học đúng độ tuổi, Phổ cập giáo dục cho trẻ Mầm non 5 tuổi. Trường Mầm non tiếp tục được huyện đầu tư nâng cấp để được công nhận đạt Trường chuẩn Quốc gia mức độ I, trong năm học 2018-2019. Các chương trình mục tiêu Quốc gia về y tế, dân số, kế hoạch hoá gia đình được triển khai đồng bộ, công tác chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân được nâng cao; chất 3 “Dốc bốn chân” là tuyến đường mòn đi bộ cho người, đi từ trung tâm xã Phố Cáo đến trung tâm xã Lũng Thầu; tuyến đường này có độ dốc rất cao, vách đá dựng đứng, phải dùng hai tay bám vào vách đá, cây rừng để đi qua, nên gọi là “dốc bốn chân”, ngựa không thể đi qua được con đường này. “Dốc tám hào” là con đường mòn cho người và ngựa đi từ ngã ba Phố Cáo đến trung tâm xã Lũng Thầu, tuyến đường này dài hơn “dốc bốn chân”; cán bộ, công chức của huyện khi đi công tác đến xã Lũng Thầu làm việc sẽ được thanh toán thêm “tám hào” tiền công tác phí, từ đó tuyến đường này có tên gọi “dốc tám hào”.
- 6 lượng khám chữa, điều trị bệnh cho nhân dân ngày càng được chú trọng. Năm 2017 xã đã được công nhận xã đạt chuẩn bộ tiêu chí Quốc gia về y tế. Công tác xóa đói giảm nghèo luôn được sự quan tâm đầu tư của Đảng và Nhà nước, Đảng uỷ xã thường xuyên quan tâm chỉ Ban chỉ đạo giảm nghèo xã hằng năm rà soát hộ nghèo theo đa chiều và bình xét từ thôn bản lên, kết quả số hộ nghèo theo tiêu chí mới năm 2018 giảm xuống còn 71,49%. Trải qua gần 60 năm xây dựng và trưởng thành, Lũng Thầu đã từng bước trở thành xã vững mạnh toàn diện, kết cấu hạ tầng được xây dựng khang trang, sạch đẹp; đường đến các thôn đã cơ bản được bê tông hóa, đời sống vật chất và tinh thần của người dân từng bước được nâng cao, người dân tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, nguyện một lòng đi theo con đường mà Đảng và Bác Hồ đã chọn. Tuy nhiên, do xuất phát điểm thấp, trình độ dân trí không đồng đều, tàn dư của chế độ cũ để lại khá nặng nề; mặt khác, do điều kiện địa hình có độ dốc lớn, thiếu đất sản xuất, thiếu nước sinh hoạt; thời tiết hằng năm có những diễn biến thất thường làm ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất và đời sống của nhân dân. Bên cạnh đó, một bộ phận quần chúng nhân dân còn tư tưởng trông trờ, ỷ lại vào sự đầu tư, hỗ trợ của Nhà nước, chưa nỗ lực vươn lên trong xóa đói giảm nghèo, chính vì vậy đến nay Lũng Thầu vẫn là một trong những xã nghèo của huyện Đồng Văn. 3. Nhân dân các dân tộc xã Lũng Thầu thời kỳ trước năm 1961 Khi chiếm đóng Hà Giang (1887), thực dân Pháp nắm lấy bọn Thổ ty phong kiến để lập bộ máy thống trị từ tỉnh xuống các châu, tổng, xã. Chúng thiết lập chế độ đạo quan binh nhằm quản lý thực hiện tất cả các quyền lực về quân sự theo lệnh của Tổng chỉ huy tối cao quân đội và tất cả các quyền lực về dân sự theo lệnh của Thống sứ Bắc Kỳ, dưới sự chỉ đạo tối cao của Toàn quyền Đông Dương trên toàn bộ khu vực vùng cao Bắc Kỳ. Ngày 28/11/1905, Quyền Toàn quyền Đông Dương ban hành Nghị định: Kể từ ngày 01/01/1906 thiết lập các trung tâm hành chính tại các Đạo quan binh 2, 3 và 4. Theo đó, địa danh Lũng Thầu là một thôn của xã Vần Chải với tên gọi Lũng Pỏng (địa danh này hiện nay thuộc xã Sủng Thài của huyện Yên Minh). Đến cuối năm 1929, xã Vần Chải thuộc tổng Đông Minh, châu Đồng Văn có 12 làng: Vân Chải, Tả Lũng, Siao Lũng, Na Vấy, Ngài Sảng, Suyến Tổng, Mò Sủi, Cháng Gíang, Khau Lắng, Sũng Oán, Ngài Phúng, Lũng Pỏng4. Từ cuối năm 1929 đến sau cách mạng tháng 8/1945 địa danh Lũng Thầu cơ bản không thay đổi, về mặt hành chính thời kỳ này Lũng Thầu vẫn là một thôn của xã Vần Chải, chịu sự quản thúc của Thổ ty phong kiến mà trực tiếp là sự áp bức, bóc lột của Tổng giáp, Mã phài. Ngày 3/2/1930 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong lịch sử cách mạng nước ta. Từ đây, cách mạng Việt Nam bước sang giai đọan 4 Tư liệu Trung tâm lưu trữ Quốc gia I.
- 7 mới, giai đoạn có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản. Tháng 8 năm 1945, chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc. Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà đã tuyên bố nước nhà độc lập trước quốc dân và đồng bào thế giới. Sự kiện trọng đại ấy đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào cách mạng ở Hà Giang tiến nhanh vào giai đoạn đấu tranh giành chính quyền toàn tỉnh. Đến cuối năm 1945, cuộc đấu tranh giành chính quyền cách mạng trong toàn tỉnh Hà Giang cơ bản hoàn thành thắng lợi. Tại châu Đồng Văn, do thế lực Thổ ty, Bang tá còn mạnh, nên ta vẫn duy trì chế độ Thổ ty đồng thời đẩy mạnh vận động tuyên truyền cách mạng trong vùng Thổ ty, Bang tá. Đối với Vương Chí Sình, một Bang tá lớn có thế lực trong đồng bào Mông ở Đồng Văn, cán bộ Việt Minh đã tiếp cận, tuyên truyền chủ trương chính sách của Mặt trận Việt Minh, vận động ông ủng hộ Việt Minh, tạo điều kiện để ông về Hà Nội gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người đã giao cho Vương Chí Sình làm Chủ tịch Ủy ban hành chính huyện Đồng Văn. Như vậy, ở Đồng Văn không có cuộc đấu tranh giành chính quyền như các nơi khác, mà trên thực tế ta tạm thời thừa nhận chính quyền của Thổ ty với danh nghĩa “Ủy ban hành chính” để từng bước cải tạo chính quyền của Thổ ty thành chính quyền cách mạng. Về thực chất trong giai đoạn này, người dân thôn Lũng Thầu, xã Vần Chải cũng như người dân của một số xã khác trên địa bàn huyện Đồng Văn vẫn phải sống dưới chế độ cai trị của Thổ ty phong kiến địa phương, mà trực tiếp là sự áp bức bóc lộc của Tổng giáp, Mã phài. Tính trung bình ở xã Vần Chải thời kỳ này cứ 18 gia đình thì có 1 gia đình bóc lột, ruộng đất tốt đều tập trung vào tầng lớp trên, vì vậy cuộc sống của người dân đói rách, ngu dốt bị bóc lột đến cùng cực; họ không bao giờ được tiếp xúc với đời sống văn minh ở bên ngoài, gần như sống ở một thế giới riêng biệt, người dân hầu như không biết Chính phủ là gì, 100% dân số đều mù chữ. Tính trung bình giai đoạn này, trên 70% dân chúng ở thôn Lũng Thầu thiếu ăn trong thời gian 6 tháng; phong tục tập quán còn thấp kém, dân chúng còn mê tín nhiều, phương pháp vệ sinh chưa được phổ biến, nhà cửa lụp xụp, người và vật ở lẫn lộn… vì vậy đã làm cho người dân sống dưới chế độ của Thổ ty phong kiến vô cùng cực khổ, đói rét, bệnh tật… Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ ngày 7/5/1954 thắng lợi, kết thúc chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta, buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ, chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam và Đông Dương. Nhưng ngay sau đó, đế quốc Mỹ nhảy vào miền Nam dựng lên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, phá hoại Hiệp định Giơnevơ, âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta. Trong giai đoạn này tình hình trật tự trị an ở huyện Đồng Văn còn rất phức tạp, bọn đặc vụ Tưởng Giới Thạch và tầng lớp trên tăng cường hội họp bàn cách chống phá cách mạng. Chúng tổ chức buôn lậu có vũ trang để đi lại móc nối với nhau, đe dọa, khủng bố tinh thần những người tích cực theo cách mạng, đưa tay chân của chúng vào lực lượng dân quân, gạt bỏ thành phần tích cực của ta, tìm mọi cách chia rẽ cán bộ, bộ đội với nhân dân, đe doạ lực lượng cốt cán của ta. Chúng tuyên truyền đề cao Pháp -
- 8 Mỹ, chống chính sách thuế, dân công, phá hoại sản xuất, chia rẽ các dân tộc. Nhiệm vụ xây dựng, củng cố tổ chức Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức quần chúng trở nên vô cùng cấp bách5. Tại thôn Lũng Thầu, xã Vần Chải, do tình hình chính trị còn rất phức tạp, thế lực kinh tế, chính trị của Tổng giáp, Mã phài còn mạnh. Tại thôn Lũng Thầu do lý trưởng Vàng Vản Ly cai quản; ở các thôn: thôn Sang-Tung do ông Giàng Vả Sình và ông Lù Dũng Sử quản lý; thôn Mo-Sui do ông Thào Chá Lình quản lý; ở thôn Chang-Dinh do ông Sùng Pà Thò quản lý (sau này các ông phụ trách các thôn nêu trên đều theo cách mạng, tích cực tham gia chống bạo loạn nổi Phỉ năm 1959). Thời kỳ này, mọi quyền hành ở Lũng Thầu đều tập trung trong tay Thổ ty, đất đai cằn cỗi và phần nhiều là đá, phần diện tích đất màu mỡ đều do Lý trưởng và địa chủ nắm giữ. Công cụ sản xuất thô sơ, trâu bò không đủ phục sức kéo cho người nông dân; phương pháp sản xuất còn lạc hậu, kết quả thu hoạch không đáng kể. Nhiều phong tục tập quán còn lạc hậu, phương pháp ăn ở vệ sinh chưa được phổ biến. Trong khi đó, hằng năm, người dân phải thay nhau tới hầu hạ các gia đình Thổ ty và đến làm không công cho các gia đình Lý tưởng, địa chủ… Mọi thông tin đều bị chúng bưng bít, vì vậy đã làm cho người dân sống dưới chế độ của Thổ ty phong kiến vô cùng cực khổ. Trong giai đoạn 1955 - 1957, Ủy ban hành chính xã Vần Chải đã thực hiện chủ trương của huyện Đồng Văn là chưa tiến hành cải cách ruộng đất, mà chỉ tiến hành một số chính sách như: giảm tô, giảm tức, tạm cấp ruộng đất, thực hiện thuế nông nghiệp. Xuất phát từ đặc điểm tình hình ở Đồng Văn là chế độ Thổ ty phong kiến nên ở thôn Lũng Thầu, xã Vần Chải thi hành sắc lệnh giảm tô ở mức bình thường, nhằm giải quyết nhiệm vụ trước mắt là “người cày có ruộng”. Lúc này, do ảnh hưởng sai lầm của cuộc cải cách ruộng đất ở miền xuôi và cải cách ruộng đất ở Trung Quốc làm cho giai cấp bóc lột ở thôn Lũng Thầu hoang mang, lo sợ bị mất quyền lợi, tìm cách tẩu tán tài sản, ruộng đất. Chúng câu kết với các phần tử phản động, bất mãn xuyên tạc và chống lại chính sách giảm tô, giảm tức của ta, đặc biệt là chính sách thuế nông nghiệp và các cuộc vận động xã hội khác. Ngày 10/8/1957, Đảng bộ huyện Đồng Văn tổ chức Đại hội toàn thể đảng viên lần thứ Nhất. Đại hội đã đề ra phương hướng nhiệm vụ chủ yếu trong nhiệm kỳ tới là: Tăng cường củng cố khối đoàn kết giữa các dân tộc; tổ chức lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế - xã hội, chăm lo và cải thiện đời sống nhân dân; tăng cường xây dựng lực lượng vũ trang và bán vũ trang từ huyện đến xã; đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền và các tổ chức đoàn thể để đáp ứng yêu cầu lãnh đạo mọi mặt trong giai đoạn cách mạng mới. Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ Nhất, Ủy ban hành chính xã Vần Chải đã lãnh đạo nhân dân tích cực tham gia các cuộc vận động đẩy mạnh sản 5 Sau hoà bình lập lại (1954), huyện Đồng Văn còn có 13 xã chưa có chính quyền nhân dân, mà vẫn nằm dưới sự khống chế của các thế lực Thổ ty địa phương - Lịch sử Đảng bộ huyện Đồng Văn tập I (1944-1975), trang 72.
- 9 xuất nông, lâm nghiệp; các đoàn thể quần chúng, lực lượng dân quân, du kích ở địa bàn Lũng Thầu cũng được củng cố, kiện toàn. Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy Hà Giang về “cải cách dân chủ” ở vùng cao. Ở Đồng Văn, tầng lớp trên cũng họp với Đặc vụ Quốc dân Đảng vạch kế hoạch nổi loạn, triển khai lực lượng, vũ khí, phân công người phụ trách từng khu vực. Nhất là sau bầu cử Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính cấp huyện, xã (tháng 5/1959) chúng phản ứng rất mạnh, kích động quần chúng, đe dọa cán bộ mới được bầu cử. Nhằm ngăn chặn âm mưu gây rối của địch, tháng 9/1959, Tỉnh ủy Hà Giang quyết định mở đợt truy quét Đặc vụ Quốc dân Đảng ở dọc biên giới, bắt 51 tên (riêng ở Đồng Văn có 49 tên, thu 2000 súng). Cay cú trước đòn đánh bất ngờ này, địch ra sức tuyên truyền chống chính sách, tích cực chuẩn bị nổi loạn. Tên Vàng Chúng Dình (đặc vụ Trung Quốc) được phân công làm tổng chỉ huy quân sự, tại địa bàn Lũng Thầu do tên Vàng Vản Ly chỉ huy. Đầu tháng 11 năm 1959, Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Đồng Văn ra Nghị quyết về công tác củng cố tổ đổi công và xây dựng hợp tác xã. Đây là cuộc đấu tranh giai cấp gay go, quyết liệt nhằm hạn chế, tiến tới xóa bỏ quyền lợi chính trị, kinh tế của tầng lớp Thổ ty, Bang tá, Tổng giáp, Mã phài vì tầng lớp này đang sở hữu hàng chục ngàn ha nương rẫy. Do không nắm chắc tình hình, cấp ủy chính quyền tỉnh, huyện coi nhẹ công tác tuyên truyền ổn định tư tưởng tầng lớp trên và quần chúng nhân dân, chủ quan coi thường địch, vẫn đánh giá “địch không có khả năng bạo loạn, chúng phản ứng chỉ để gây áp lực, đòi yêu sách” nên không có biện pháp đối phó. Do đó bọn đặc vụ, phản động lợi dụng kích động quần chúng, lôi kéo tầng lớp trên chống lại chủ trương chính sách của Đảng, âm mưu nổi loạn cướp chính quyền. Máy bay Mỹ xuất hiện ở vùng biên giới Việt - Trung thả biệt kích, gián điệp xuống móc nối với bọn phản động ở Lũng Táo, Má Lé, Lũng Cú chống lại chính quyền, kích động bọn phản động gây bạo loạn. Ngày 13/11/1959 bọn phản động ở Lũng Cú do tên Giàng Vạn Sùng cầm đầu đã bắt cóc thôn đội trưởng và truy đuổi, phóng hỏa bắt đồng chí công an viên. Ngày 26/11/1959, tại Sà Phìn một toán Phỉ đã truy đuổi và bắn chết đồng chí dân quân xã. Ngày 30/11/1959 bọn phản động đưa 40 tên lên gác cổng trời Cán Tỷ, làm trận địa chiến đấu. Ngày 02/12/1959 bọn phản động ở cổng trời Cán Tỷ giữ 2 đoàn ngựa thồ hàng của tỉnh vào Đồng Văn, đuổi dân công quay trở lại. Ngày 4/12/1959 huyện Đồng Văn đưa đoàn cán bộ lên cổng trời giải giáp, chúng bắn chết 1 cán bộ công an huyện, bắn bị thương 1 cán bộ huyện đội. Từ ngày 5 đến 8/12/1959 bọn phản động hoạt động mạnh ở các xã vùng cao Đồng Văn, chúng ngăn chặn dân nộp thuế, đi họp, kích động lôi kéo dân quân theo chúng. Ngày 9/12/1959 bọn phản động chiếm nhiều nơi trong huyện, cuộc bạo động phản cách mạng đã thực sự nổ ra. Chúng tung ra khẩu hiệu “Chống lên hợp tác xã, chống bộ máy Chính quyền mới được bầu cử, chống giảm trồng
- 10 thuốc phiện, không đi làm đường, không nộp thuế, không nộp súng”. Chúng tổ chức đốt phá trụ sở Ủy ban hành chính xã Phố Cáo khi xã đang họp6. Ngày 12/12/1959, khi phiên chợ xã Đồng Văn đang lúc đông nhất, 2 toán phỉ theo 2 hướng tấn công vào xã Đồng Văn. Công an Đồng Văn, dân quân tự vệ và nhân dân xã Đồng Văn đã anh dũng chiến đấu, bẻ gẫy cuộc tấn công liều lĩnh, hung bạo đó của phỉ. Ngày 14/12/1959, Phỉ đánh chiếm Lũng Phìn, chúng giết người, đốt ảnh Bác Hồ, phá trụ sở Ủy ban hành chính xã, cướp cửa hàng mậu dịch, phá kho chứa lương thực. Tại xã Vần Chải, tên Vàng Vạn Ly tập hợp thanh niên và một số quần chúng, tổng cộng 38 người đánh chiếm trụ sở xã7, khống chế con đường từ Yên Minh lên Phó Bảng, đặt bẫy đá ở dốc Thẩm Mã nhằm ngăn chặn quân ta chi viện cho nhau. Trước tình hình diễn biến phức tạp của cuộc bạo loạn, Tỉnh ủy đã báo cáo xin chủ trương giải quyết của Trung ương và quyết định thành lập Ban chỉ huy chiến dịch, trụ sở Ban chỉ huy đóng tại xã Quản Bạ. Ngày 18/12/1959 các đơn vị tham gia chiến dịch lên tới Đồng Văn, sau khi giải phóng cổng trời Cán Tỷ, ngày 23/12/1959, tiểu đoàn 12 Công an nhân dân vũ trang, Trung đoàn 246 quân khu Việt Bắc, Đại đội 10 Tỉnh đội Hà Giang và Phân đội 55 Công an nhân dân vũ trang Cao Bằng, sau khi hoàn thành nhiệm vụ tiễu phỉ ở Mèo Vạc, Sơn Vĩ đã hành quân hỏa tốc đến xã Đồng Văn. Quân ta phối hợp với nhau một cách chặt chẽ, trong đánh ra, ngoài đánh vào. Bọn phỉ ở xã Đồng Văn không chống đỡ nổi sức tấn công vũ bão của quân ta. Trùm phỉ Vàng Chúng Dình và đồng bọn hoảng hốt chạy vào khu vực Mã Sồ, xã Lũng Táo. Tại đây, chúng đã ẩn náu trong hang đá, chiếm giữ và canh gác tại các điểm cao để sẵn sàng đánh trả khi lực lượng của ta tấn công. Chủ trương của Ban Chỉ huy chiến dịch là phải tiêu diệt xong vị trí Mã Sồ mới ăn tết. Ngày 26/01/1960, ta mở cuộc công kích vào cụm cứ điểm Mã Sồ. Được sự giúp đỡ của lực lượng dân quân địa phương nên lực lượng của ta tiếp cận mục tiêu một cách nhanh chóng. Rạng sáng ngày 27/01/1960, tức ngày 29 tết (theo Âm lịch là tháng thiếu nên không có ngày 30 tết)), ta chính thức nổ súng đánh vào cứ điểm Mã Sồ. Phỉ thấy lực lượng của ta mạnh, nên chúng chống trả yếu ớt, sau đó những tên cầm đầu đã bỏ chạy lên vùng rừng núi 1911 và lẩn trốn sang biên kia biên giới. Trong trận này, 2 chiến sỹ của ta đã anh dũng hy sinh. Ngày 28/01/1960 (mùng 1 tết) 8, ta giải phóng Mã Sồ. Chiến dịch tiễu phỉ ở Đồng Văn giành được thắng lợi, vụ bạo loạn cơ bản bị dập tắt, còn một số tên tướng Phỉ ngoan cố lẩn trốn trong rừng sâu, hang đá sau đó phải lần lượt ra hàng hoặc bị bắt. Tại Vần Chải, tên Vàng Vạn Ly cầm đầu Phỉ ở các xã Lũng Phìn, Hố Quáng Phìn, Vần Chải. Khi chiếm được trụ sở của xã Vần Chải, chúng giết người, phá trường học, cướp kho lương thực, dỡ nhà làm củi đốt, bắt phụ nữ vác muối, say bắp hầu hạ 6 Lịch sử Đảng bộ huyện Đồng Văn tập I (1944 – 1975) - trang 113 7 Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân (cán bộ, chiến sỹ dân quân tự vệ), Nhà xuất bản quân đội nhân dân - trang 178. 8 Lịch sử Đảng bộ huyện Đồng Văn 1944 – 1975 (tập I), trang 126 ghi: ngày 31/01/1960 là ngày mùng 1 tết, nhưng thực tế ngày mùng 1 tết năm Canh Tý (1960) là ngày 28/01/1960.
- 11 chúng. Hắn còn cho làm bẫy đá bí mật trên núi cao ở dốc Thẩm Mã để lăn đá ngăn chặn bộ đội, ám hại cán bộ, đe dọa nhân dân. Trong chiến dịch truy quét Phỉ tại Đồng Văn, tên Vàng Vạn Ly đã chốn thoát cùng với 2 con trai9. Hắn lẩn chốn ở vùng núi cao hang Sảo Há – nơi thủ phủ của hắn. Sau gần một năm theo dõi, xã đội phó xã Vần Chải là Sùng Súng Lù đã một mình vào hang Sảo Há để vận động tướng Phỉ Vàng Vạn Ly cùng 2 con trai ra hàng. Với sự gan dạ và tài trí của mình, Sùng Dúng Lù đã thuyết phục được Vàng Vạn Ly. Sẩm tối, một ngày tháng 3 năm 1961, 3 tên Phỉ lủi thủi theo Sùng Dúng Lù về cùng với 7 khẩu súng Mỹ và 48 viên đạn. Thắng lợi của Sùng Dúng Lù đã làm cho nhân dân và cán bộ quanh vùng vui sướng ghi công anh. Trong vụ bạo loạn phản cách mạng này, Phỉ đã lôi kéo, huy động được 1.112 tên trực tiếp cầm súng chống cách mạng (trong đó có 188 đặc vụ Trung Quốc, 21 Tổng giáp, Mã phài, lôi kéo ép buộc 65 cán bộ xã và khoảng 1.700 dân quân du kích và quần chúng tham gia). Từ tháng 12/1959 đến tháng 2/1960, bọn Phỉ phản động đã gây ra hàng chục vụ cướp của giết người ở 16 xã, giết hại 61 người, làm bị thương 23 người, cướp phá 44,36 tấn lương thực, hàng hóa của Nhà nước và nhân dân, cùng nhiều hoa màu, gia súc khác, gây ảnh hưởng lớn về đời sống nhân dân, đặc biệt là tình hình chính trị trên địa bàn. Ta đã tiêu diệt 63 tên, làm bị thương 21 tên, bắt gọi hàng 459 tên, tập trung cải huấn tại chỗ 466 tên, thu 1.000 súng10. Toàn bộ người dân của thôn Lũng Thầu không ai theo Phỉ, vì người dân đã bị chúng kìm kẹp, áp bức bóc lột hàng trăm năm nay, nên khi có tiếng gọi của cách mạng, người dân hăng hái phấn khởi theo cách mạng, chống lại lực lượng nổi dậy của Phỉ, kêu gọi những người theo Phỉ về với gia đình, về với cách mạng để được hưởng khoan hồng của Đảng và Nhà nước. Ngày 21/10/1961, Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang mở 3 phiên tòa xét xử những tên cầm đầu cuộc bạo loạn ở Đồng Văn, tử hình 3 tên: Vàng Chúng Dình, Giàng Vạn Sùng, Vàng Chỉn Cáo; 11 tên bị phạt tù từ 20 năm đến trung thân; 36 tên từ 2 năm đến 20 năm tù; cảnh cáo 11 tên. Tên Vàng Vạn Ly bị kết án 9 năm tù. Sau khi mãn hạn tù, Vàng Vạn Ly về làm ăn sinh sống lương thiện tại xã Vần Chải, sau đó bị ốm chết năm 1986. Em trai Vàng Vạn Ly và các con cùng những người theo làm Phỉ ở Vần Chải đều được hưởng chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước ta. Đến năm 2018, em trai của Vàng Vạn Ly là Vàng Nhìa Của cùng người thân đang sinh sống tại khu vực Sảo Há xã Vần Chải. Sau chiến dịch tiễu Phỉ ở Đồng Văn tiểu đội trưởng Công an vũ trang Mai Xuân Hùng được kết nạp ngay vào đảng; huyện đội trưởng Mã Chính Lâm được thưởng Huân chương chiến công hạng Nhất và được gặp Bác Hồ; Xã Đội phó xã Vần Chải Sùng Dúng Lù được Chủ tịch nước tuyên dương “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”11. 9 Ý kiến xác nhận của đồng chí Sùng Pháy Páo – Nguyên Bí thư Đảng ủy xã Vần Chải, là con trai cả của Anh hùng Sùng Dúng Lù. Một số tài liệu ghi có 3 người. 10 Tổng kết công tác tiễu phỉ trên địa bàn tỉnh Hà Giang (1947 – 1962) - Trang 81. 11 Đồng chí Sùng Dúng Lù được Chủ tịch nước tuyên dương “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân” ngày 01/01/1967
- 12 Thành công lớn nhất trong việc đập tan cuộc bạo loạn phản cách mạng ở Đồng Văn (1959 - 1960) là làm cho đồng bào các dân tộc hiểu rõ bộ mặt xấu xa của bọn đặc vụ Quốc dân Đảng Tưởng Giới Thạch và bọn phản động, bấy lâu lừa bịp nhân dân chống lại cách mạng. Nhân dân các dân tộc ở Đồng Văn đã ý thức được vai trò quần chúng của mình trong cuộc đấu tranh vừa mang tính giai cấp, vừa mang tính dân tộc đang diễn ra ở miền núi. Nhiều cụ già, phụ nữ, kể cả những người trước đây làm Phỉ đã tự nguyện đứng vào đội ngũ quần chúng cách mạng. Nhiều Tổng giáp, Mã phài đã phấn đấu trở thành cán bộ tỉnh, huyện, xã, con cháu của họ được tạo điều kiện học tập, công tác như mọi công dân khác. Vụ bạo loạn ở Đồng Văn được dập tắt, đó là một thắng lợi lớn có ý nghĩa chính trị sâu sắc. Đã đập tan âm mưu muốn tách cao nguyên đá Đồng Văn ra khỏi bản đồ Việt Nam để thành lập “ngũ xã tự trị” của người Mông và bọn phản động, tay sai thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Góp phần củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, đẩy mạnh sự nghiệp cải cách dân chủ, từng bước xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho các dân tộc vùng cao nguyên đá, góp phần vào công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội, đấu tranh thống nhất đất nước. Trong vụ bạo loạn này, cán bộ, nhân dân và dân quân du kích thôn Lũng Thầu, xã Vần Chải đã tích cực đấu tranh chống lại bọn phản động gây bạo loạn, góp phần ổn định tình hình. Đặc biệt, việc đồng chí Sùng Dúng Lù một mình vào hang dụ tướng Phỉ Vàng Vạn Ly ra hàng đã tạo nên một nhân tố điển hình tiêu biểu cho quân và dân thôn Lũng Thầu noi theo. Đặc biệt, các đồng chí là thôn đội trưởng của các thôn: Mo-Sui, Chang-Dinh, Sang-Tung đã tích cực tham gia chống phỉ gây bạo loạn. Kết quả đó đã góp phần củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, đẩy mạnh sự nghiệp cải cách dân chủ, xây dựng hợp tác xã, từng bước xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho các dân tộc vùng cao nguyên đá và công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội, đấu tranh thống nhất đất nước. Có nhiều nguyên nhân gây ra cuộc bạo loạn, nhưng bao trùm nhất là do bọn Đặc vụ, thổ Phỉ bên trong, bên ngoài cấu kết với Thổ ty, phản động gây ra. Trong khi uy thế chính trị, kinh tế, quân sự của bọn Thổ ty phong kiến ở Đồng Văn còn mạnh, cơ sở chính trị của ta yếu, trình độ giác ngộ cách mạng của quần chúng ở nhiều nơi còn rất hạn chế, ta đã nôn nóng thực hiện hàng loạt chính sách lớn nhằm đẩy nhanh “cải cách dân chủ” ở vùng cao (bầu cử Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân huyện - xã, gạt hầu hết tầng lớp trên ra khỏi chính quyền, chấn chỉnh xã đội, dân quân, công an; thí điểm hợp tác xã, giảm trồng thuốc phiện, mở đường Hà Giang - Đồng Văn, thực hiện Luật nghĩa vụ quân sự) mà buông suôi công tác tuyên truyền giáo dục quần chúng, tranh thủ tầng lớp trên. Những chủ trương lớn trên có đem lại quyền lợi cho quần chúng nhưng lại đụng chạm gay gắt tới quyền lợi bao đời nay của giai cấp phong kiến cũ ở Đồng Văn. Do chưa đánh giá, phân tích đúng tình hình, chủ quan coi thường địch; khi cuộc bạo loạn sắp bùng lên, thậm chí đã xảy ra, nhiều đồng chí lãnh đạo vẫn mơ hồ cho rằng “địch không giám” và chỉ cần “thương thuyết là đủ” nên đã không phòng bị kế hoạch và biện pháp đối phó, chậm triển khai lực lượng vũ trang, để cho địch mở rộng địa bàn hoạt động gây nên nhiều tổn thất về người và của cho nhân dân. Huyện ủy
- 13 Đồng Văn đã nghiêm túc kiểm điểm, chấn chỉnh những quan điểm nhận thức lệch lạc trong lãnh đạo và tổ chức thực hiện. Phần hai CHI BỘ ĐẢNG XÃ LŨNG THẦU LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN TRONG XÃ ĐẨY MẠNH SẢN XUẤT, TÍCH CỰC GÓP PHẦN CHI VIỆN CHO TIỀN TUYẾN ĐÁNH MỸ, GIẢI PHÓNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (1961 - 1975) 1. Chi bộ Đảng xã Lũng Thầu được thành lập, lãnh đạo nhân dân trong xã thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965) Sau chiến dịch tiễu Phỉ, ở huyện Đồng Văn cũng như ở các xã, tình hình vẫn còn rất nhiều diễn biến phức tạp, trình độ giác ngộ chính trị của quần chúng nhân dân các dân tộc còn thấp, đường xá đi lại từ xã đến thôn có nơi phải mất một ngày đường, hầu hết cán bộ đầu ngành của xã chưa biết chữ. Trong khi đó, dân số ở các xã đông, địa bàn rộng có xã có từ 6 nghìn đến 8 nghìn dân. Trước thực tế trên, được sự đồng ý của Tỉnh ủy, huyện Đồng Văn xây dựng phương án chia xã báo cáo Tỉnh và trình Chính phủ. Ngày 5/7/1961, Hội đồng Chính phủ ra quyết định số 91-CP chia 13 xã thuộc huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang, khu tự trị Việt Bắc thành những xã mới, xã Vần Chải gồm có 335 hộ/ 1.561 khẩu, được chia tách thành 2 xã là Vần Chải và Lũng Thầu. Sau khi chia tách, xã Lũng Thầu gồm có 3 thôn: Mô-Sui, Sang-Tung và Chang-Dinh, tổng số 138 hộ/645 nhân khẩu. Đồng chí Sùng Súa Lía được chỉ định làm Chủ tịch Ủy ban hành chính lâm thời, đây là chủ tịch đầu tiên của xã Lũng Thầu. Địa điểm trụ sở làm việc ở ngay khu trung tâm xã thuộc thôn Tủng A hiện nay. Về đảng, xã có 1 đảng viên là đồng chí Thào Xúa Tủa, sinh hoạt tại chi bộ Vần Chải. Cuối tháng 2 năm 1962, được sự nhất trí của Ban Thường vụ Huyện ủy, chi bộ xã Lũng Thầu được thành lập, đồng chí Thào Xúa Tủa được chỉ định giữ chức vụ Bí thư chi bộ, đây là Bí thư chi bộ đầu tiên của xã Lũng Thầu. Ngay sau khi thành lập, chi bộ xã Lũng Thầu đã chỉ đạo Ủy ban hành chính xã tập trung cho cuộc vận động cải cách dân chủ, xây dựng tổ đổi công và bình công chấm điểm, vận động nhân dân tích cực tăng gia sản xuất, thực hiện ăn ở hợp vệ sinh, vì vậy đã tạo nên phong trào sôi nổi trong toàn xã. Đến cuối năm 1962, phong trào sản xuất ở Lũng Thầu có chuyển biến mạnh, từ chỗ tư tưởng không ổn định, lo sợ lên hợp tác xã, chán nản sản xuất, nay người dân đã tin tưởng vào chính sách, chủ trương của Đảng, xây dựng củng cố các tổ đổi công được tốt, có phong trào tương trợ nhau về giống, phân bón, lương thực ăn… Được kết quả trên là do, chi bộ đã chỉ đạo nhiều biện pháp tích cực như cho nhân dân vay giống, đổi giống, cho vay và bán lương thực… Do đó phong trào ngày càng mạnh mẽ, sản xuất được nhanh, kịp thời vụ, nhân dân tích cực đi khai hoang, phục hóa, đó là những việc làm rất mới và khác hẳn những năm trước.
- 14 Từ ngày 22 đến 26/8/1962, Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện Đồng Văn lần thứ II được tổ chức. Đồng chí Thào Xúa Tủa được tham dự đại hội. Đại hội Đảng bộ huyện đã xác định nhiệm vụ trọng tâm của huyện là: Tập trung phát triển nông nghiệp như lúa, ngô, chăn nuôi; phát triển lâm nghiệp, các cây dược liệu; phát triển mạng lưới giao thông, thương nghiệp, tài chính và sự nghiệp văn hoá, giáo dục. Nhiệm vụ cụ thể trước mắt của Đảng bộ huyện là: Tiếp tục hoàn thành cải cách dân chủ kết hợp với tổ chức lại sản xuất, tăng cường mở rộng phong trào tổ đổi công, từng bước đưa lên bình công chấm điểm, làm cơ sở cho thành lập Hợp tác xã nông nghiệp sau này. Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện và chỉ đạo của Huyện ủy, xã Lũng Thầu đã cử đồng chí Chủ tịch Ủy ban hành chính và Ủy viên thư ký tham gia tập huấn 7 ngày tại huyện ở Phó Bảng về thực hiện cải cách dân chủ, sau đó phối hợp với tổ công tác của huyện tổ chức hội nghị HĐND, hội nghị của các đoàn thể ở xã để tuyên truyền tới người dân. Nội dung triển khai học tập gồm các bài: bài chế độ, bài trị an, bài quy định thành phần, bài đổi công hợp tác xã, bài đăng ký quản lý vũ khí, bài nghĩa vụ quân sự. Tuy nhiên, số người tham gia học tập toàn xã chỉ có 81 người, thấp nhất so với toàn huyện. Bởi vậy, sau đợt học tập này, chi bộ Lũng Thầu tiếp tục xây dựng kế hoạch để tổ chức lớp học cho nhân dân. Qua đợt học tập này, chi bộ đã rút ra bài học kinh nghiệm sâu sắc trong công tác tuyên truyền, vận động tại địa phương. Sau đợt ra quân tổ chức tuyên truyền, việc triển khai cải cách dân chủ bước đầu đã gặp rất nhiều khó khăn, như: ngôn ngữ bất đồng, tư tưởng quần chúng còn hoang mang, lo sợ, khi tổ cán bộ đến vận động có xóm nhân dân đã bỏ chạy lên nương, hoặc cốt cán đến ở nhưng người dân ngăn cản không cho ở… khi tổ chức gặp gỡ được người dân thì người dân lo lắng, nhất là đổi công lên hợp tác xã. Như bà Giàng Thị Mỷ xóm Chá Dính đã phát biểu “đi học để sản xuất thì tôi đi, chứ đi học lên hợp tác xã đổi công thì có thái từng miếng thịt tôi ra cũng không đi”12. Bên cạnh đó, bọn phản động lợi dụng thời cơ cán bộ xã đi công tác xa, đi học vắng, chúng tung ra nhiều luận điệu phản động để làm cho nhân dân hoang mang, chống lại chính sách cải cách dân chủ của ta, tiếp tục âm mưu gây bạo loạn lần thứ hai; chúng ra sức tuyên truyền nói xấu lên hợp tác xã, công khai chống đối lại sản xuất, những gia đình bóc lột thì nghĩ rằng: “cán bộ cải cách dân chủ sẽ lấy hết ruộng đất, trâu bò…” nhân dân lao động sợ sản xuất nhiều sẽ đóng thuế nhiều, phải bán cho Nhà nước. Nhiều người dân bỏ không làm ruộng, nương dẫn đến nạn nói bắt đầu hoành hành, tình hình thiếu giống sản xuất, thiếu trâu bò, thiếu nông cụ khá phổ biến. Trước tình hình đó, Huyện ủy đã chỉ đạo cán bộ huyện tuyên truyền, vận động nhân dân theo Nghị quyết Trung ương 5, đi sâu, đi sát thực hiện 3 cùng, đồng cam cộng khổ với người dân, vì vậy tư tưởng sợ lên hợp tác, sợ phải đóng thuế, sợ phải bán cho Nhà nước ngày một dịu đi và chuyển sang lòng tin ở lời nói của cán bộ là đúng, tin ở chính sách của Đảng, thấy rõ sự quan tâm của Đảng, Chính phủ đối với nhân dân lao động. 12 Trích báo cáo tổng kết công tác hợp tác hóa kết hợp hoàn thành cải cách dân chủ trong 35 xã khu Bắc huyện Đồng Văn.
- 15 Để thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội của huyện vùng cao Hà Giang, ngày 15/12/1962 Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 211-QĐ/CP chia huyện Đồng Văn và Vị Xuyên thành 5 huyện: Đồng Văn, Mèo Vạc, Yên Minh, Quản Bạ và Vị Xuyên. Xã Lũng Thầu là 1 trong 20 xã, thị trấn thuộc huyện Đồng Văn và được ổn định từ đó đến ngày nay. Trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, Chi bộ lãnh đạo triển khai trồng và chăm sóc các loại cây trồng đảm bảo theo kế hoạch huyện giao, trong đó tập trung vào trồng bắp, rau đậu các loại, dong riềng, mạch… Cuối năm 1961 sang đầu năm 1962 do thời thiết khô hạn kéo dài, nhiều diện tích không thể gieo trồng được, gây nên tình trạng thiếu lương thực trầm trọng, xã đã phải xin huyện hỗ trợ cứu đói cho dân. Thực hiện sự chỉ đạo của Ban Thường vụ Huyện ủy, chi bộ Lũng Thầu đã phát động phong trào không nấu rượu, đồng thời chỉ đạo hạ giá rượu thấp xuống để người dân thấy nấu rượu không có lời để sẽ bỏ nấu rượu nhằm tránh bị lãng phí lương thực, phong trào đã được huyện đánh giá là xã tiêu biểu đi đầu phong trào. Điển hình phong trào này là nhà đồng chí Bí thư chi bộ và nhà đồng chí Chủ tịch UBHC xã đã bỏ không nấu rượu để lấy lương thực phục vụ nhu cầu ăn uống hằng ngày. Từ đó, phong trào không nấu rượu đã lan rộng ra địa bàn xã, nhiều hộ gia đình đã bỏ không nấu rượu, góp phần tránh lãng phí một lượng lớn lương thực trong nhân dân. Về phong trào tổ đổi công, khi mới tách xã phong trào đổi công của Lũng Thầu gần như không có, bước sang năm 1962 xã đã xây dựng được 3 tổ đổi công, nhưng đến năm 1963 trong 3 tổ đổi công có 19 hộ thì đều bị tan vỡ. Trước những khó khăn đó, chi bộ đã tăng cường công tác lãnh đạo, củng cố phong trào, xem xét kỷ luật 01 đảng viên là cán bộ phụ trách xã. Vì vậy từ năm 1963 trở đi, phong trào đổi công của Lũng Thầu được triển khai rộng khắp, đồng thời có lực lượng thanh niên tiến bộ của xã làm nòng cốt phong trào, nên đã thực hiện được nhiều nhiệm vụ khó khăn của xã; phong trào tương trợ, giúp đỡ các gia đình khó khăn, neo đơn ngày càng được chú trọng, đã có nhiều hộ gia đình chia sẻ lương thực cho các hộ lúc khó khăn. Điển hình trong phong trào này như gia đình chị Mua Thị Chía cho hẳn các hộ khác 5 kg bắp và 5 kg mạch trong khi gia đình mình cũng thiếu ăn. Việc triển khai vận động nhân dân giảm diện tích trồng thuốc phiện được thực hiện tích cực, vụ năm 1961 - 1962 xã vận động nhân dân hạn chế trồng cây thuốc phiện, chỉ để một số hộ có người nghiện hút được trồng nhưng số lượng cũng phải giảm bớt, vì vậy được người dân tin tưởng và ủng hộ. Bước sang vụ năm 1962 - 1963 xã Lũng Thầu đã bỏ hẳn không trồng thuốc phiện13, đó là một thành tích vô cùng to lớn mà dưới sự lãnh đạo của chi bộ đã đạt được trong giai đoạn này. Để tăng năng xuất cây trồng, xã đã chỉ đạo thí điểm bón phân đạm cho bắp, đồng thời tích cực vận động nhân dân ủ phân xanh, phân chuồng, bình quân một ống giống bón được 13-18 địu phân. Việc đầu tư vào lao động sản xuất và quản lý lao động được chi bộ quan tâm chỉ đạo, bình quân một lao động một năm làm được từ 150 – 200 công. 13 Văn kiện Đảng bộ tỉnh Hà Giang, toàn tập III (1963-1971), trang 135.
- 16 Là địa bàn có rất ít đất canh tác, vì vậy khi huyện có chủ trương vận động nhân dân đi khai hoang tại Yên Minh, chi bộ đã chủ động, tích cực vận động nhân dân đi khai hoang tại Làng Viềng (Yên Minh) phát được diện tích trồng trên 500 kg bắp, trên 200 kg lúa nương, cuốc nương trồng trên 15.000 khóm sắn, 20.000 hốc dong riềng, khai hoang trồng trên 50 cân ta lúa nương. Từ kết quả của phong trào khai hoang, nhiều diện tích đất nương, lúa đã được khai hoang, phục hóa tăng diện tích gieo trồng cho người dân, kết quả đó đã góp phần thiết thực cho cuộc sống của người dân. Tuy nhiên, từ phong trào này lại là nguyên nhân xảy ra tình trạng tranh chấp đất đai giữa nhân dân của xã Lũng Thầu và xã giáp ranh của huyện Yên Minh cho những năm sau này. Cùng với việc vận động nhân dân tích cực khai hoang, phục hóa và trồng lúa nước, chi bộ đã tập trung chỉ đạo thực hiện công tác 3 thu. Tuy nhiên, là địa bàn có nhiều khó khăn, nên nhiều năm liền Lũng Thầu không đạt chỉ tiêu 3 thu theo kế hoạch. Trong chăn nuôi đã có sự quan tâm nhưng chưa phát triển mấy và phát triển không đều, nhiều hộ gia đình không có gia súc nuôi dẫn đến tình trạng thiếu gia súc phục vụ cày kéo, thiếu phân bón… trước tình hình đó chi bộ đã chỉ đạo các hộ dân đẩy mạnh công tác chăn nuôi gia súc, gia cầm và phát triển đàn ong mật. Mặc dù vậy số lượng đàn gia súc không tăng đáng kể, nên kế hoạch thu mua thực phẩm không đạt kế hoạch huyện giao. Đối với phong trào làm giếng nước, xã đã huy động dân công cùng với công nhân của huyện triển khai thi công đào giếng nước, chỉ trong thời gian ngắn đã làm được hàng trăm giếng nước phục vụ cho hộ gia đình, cụm dân cư. Kết quả đó đã góp phần cho nhiều hộ dân không phải đi xa cả ngày đường để địu nước, đây là một thắng lợi có ý nghĩa lịch sử đối với cấp ủy, chính quyền xã Lũng Thầu (đến nay nhiều hộ gia đình vẫn sử dụng những giếng nước này để lấy nước cho gia súc và sinh hoạt). Công tác văn hóa - giáo dục được quan tâm, tại xã đã mở được các lớp vỡ lòng, lớp 1, lớp 2. Trong năm 1962, xã đã phối hợp với công nhân công trường mở đường Hạnh Phúc tổ chức dạy được một lớp xóa mù cho 15 người, trong đó có cả cán bộ xã tham gia theo học. Trong lĩnh vực văn hóa, xã đã xây dựng được bảng thông tin và xây dựng chòi phát thanh ở 5/5 thôn bản, mỗi thôn có 1 tổ truyền tin do giáo viên trực tiếp giúp đỡ, đây là một nỗ lực rất lớn mà dưới sự lãnh đạo của chi bộ đảng thực hiện được trong giai đoạn này, kết quả đó góp phần tích cực vào công tác tuyên truyền vận động ở địa phương. Tuy vậy, vẫn còn có những vấn đề chưa làm tốt như: vận động cải tạo phong tục cũ lạc hậu, làm ma dài ngày, thách cưới cao, trẻ em lấy vợ chồng quá sớm… Công tác y tế được quan tâm, trạm xá xã được bố trí một y tá trực tại trạm và một vệ sinh viên. Hằng năm, cán bộ y tế xã đã cùng với các ngành đoàn thể xã tích cực vận động nhân dân ăn ở hợp vệ sinh, thực hiện vệ sinh cá nhân, đưa chuồng gia súc ra xa nhà… Tuy phong trào được triển khai rộng rãi nhưng chưa thực sự hiệu quả, phong trào làm hố xí, hố ủ phân triển khai không quyết liệt nên việc ăn ở của người dân không đảm bảo vệ sinh, dẫn đên một số người dân bị mắc bệnh như tiêu chảy, kiết lỵ…
- 17 Công tác bảo vệ trật tự trị an được chi bộ quan tâm, xã đã thành lập được Ban bảo vệ trị an, Trưởng Ban do 1 Ủy viên Ủy ban làm trưởng Ban, Trưởng công an làm Phó Ban, các thành viên gồm: Quân sự, Bí thư đoàn Thanh niên, Chủ tịch Phụ nữ. Về tổ bảo vệ trị an đã thành lập được 5 tổ, thành phần gồm Tổ trưởng tổ sản xuất hoặc Trưởng thôn và Công an viên, Dân quân tại tổ sản xuất, ở thôn. Sau khi thành lập được Ban bảo vệ trị an ở xã và Tổ bảo vệ trị an ở tổ sản xuất, thôn bản, chi bộ xã đã chỉ đạo xây dựng quy ước, phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên, lịch sinh hoạt định kỳ… Vì vậy hoạt động của Ban và Tổ đã đi vào nề nếp, các tệ nạn xã hội như tự tử đã giảm, công tác phòng chống hỏa hoạn được thực hiện tốt nên không để xảy ra các vụ cháy lớn. Trên địa bàn chỉ xảy ra một số vụ trộm cắp vặt như rau đậu, thuốc phiện. Cùng giai đoạn này, phong trào bảo vệ trị an được phát động rộng rãi trong quần chúng và gắn liền với nhiệm vụ phòng chống gián điệp, biệt kích, sẵn sàng đối phó với chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ. Công tác xây dựng lực lượng vũ trang được chi bộ quan tâm, lực lượng dân quân thường xuyên được củng cố, kiện toàn và biên chế theo đơn vị sản xuất để đảm bảo quản lý địa bàn được thuận lợi. Đồng thời, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng và văn hóa trong lực lượng dân quân được quan tâm thường xuyên hơn, bên cạnh đó chi bộ đã chỉ đạo tăng cường động viên những người đã qua chiến đấu tiễu Phỉ tiếp tục tham gia lực lượng dân quân. Hằng năm, thực hiện công tác tuyển quân đảm bảo chỉ tiêu huyện giao, thường xuyên quan tâm đến chính sách hậu phương quân đội, đảm bảo cho những người tại ngũ an tâm chiến đấu. Tháng 8 năm 1964, Đảng bộ huyện Đồng Văn tiến hành Đại hội lần thứ IV. Đại hội đã xác định phương hướng nhiệm vụ chủ yếu của Đảng bộ trong giai đoạn này là tiếp tục hoàn thiện quan hệ sản xuất mới, phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội và an ninh - quốc phòng để Đồng Văn cùng với các địa phương khác trở thành hậu phương vững chắc cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Vì theo quan niệm của Đảng ta lúc đó, xây dựng Hợp tác xã nông nghiệp là xây dựng quan hệ sản xuất mới XHCN, cho nên bằng bất kỳ giá nào cũng phải thực hiện bằng được mô hình Hợp tác xã, mô hình làm ăn tập thể ở nông thôn. Trong thực tế, xây dựng Hợp tác xã nông nghiệp là một nội dung quan trọng của cuộc cải cách dân chủ, xoá bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân về ruộng đất ở nông thôn. Thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ IV của Đảng bộ huyện, chi bộ Đảng xã Lũng Thầu đã quán triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội, chỉ đạo các thôn, bản củng cố các tổ đổi công, chuẩn bị các điều kiện để thành lập Hợp tác xã nông nghiệp. Tuy nhiên, công tác phát triển đảng viên của chi bộ chưa được quan tâm đúng mức, vì vậy có năm chi bộ không phát triển thêm được đảng viên nào, mặc dù trước đó, năm 1962, sau khi chi bộ được thành lập đã xóa được xóm trắng về đảng viên (trong năm 1962 đã kết nạp được 2 đảng viên, nâng đảng viên của chi bộ lên 5 đồng chí). Nguyên nhân chi bộ không phát triển được Đảng viên là do trình độ đảng viên của chi bộ còn quá yếu, chưa biết tuyên truyền, số cán bộ ở huyện là đảng viên xuống xã cũng không nghĩ đến nhiệm vụ về tuyên truyền phát triển đảng trong quần chúng nhân dân và đi sâu tìm hiểu đối tưởng đảng, nên dẫn đến công tác phát triển đảng gặp khó khăn.
- 18 Có thể khẳng định, quá trình tiến hành cuộc vận động “cải cách dân chủ” ở Lũng Thầu đã đạt được kết quả quan trọng, chi bộ đã vận dụng đúng đắn và thận trọng chính sách dân tộc của Đảng, chú ý giáo dục ý thức đoàn kết cho cán bộ và nhân dân, mọi hoạt động về giáo dục, y tế được đẩy mạnh hơn trước, vì vậy cuộc vận động cải cách dân chủ ở Lũng Thầu đã không gây ra những căng thẳng không cần thiết. Chi bộ đã tập trung lãnh đạo có phương hướng tiến sâu vào mặt trận sản xuất, tăng vụ và khai hoang… Đó là một thắng lợi lớn về chính trị, kinh tế và xã hội, có tính chất quyết định cho việc thi hành những nhiệm vụ mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện đã đề ra trong giai đoạn tiếp theo. Công tác phát triển củng cố tổ chức đảng được quan tâm, là một trong những xã đầu tiên của huyện xóa được thôn trắng đảng viên. Từ đó, chính quyền, Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể, lực lượng dân quân, du kích được củng cố vững mạnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, tạo động lực quan trọng để Lũng Thầu xây dựng thành công chính quyền dân chủ nhân dân, xây dựng con người mới XHCN. Tuy nhiên, ý thức giác ngộ chính trị, tinh thần làm chủ tập thể của nhân dân còn thấp, tư tưởng bảo thủ, rụt rè còn khá nặng nề, nhiều tổ đổi công hoạt động kém… đây là vấn đề còn tồn tại mà chi bộ phải nghiên cứu, có kế hoạch giải quyết trong giai đoạn tiếp theo. 2. Dưới sự lãnh đạo của Chi bộ, nhân dân xã Lũng Thầu tích cực sản xuất, phát triển kinh tế, góp phần chi viện cho tiền tuyến đánh Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1965 - 1975) Bước sang năm 1965, máy bay Mỹ liên tục do thám bầu trời Hà Giang, thả tuyền đơn tuyên truyền xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng. Ngày 10/8/1965, máy bay Mỹ bắn phá cầu Vĩnh Tuy làm một số thường dân chết và bị thương, quân dân Hà Giang trực tiếp đương đầu với chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Từ khi đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh đánh phá miền Bắc và Hà Giang, bọn phản động bắt đầu ngóc đầu dậy chống tại chính quyền, chúng vừa công khai, vừa ngấm ngầm tuyên tuyền, xuyên tạc chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước. Nhưng do đường lối sáng suốt và đúng đắn của Trung ương Đảng và của Hồ Chủ tịch, toàn đảng, toàn dân ta triệu người như một, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược và bọn tay sai bán nước. Những chiến thắng dồn dập của quân ta trên cả 2 miền Nam, Bắc đã làm cho đế quốc Mỹ và tay sai liên tiếp thất bại nhục nhã. Tại địa bàn Lũng Thầu, bọn phản động cũ từ năm 1959 chưa chịu cải tạo cùng với bọn địa chủ, phú nông định ngóc đầu dậy, lợi dụng những khó khăn của nhân dân và Nhà nước ta để phản tuyên truyền, nói xấu chế độ gây hoang mang trong nhân dân và phá hoại phong trào hợp tác xã của nông dân, chúng còn xuyên tạc chính sách nghĩa vụ quân sự, phong trào thanh niên 3 sẵn sàng, phụ nữ 3 đảm đang… Trước tình hình đó, chi bộ đã chỉ đạo lực lượng công an xã tập trung lực lượng điều tra, xác minh, tích cực phát động quần chúng nhân dân vận động, tố giác bọn phản động, tham gia giữ gìn trật tự an ninh thôn bản, luôn cảnh giác không mắc mưu kẻ xấu góp phần quan trọng ổn định tình hình. Tháng 5/1967, chi bộ xã Lũng Thầu tổ chức Đại hội, đồng chí Thào Xúa Tủa tiếp tục được Đại hội bầu giữ chức vụ Bí thư chi bộ. Chi bộ xác định: chuyển hướng xây
- 19 dựng kinh tế sang điều kiện có chiến tranh, tăng cường khả năng quốc phòng - an ninh bảo vệ hậu phương, chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến đánh Mỹ; tăng cường xây dựng củng cố phong trào hợp tác xã, ổn định đời sống nhân dân và xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH, sẵn sàng chiến đấu đánh thắng chiến tranh phá hoại của địch. Hưởng ứng cuộc vận động “Cải tiến quản lý Hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật, phát triển nông nghiệp mạnh mẽ và vững chắc” và cuộc vận động “Nâng cao ý thức trách nhiệm, tăng cường quản lý kinh tế, tài chính, chống tham ô, lãng phí, quan liêu” do Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Tỉnh ủy đề ra, Chi bộ Đảng đã tuyên truyền rộng rãi trong các tầng lớp nhân dân đường lối chủ trương, quan điểm của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, của Tỉnh ủy. Thông qua đó, Chi bộ Đảng xã đã chỉ đạo gắn việc xây dựng Hợp tác xã với phong trào thi đua sản xuất, nhằm ổn định đời sống nhân dân và hoàn thành nghĩa vụ lương thực, thực phẩm đối với Nhà nước. Việc triển khai phong trào xây dựng Hợp tác xã ở xã Lũng Thầu là hoàn toàn phù hợp với nguyện vọng của đại đa số nông dân, vì nó xóa bỏ được chế độ bóc lột ở nông thôn; người dân được giải phóng, trở thành người làm chủ ruộng đất, làm chủ xã hội. Do đó, chủ trương xây dựng Hợp tác xã của Đảng được nông dân ở Lũng Thầu nhiệt tình hưởng ứng, toàn xã đã thành lập được 5 hợp tác xã gồm: Mỏ Xí, Chá Dính, Cá Lủng, Tủng A, Tủng B; gần 90% người dân đã tự nguyện đem ruộng đất, trâu, bò vào làm ăn tập thể trong Hợp tác xã; Ban quản trị các hợp tác xã hằng năm đều được tập huấn nhằm nâng lao năng lực quản lý và điều hành, kế toán các hợp tác xã đều được tập huấn về nghiệp vụ để đảm đương được yêu cầu nhiệm vụ đặt ra. Tuy nhiên, Ban quản trị các hợp tác xã nhiều đồng chí không biết chữ, khả năng nói tiếng phổ thông còn hạn chế nên ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của các hợp tác xã, nhất là khâu tính công điểm và tính ăn chia, cân đối lương thực… Trong phát triển kinh tế, Chi bộ đã tập trung lãnh chỉ đạo việc hoàn thiện cơ cấu kinh tế nông - lâm nghiệp, phát triển nông nghiệp toàn diện, chú trọng phát triển cây hoa màu, chăn nuôi, cây công nghiệp (đậu tương) và lâm nghiệp; năng suất ngô đạt 10 đến 12 tạ/ha, từ đó, đời sống của xã viên các tổ đổi công và Hợp tác xã được cải thiện đáng kể. Dưới sự chỉ đạo của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện, xã Lũng Thầu tích cực triển khai phong trào 3 chuồng: mỗi hợp tác xã có 1 nhà kho chứa phân, đội sản xuất có 1 kho chứa phân, mỗi hộ xã viên mỗi gia đình nông dân có 1 chuồng phân có mái che đảm bảo có chất lượng phân tốt, vì vậy các hợp tác xã đảm bảo đủ phân bón cho bắp, bình quân 3 tấn/ha bắp. Nhờ có lực lượng đoàn viên thanh niên tiêu biểu đã thu gom được lượng phân bón vượt mục tiêu đưa ra, kết quả đó đã góp phần đưa mức phân bón của xã lên trên 3 tấn/ha bón cho bắp (bình quân toàn huyện chỉ đạt 3 tấn/ha bón cho bắp). Bên cạnh đó, xã đã tích cực triển khai công tác định canh, định cư, mỗi hợp tác xã kiến thiết ít nhất 1 ha nương hoặc ruộng bậc thang để đảm bảo canh tác được lâu dài. Đồng thời chỉ đạo nhân dân tập trung vào trồng và chăm sóc cây ngô, đậu tương cho năng xuất cao.
- 20 Tuy nhiên, có năm trên địa bàn huyện liên tục xảy ra nắng hạn, đã làm ảnh hưởng đến năng xuất cây trồng, vì vậy sản lượng lương thực bị giảm sút, đời sống quần chúng gặp khó khăn, một số cán bộ cơ sở, nhất là cán bộ lãnh đạo hợp tác xã và quần chúng xã viên nảy sinh tư tưởng bi quan, lo lắng, vì vậy phong trào hợp tác xã có phần lắng xuống. Những khó khăn, trở ngại chung của huyện cũng đã ảnh hưởng đến việc phấn đấu thực hiện nhiệm vụ chính trị chung của xã Lũng Thầu. Bên cạnh đó, do điều kiện dân cư sống không tập trung, trình độ canh tác manh mún, lạc hậu; trình độ quản lý của đội ngũ cán bộ thấp, quy mô Hợp tác xã nhỏ; chia thu hoạch và nộp nghĩa vụ không có để tích lũy; trâu, bò, nông cụ thuộc sở hữu của Hợp tác xã nhưng giao trực tiếp cho cá nhân, hộ gia đình quản lý... nên phong trào Hợp tác xã phát triển nhưng còn có những hạn chế nhất định. Ban Quản trị các Hợp tác xã hoạt động có nhiều hạn chế, như: không xây dựng được kế hoạch, phương án sản xuất, không phát huy được vai trò quản lý sản xuất; khâu thanh, quyết toán không rõ ràng… vì vậy người dân ở 2 hợp tác xã Mỏ Xí và Chá Dính đã có một số hộ tự ý lấy lại ruộng đất để làm ăn cá thể, còn lại 3 hợp tác xã, người dân có biểu hiện lo lắng, nghi ngờ vào phong trào hợp tác xã. Công tác phát triển chăn nuôi và bảo vệ gia súc được chi bộ xác định là một khâu quan trọng của biện pháp thâm canh các loại cây trồng (vì chi bộ đã xác định, chăn nuôi phát triển sẽ có nguồn phân bón cho cây trồng), góp phần tăng thu nhập cho hợp tác xã, nâng cao đời sống của nhân dân. Vì vậy xã đã tập trung chỉ đạo đẩy mạnh phát triển chăn nuôi gia súc các loại, nhất là bò, lợn, dê… nên số lượng gia súc năm sau cao hơn năm trước. Đến năm 1969, bình quân mỗi hộ có từ 1,72 con bò trở lên. Tuy nhiên, giai đoạn này nhiều gia đình xin giết mổ gia súc để làm ma, tổ chức đám cưới, có gia đình xin mổ một con nhưng tự ý giết mổ lên đến 3, 4 con nên tổng đàn không tăng đáng kể, đàn dê do không có bãi chăn thả nên phát triển kém. Đối với phong trào làm đường giao thông, xã thường xuyên huy động nhân dân tham gia mở đường từ xã đến thôn, bản đảm bảo cho người và ngựa đi lại thuận lợi. Đặc biệt là hai tuyến đường từ xã Phố Cáo đến trung tâm xã (sau này được gọi là Dốc bốn chân, và Dốc tám hào). Đây là tuyến đường duy nhất từ các xã khác đến trung tâm xã Lũng Thầu. Tuyến đường không dài, xong có độ dốc cao, nguy hiểm, để đi qua được con dốc này, người đi lại phải bám vào gốc cây, vách đá mới có thể vượt qua. Hằng năm, xã đã huy động dân công tham gia tu sửa đoạn đường dốc Thẩm Mã vào mùa mưa đảm bảo cho các phương tiện qua lại khu vực này được thông suốt. Trong lĩnh vực văn hóa giáo dục, phong trào giáo dục tiếp tục phát triển, bắt đầu từ năm 1965 huyện Đồng Văn tiếp nhận nhiều đoàn giáo viên các tỉnh miền xuôi như Hà Nam, Thanh Hóa, Ninh Bình lên dạy học, góp phần thúc đẩy sự nghiệp giáo dục của huyện ngày một phát triển. Tại xã Lũng Thầu, tiếp tục duy trì các lớp vỡ lòng, lớp 1, lớp 2 và lớp ánh sáng văn hóa. Trong công tác văn hóa thông tin có nhiều chuyển biến tích cực, Bảng thông tin tiếp tục được duy trì, các chòi phát thanh ở thôn thường xuyên được củng cố phục vụ tốt cho công tác tuyên truyền. Các loại báo chí chưa được cung cấp, nhưng thông qua
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Ngam La (1945-2020): Phần 1
54 p | 9 | 5
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Khâu Vai (1961-2018): Phần 1
45 p | 9 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của phụ nữ tỉnh Bình Thuận (1930-2000): Phần 1
123 p | 6 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Du Già (1945-2018): Phần 1
74 p | 4 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Lâm Thượng (1945-2010): Phần 1
26 p | 11 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Nậm Ban (1961-2018)
144 p | 9 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Giàng Chu Phìn (1961-2018): Phần 2
119 p | 8 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Cán Chu Phìn (1961-2020): Phần 2
152 p | 5 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Pải Lủng (1961-2020): Phần 1
56 p | 6 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Lũng Pù (1961-2020): Phần 2
131 p | 8 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Lũng Pù (1961-2020): Phần 1
60 p | 7 | 3
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Lùng Tám (1961-2015)
144 p | 7 | 2
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Thài Phìn Tủng (1961-2020)
110 p | 3 | 2
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Sủng Là giai đoạn (1945-2018)
95 p | 8 | 2
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Pà Vầy Sủ (1962-2015): Phần 1
70 p | 6 | 2
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Đạo Đức (1945-2015): Phần 1
82 p | 7 | 2
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Xín Chải (1962-2015)
141 p | 8 | 2
-
Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Phương Tiến (1957-2017)
86 p | 8 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn