intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Minh Tân (1945-2018)

Chia sẻ: Hoangnhanduc | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:160

5
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Cuốn sách "Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Minh Tân (1945-2018)" giới thiệu khái quát về sự hình thành, phát triển của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc xã Minh Tân qua các thời kỳ lịch sử (1945-2018): Nêu bật quá trình lãnh đạo của Đảng bộ trên tất cả các mặt: Chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, quốc phòng - an ninh, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị; những đóng góp to lớn của nhân dân các dân tộc qua các giai đoạn lịch sử.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Minh Tân (1945-2018)

  1. ĐẢNG BỘ HUYỆN VỊ XUYÊN BAN CHẤP HÀNH ĐẢNG BỘ XÃ MINH TÂN TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN XÃ MINH TÂN 1945 - 2018 ------ Xuất bản năm 2019
  2. 2
  3. Lời giới thiệu Minh Tân là xã vùng cao của huyện Vị Xuyên, nằm ở phía Bắc huyện, có đường biên giới giáp với quốc gia láng giềng là Nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa, cách trung tâm thành phố Hà Giang 23km. Trải qua các giai đoạn lịch sử (1945-2018), dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Chi bộ Đảng (1949-1966), của Đảng bộ xã (1966-2018), nhân dân các dân tộc xã Minh Tân luôn nêu cao tinh thần đoàn kết đấu tranh cách mạng, tích cực lao động sản xuất, trực tiếp chiến đấu, phục vụ chiến đấu; đóng góp nhiều sức người, sức của trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ và thời kỳ chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Trong thời kỳ thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, cán bộ và nhân dân các dân tộc luôn năng động sáng tạo trong lao động sản xuất, học tập công tác, xây dựng xã Minh Tân trở thành một xã có hệ thống chính trị vững mạnh, kinh tế, văn hóa phát triển, quốc phòng - an ninh vững chắc. Để tổng kết kinh nghiệm, ôn lại truyền thống lịch sử vẻ vang của Đảng bộ, nhân dân các dân tộc xã Minh Tân, nhằm rút ra những bài học lịch sử bổ ích phục vụ công tác nghiên cứu, vận dụng, giáo dục truyền thống cách mạng và lịch sử địa phương. Thực hiện Kế hoạch số 61/KH-HU ngày 11/3/2016 của Ban Thường vụ Huyện ủy Vị Xuyên về nghiên cứu biên soạn lịch sử Đảng bộ xã, thị trấn, Ban Thường vụ Đảng ủy chỉ đạo nghiên cứu biên soạn cuốn sách “Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Minh Tân 1945-2018”. Cuốn sách giới thiệu khái quát về sự hình thành, phát triển của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc xã Minh Tân 3
  4. qua các thời kỳ lịch sử (1945-2018): Nêu bật quá trình lãnh đạo của Đảng bộ trên tất cả các mặt: Chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, quốc phòng - an ninh, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị; những đóng góp to lớn của nhân dân các dân tộc qua các giai đoạn lịch sử. Trên cơ sở đó kế thừa và phát huy truyền thống cách mạng của các thế hệ cha anh, quyết tâm vượt qua mọi khó khăn thử thách, hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong quá trình sưu tầm, nghiên cứu, biên soạn, Ban Chấp hành Đảng bộ luôn nhận được sự chỉ đạo của Thường trực Huyện ủy; sự chỉ đạo, giúp đỡ của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, Ban Tuyên giáo Huyện ủy cùng với sự tham gia góp ý kiến quý báu của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân đã từng tham gia hoạt động, công tác qua các thời kỳ trên địa bàn xã Minh Tân. Mặc dù Ban biên soạn đã có nhiều cố gắng, nhưng do nguồn tài liệu lưu trữ thất lạc nhiều, nên không thể tránh khỏi thiếu sót. Chúng tôi rất mong nhận được sự tham gia góp ý của các đồng chí và bạn đọc để cuốn sách được hoàn thiện trong lần tái bản sau. Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách “Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Minh Tân 1945-2018” đến cán bộ, đảng viên và nhân dân trong xã cùng bạn đọc. T/M BCH ĐẢNG BỘ XÃ MINH TÂN BÍ THƯ Đào Mạnh Công 4
  5. PHẦN MỘT KHÁI QUÁT ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ, VĂN HÓA XÃ HỘI, CON NGƯỜI XÃ MINH TÂN I. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN. Xã Minh Tân nằm ở vị trí địa lý 22 độ 58’,08’’ vĩ độ Bắc đến 104,54’,26’’ kinh độ Đông. Phía Bắc giáp các xã Tả Ván, xã Tùng Vài huyện Quản Bạ; phía Đông giáp xã Quyết Tiến huyện Quản Bạ; phía Nam giáp xã Phong Quang, xã Thuận Hòa huyện Vị Xuyên; phía Tây giáp xã Thanh Thủy huyện Vị Xuyên và trấn Thiên Bảo huyện Ma Ly Pho, châu Vân Sơn, tỉnh Vân Nam Trung Quốc với đường biên giới dài 4,929 km qua 5 cột mốc chính, 2 cột mốc phụ. Diện tích tự nhiên toàn xã rộng 10.569 ha; trong đó đất nông nghiệp 1.920 ha; đất lâm nghiệp 7.251 ha; đất phi nông nghiệp 268 ha; đất chưa sử dụng 1129 ha. Địa hình xã Minh Tân khá phức tạp, chia cắt mạnh bởi nhiều dải đồi, núi; chủ yếu là núi đá vôi. Địa hình phân tuyến rõ nét, nhấp nhô thành nhiều lớp. Nằm xen kẽ các dãy núi là những thung lũng hẹp, khe sâu hình thành nên những cánh đồng nhỏ tương đối bằng phẳng được nhân dân khai thác sử dụng vào sản xuất nông nghiệp từ nhiều đời nay. Nằm trên đường biên giới có các điểm cao 1.250m, điểm cao 1.234m, điểm cao 1.030m: Vùng giáp biên có các điểm cao 1.000, điểm cao 900, điểm cao 840, 788… là một trong những địa bàn phòng thủ 5
  6. chiến lược phía Đông sông Lô của huyện Vị Xuyên với nhiều đơn vị chủ lực của Bộ Quốc phòng đứng chân bảo vệ biên giới trong thời kỳ chiến đấu bảo vệ Tổ quốc (1979-1989). Độ cao trung bình khoảng 900 mét so với mực nước biển. Xã Minh Tân nằm trong khu vực khí hậu á nhiệt đới nóng ẩm, chịu ảnh hưởng của chế độ gió mùa. Mùa hè trùng với gió mùa Đông - Nam, kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10, thời tiết nóng ẩm, mưa nhiều, thường gây ra tình trạng lũ quét, sạt lở, xói mòn. Mùa đông trùng với gió mùa Đông - Bắc, kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau; thời tiết lạnh, ít mưa, gây nên tình trạng thiếu nước cho sản xuất, sinh hoạt. Do địa hình chia cắt mạnh nên hình thành nhiều tiểu vùng khí hậu khác nhau. Nhiệt độ trung bình từ 19 - 20 độ C; thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, chăn nuôi. Minh Tân có 4 nhánh suối chính, suối Bắc Xum và suối Bản Ngày chảy từ các khe núi của xã Quyết Tiến huyện Quản Bạ xuống; suối Lùng Thiềng và suối Bản Hình bắt nguồn từ xã Tả Ván huyện Quản Bạ đổ ra. Các con suối này bắt nguồn từ các dãy núi cao chảy xuống, độ dốc cao nên có lưu lượng nước khá lớn; mùa mưa, nước các suối dâng cao chảy xiết, gây sạt lở; mùa khô suối cạn nước, gây khó khăn cho sản xuất, đời sống. Các nhánh suối trên đều đổ ra suối Bắc Xum rồi xuôi về sông Miện. Nhờ có diện tích rừng khá lớn nên nguồn nước ngầm tương đối dồi dào, có thể khai thác phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân. 6
  7. Xã Minh Tân có tài nguyên rừng khá phong phú, đa dạng, trong 7.251,1ha diện tích rừng tự nhiên thì rừng đặc dụng có 4.618,8ha, rừng phòng hộ có 337,2ha, rừng sản xuất có 2.295,1ha. Hiện nay vẫn còn một số diện tích rừng nguyên sinh, thảm thực vật tương đối phong phú, các loại gỗ quý như trai, nghiến, sến, táu, sâng, lát, đinh…Rừng vừa có tác dụng bảo vệ sự đa dạng sinh học, bảo vệ môi trường sinh thái, chống xói mòn, sạt lở đất, vừa là nơi phòng thủ chiến lược giữ gìn bảo vệ quê hương. Do tập quán du canh du cư, phát nương làm rẫy từ lâu đời và do khai thác phục vụ chiến đấu bảo vệ biên giới làm cho tài nguyên rừng cạn kiệt. Đến thời kỳ đổi mới công tác trồng, chăm sóc và bảo vệ rừng được chú trọng, đến năm 2018 độ che phủ rừng đạt 61,9%. Trước năm 1960 đường giao thông ở Minh Tân chủ yếu là đường mòn đi bộ cho người và ngựa. Ngày nay hệ thống đường giao thông cơ giới được xây dựng cơ bản. Ngoài trục Quốc lộ 4C (đường Hạnh Phúc) đi qua xã được xây dựng từ những năm 1959-1960; còn có tuyến đường tuần tra biên giới dài trên 5km phục vụ quốc phòng - an ninh; 13/14 thôn có đường ô tô đến trung tâm, rất thuận lợi cho tổ chức sản xuất, phát triển kinh tế, văn hóa xã hội. Tuy nhiên, trong mùa mưa, tình trạng lũ quét thường xảy ra làm đường xá, đồi núi sạt lở, gây nhiều khó khăn cho đời sống và sản xuất của nhân dân. 7
  8. Vùng đất Minh Tân đã được người dân khai phá, canh tác và sinh sống từ lâu đời. Theo sử sách chép lại thì đất Minh Tân xưa gọi là Mường thuộc châu Bình Nguyên; đến thời Nhà Lê đổi thành châu Vị Xuyên. Thời kỳ Pháp thuộc (1858-1945) địa bàn xã Minh Tân có tên gọi Đại Miện thuộc tổng Phú Linh; sau đó đổi thành xã Bản Hình thuộc tổng Yên Định, châu Vị Xuyên1, phủ Tương Yên, tỉnh Tuyên Quang. Ngày 20/8/1891 tỉnh Hà Giang được thành lập trên cơ sở phủ Tương Yên và huyện Vĩnh Tuy (tỉnh Tuyên Quang); xã Đại Miện thuộc tổng Yên Định, châu Vị Xuyên. Đến năm 1929 châu Vị Xuyên có 4 tổng, 24 xã, 238 làng. Xã Đại Miện thuộc tổng Yên Định có 4 thôn (Bình Long, Thượng Long, Khang Lộc, Yên Ninh) với 33 làng: Khu vực xã Minh Tân ngày nay thuộc thôn Yên Ninh có 9 làng (Bản Hình, Khô Lốc, Tả Lèng, Bắc Xum, Bản Ngày, Tham Luồng, Mã Hoàng Phìn, Hoàng Lỳ Pả, Lùng Thiềng). Sau cách mạng tháng 8/1945 châu Vị Xuyên đổi thành huyện Vị Xuyên. Ngày 16/9/1949 Ủy ban kháng chiến hành chính Liên khu 10 ra Quyết định số 433 xác lập các đơn vị hành chính thuộc huyện Vị Xuyên gồm 29 xã và phố An Cư; xã Minh Tân được xác lập với 7 1 Châu Vị Xuyên: Thời Lý, Trần là châu Bình Nguyên. Thời kỳ thuộc Minh là huyện Bình Nguyên. Đời Nhà Lê, năm 1466 đổi là châu Bình Nguyên thuộc phủ Yên Bình. Nhà Mạc (1547-1561) đổi làm châu Vị Xuyên… Trích dẫn theo Sơ thảo "Quá trình dựng đặt và thay đổi địa danh, địa giới các đơn vị hành chính tỉnh Hà Giang". Tr 7, 8, 25. 8
  9. thôn: Bản Hình, Bắc Xum, Lùng Thiềng, Thượng Lâm, Tân Sơn, Phìn Sảng, Hoàng Lỳ Pả. Trong giai đoạn 1984-1987 xã Minh Tân phát triển thêm 6 thôn: Bản Phố, Lùng Vài, Xín Chải, Khâu Ngày, Mã Hoàng Phìn, Ngài Trò (năm 2007 thôn Ngài Trò đổi là thôn Khâu Khà). Năm 1990 xã Minh Tân tiếp nhận thôn Tả Lèng của xã Tả Ván huyện Quản Bạ. Từ đây địa giới hành chính các thôn của xã Minh Tân tương đối ổn định; đến năm 2018 xã Minh Tân có 14 thôn2, trong đó có 2 thôn giáp biên giới (Hoàng Lỳ Pả, Mã Hoàng Phìn). II. ĐIỀU KIỆN KINH TẾ, VĂN HÓA, XÃ HỘI. Theo các tài liệu khảo cổ học được tìm thấy từ thời đồ đá cũ cho tới thời kỳ đồ đồng, đồ sắt…báo hiệu từ xa xưa con người đã sống ở đây. Các cư dân cổ mà hậu duệ của họ là đồng bào các dân tộc ngày nay. Kết quả nghiên cứu khảo cổ học tại Di chỉ hang Pắc Tà xóm Pắc Tà3, thôn Lùng Thiềng, xã Minh Tân đã tìm thấy hàng trăm tiêu bản công cụ đá cũ. Có những di vật quan trọng đánh dấu những giai đoạn chính trong quá trình phát triển đất nước. Đó là những công cụ chặt, đập thuộc thời đại đá cũ được tìm thấy dưới địa tầng rừng nguyên sinh Minh Tân thuộc Di chỉ văn hóa Hòa Bình, Bắc Sơn có 2 Là các thôn: Tân Sơn, Bắc Xum, Lùng Vài, Bản Phố, Khâu Khà, Xín Chải, Lùng Thiềng, Khâu Ngày, Thượng Lâm, Tả Lẻng, Bản Hình, Pìn Sảng, Hoàng Lỳ Phả, Mã Hoàng Phìn. 3 Hang Pắc Tà thôn Lùng Thiềng có nhiều nhũ đá đẹp, đang được khai thác thành điểm tham quan du lịch. Những Di vật tìm thấy ở hang Pắc Tà được lưu giữ, trưng bầy ở Bảo tàng tỉnh Hà Giang. 9
  10. niên đại cách ngày nay khoảng 6 đến 11 ngàn năm; đây là nơi cư trú của các cư dân người Tày cổ. Dân tộc Tày cổ là cư dân bản địa sống lâu đời trên mảnh đất này; họ là những chủ nhân đầu tiên lập nên nhà nước Văn Lang của các Vua Hùng; họ cũng là những cư dân đầu tiên khai khẩn đất hoang lập ấp ở đất Minh Tân. Sau đó đến các dân tộc Giấy, Dao. Từ thế kỷ thứ XVII, các dân tộc Mông, Nùng, Hoa và các dân tộc ít người khác, bằng nhiều con đường đã di cư đến Minh Tân sinh cơ lập nghiệp, đông nhất là dân tộc Mông. Về dân số, sau cách mạng tháng 8/1945 xã Minh Tân có gần 2.000 người, năm 1985 có khoảng 3.000 người. Đến tháng 12/2018 xã Minh Tân có 1.387 hộ/6.482 nhân khẩu (trong đó hộ nghèo có 471 hộ/2.128 khẩu, chiếm 34%; hộ cận nghèo có 478 hộ/2.305 khẩu, chiếm 34,5%; hộ trung bình có 438 hộ/2.049 khẩu, chiếm 31,6%). Xã Minh Tân có 9 dân tộc cùng sinh sống; trong đó đông nhất là dân tộc Mông chiếm 46,47%, dân tộc Dao chiếm 24,61%, dân tộc Tày chiếm 12,74%, dân tộc Giấy chiếm 3,74%, dân tộc Hoa chiếm 3,46%, dân tộc Kinh chiếm 3,37%, dân tộc Nùng chiếm 1,91%; các dân tộc ít người như Cao Lan, Pu Péo, Mường, Pố Y… chiếm 3,7%. Trước đây, các dân tộc thường cư trú theo quan hệ huyết thống; ngày nay họ sống xen kẽ với nhau nên văn hóa luôn chịu ảnh hưởng lẫn nhau, có nhiều nét tương đồng. Tín ngưỡng của các dân tộc là ''vạn vật hữu linh'', thờ cúng tổ tiên. Các dân tộc ở đây vốn không theo tôn 10
  11. giáo nào, đặc biệt là đạo Tin Lành. Sự truyền đạo, học và theo đạo của một số người trong các dân tộc thiểu số những năm gần đây là trái với phong tục, tập quán của các dân tộc. Trước năm 1945, điều kiện kinh tế thuần nông mang nặng tính tự cấp, tự túc. Cây lương thực chính ở Minh Tân là cây lúa nước, lúa nương và ngô; ngoài ra người dân còn trồng khoai, sắn, dong riềng, mía, bông, lanh. Dưới chế độ thực dân phong kiến, hầu hết diện tích lúa và ngô đều của tầng lớp trên; người dân phải đi làm thuê, cuốc mướn. Do canh tác lạc hậu, thời tiết khắc nghiệt dẫn đến hoang hóa, lại bị áp bức bóc lột, người dân phải chịu đói, rách triền miên. Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, người nông dân trở thành người chủ ruộng, nương; họ đã biết sử dụng tối đa diện tích đất để trồng xen canh, gối vụ, đa dạng các loại cây trồng để tăng năng suất, sản lượng. Năm 2018 sản lượng thóc đạt 1.925 tấn, ngô đạt 1.615 tấn; bình quân lương thực đầu người đạt 546 kg; mức cao nhất từ trước tới nay. Tuy vậy, Minh Tân vẫn là xã khó khăn của huyện Vị Xuyên, đến năm 2018 vẫn còn 6/14 thôn chưa được sử dụng điện lưới quốc gia; 1 thôn chưa có đường ô tô đến trung tâm; tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo còn ở mức cao. Ngoài trồng trọt, nhân dân còn chú trọng phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm. Ngoài các nghề thủ công truyền thống như rèn, đúc nông cụ sản xuất, nung gạch, ngói máng, dệt vải lanh, thổ cẩm; trong thời kỳ đổi mới đã phát triển thêm một số ngành nghề như đồ mộc dân 11
  12. dụng, chế biến lương thực, thực phẩm, sản xuất vật liệu xây dựng. Nhân dân các dân tộc Minh Tân có đời sống văn hoá tinh thần khá phong phú; dù phải trải qua ngàn năm Bắc thuộc nhưng các dân tộc vẫn giữ được những nét văn hóa truyền thống riêng biệt. Tiếng khèn của người Mông, các làn điệu dân ca của người Tày, Nùng, Dao, Giấy; các lễ hội truyền thống như: Lễ hội Lồng Tồng (còn gọi là lễ hội xuống đồng) của dân tộc Tày: Lễ cấp sắc và cúng thần rừng của người Dao: Lễ hội Gầu Tào của người Mông: Lễ cúng tổ tiên của dân tộc Giấy. Về chính trị xã hội, trước cách mạng tháng 8 năm 1945 dưới chế độ thực dân phong kiến, nổi lên hai giai cấp xã hội đối lập nhau, đó là nông dân lao động và địa chủ phong kiến. Bọn thực dân phong kiến nắm quyền cai trị, chúng có bộ máy hành chính, cơ sở kinh tế và lực lượng quân sự riêng. Nhân dân lao động là những người bị áp bức bóc lột nặng nề; đói rét, bệnh tật luôn đổ xuống đầu nhân dân lao động. Chính sách bóc lột dã man của thực dân Pháp và phong kiến, cùng những khó khăn do thiên tai gây ra khiến cho đời sống của nhân dân các dân tộc vô cùng điêu đứng cùng cực; có thời kỳ đói rét, bệnh tật đã dẫn đến tỷ lệ chết nhiều hơn tỷ lệ sinh. Sau khi xâm chiếm Hà Giang năm 1887, thực dân Pháp duy trì chế độ quân sự quản chế, sử dụng tầng lớp Thổ ty phong kiến kiểm soát mọi công việc hành chính ở địa phương. Chúng thi hành chính sách bóc lột hết sức 12
  13. hà khắc với đủ các loại thuế; có những thứ thuế vô nhân đạo như thuế thân, thuế điền thổ, thuế kinh lý, thuế nuôi ngựa, thuế môn bài, thuế rượu, thuế muối. Tổ chức chính quyền giúp việc cho thực dân Pháp ở xã Đại Miện có 1 Phó tổng, 1 Lý trưởng. Dưới xã có các Phó lý, Mã phài và một số Địa chủ, Phú nông; họ là chủ thể của khoảng 80% diện tích canh tác và sức kéo; 20% còn lại là của thành phần trung nông; người dân lao động chỉ là hạng làm thuê, cuốc mướn. Cả xã Đại Miện hầu như không có người biết chữ, không có trường học, trạm y tế, các bệnh sốt rét, đậu mùa, dịch bệnh thường xuyên xảy ra; toàn xã có 8 người bị cưỡng ép làm lính dõng cho thực dân Pháp. Các tệ nạn xã hội như mê tín dị đoan, nghiện hút, rượu chè, cờ bạc, cướp của giết người...luôn đè nặng lên đời sống hàng ngày các dân tộc. Ở các thôn, bản biên giới, nạn cướp bóc, chém giết do bọn thổ phỉ gây nên không lúc nào yên. Ngoài ra người dân còn phải có nghĩa vụ lao dịch, phu phen cho bọn thực dân, phong kiến. Đời sống vật chất lẫn tinh thần của người dân vô cùng cực khổ, lạc hậu; mèn mén không đủ ăn, áo không đủ mặc, không được học hành, ốm đau không có thuốc chữa bệnh. 80% số hộ nông dân không có đất canh tác; tình trạng đói rách diễn ra quanh năm. Có thể nói dưới chế độ thực dân phong kiến, nhân dân các dân tộc vùng cao biên giới là một trong những nơi điển hình nhất về sự cực khổ, lạc hậu của xã hội Hà Giang. 13
  14. Trải qua hàng nghìn năm đấu tranh với địch họa, thiên tai, các thế hệ người dân sống trên mảnh đất này luôn phát huy tính đoàn kết cộng đồng sâu sắc, hình thành đức tính chung quý báu: Thật thà, bao dung, tự trọng; dũng cảm, kiên cường trong đấu tranh; cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất, chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt để sinh tồn và phát triển. Những đức tính đó đã tạo nên sức sống mãnh liệt để tồn tại trước thử thách nghiệt ngã của thiên nhiên và chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược, góp phần tạo nên bức ''Phên dậu'' vững chắc bảo vệ biên cương Tổ quốc. Dù trải qua ngàn năm Bắc thuộc nhưng các dân tộc sống trên mảnh đất này vẫn giữ được sự vẹn toàn của đường biên, mốc giới; bảo tồn tiếng mẹ đẻ; trang phục dân tộc; phong tục tập quán; âm nhạc nghệ thuật; chuyện cổ tích, các lễ hội truyền thống của các dân tộc… luôn cùng tồn tại, phát triển trong nền văn hóa truyền thống các dân tộc cho đến ngày nay. Điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt đã tạo cho con người Minh Tân tính cần cù, chịu thương chịu khó, đoàn kết cộng đồng “tối lửa tắt đèn có nhau”, cùng nhau góp công, góp sức vượt qua mọi khó khăn, thử thách để chiến thắng mọi thiên tai, địch họa. Biên giới phía Bắc xưa kia luôn là vùng tranh chấp quyết liệt giữa các triều đại phong kiến Việt Nam và Trung Quốc; là địa bàn hoạt động của thổ phỉ, tội phạm, phản động ở các nơi dạt về. Các đội dân binh ở vùng biên giới luôn được Nhà nước phong kiến trao cho sứ mệnh làm người lính 14
  15. gác trên địa đầu đất nước; mỗi khi có giặc phương Bắc tràn sang, những chiến sĩ dân binh ấy là những người lính đầu tiên xung trận giáp mặt với quân thù. Những chiến công của nhân dân các dân tộc vùng biên giới Tụ Long xưa kia, Vị Xuyên ngày nay để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ như tham gia đánh đuổi quân Tống năm 1075, chống sự xâm lược của quân Nguyên năm 1285, đánh quân Minh ở cửa ải Lê Hoa năm 1427; cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tổ quốc (1979-1989)... mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc. Trải qua mấy ngàn năm lịch sử với bao phen binh lửa, các dân tộc nơi đây vẫn bám trụ kiên cường, giữ gìn vẹn toàn đường biên, mốc giới do cha ông để lại. 15
  16. PHẦN HAI QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG, ĐẤU TRANH CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN XÃ MINH TÂN QUA CÁC THỜI KỲ DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG (1945-2018) I. NHÂN DÂN CÁC DÂN TỘC XÃ MINH TÂN TRONG CUỘC ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN VÀ KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP 1945-1954 Sau thắng lợi của cách mạng tháng mười Nga (1917), chủ nghĩa Mác-Lê-Nin được đồng chí Nguyễn Ái Quốc và các tổ chức cách mạng truyền bá vào trong nước dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3/2/1930. Ngày 19/5/1941 Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) với sứ mệnh là tổ chức, tập hợp rộng rãi các lực lượng quần chúng đấu tranh giải phóng dân tộc. Thời kỳ đấu tranh vận động cách mạng giải phóng dân tộc 1930-1945, ngoài ách kìm kẹp của thực dân Pháp và Thổ ty phong kiến, nhân dân các dân tộc xã Đại Miện còn chịu ách bóc lột của phát xít Nhật, Quốc dân đảng Tưởng Giới Thạch và tay sai của chúng; sự quấy phá của Thổ phỉ ở biên giới. Dưới sự chỉ đạo của Xứ ủy Bắc Kỳ, phong trào cách mạng ở các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn phát triển mạnh đã ảnh hưởng đến các xã thuộc khu Yên Minh (châu Đồng Văn), khu Bắc Mê, Quản Bạ 16
  17. châu Vị Xuyên. Tháng 9/1943 cơ sở cách mạng được xây dựng ở Đường Âm, Bắc Mê; cuối năm 1944 phát triển tới Ngọc Long, Du Già, Đường Thượng (Yên Minh); đến đầu năm 1945 phát triển mạnh ra hầu khắp các xã khu Quản Bạ châu Vị Xuyên. Tại những nơi này, Mặt trận Việt Minh, các đoàn thể cứu quốc như Phụ nữ cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Nông dân cứu quốc và du kích, tự vệ cứu quốc được thành lập, trực tiếp giữ gìn an ninh trật tự và giải quyết các công việc hành chính ở địa phương. Tại xã Đại Miện, do sự kiểm soát gắt gao của quân Pháp và tay sai nên cán bộ Việt Minh chưa tổ chức xây dựng được cơ sở cách mạng. Tuy nhiên, sự hoạt động của các tổ chức Việt Minh ở các vùng lân cận đã có ảnh hưởng trực tiếp đến quần chúng nhân dân các thôn, bản ở Đại Miện. Dựa vào các mối quan hệ thân thiết giữa các dân tộc ở Đại Miện với các vùng, nhân dân Đại Miện đã dán tiếp, rồi trực tiếp cung cấp tin tức của địch ở địa phương cho Việt Minh; đưa cán bộ Việt Minh ở Quản Bạ bí mật về thôn, bản mình tuyên truyền chủ trương chính sách của Đảng và Mặt trận Việt Minh trong quần chúng. Ngày 9/3/1945 phát xít Nhật làm đảo chính hất cẳng thực dân Pháp, độc chiếm Đông Dương; tại đồn Quản Bạ, Bắc Mê bọn sĩ quan Pháp chạy sang Trung Quốc. Nhân cơ hội này lực lượng cách mạng tiến công đồn Bắc Mê, bắt 40 tên lính, giải phóng tiểu khu Bắc Mê ngày 28/3/1945. Tại Quản Bạ, một đội du kích 11 17
  18. người được thành lập, tổ chức phục kích quân Nhật ở Hố Lồ, tiêu diệt 1 tên lính Nhật. Ngày 5/6/1945 đội du kích tổ chức phục kích quân Nhật tại Bắc Xum diệt và bắt 12 tên. Tiếng súng kháng Nhật làm náo nức bản làng, cổ vũ động viên quần chúng đứng lên đánh Nhật. Phát huy thắng lợi, đội du kích chuyển xuống Làng Đán (xã Quyết Tiến) để phát triển phong trào cách mạng ở khu vực này. Đến giữa năm 1945 phong trào cách mạng được xây dựng ở các xã Cán Tỷ, Đông Hà, Thái An, Thanh Vân, Quản Bạ, Nghĩa Thuận, Quyết Tiến. Tháng 8 năm 1945 chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc, phát xít Nhật đầu hàng Đồng Minh; nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương đã nổi dậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi trong phạm vi cả nước. Ngày 2/9/1945 Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu tuyên bố nước nhà độc lập. Tại khu Quản Bạ, khi phát xít Nhật rút khỏi đất Quản Bạ đầu tháng 8/1945 thì ngày 30/8/1945 quân Tưởng Giới Thạch tràn vào miền Bắc nước ta với danh nghĩa Đồng minh vào giải giáp quân Nhật. Chúng kéo theo đội quân của “Việt Nam Quốc dân đảng” vào chiếm đóng thị xã Hà Giang; tập hợp bọn tay sai của Pháp-Nhật trước đây chiếm đồn bốt các châu lỵ, dựng chính quyền tại các địa phương do Thổ ty, Bang tá nắm giữ. Tại đồn Quản Bạ, quân Tưởng Giới Thạch chiếm đồn, sau đó bàn giao đồn cho lực lượng Việt Nam Quốc dân Đảng. Lực lượng Việt Minh cùng lúc phải đối phó với quân đội Tưởng 18
  19. Giới Thạch, bọn Việt Nam Quốc dân đảng và Thổ ty phong kiến. Lúc này phong trào cách mạng từ Bắc Mê, Quản Bạ đã lan rộng khắp các xã xung quanh thị xã Hà Giang. Lực lượng Việt Minh đẩy mạnh tuyên truyền vận động cách mạng trong các tầng lớp nhân dân và quan chức cũ về đường lối chính sách của Mặt trận Việt Minh và Chính phủ lâm thời do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu; thực hiện chính sách đại đoàn kết các dân tộc của Đảng. Đối với binh lính Quốc dân đảng ở đồn Quản Bạ ta tích cực lôi kéo sĩ quan, binh lính địch đứng về phía cách mạng; đồng thời tăng cường áp lực quân sự bao vây đồn. Sau khi huyện Bắc Quang và huyện Hoàng Su Phì được giải phóng, hoảng sợ trước thanh thế của cách mạng, ngày 21/11/1945 sĩ quan binh lính ở đồn Quản Bạ đã chủ động giao đồn cho Việt Minh. Ngày 8/12/1945 thị xã Hà Giang được giải phóng. Được tin đồn Quản Bạ thất thủ, bọn Quốc dân đảng Trung Hoa điều 1 trung đội đặc vụ theo đường Tùng Vài tiến vào chiếm lại đồn. Lực lượng Việt Minh đã chiến đấu dũng cảm, đánh bật quân địch về bên kia biên giới. Ở khu vực Bắc Mê huyện Vị Xuyên, Bang tá Nông Văn Tông cùng bọn tay chân đầu hàng cách mạng, ngày 15/12/1945 huyện Vị Xuyên hoàn toàn giải phóng. Ngày 25/12/1945 Ủy ban hành chính lâm thời tỉnh và tỉnh Đảng bộ Việt Minh ra mắt trước nhân dân các dân tộc trong tỉnh, Ngày 26/12/1945 Ủy ban hành chính lâm thời huyện Vị Xuyên được thành lập do ông Lý Văn 19
  20. Định làm Chủ tịch. Xã Đại Miện đổi thành xã Bản Hình. Từ đây nhân dân các dân tộc xã Bản Hình trở thành người chủ của quê hương mình; một thời kỳ mới đã mở ra: Thời kỳ xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng; bảo vệ cuộc sống tự do hạnh phúc của nhân dân. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa non trẻ vừa ra đời đã phải đương đầu với những khó khăn thử thách hết sức nghiêm trọng đó là nạn đói, nạn mù chữ, thiên tai, địch họa. Ở miền Bắc, gần 20 vạn quân Tưởng lấy danh nghĩa Đồng minh giải giáp quân đội Nhật tràn vào miền Bắc nước ta, bọn phản động tay sai núp bóng cũng bám theo. Ở miền Nam, quân đội Anh kéo vào, theo sau chúng là một số đơn vị quân đội Pháp. Ngày 23/9/1945 thực dân Pháp gây chiến ở Sài Gòn mở đầu chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai. Ngày 25/11/1945 Trung ương Đảng ra Chỉ thị "Kháng chiến kiến quốc", xác định kẻ thù chính của nhân dân ta lúc này là thực dân Pháp xâm lược. Thực hiện Chỉ thị của Trung ương Đảng, các cấp chính quyền đẩy mạnh tuyên truyền vận động nhân dân hiểu rõ âm mưu xâm lược của thực dân Pháp, chống giặc đói, giặc dốt; vận động, tập hợp khối đại đoàn kết của toàn dân chống thực dân Pháp, giữ vững chính quyền cách mạng. Nhằm hợp pháp hoá chính quyền dân chủ nhân dân từ Trung ương đến địa phương, Trung ương Đảng tổ chức cuộc tổng tuyển cử, bầu ra Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp. Ngày 06/01/1946 trong không khí 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1