intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Phiêng Luông (1987-2020)

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:150

7
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Phiêng Luông (1987-2020)được biên soạn gồm các nội dung chính sau: điều kiện tự nhiên, kinh tế-xã hội và con người xã Phiêng Luông; nhân dân xã Phiêng Luông trong thời kỳ thực hiện đường lối đổi mới của Đảng. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Phiêng Luông (1987-2020)

  1. Lời giới thiệu Phiêng Luông là xã vùng cao nằm ở phía Đông Nam của huyện Bắc Mê, cách trung tâm huyện 30 km. Ngày 13/02/1987, xã Phiêng Luông được thành lập trên cơ sở tách từ xã Yên Cường theo Quyết định số 28/QĐ- HĐBT của Hội đồng Bộ truởng. Trải qua quá trình hơn 30 năm vừa đấu tranh, vừa xây dựng, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc xã Phiêng Luông đã giành được những kết quả to lớn. Trong quá trình xây dựng và phát triển, nhân dân xã Phiêng Luông đã hun đúc nên truyền thống đoàn kết, cần cù, sáng tạo, một lòng tin tuởng vào con đường mà Đảng và Bác Hồ kính yêu đã lựa chọn, cùng cả nước vững bước trên con đường xây dựng xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Được sự chỉ đạo của Ban Thường vụ Huyện ủy, sự hướng dẫn của Ban Tuyên giáo Huyện ủy, Ban Chấp hành Đảng bộ xã Phiêng Luông khóa IV nhiệm kỳ 2015 - 2020 quyết định suu tầm, nghiên cứu và biên soạn cuốn sách “Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Phỉêng Luông (1987- 2020)” Đây là một việc làm hết sức cần thiết và có ý nghĩa rất quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Nội dung cuốn sách trình bày một cách chân thực, khách quan các sự kiện lịch sử diễn ra tại xã Phiêng Luông đặt trong mối quan hệ với các sự kiện lịch sử của huyện, của tỉnh và của đất nước. Cuốn sách không chỉ mang giá trị giáo dục truyền thống cách mạng mà còn chứa đựng nhiều giá trị về văn hóa, thể hiện lòng biết ơn sâu sắc đối với những cống hiến mà các thế hệ đóng góp công sức xây 1
  2. dựng và phát triển quê hucmg qua các thời kỳ. Mặc dù đã có nhiều cố gắng, với tinh thần trách nhiệm cao, nhưng trong quá trình thực hiện còn gặp nhiều khó khăn, như: nguồn tài liệu bị thất lạc, các nhân chứng lịch sử tuổi đã cao, trí nhớ có phần suy giảm, bên cạnh đó, trình độ của cán bộ biên soạn có hạn, nên không tránh khỏi những thiếu sót. Ban Chấp hành Đảng bộ xã Phiêng Luông mong nhận được sự tham gia góp ý của các đồng chí và bạn đọc để cuốn sách được hoàn thiện hơn trong lần tái bản sau. Nhân dịp cuốn sách được xuất bản, Ban Chấp hành Đảng bộ xã xin chân thành cảm ơn sự chỉ đạo của Ban Thường vụ Huyện ủy, Ban Tuyên giáo Huyện ủy Bắc Mê, sự giúp đỡ về chuyên môn của Phòng Lý luận chính trị và Lịch Sử Đảng, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy để nội dung cuốn sách được hoàn chỉnh. Xin trân trọng giới thiệu cuốn Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Phiêng Luông (1987 - 2020) đến toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân trong xã cùng bạn đọc./. 2
  3. Phần một ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ CON NGƯỜI XÃ PHIÊNG LUÔNG I. Điều kiện tự nhiên - xã hội Phiêng Luông là xã vùng cao nằm ở phía Đông của huyện Bắc Mê với chiều dài 15 km, cách trung tâm huyện lỵ 25 km; phía Bắc giáp xã Yên Cường, phía Tây giáp xã Thuợng Tân, phía Nam giáp xã Sinh Long (huyện Na Hang, tỉnh Tuyên Quang). Tên gọi Phiêng Luông theo người dân địa phương với ý nghĩa là một vùng đất bằng phẳng. Toàn xã có tổng diện tích đất tự nhiên là 2.602,55 ha, trong đó đất nông nghiệp chiếm 440,3 ha, đất lâm nghiệp chiếm 1.973,84 ha, đất phi nông nghiệp chiếm 54,48 ha, còn lại là diện tích rừng tạp, đồi núi trọc, núi đá và núi đất chiếm 31,60 ha. Xã Phiêng Luông có độ cao trung bình 1.200m - 1.500m so với mực nước biển, địa hình khá phức tạp, bị chia cắt bởi nhiều dãy núi, chủ yếu là đồi núi đất, đá với những khe suối nhỏ xen kẽ các thung lũng tạo thành những cánh đồng ruộng bậc thang. Đất đai thành phần chính là đất xám trên đá Granite, phân bố ở các thôn trong xã, tầng đất mỏng, nhiều đá lẫn, kết von; các loại đất phân bố trên nhiều dạng địa hình khác nhau tạo thành những vùng sinh thái nông - lâm nghiệp thích hợp với nhiều loại cây trồng, đặc biệt là cây trồng lâu năm vùng đồi núi. Đây là điều kiện thuận lợi cho phát triển nông nghiệp của xã, thích hợp cho phát triển cây lương thực, thực phẩm, như: Lúa, ngô, khoai, sắn, lạc, đỗ tương và một số cây trồng khác. 3
  4. Khí hậu ở xã Phiêng Luông mang những đặc điểm chung của khí hậu á nhiệt đới. Hằng năm, nhiệt độ trung bình 22,3°C; lượng mưa trung bình 1.616mm/năm; độ ẩm không khí đạt 80 - 90%. Thời tiết trong năm được chia thành 2 mùa rõ rệt: Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10, khí hậu nóng ẩm, lượng mưa cả năm thường tập trung vào mùa này; mùa khô khí hậu khô hanh và thường kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, lượng mưa thấp, nhiều sương mù, nhiệt độ có thể xuống thấp dưới 10°C. Đây là điều kiện thuận lợi cho sản xuất nông - lâm nghiệp của xã, đặc biệt là việc trồng những loại cây có nguồn gốc nhiệt đới và cận nhiệt đới. Tuy nhiên, trong mùa mưa, lượng mưa lớn cùng với địa hình dốc, trên địa bàn xã thường xảy ra sạt lở đã ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt và sản xuất của nhân dân. Về tài nguyên thiên nhiên, trước đây xã Phiêng Luông có diện tích rừng nguyên sinh khá lớn với nhiều cây gỗ quý như: Đinh, lát hoa, trầm hương, nghiến, ngọc am... và nhiều động vật quý hiếm sinh sống như: Hổ, gấu, hươu, nai, gà lôi... Nhưng do quá trình săn bắt và khai thác của nhân dân không có kế hoạch đã ảnh hưởng đến số lượng và trữ lượng động thực vật nơi đây. Những năm gần đây, thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về trồng cây gây rừng, ý thức chăm sóc, bảo vệ rừng của người dân từng bước được nâng cao, diện tích rừng phủ xanh đất trống, đồi núi trọc trên địa bàn xã đang dần được khôi phục, lâm nghiệp đã trở thành ngành nghề chính của nhiều hộ gia đình. Về tài nguyên nước, xã Phiêng Luông không có sông 4
  5. lớn chảy qua. Tuy nhiên, xã có hệ thống các khe suối, khe nước xen kẽ ở tất cả các thôn. Đây là nguồn nước chủ yếu phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt của nhân dân. Trước năm 2000, việc đi lại trên địa bàn xã rất khó khăn, nhiều thôn chưa thể làm đường giao thông, người dân vẫn phải đi đường mòn, có chỗ phải men theo những vách đá cheo leo rất nguy hiểm. Từ năm 2000 đến nay hệ thống giao thông ngày càng được mở rộng phục vụ cho việc phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, đáp ứng nhu cầu vận chuyển, đi lại thông thương giữa các địa phương trong huyện, trong tỉnh và các tỉnh bạn. Hiện nay, hệ thống đường giao thông của xã có một tuyến đường nhựa dài 25 km chạy từ trung tâm xã đến huyện, ngoài ra nhiều tuyến đường liên thôn, liên xã đã được đầu tư xây dựng bê tông hóa tạo điều kiện thuận tiện cho việc đi lại của nhân dân. Nhìn một cách tổng thể, vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên của xã mặc dù gặp không ít khó khăn trong quá trình phát triển đi lên của xã, nhưng cũng chính nó lại tạo ra những ưu thế riêng để tạo ra tiền đề thuận lợi cho xã Phiêng Luông xây dựng cơ cấu kinh tế nông - lâm nghiệp - du lịch - dịch vụ toàn diện. Thời kỳ pháp thuộc, Phiêng Luông là một vùng đất thuộc tổng Yên Phú, châu Vị Xuyên, trấn (tỉnh) Tuyên Quang. Ngày 16/9/1949, ủy ban kháng chiến Hành chính Liên khu 10 ra Quyết định số 433-QĐ/HCI về thành lập các xã thuộc huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang, theo đó tổng Yên Phú được đổi thành xã Yên Phú. Đến cuối năm 1962, 5
  6. Chính phủ ban hành Quyết định số 221-CP về chia xã Yên Phú thành 2 xã lấy tên là xã Yên Phú và Yên Cường, khu vực Phiêng Luông thuộc về địa giới hành chính của xã Yên Cường, huyện Vị Xuyên. Ngày 18/11/1983, thực hiện Quyết định số 136-HĐBT của Hội đồng bộ truởng về thành lập huyện Bắc Mê và điều chỉnh địa giới của 4 huyện thuộc tỉnh Hà Tuyên. Phiêng Luông là một vùng thuộc xã Yên Cường, huyện Bắc Mê, tỉnh Hà Tuyên. Thực hiện Quyết định số 28/QĐ-HĐBT, ngày 13/02/1987 của Hội đồng Bộ truởng về việc chia tách một số xã và thành lập thị trấn của các huyện Bắc Mê, Na Hang và Yên Sơn của tỉnh Hà Tuyên. Theo đó, xã Phiêng Luông được thành lập trên cơ sở tách từ xã Yên Cường với tổng diện tích 2.602,55, được chia thành 04 thôn (Cụm Nhùng, Phiêng Luông, Phiêng Đáy, Tá Tò), với 57 hộ/ 215 khẩu. Trong quá trình xây dựng và phát triển. Đến năm 2020, xã có tổng số 297 hộ = 1.531 khẩu với 04 dân tộc anh em cùng sinh sống (Mông, Tày, Kinh, Pu Péo), trong đó dân tộc Mông chiếm 94,94%, còn lại là các dân tộc khác. Trải qua quá trình hình thành và phát triển, nhân dân Phiêng Luông đã tạo nên những nét văn hóa đa dạng và phong phú. Mỗi dân tộc đều mang một bản sắc văn hóa riêng, được gìn giữ và phát triển qua nhiều thế hệ, thể hiện rõ nét trong các phong tục, tập quán, tín nguỡng, cuộc sống sinh hoạt của đồng bào. Những nét đẹp đó góp phần tạo sức hấp dẫn cho Phiêng Luông ngày nay. Những câu tục ngữ, ca dao, những truyện cổ tích, thần thoại giải thích nguồn gốc dân tộc, phản ánh khát vọng cuộc sống, những bài hát ca ngợi quê hương, những bài hát đối, hát giao duyên của 6
  7. dân tộc, hay các lễ hội... và những đường nét hoa văn tinh xảo trên trang phục, đồ trang sức của dân tộc Mông, dân tộc Tày thể hiện sinh động đặc sắc, phong phú đời sống vật chất và tinh thần của các dân tộc trên địa bàn xã. Trải qua các cuộc kháng chiến, nhân dân địa bàn Phiêng Luông luôn phát huy cao độ truyền thống yêu nước, tinh thần đấu tranh bất khuất, góp phần đóng góp sức người, sức của, kề vai sát cánh cùng nhân dân trong huyện, tỉnh, chiến đấu với kẻ thù chung, góp phần công sức nhỏ bé vào sự nghiệp chung của dân tộc. Đặc biệt trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc, Phiêng Luông là địa bàn tuyến sau, là nơi sơ tán của các hộ dân giáp biên giới đến cư trú. Cùng với nhân dân sơ tán, nhân dân các dân tộc Phiêng Luông đã phát huy cao độ truyền thống yêu nước, tích cực đóng góp sức người, sức của, góp phần đánh bại cuộc chiến tranh biên giới bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới quốc gia. Trải qua nhiều năm tháng lao động sản xuất, trồng trọt, chăn nuôi đã trở thành nghề chính của người dân Phiêng Luông. Để đảm bảo cho đời sống tự cung, tự cấp, nhân dân Phiêng Luông rất thành thạo và khéo léo trong nghề thủ công, trồng cây lanh dệt vải, nhuộm chàm tạo nên những bộ trang phục dân tộc tinh xảo và đẹp mắt. Những năm gần đây, đặc biệt từ khi thành lập xã (1987), được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước cùng với những chương trình phát triển kinh tế - xã hội phù hợp của địa phương, kinh tế của xã Phiêng Luông đã có những thay đổi rõ rệt; nhân dân phát huy tinh thần lao động cần cù, 7
  8. chịu khó, đẩy mạnh khai thác những yếu tố thuận lợi của tự nhiên gắn với áp dụng những thành tựu khoa học - kỹ thuật trong sản xuất, nâng cao năng suất cây trồng vật nuôi, phát triển kinh tế, cải thiện đời sống, từng bước đưa xã Phiêng Luông vuơn lên thoát nghèo. Trong cơ cấu kinh tế của xã, sản xuất nông nghiệp là ngành sản xuất chính. Ngoài cây lúa và cây ngô, trên địa bàn xã còn trồng một số loại cây khác nhu: cây công nghiệp (đậu tương, chè...), cây rau màu (bí, rau, đậu các loại), và một số loại cây duợc liệu quý hiếm, về chăn nuôi, đồng bào các dân tộc trong xã chủ yếu phát triển đàn bò, trâu, dê và lợn để lấy thịt, sức kéo và phân bón phục vụ sản xuất. Do các yếu tố đặc thù về điều kiện tự nhiên nên một số sản phẩm nông nghiệp của xã có chất lượng cao; cùng một số thực phẩm có nguồn gốc bản địa (thịt trâu, bò, dê, lợn đen và gia cầm...) đã được thị truờng trong và ngoài xã biết đến, người tiêu dùng ưa chuộng. Đây là một trong những thế mạnh của xã trong việc phát triển kinh tế hàng hóa. Sản xuất tiểu thủ công nghiệp ở Phiêng Luông nhìn chung chưa phát triển. Ngoài một số ngành, nghề truyền thống như rèn, đúc công cụ sản xuất, dệt vải lanh, thổ cẩm... trong những năm gần đây đã hình thành và phát triển thêm một số ngành nghề khác như sản xuất chế biến nông sản (xay xát ngô, lúa, chế biến chè), khai thác đá sản xuất vật liệu xây dựng, nhưng quy mô còn nhỏ, phân tán, năng lực sản xuất thấp. 8
  9. Trước năm 1987, hệ thống giao thông trên địa bàn xã chưa phát triển, việc đi lại rất khó khăn, toàn bộ các tuyến đường trong xã đều là đường mòn dân sinh đi bộ, ngựa thồ với nhiều đoạn dốc đứng, trơn trượt nguy hiểm. Từ năm 1987, được sự đầu tư của Nhà nước và đóng góp của nhân dân, hệ thống giao thông của xã ngày càng phát triển. Trong đó quan trọng nhất là trục đường từ huyện đến trung tâm xã hiện nay đã được rải nhựa, 4/4 thôn đều có đường ô tô đến trung tâm, các trục đường lien thôn cơ bản được bê tông hóa, thuận lợi cho việc đi lại của nhân dân. Trong công tác giáo dục, trải qua quá trình hình thành và phát triển, đến năm học 2019 - 2020 toàn xã có 3 trường học (Mầm non, Tiểu học, Trung học cơ sở). Tất cả các thôn đều có điểm trường, trang thiết bị phục vụ dạy và học cơ bản đảm bảo việc dạy và học cho thầy, cô giáo và các em học sinh. Các nhà trường đều tích cực đẩy mạnh cuộc vận động “Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo”, “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”, gắn với đổi mới công tác quản lý giáo dục, tạo nền tảng nâng cao chất lượng giáo dục địa phương. Tỷ lệ huy động trẻ từ 3 đến 5 tuổi đi học mẫu giáo đạt 90%; trẻ từ 6 đến 14 tuổi đến trường đạt 98,5%. Lĩnh vực y tế và công tác bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức khỏe nhân dân được quan tâm thực hiện. Xã triển khải có hiệu quả các chương trình, mục tiêu quốc gia về y tế. Cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế được đầu tư theo hướng đồng bộ; chất lượng khám, chữa bệnh ngày một nâng lên. Đội ngũ cán bộ y tế ngày càng nâng cao trình độ và y đức. Với sự nỗ lực của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã, 9
  10. đặc biệt là đội ngũ y tế xã, năm 2016 xã đạt chuẩn quốc gia về Y tế. Phong trào văn hóa - văn nghệ, thể dục - thể thao thường xuyên được duy trì, hàng năm tổ chức tốt các hoạt động vui chơi, giải trí nhân dịp kỷ niệm các ngày lễ, ngày tết. Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ”, xây dựng làng văn hóa, gia đình văn hóa tiếp tục được triển khai thực hiện. Đến năm 2020, xã có 2/4 thôn đạt danh hiệu làng văn hóa, có 87/292 hộ đạt danh hiệu gia đình văn hóa, trong đó có 39 hộ đạt 3 năm liên tục. Công tác thông tin, truyền thông được đẩy mạnh, bằng nhiều hình thức. Tỷ lệ hộ được xem truyền hình đạt trên 80%. Các giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào các dân tộc được bảo tồn và phát huy... Về công tác quốc phòng - an ninh: Hàng năm Đảng ủy xã đã ban hành các nghị quyết lãnh đạo nhiệm vụ quốc phòng - an ninh. Xây dựng lực lượng dân quân, dự bị động viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, thường xuyên luyện tập, sẵn sàng chiến đấu, giúp đỡ nhân dân khắc phục hậu quả thiên tai, hỏa hoạn trên địa bàn. Thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững mạnh, không để các thế lực phản động lợi dụng sơ hở để tổ chức các hoạt động chia rẽ, mất đoàn kết ảnh hưởng đến tư tưởng đời sống của nhân dân. Công tác hậu phương quân đội được triển khai đầy đủ, kịp thời, đúng đối tượng. Hàng năm xã đều làm tốt công tác tuyển chọn, gọi công dân lên đường nhập ngũ, hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch cấp trên giao. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. 10
  11. Cùng với đó, Đảng bộ luôn củng cố, xây dựng tổ chức Đảng, xác định công tác xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt và quan tâm triển khai thực hiện trên các mặt: chính trị, tu tuởng, tổ chức và đạo đức. Từ khi thành lập chi bộ xã Phiêng Luông với 3 đảng viên (1987), đến năm 2002 chi bộ được nâng lên thành Đảng bộ với 32 đảng viên. Trải qua hơn 30 năm xây dựng và phát triển, đến năm 2020, Đảng bộ xã Phiêng Luông có 94 đảng viên, sinh hoạt trong 7 chi bộ trực thuộc. Các chi bộ và đảng viên là nòng cốt trong công tác lãnh đạo, tổ chức thực hiện mọi nhiệm vụ trong công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi suớng và lãnh đạo, quyết tâm phấn đấu tổ chức, xây dựng Đảng bộ xã Phiêng Luông ngày càng đoàn kết, dân chủ, kỷ cương và văn minh; luôn giữ vững truyền thống tốt đẹp mà bao thế hệ đã dày công vun đắp, xây dựng. Có thể khẳng định, duới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là Đảng bộ xã Phiêng Luông, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng được câng cao, nhân dân tin tuởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, tích cực tham gia phát triển kinh tế - xã hội và giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc. Với những kết quả đã đạt được, tin tuởng rằng Đảng bộ và nhân dân các dân tộc xã Phiêng Luông sẽ thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của địa phương trong chặng đường cách mạng tới. II. Nhân dân xã Phiêng Luông thời kỳ trước năm 1987 dưới sự lãnh đạo của Đảng Năm 1858, thực dân Pháp nổ tiếng súng đầu tiên, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Năm 1884, 11
  12. chúng kéo quân đánh chiếm Hà Giang, đến năm 1887 Pháp mới căn bản chiếm được hạt Hà Giang (Thời kỳ này hạt Hà Giang là đơn vị hành chính thuộc tỉnh Tuyên Quang). Sau khi chiếm đóng Hà Giang, thực dân Pháp nhanh chóng nắm lấy số thổ ty, biến chúng thành tay sai đắc lực, kiểm soát mọi công việc hành chính ở địa phương và dùng họ để gây ra những hành động chia rẽ, gây hiềm khích nghi ngờ, hằn thù lẫn nhau giữa các dòng họ, giữa các dân tộc, từ đó gây mất đoàn kết để dễ cai trị. Đến cuối năm 1939, thực dân Pháp ra sức khủng bố các chiến sĩ cách mạng trong cả nước. Nhiều người con ưu tú của Đảng, của nhân dân bị hy sinh, hoặc bị tù đầy. Tại tổng Yên Phú thực dân Pháp cho xây dựng “Căng”1 để giam giữ những người mà chúng tình nghi là có hành động chống đối Pháp. Chúng bắt hàng trăm người từ các nơi đưa về giam giữ ở “Căng”. Thực dân Pháp duy trì nền kinh tế lạc hậu, tự cấp, tự túc cùng phương thức du canh, du cư của đồng bào các dân tộc; ruộng đất chủ yếu nằm trong tay chức dịch. Chúng thao túng và chiếm đoạt ruộng công làm của riêng. Đời sống của đồng bào chủ yếu phụ thuộc vào nương rẫy, săn bắn... Hơn nữa, chúng ra sức bóc lột nhân dân bằng chế độ thuế khóa nặng nề phu phen, tạp dịch, cống nạp sản phẩm... Do vậy, kinh tế vốn thấp kém, càng trở nên sa sút. Hạn hán, mất mùa, nạn đói thường xuyên xảy ra khiến đời sống nhân dân thêm cực khổ. Bọn thống trị thi hành chính sách ngu dân, khuyến khích các hủ tục, mê tín, dị đoan; đầu độc đồng bào bằng 1 “Căng” là tên gọi biến âm của từ “Camp” tiếng Pháp, cõ nghĩa là đồn Binh, trại lính. 12
  13. rượu cồn và thuốc phiện; giáo dục, y tế không được mở mang. Phần lớn đồng bào các dân tộc mù chữ. Nhân dân ốm đau bệnh tật chủ yếu dựa vào cúng bái, chữa bằng lá cây rừng hoặc phó thác cho số phận may rủi. Điều kiện sống không được đảm bảo khiến cho dịch bệnh thường xuyên xảy ra làm nhiều người chết. Dưới chế độ ách cai trị của thực dân phong kiến đời sống của đồng bào khu vực Phiêng Luông thời bấy giờ vô cùng cực khổ, nạn đói, dịch bệnh thường xuyên xảy ra; xã hội lạc hậu, kém phát triển. Chính điều đó đã nung nấu ý chí đấu tranh và chỉ chờ khi có điều kiện chín muồi là bùng phát nhấn chìm bè lũ cuớp nước và bán nước. Ngày 03/02/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối của cách mạng Việt Nam. Với Cương lĩnh chính trị đúng đắn, Đảng giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc; tập hợp giai cấp công nhân, nông dân, trí thức... phát động đấu tranh mạnh mẽ trong cả nước. Ngày 19/5/1941 Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam Độc lập Đồng minh (gọi tắt là Mặt trận Việt Minh) với sứ mệnh là tổ chức, tập hợp rộng rãi các lực lượng quần chúng để thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Tại Căng Bắc Mê, mặc dù bị kiểm soát gắt gao, phải lao động cực nhọc, song các chiến sĩ cộng sản vẫn tìm mọi cách để tuyên truyền, vận động cách mạng trong “Căng” và với nhân dân quanh vùng; tổ chức đấu tranh đòi địch nới lỏng một số quy tắc khắc nghiệt trong “Căng”; tổ chức dạy văn hóa để bồi duỡng cho nhau về tinh thần, tư tưởng 13
  14. cách mạng. Trong gần 3 năm hoạt động các tù chính trị ở “Căng” Bắc Mê tuy chưa phát động được phong trào đấu tranh cách mạng ở địa phương, nhưng đã gây được ảnh hưởng lớn đối với quần chúng nhân dân quanh vùng và góp phần thức tỉnh lòng yêu nước của nhân dân, hướng tới cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Lo sợ ảnh hưởng của đảng viên cộng sản tới quần chúng quanh vùng, đầu năm 1942 Pháp giải tán Căng Bắc Mê, phân tán các tù nhân cho đi đầy ở các nhà tù Hà Nội và Son La. Duới sự lãnh đạo của Đảng và Mặt trận Việt Minh, phong trào đấu tranh cách mạng cả nước phát triển ngày càng mạnh mẽ. Đầu tháng 9/1943, một số cán bộ Việt Minh do đồng chí Hồng Tụ và đồng chí Tô Vũ phụ trách từ huyện Bảo Lạc (tỉnh Cao Bằng) xâm nhập vào Thoôm Toòng (nay là thôn Thâm Quảng, xã Đường Âm) để tuyên truyền chủ trương đánh Pháp, đuổi Nhật giành độc lập dân tộc, vận động quần chúng nhân dân gia nhập các tổ chức cứu quốc. Được tuyên truyền vận động, tất cả 12 hộ người Dao ở bản này tự nguyện gia nhập Hội cứu quốc. Từ cơ sở Thoôm Tòong (Đường Âm) phong trào cách mạng nhanh chóng phát triển mở rộng ra các vùng lân cận thuộc khu vực các xã trên địa bàn huyện. Cuối năm 1943, thực hiện chủ trương của Đảng giao, đội tuyên truyền của ta do đồng chí Việt Bằng và đồng chí Mạnh Hùng được điều động thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền cách mạng xuống cơ sở. Được liên lạc báo tin, toán quân Nhật có khoảng 200 quân lính được trang bị vũ khí, kéo quân từ Hà Giang vào lùng sục tại các thôn Nà Nèn, Bó Củng, Bản Sáp (xã Yên Phú), tìm bắt cán bộ Việt Minh. 14
  15. Lúc này, đội tuyên truyền của ta đang từ huớng Đường Âm di chuyển đến điểm Đồn Điền, xã Yên Cường. Không bắt được cán bộ Việt Minh, chúng cho quân lính bắt, cuớp tài sản (trâu, bò, ngựa) của người dân nơi đây, rồi chúng kéo quân vào Bản Tính (xã Phú Nam) đi theo hướng Bảo Lạc - Cao Bằng. Trước tình thế trên, nhận định tình hình và so sánh lực lượng giữa ta và địch có nhiều bất lợi cho ta. Đội tuyên truyền vũ trang của ta đã chủ động rút quân theo hướng Đồn Điền đi thôn Khâu Thiếc - thôn Tiến Xuân - thôn Tả Lùng (xã Yên Cường ngày nay) để bảo toàn lực lượng. Đầu năm 1944, xứ ủy Bắc Kỳ chủ trương tăng cường vận động cách mạng ở Hà Giang, điều động một số cán bộ Việt Minh do đồng chí Đặng Việt Hưng phụ trách 3 tỉnh: Hà Giang, Cao Bằng và Bắc Cạn để vận động quần chúng nhân dân giác ngộ cách mạng. Tháng 4/1944, cán bộ Việt Minh từ Cao Bằng đến 2 tổng Yên Phú và Yên Định hoạt động cách mạng. Ngày 05/8/1944, Ban Việt Minh ở Nhiễu Lai (Cao Bằng) được thành lập, trong đó có: Bảo Lạc - Cao Bằng, Yên Minh, Bắc Mê - Hà Giang. Tiếp đến ngày 15/9/1944, Ban Việt Minh tổng Đường Thượng, gồm các xã Mậu Duệ, Đường Thượng của huyện Yên Minh; xã Yên Phú, Yên Định của huyện Bắc Mê; xã Nam Thắng (Bảo Lạc - Cao Bằng) được thành lập. Ban Việt Minh có đầy đủ đại biểu của các xã và các dân tộc, có nhiệm vụ vận động, tổ chức các hội cứu quốc như: Hội thanh niên cứu quốc, Hội phụ nữ cứu quốc, Hội nông dân cứu quốc để đấu tranh chống lại sự bóc lột của thực dân Pháp và bọn phong kiến tay sai. Cùng với nhân dân các dân tộc ở tổng Yên Phú nói 15
  16. chung và khu vực Phiêng Luông nói riêng được cán bộ Việt Minh tuyên truyền chủ trương đánh Pháp, đuổi Nhật của Đảng, quần chúng nhân dân trong vùng đã hết lòng ủng hộ cán bộ Việt Minh, tin tưởng và một lòng theo cách mạng, phục vụ cách mạng, từ đó phong trào cách mạng được hình thành và phát triển. Bước sang năm 1945, phong trào Việt Minh phát triển mạnh mẽ ở khắp các địa phương trong và ngoài tỉnh. Giữa tháng 3/1945, đội vũ trang tuyên truyền gồm các đồng chí Hồng Quốc, Mệnh Lệnh, Bảo Toàn, Tài Nam, Minh Ngọc và nữ đồng chí Hồng Đào từ tỉnh Cao Bằng vào thôn Bản Tính - xã Phú Nam và thôn Bản Sáp - xã Yên Phú để gây dựng cơ sở cách mạng và tổ chức tuyên truyền vũ trang ở hai tổng Yên Phú và Yên Định. Chỉ trong một thời gian ngắn, đội tuyên truyền vũ trang và một số quần chúng giác ngộ cách mạng đã tuyên truyền, vận động được đông đảo quần chúng nhân dân tự giác tham gia cách mạng. Tuy nhiên, thời kỳ này tại các xã trong Tiểu khu Bắc Mê, chính quyền thực dân phong kiến kiểm soát chặt chẽ các hoạt động của cán bộ Việt Minh, vì thế đã phần nào gây khó khăn cho công tác tuyên truyền, vận động cách mạng tại địa phương. Tháng 8/1945 chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã nổi dậy tổng khởi nghĩa và giành thắng lợi trên phạm vi cả nước. Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh, thay mặt Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà đã tuyên bố nước nhà độc lập trước quốc dân và đồng bào thế giới. Từ đây, cách mạng nước ta bước 16
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2