intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Pờ Ly Ngài (1963-2015)

Chia sẻ: Hoangnhanduc | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:200

2
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung cuốn sách "Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Pờ Ly Ngài (1963-2015)" ghi lại những thành quả mà Đảng bộ và nhân dân xã Pờ Ly Ngài đã giành được trong giai đoạn 1963 – 2015. Đây là một tài liệu quý, là một công trình nghiên cứu khoa học, công phu, tái hiện lại lịch sử truyền thống hào hùng của nhân dân xã Pờ Ly Ngài qua các giai đoạn lịch sử.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Ebook Truyền thống cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Pờ Ly Ngài (1963-2015)

  1. ĐẢNG BỘ HUYỆN HOÀNG SU PHÌ ĐẢNG BỘ XÃ PỜ LY NGÀI TRUYỀN THỐNG CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN XÃ PỜ LY NGÀI (1963 - 2015) Xuất bản, năm 2019
  2. 2
  3. LỜI GIỚI THIỆU Pờ Ly Ngài là xã vùng III của huyện Hoàng Su Phì, được tách ra từ xã Trung Thịnh năm 1962. Nằm cách trung tâm huyện 23km về phía Tây. Nhân dân xã Pờ Ly Ngài đã có một quá trình lịch sử hào hùng trong việc chống kẻ thù áp bức bóc lột, cùng với nhân dân cả nước chống ách phong kiến thực dân, lập nên những chiến công hiển hách chống giặc ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc. Trong hoà bình, Đảng bộ và nhân dân Pờ Ly Ngài đã năng động, sáng tạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý, chuyển dịch mùa vụ phù hợp với thời tiết, với cơ chế thị trường, mạnh dạn đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất để giải phóng sức lao động, tăng nhanh giá trị kinh tế hàng hoá, xây dựng bộ mặt nông thôn của xã ngày thêm giàu đẹp, văn minh. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, giai đoạn nào thì đường lối đúng đắn của Đảng, sự đoàn kết, nhất trí, sự tận tuỵ của cán bộ, đảng viên, sự đồng tình ủng hộ của nhân dân trong xã vẫn là bí quyết của mọi thành công. Nhằm giáo dục truyền thống cách mạng cho các thế hệ mai sau, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhân dân xã Pờ Ly Ngài, đồng thời rút ra những bài học lịch sử bổ ích, phục vụ công tác nghiên cứu và giáo dục truyền thống cách mạng, công tác lãnh đạo của Đảng bộ trong những năm tiếp theo, c ng như đáp ứng 3
  4. yêu c u của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong xã. Ban Thường vụ Đảng ủy xã Pờ Ly Ngài ch đạo sưu t m, nghiên cứu và biên soạn cuốn Tru n t n m n n v n n n o n 1963 - 2015”. Nội dung cuốn sách ghi lại những thành quả mà Đảng bộ và nhân dân xã Pờ Ly Ngài đã giành được trong giai đoạn 1963 – 2015. Đây là một tài liệu quý, là một công trình nghiên cứu khoa học, công phu, tái hiện lại lịch sử truyền thống hào hùng của nhân dân xã Pờ Ly Ngài qua các giai đoạn lịch sử. Trong quá trình sưu t m, nghiên cứu và biên soạn, Ban Thường vụ Đảng ủy luôn nhận được sự quan tâm ch đạo của Ban Thường vụ Huyện ủy, sự phối hợp, giúp đỡ của Ban Tuyên giáo Huyện ủy, Ban Tuyên giáo T nh ủy cùng với sự đóng góp ý kiến quý báu của cán bộ, đảng viên và nhân dân, đặc biệt là sự đóng góp của các đồng chí cán bộ chủ chốt của xã qua các thời kỳ. Mặc dù Ban biên soạn đã có nhiều cố gắng, với tinh th n trách nhiệm cao, nhưng trong quá trình thực hiện còn gặp nhiều khó khăn, như: nguồn tài liệu bị thất lạc, các nhân chứng lịch sử tuổi đã cao, trí nhớ có ph n suy giảm, bên cạnh đó, trình độ của cán bộ biên soạn có hạn, nên không tránh khỏi những thiếu sót. Ban Thường vụ Đảng ủy xã Pờ Ly Ngài mong nhận được sự tham gia góp ý của các đồng chí và bạn đọc để cuốn sách được hoàn thiện hơn trong l n tái bản sau. 4
  5. Nhân dịp cuốn sách được xuất bản, Ban Thường vụ Đảng ủy xã Pờ Ly Ngài xin chân thành cảm ơn sự ch đạo và giúp đỡ quý báu của các cơ quan, đơn vị, cá nhân đã giúp đỡ để nội dung cuốn sách được hoàn ch nh. Xin trân trọng giới thiệu cuốn Tru ền t n m n ủ Đ n v n n n Pờ L N o n 19 3 - 2015” đến toàn thể cán bộ, đảng viên, nhân dân cùng bạn đọc! T/M BAN THƢỜNG VỤ BÍ THƯ Lý Tu Môn 5
  6. Chương I KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN - XÃ HỘI VÀ CON NGƢỜI XÃ PỜ LY NGÀI 1. Đ ều k ện tự n ên Pờ Ly Ngài là xã vùng III của huyện Hoàng Su Phì, cách trung tâm huyện lỵ 23km về phía Tây, phía Đông giáp xã Sán Sả Hồ, phía Tây giáp xã Nàng Đôn, phía Bắc giáp xã Chiến Phố, phía Nam giáp xã Hồ Th u. Tổng diện tích tự nhiên toàn xã là 2.162,23ha, trong đó, đất sản xuất nông nghiệp 1.449,62ha, chiếm 72,34%; đất lâm nghiệp 478,30ha, chiếm 32,0%; đất thổ cư 62,55ha; đất chuyên dùng 95,67ha; đất không sử dụng được 74,57ha, chiếm 28,99%; đất chưa sử dụng 95,67 ha. Chiều dài của xã từ thôn Chàng Chảy đến thôn Hô Sán là 11km; chiều rộng từ thôn Na Vang đến thôn Tà Đản là 8km. Xã Pờ Ly Ngài có địa hình chủ yếu là những dãy đồi núi cao, xen kẽ các thung l ng. Xã được đánh giá là vùng đất có tiềm năng về nhân lực, vật lực của huyện Hoàng Su Phì, đất nơi đây thích ứng với nhiều loại cây trồng như: Lê, mận, đào, ngô, đậu tương, cây thông nhựa, lúa nương và một số loại cây lương thực khác. Trước đây, rừng Pờ Ly Ngài chủ yếu là rừng nguyên sinh với hệ thực vật phong phú và đa dạng với 6
  7. nhiều loại gỗ như: Ngọc am, lim, sến; dược liệu quý như tam thất, trong rừng còn có mộc nhĩ, nấm hương. Có nhiều động vật quý hiếm như: hổ, hươu, nai, gấu nhỏ, sơn dương, lợn rừng, c y hương... Khí hậu ở Pờ Ly Ngài nằm chung với vùng khí hậu cận nhiệt đới chịu ảnh hưởng của gió mùa. Thời tiết hàng năm được chia thành hai mùa rõ rệt: Mùa mưa từ tháng năm 5 đến tháng 9; mùa khô bắt đ u từ tháng 10 năm trước đến tháng 3 năm sau; nhiệt độ trung bình vào khoảng 22 đến 250C, nhiệt độ thấp nhất khoảng 30C. Độ ẩm bình quân 84% năm. Nhìn chung xã Pờ Ly Ngài có điều kiện khí hậu, thời tiết tương đối thuận lợi cho việc phát triển kinh tế nông - lâm nghiệp theo hướng đa dạng hóa cây trồng. Tuy nhiên vẫn còn khó khăn là hiện tượng sương muối kéo dài đến vài ngày vào mùa khô gây ảnh hưởng đến việc gieo mạ và cấy vụ Đông - Xuân của bà con trong xã, tất cả các yếu tố khí hậu, thời tiết điều có liên quan chặt chẽ và quan trọng đối với sự sinh trưởng và phát triển các loại cây trồng của nhân dân. Pờ Ly Ngài có nhiều khe suối bắt nguồn từ các dẫy núi như suối Hô Sán cung cấp nước sinh hoạt và các hoạt động sản xuất của nhân dân trong xã; thuận lợi cho việc xây dựng thủy lợi phục vụ sản xuất, phát triển kinh tế. Tuy nhiên, hàng năm vào mùa mưa nước suối dâng cao thường gây ngập lụt, ách tắc giao thông, phá hủy, cuốn trôi tài sản, hoa màu của nhân dân. 7
  8. Do kết cấu kém bền vững của đất, kết hợp với địa hình có độ dốc cao nên hiện tượng sói mòn bào mặt đá, rãnh sâu là hiện tượng phổ biến. Là xã có địa hình đồi núi cao, độ chia cắt lớn, do các khe suối chảy qua gây hạn chế trong giao thông, đi lại, sinh hoạt. Trước đây hệ thống giao thông của xã ch có đường mòn dành cho ngựa và người đi bộ, trong những năm g n đây, được sự quan tâm đ u tư của nhà nước và sự đóng góp công sức của nhân dân nên giao thông đi lại trên địa bàn xã khá thuận lợi. 100% thôn bản của xã đã có đường giao thông từ xã đi đến trung tâm thôn. Tuy nhiên, Hàng năm, đến mùa mưa l , thường gây sạt lở, sói mòn làm ách tắc giao thông, ảnh hưởng đến sản xuất của bà con nhân dân. Những thuận lợi và khó khăn của điều kiện tự nhiên vừa là một thách thức, vừa là sự rèn luyện để tạo nên những tính cách vô cùng quý giá và rất đặc trưng cho nhân dân trong xã bao đời bám trụ nơi đây, song nhân dân xã Pờ Ly Ngài c n phải cố gắng và nỗ lực hơn nữa trong việc khắc phục những khó khăn, trở ngại của tự nhiên, đồng thời tìm ra hướng phát triển thích hợp cho địa phương mình. 2. Đ ều k ện Tên gọi Pờ Ly Ngài theo người địa phương là “đản má khảo” - có nghĩa là “núi đá ngựa trắng”. Thời kỳ Pháp thuộc Pờ Ly Ngài là một vùng của xã Trung 8
  9. Thịnh thuộc tổng Tụ Nhân, châu Hoàng Su Phì. Ngày 15/12/1962, Hội đồng Chính phủ ra quyết định số 211- CP về việc chia và sáp nhập các đơn vị hành chính thuộc t nh Hà Giang, theo đó xã Trung Thịnh được chia thành 6 xã mới gồm: Trung Thịnh, Nàng Đôn, Việt Thái, Ngán Chiên, Thu Tà và xã Pờ Ly Ngài. Thời điểm xã Pờ Ly Ngài được thành lập, xã có 4 thôn: Pờ Ly Ngài, Cốc Nươi, Chàng Chảy và Súng Máo Chây. Đến năm 2015, Pờ Ly Ngài có 6 thôn: Cốc Nươi, Hô Sán, Tà Đản, Chàng Chảy, Pô Chuông và Thôn Na Vang. Xã Pờ Ly Ngài là địa bàn sinh sống của dân tộc Dao và dân tộc Nùng, theo số liệu thống kê năm 2015, toàn xã có 396 hộ dân với 1.970 khẩu, trong đó dân tộc Nùng chiếm 95%. Trước cách mạng Tháng Tám năm 1945, nhân dân vùng Pờ Ly Ngài c ng như nhân dân cả nước sống dưới ách thống trị, bóc lột của thực dân, phong kiến, đời sống nhân dân vô cùng cực khổ. Về kinh tế, chủ yếu là kinh tế nông nghiệp lạc hậu, năng suất thấp lại bị sưu cao, thuế nặng, nạn đói thường xuyên xảy ra. Trong lĩnh vực văn hóa - xã hội, nạn mê tín dị đoan còn nặng nề, ốm đau ch có cúng bái, không có th y thuốc; các tệ nạn xã hội như: trộm cắp, nghiện ngập, rượu chè và g n như 100% nhân dân vùng Pờ Ly Ngài mù chữ… Với chính sách cai trị hà khắc của chế độ thực dân phong kiến, đồng thời thiên tai, hạn hán xảy ra liên tiếp, đời sống nhân dân t nh Hà Giang, huyện Hoàng Su Phì 9
  10. nói chung và nhân dân vùng Pờ Ly Ngài xã Trung Thịnh nói riêng càng thêm điêu đứng, khổ cực. Giá nông sản xuống thấp, sưu thuế ngày càng nặng thêm, không những b n cố nông bị lao đao mà cả một số trung nông, phú nông c ng bị phá sản. Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, với chính sách định canh, định cư của Đảng, nhân dân đã tự khai hoang, phục hóa, mở rộng diện tích sản xuất, làm ruộng phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp. Đặc biệt là những thửa ruộng bậc thang của đồng bào có vẻ đẹp hài hòa làm tôn thêm cảnh hùng vĩ vốn có của núi rừng. Ngoài ra, nhân dân còn phát triển các ngành nghề thủ công như: nghề mộc, đan lát, dệt thổ cẩm, rèn…phục vụ nhân dân trong xã và bán ra thị trường. Từ xưa, đồng bào các dân tộc trong vùng Pờ Ly Ngài luôn đoàn kết, gắn bó với những đức tính c n cù, chịu khó, d ng cảm đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Tích cực khai phá, cải tạo đất đai, tạo ra những thửa ruộng bậc thang, những nương rẫy tốt tươi, đã biến những gò, sườn đồi thành những nương, ruộng, góp ph n phát triển sản xuất nâng cao đời sống. Trong quá trình phát triển ấy đã tạo thêm những nét độc đáo về bản sắc văn hóa của dân tộc trong vùng như: lễ cúng rừng mỗi năm được tổ chức 2 l n vào tháng 2 và tháng 6 âm lịch, thể hiện ý nghĩa nhân văn sâu sắc là c u th n linh che chở cho dân làng trong cuộc sống hằng ngày và giáo dục nhân dân tình yêu thiên nhiên, ý thức bảo vệ rừng, 10
  11. bảo vệ môi trường sống xung quanh.... bên cạnh đó các trò chơi dân gian, các làn điệu dân ca được duy trì, tổ chức vào dịp lễ, tết như: múa ngựa, hát giao duyên, hát đối đáp và các trò chơi như đánh sảng, đánh đu, đánh yến… Qua đó khẳng định thêm, vững chắc hơn tinh th n đoàn kết, gắn bó, tương trợ lẫn nhau trong lao động sản xuất c ng như trong quá trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm, bảo vệ quê hương, làng bản. Tinh th n này càng được thể hiện một cách mạnh mẽ hơn từ khi Chi bộ Đảng nông thôn xã Trung Thịnh được thành lập năm 1950. 3. N n n Pờ L N t ờ kỳ trƣớ năm 1963 Trước năm 1963, Pờ Ly Ngài là một vùng đất thuộc xã Trung Thịnh, huyện Hoàng Su Phì bị thực dân Pháp chiếm đóng. Dưới ách thống trị của thực dân Pháp và tay sai, đời sống của nhân dân vùng Pờ Ly Ngài c ng như nhân dân xã Trung Thịnh vô cùng cực khổ, phải chịu nhiều hình thức bóc lột1, khiến người dân làm việc vất vả c ng không đủ tiền đóng thuế. Thâm độc hơn thực dân Pháp còn dùng các hình thức nô dịch về văn hóa, tuyên truyền về nền văn minh Pháp, mở một số trường dạy tiếng Pháp để đào tạo bọn tay sai cho chúng, khuyến khích các tục lệ cổ hủ, thực hiện chính sách “ngu dân”, thanh niên bị bắt ép đi phu, đi lính phục vụ cho việc cai trị và khai 1 Như phu phen và các thứ thuế như: thuế thân, thuế ngựa thồ, thuế nuôi quân, thuế thuốc phiện và nhiều loại hiện vật phải nộp khác… 11
  12. thác thuộc địa của thực dân chúng. Trước sự cai trị, bóc lột của thực dân Pháp đã gây nên bao cảnh đau thương, oán thù trong nhân dân ta. Người dân Pờ Ly Ngài luôn nung nấu ý chí căm thù, ch chờ dịp là vùng lên đập tan ách thống trị của thực dân phong kiến, r bỏ cuộc đời nô lệ, giành quyền sống làm người và độc lập tự do. Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, đó là một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử cách mạng nước ta, chấm dứt thời kỳ bế tắc, khủng hoảng về đường lối hơn hai ph n ba thế kỷ, từ khi nước ta bị đế quốc Pháp xâm lược. Sau ngày thành lập Đảng, phong trào cách mạng đã diễn ra sôi nổi ở khắp các t nh trong cả nước. Ở Hà Giang, trong những năm từ 1932 đến 1939 đã có nhiều cán bộ của Đảng, bằng nhiều hình thức đến tuyên truyền, vận động, gây dựng cơ sở các mạng nhưng chẳng được bao lâu, đã bị thực dân Pháp và bọn tay sai phát hiện, các đồng chí phải chuyển đến nơi khác hoạt động. Đ u năm 1942, quân Nhật đến Hà Giang mở rộng chiếm đóng toàn t nh. Đêm mùng 09/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, trước bối cảnh đó, Trung ương Đảng đã nhận định: Sau cuộc đảo chính này, phát xít Nhật sẽ là kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương và phát động cao trào kháng Nhật trong phạm vi cả nước làm tiền đề chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền khi đủ điều kiện. Tháng 4, tháng 5/1945, trước phong trào cách mạng lan rộng ở Hà Giang, quân Nhật co cụm 12
  13. lại. Cùng lúc đó, bọn Quốc dân đảng tràn vào địa phương, ra sức vơ vét cướp bóc của cải của nhân dân xã Trung Thịnh, khiến nhân dân trong xã càng thêm điêu đứng, khổ cực. Tháng 8/1945, chiến tranh thế giới l n thứ hai kết thúc với sự toàn thắng của phe đồng minh. Tình hình ấy là điều kiện khách quan thuận lợi cho cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta. Ở trong nước, nhằm vào lúc phát xít Nhật và bọn tay sai đang hoang mang cực độ, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Đông Dương, bằng chí căm thù sôi sục và tinh th n quyết thắng đã nổi dậy tổng khởi nghĩa và đã giành được thắng lợi. Ngày 02/9/1945, Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đ u tuyên bố nước nhà độc lập trước quốc dân và toàn thế giới. Những sự kiện trọng đại ấy đã cổ v và thúc đẩy mạnh mẽ phong trào cách mạng ở Hà Giang tiến nhanh vào giai đoạn đấu tranh giành chính quyền toàn t nh. Qu n chúng nhân dân các dân tộc t nh Hà Giang càng thêm phấn khởi, tin tưởng và kiên quyết đưa cuộc đấu tranh đến toàn thắng. Ngày 29/8/1945, quân Nhật rút khỏi Hà Giang thì ngay chiều 30/8/1945, quân đội Tưởng kéo vào Bản Máy, Xín M n, Khuôn Lùng... Đi đến đâu, chúng đều cướp lương thực, thực phẩm, bắt nhiều người đi phục dịch gây nên lòng căm thù cao độ trong nhân dân các 13
  14. dân tộc trong huyện. Ngày 5/11/1945, huyện lỵ Bắc Quang được giải phóng. Thắng lợi này đã tác động mạnh mẽ tới nhân dân Pờ Ly Ngài nói riêng và nhân dân các dân tộc xã Trung Thịnh nói chung, đã tạo thêm niềm phấn khởi, với một ý chí giành độc lập, tự do; đồng thời làm cho mâu thuẫn giữa thổ ty, cường hào địa phương với tàn quân Quốc dân Đảng ngày càng thêm sâu sắc. Chớp được thời cơ, ta đưa 2 tiểu đội từ Bắc Quang tiến vào giải phóng Hoàng Su Phì. Cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt, căng thẳng và không cân sức giữa một bên là quân ta với v khí thô sơ và không đ y đủ, với một bên là bọn Quốc dân đảng có lực lượng đông với nhiều v khí lại dựa vào bọn phản động tay sai. Nhưng với lòng d ng cảm, kiên cường, quân ta đã chiến đấu quyết liệt, đêm 12/11/1945, chúng bỏ chạy sang Trung Quốc. Ngày 13/11/1945, ta làm chủ huyện lỵ Hoàng Su Phì. Tiếp đó, ngày 8/12/1945, thị xã Hà Giang được giải phóng, ngày 25/12/1945, nhân dân các dân tộc thị xã Hà Giang và Đại biểu các địa phương vui mừng, phấn khởi mít tinh chào mừng Ủy ban hành chính lâm thời của t nh do đồng chí Thanh Phong làm Chủ tịch. Song song với việc thành lập UBHC lâm thời của t nh, cùng ngày xứ ủy Bắc Kỳ ký quyết định thành lập Đảng bộ t nh Hà Giang, đồng chí Hồng Quân được ch định làm Bí thư T nh ủy lâm thời. Có thể nói, đây là sự kiện có ý nghĩa quan trọng, đánh dấu mốc kết thúc giai đoạn đấu tranh giành chính quyền trong phạm vi toàn t nh. 14
  15. Ngày 6/01/1946, thi hành chủ trương của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, cùng với nhân dân cả nước, nhân dân Pờ Ly Ngài xã Trung Thịnh, vui mừng phấn khởi tham gia b u cử đại biểu Quốc hội khóa I của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Với cuộc b u cử này, nhân dân Pờ Ly Ngài xã Trung Thịnh thực sự được hưởng quyền dân chủ, tự mình góp ph n xây dựng chính quyền nhân dân. Sau hiệp ước Hoa - Pháp (ký kết vào ngày 28/02/1946), tháng 3/1946, Pháp đưa quân ra Bắc, để tranh thủ thời gian hoà hoãn xây dựng lực lượng. Trung ương Đảng và Chính phủ ta đã ký hiệp định sơ bộ vào ngày 06/03/1946 và bản tạm ước vào ngày 14/09/1946. Nhưng với bản chất phản động, hiếu chiến, thực dân Pháp ngang nhiên vi phạm Hiệp định và Tạm ước, chúng tiếp tục mở rộng chiến tranh xâm lược nước ta. Trước những hành động xâm lược trắng trợn của thực dân Pháp, đêm 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, cả nước ta đã bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Thực hiện Ch thị của Đảng, đáp lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đứng lên kháng chiến chống thực dân Pháp. Ở Hà Giang, Đảng bộ t nh tập trung vào kiện toàn bộ máy lãnh đạo, thành lập Ủy ban hành chính t nh Hà Giang và một số cơ quan giúp việc cho cấp ủy và chính quyền. Đồng thời tăng cường cán bộ, đảng viên nòng cốt cho các huyện trong 15
  16. t nh, chú trọng tới công tác xây dựng và phát triển đảng trong qu n chúng, chuẩn bị lực lượng để kháng chiến lâu dài. Để kịp thời lãnh ch đạo thực hiện nhiệm vụ vừa kháng chiến chống thực dân Pháp, vừa tiễu trừ bọn thổ ph đang hoạt động mạnh ở khu vực phía Tây của t nh, ngày 16/5/1947, T nh ủy Hà Giang đã ra quyết định thành lập chi bộ cơ quan huyện Hoàng Su Phì và ch định đồng chí Lê Minh C m (tức Mai Anh) làm Bí thư Chi bộ. Đ u tháng 12/1947, với sự giúp đỡ của thực dân Pháp, bọn thổ ph lại tiếp tục quay lại chống phá vùng Xín M n, trong đó có xã Trung Thịnh. Ngày 15/12/1947, hai tên Voòng Sán, Mùi Lao Tả được Pháp giúp sức với hỏa lực mạnh cùng với 400 quân đánh chiếm đồn Cốc Pài. Sau 36 giờ chống trả quyết liệt, song do lực lượng của ta quá mỏng, cả trung đội do đồng chí Nguyễn Thơ ch huy đã anh d ng hy sinh, bọn ph chiếm lại đồn Cốc Pài, từ đó chúng đánh chiếm tiếp đồn Xín M n, Bản Máy. Lúc này, lực lượng của ta chuyển về đóng tại Bản Díu và Chiến Phố để chặn đường tiến của địch về Hoàng Su Phì. Tại đây, lợi dụng địa hình phức tạp, với tinh th n quyết tâm trong chiến đấu bằng nhiều trận đánh lớn nhỏ, nhân dân vùng Xín M n, trong đó có nhân dân xã Trung Thịnh đoàn kết, tổ chức đánh trả nhiều trận trên đất Cốc Pài, Chế Là, Tả Nhìu, Trung Thịnh, Bản Díu v.v., góp ph n tiêu hao nhiều sinh lực 16
  17. địch, không cho Pháp thực hiện nhanh chóng kế hoạch “vết d u loang” của chúng. Đ u năm 1948, sau khi Pháp thất bại trong Chiến dịch Sông Lô, buộc chúng phải rút khỏi Tuyên Quang, Việt Trì, mặt trận chính của Liên khu 10 chuyển sang hướng tây – bắc gồm các t nh Lào Cai, Hà Giang, Yên Bái, Sơn La, Mai Đà (Hòa Bình) và tây – nam Phú Thọ. T nh Hà Giang nói chung, huyện Su Phì nói riêng nằm trong âm mưu của Pháp bao vây, khống chế vùng biên giới. Phong trào cách mạng ở đây gặp nhiều khó khăn, ph n đông cán bộ, đảng viên, du kích của ta phải bật ra vùng tự do. Đối với nhân dân ở những nơi g n đồn bốt địch, chúng cướp phá, cấm dân làm nương, ruộng, làm cho đời sống của nhân dân ngày càng cơ cực, túng đói. Thực hiện kế hoạch chiếm giữ vùng biên giới, địch tăng cường các hoạt động quân sự và chính trị ở Hoàng Su Phì. Tới ngày 01/4/1948, thực dân Pháp được bọn phản động ở địa phương dẫn đường đánh chiếm toàn bộ Hoàng Su Phì, trong đó có vùng Pờ Ly Ngài xã Trung Thịnh. Mặc dù bộ đội và du kích tổ chức chặn đánh địch quyết liệt, nhưng do địch có ưu thế hơn hẳn về lực lượng, v khí, nên ta chưa giành thắng lợi. Từ tháng 5 đến tháng 9/1948, bọn thổ ty l n lượt ra làm tay sai cho Pháp. Pháp lập nên bộ máy ngụy quân, ngụy quyền gồm các lý trưởng, phó lý, binh đ u, mù lao c như: Châu Đường, Vương Văn Hòa chống lại cuộc kháng chiến của ta. Âm mưu của chúng là thực hiện 17
  18. chính sách chia để trị. Chúng tuyên truyền cho việc thành lập “xứ Nùng tự trị”, “xứ Mèo tự trị”, đề cao thổ ty, nói xấu Việt Minh, chia rẽ, gây mất đoàn kết dân tộc. Thời kỳ này, vùng Pờ Ly Ngài và cả xã Trung Thịnh c ng nằm trong vùng chiếm đóng của thực dân Pháp và bè l tay sai, do tên Tráng Séo Khún ở Ngam Lâm - Nấm Dẩn c m đ u. Chúng đã tổ chức các cuộc cướp phá, cấm dân làm nương, ruộng đất bỏ hoang. Ngoài ra, còn khuyến khích phát triển các hình thức mê tín, cờ bạc, rượu chè, cúng bái. Chúng tìm cách mua chuộc đồng bào các dân tộc để tìm diệt những người có cảm tình với cách mạng, khủng bố cơ sở cách mạng của ta, làm cho đời sống hàng ngày của nhân dân Pờ Ly Ngài và nhân dân các dân tộc xã Trung Thịnh ngày càng cơ cực, túng đói. Tháng 6/1948, được sự phối hợp của Trung ương và t nh bạn, quân và dân Hà Giang đã mở các chiến dịch đánh địch ở Lao Chải (Vị Xuyên), Yên Bình (Bắc Quang), Bản Quảng (Hoàng Su Phì). Các đơn vị võ trang tuyên truyền của ta đi vào vùng tạm chiếm của địch tuyên truyền, vận động giác ngộ nhân dân dưới nhiều hình thức: nói chuyện chính sách, thắng lợi của Việt Minh, viết truyền đơn, cách chống khủng bố, chống đi phu, đi lính, không nộp thóc thuế, trừng trị những tên đ u sỏ mà dân oán ghét… gây cơ sở kháng chiến, củng cố lực lượng du kích, động viên nhân dân tham gia đánh địch. 18
  19. Tháng 11/1948, ta tiến công chiếm đồn Bản Máy, Xín M n buộc địch phải rút chạy. Tháng 12/1948, địch phản kích, ta tạm rút khỏi Xín M n, Bản Máy. Từ ngày 1 đến ngày 24/01/1949, địch chiếm đóng xã Xín M n và một số nơi khác của Hoàng Su Phì. Từ tháng 9 đến tháng 10/1949, ta đưa cán bộ, đảng viên, dân quân vào gây cơ sở cách mạng ở Cốc Pài, Trung Thịnh, Bản Luốc, Tân Tiến, ngăn chặn thổ ph ở biên giới và tiêu hao lực lượng của Pháp, thổ ph . Được giác ngộ, nhân dân trong vùng tạm chiếm hết lòng ủng hộ và tin tưởng vào kháng chiến. Các cuộc võ trang tuyên truyền diệt gian, tập kích quấy rối đồn bốt địch… nổ ra trên khắp địa bàn huyện Hoàng Su Phì. Phong trào đánh du kích trong lòng địch đã làm cho địch thường xuyên ở thế bị động, góp ph n gây dựng và phát triển cơ sở kháng chiến của ta ngay trong vùng địch tạm chiếm. Ngày 01/01/1950, xét đủ điều kiện Huyện ủy Hoàng Su Phì ra quyết định thành lập Chi bộ nông thôn ở xã Trung Thịnh với 9 đảng viên. Sự kiện thành lập Chi bộ xã Trung Thịnh đánh dấu bước phát triển về chất trong phong trào kháng chiến của xã. Từ đây, nhân dân Pờ Ly Ngài nói riêng, xã Trung Thịnh nói chung có sự lãnh đạo trực tiếp của Chi bộ Đảng. Giai đoạn từ năm 1950 đến năm 1954, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Chi bộ Trung Thịnh, nhân dân trong vùng Pờ Ly Ngài đã tích cực tham gia các chiến dịch tiễu ph trên địa bàn; đặc biệt là với thắng lợi của 19
  20. chiến dịch tiễu ph vào tháng 10/1954 tại một số vùng trên địa bàn các xã trong huyện, đã góp ph n thu hẹp địa bàn hoạt động của bọn ph . Sau khi Hiệp định Giơnevơ về Việt Nam được ký kết ngày 20/7/1954, cuộc kháng chiến trường kỳ đ y hy sinh gian khổ của nhân dân ta đã kết thúc thắng lợi. Miền Bắc nước ta được hoàn toàn giải phóng. Cuối tháng 12/1954, bọn ph và những ph n tử phản động ở Hoàng Su Phì hoang mang, tan rã do không còn chỗ dựa trực tiếp, không còn máy bay giặc Pháp lên thả dù tiếp tế hoặc bắn phá, yểm trợ… Hàng nghìn tên ph ra đ u hàng, nộp v khí cho cách mạng, trở về gia đình làm ăn. Song song với công cuộc đánh Pháp, tiễu ph từ những năm 1952 đến 1953 dưới sự lãnh đạo của Chi bộ xã Trung Thịnh, Nhân dân vùng Pờ Ly Ngài đã chấp hành nghiêm ch nh luật thuế nông nghiệp, thực hiện giảm tô, giảm tức... đã xóa đi nhiều món nợ cho người nghèo. Phát động phong trào xây dựng tổ đổi công. Đối với những hộ nghèo hoặc có ít ruộng, ta cấp ruộng và trâu cho họ sản xuất. Vận động nhân dân khai phá ruộng, đắp mương lấy nước về ruộng. Sau 9 năm bám đất, nhân dân Pờ Ly Ngài càng thể hiện hơn bao giờ hết truyền thống yêu nước, tinh th n đoàn kết, đấu tranh anh d ng của quê hương mình. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là Chi bộ Trung Thịnh, Pờ Ly Ngài liên tục thể hiện rõ tinh th n ngoan cường, bất khuất trong đấu tranh chống mọi âm mưu, 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1