intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Fintech tại Việt Nam - Thực trạng và xu hướng phát triển, kinh nghiệm thế giới và khuyến nghị chính sách

Chia sẻ: Dạ Thiên Lăng | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:13

4
lượt xem
0
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết "Fintech tại Việt Nam - Thực trạng và xu hướng phát triển, kinh nghiệm thế giới và khuyến nghị chính sách" trình bày về bối cảnh Fintech ở Việt Nam là lĩnh vực mới, có nhiều tiềm năng phát triển nhưng cũng không ít rủi ro, thách thức, việc nghiên cứu kinh nghiệm phát triển và quản lý Fintech trên thế giới sẽ đưa ra được những gợi ý cho công tác định hướng, thay đổi mô hình hoạt động, phương thức quản lý, giám sát của cả cơ quan quản lý, công ty Fintech và cả các TCTD, công ty chứng khoán, bảo hiểm, quản lý quỹ tại Việt Nam. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Fintech tại Việt Nam - Thực trạng và xu hướng phát triển, kinh nghiệm thế giới và khuyến nghị chính sách

  1. Phần 2: Hoàn thiện về Thể chế và Chính sách 727 FINTECH TẠI VIỆT NAM - THỰC TRẠNG VÀ XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN, KINH NGHIỆM THẾ GIỚI VÀ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH TS. Cấn Văn Lực, NCS. Lê Ngọc Lâm, ThS. Nguyễn Quang Hưng1, ThS. Nguyễn Thị Minh Thu. TS. Phạm Thị Hạnh Tóm tắt: Sự phát triển nhanh chóng của Fintech trong gần đây đã mang đến nhiều thay đổi trong lĩnh vực tài chính. Tuy nhiên, thuật ngữ Fintech đang được sử dụng phổ biến hiện nay thường hướng tới những công ty công nghệ tài chính. Trong khi đó, ứng dụng công nghệ là một phần tất yếu trong hoạt động của các định chế tài chính. Các TCTD, bảo hiểm, chứng khoán, quản lý quỹ cũng đang áp dụng công nghệ một cách mạnh mẽ để thay đổi mô hình kinh doanh. Theo đó, phạm vi Fintech nêu trên chưa phản ánh hết mức độ ảnh hưởng của Fintech đối với hệ thống tài chính và nền kinh tế. Trong bối cảnh Fintech ở Việt Nam là lĩnh vực mới, có nhiều tiềm năng phát triển nhưng cũng không ít rủi ro, thách thức, việc nghiên cứu kinh nghiệm phát triển và quản lý Fintech trên thế giới sẽ đưa ra được những gợi ý cho công tác định hướng, thay đổi mô hình hoạt động, phương thức quản lý, giám sát của cả cơ quan quản lý, công ty Fintech và cả các TCTD, công ty chứng khoán, bảo hiểm, quản lý quỹ tại Việt Nam. 1. GIỚI THIỆU Sự phát triển nhanh chóng của Fintech trong gần đây đã mang đến nhiều thay đổi trong lĩnh vực tài chính. Tuy nhiên, thuật ngữ Fintech đang được sử dụng phổ biến hiện nay thường hướng tới những công ty công nghệ tài chính. Trong khi đó, ứng dụng công nghệ là một phần tất yếu của hoạt động tài chính. Các TCTD, bảo hiểm, chứng khoán, quản lý quỹ cũng đang áp dụng công nghệ một cách mạnh mẽ để thay đổi mô hình kinh doanh. Theo đó, phạm vi Fintech nêu trên chưa phản ánh hết mức độ ảnh hưởng của Fintech đối với hệ thống tài chính và nền kinh tế. Thay vào đó, với cách tiếp cận theo nghĩa rộng của Fintech, việc đánh giá tác động của Fintech đối với hệ thống tài chính nói riêng và nền kinh tế nói chung sẽ được xem xét trên giác độ là sự thay thế, chuyển đổi, bổ sung lớn từ hệ thống cũ (legacy) sang hệ thống mới là Fintech. Như vậy, những thay đổi về mô hình kinh doanh, sản phẩm dịch vụ và quy trình của của các định chế tài chính (ĐCTC) truyền thống như các TCTD, bảo hiểm, chứng khoán và cả các công ty công nghệ tài chính đều sẽ được xem xét. Trong bối cảnh Fintech ở Việt Nam là lĩnh vực mới, có nhiều tiềm năng phát triển nhưng cũng không ít rủi ro, thách thức, việc nghiên cứu kinh nghiệm quản lý Fintech trên thế giới sẽ đưa ra được những gợi ý cho công tác định hướng, thay đổi mô hình hoạt động, phương thức quản lý, giám sát của cả cơ quan quản lý, công ty Fintech và cả các TCTD, công ty chứng khoán, bảo hiểm, quản lý quỹ tại Việt Nam. Ngoài ra, việc dự báo xu hướng, nhận diện những cơ hội và thách thức trong tương lai, tác động đối với hệ thống tài chính nói riêng và nền kinh tế nói chung của lĩnh vực Fintech ở Việt Nam cũng cần thiết để có hướng phát triển, đảm bảo sự lành mạnh và bền vững. Trên cơ sở đó, nhóm nghiên cứu đã lựa chọn thực hiện đề tài “Fintech tại Việt Nam - Thực trạng, xu hướng phát triển và khuyến nghị chính sách”. 1 Viện Đào tạo & Nghiên cứu BIDV, email: hungnq16@bidv.com.vn
  2. 728 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ HOÀN THIỆN HỆ SINH THÁI PHÁT TRIỂN FINTECH TẠI VIỆT NAM 2. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU 2.1. Về định nghĩa và phân loại Fintech Một trong những định nghĩa đầu tiên của Fintech là “Fintech là từ viết tắt của Financial Technology (công nghệ tài chính), kết hợp giữa nghiệp vụ ngân hàng với các kỹ thuật khoa học quản lý hiện đại và máy tính” (Bettinger 1972), cho thấy ứng dụng công nghệ là một điều tất yếu của hoạt động tài chính. J. B. Douglas và W. Arner (2015) chỉ ra rằng việc ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực tài chính đã được thực hiện từ lâu, những lợi ích và rủi ro của nó không còn là vấn đề quá xa lạ. Hội đồng Ổn định Tài chính (FSB thuộc BIS, 2017) thì định nghĩa Fintech là những đổi mới, sáng tạo về công nghệ (technology-enabled innovation) trong lĩnh vực dịch vụ tài chính, tạo ra mô hình kinh doanh mới, ứng dụng mới, quy trình mới hay sản phẩm mới, có tác động to lớn (material effect) đến việc cung ứng các dịch vụ tài chính. Còn theo KPMG (2021), Fintech là từ ghép của công nghệ và tài chính, thuật ngữ để chỉ các doanh nghiệp đang sử dụng công nghệ, không kể đến các mô hình kinh doanh dịch vụ tài chính truyền thống, để thay đổi cách thức cung ứng dịch vụ tài chính. Việc phân loại hoạt động của các Fintech, theo đó, cũng khá đa dạng vì Fintech không chỉ bó hẹp trong phạm vi các công ty công nghệ cung cấp một số dịch vụ tài chính, mà nên được hiểu rộng hơn rất nhiều, phạm trù Fintech bao gồm các “sáng tạo tài chính” (financial innovation) trên nền tảng công nghệ, bao trùm toàn bộ thành viên trong hệ thống tài chính như các tổ chức tín dụng (TCTD), các công ty bảo hiểm, chứng khoán, quản lý quỹ…v.v. Theo KPMG (2021), Fintech hoạt động ở 6 lĩnh vực gồm có: (i) Thanh toán, (ii) Công nghệ bảo hiểm, (iii) Công nghệ quản lý (RegTech), (iv) Công nghệ quản lý tài sản (WealthTech), (v) Chuỗi khối/Tiền kỹ thuật số, và (vi) An ninh mạng. Còn theo Statista (2021), lĩnh vực hoạt động của Fintech hẹp hơn, chủ yếu cạnh tranh với các tổ chức tài chính truyền thống như: (i) Thanh toán số, (ii) Tài chính cá nhân, (iii) Cho vay, (iv) Huy động vốn. Hoặc như FSB 2017, Fintech hoạt động trong 5 lĩnh vực chính: (i) Thanh toán, bù trừ và quyết toán, (ii) Tiền gửi, cho vay và huy động vốn, (iii) Bảo hiểm, (iv) Quản lý đầu tư, và (v) Hỗ trợ thị trường. Viện Ổn định tài chính (FSI) của Ngân hàng thanh toán quốc tế (BIS) thì chia thị trường Fintech thành 3 phần: (i) Các chính sách hỗ trợ (policy enablers); (ii) Các công nghệ nền tảng (Enabling technology); (iii) Hoạt động Fintech (Fintech activities): chia thành (nhưng không chỉ giới hạn ở) 6 nhóm chính: (i) Ngân hàng số (digital banking), (ii) Huy động vốn cộng đồng (crowd funding), (iii) Quản lý tài sản, (iv) Thanh toán số và tiền điện tử, (v) Công nghệ bảo hiểm (insurtech), (vi) Hoạt động tài chính liên quan đến tiền kỹ thuật số…v.v. 2.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu - Kim Lien và cộng sự (2020) nghiên cứu việc ứng dụng Fintech trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam, và cho thấy tính hữu ích, ảnh hưởng xã hội, niềm tin của khách hàng và nhận định về sự đơn giản khi sử dụng (4 yếu tố) ảnh hưởng tích cực tới lựa chọn Fintech của khách hàng. - Dinh Dat và cộng sự (2020) cho thấy 5 thách thức cần được xử lý để hỗ trợ cho sự phát triển của Fintech tại Việt Nam là hành lang pháp lý, cơ sở hạ tầng, doanh nghiệp Fintech, khách hàng và nguồn nhân lực. - Hai Yen và cộng sự (2020), tiếp cận Fintech tại Việt Nam dưới góc độ pháp lý. Fintech trong nghiên cứu bao gồm các công ty công nghệ hoạt động trong lĩnh vực như thanh toán kỹ thuật số, huy động vốn từ cộng đồng, cho vay ngang hàng, chuyển tiền, blockchain, quản lý tài chính cá nhân và so sánh thông tin.
  3. Phần 2: Hoàn thiện về Thể chế và Chính sách 729 - Thanh Tam và cộng sự (2018) nghiên cứu hoạt động Fintech thúc đẩy tài chính bao trùm tại Việt Nam. Nghiên cứu đã tiếp cận Fintech dưới nghĩa hẹp về 40 công ty Fintech hoạt động tại Việt Nam. - Các nghiên cứu về Fintech tại Việt Nam của các Tổ chức nước ngoài khi nghiên cứu Fin- tech tại Việt Nam cũng tập trung chủ yếu vào các “công ty Fintech” (Fintech theo nghĩa hẹp), để đưa ra các đặc điểm về thị trường Fintech tại Việt Nam như: (i) Công ty Fintech tại Việt Nam tập trung chủ yếu vào lĩnh vực thanh toán và tài chính cá nhân (Statista, 2021); (ii) Mức độ sử dụng Fintech và ví điện tử tại Việt Nam đã tăng trưởng nhanh, cao hơn mức trung bình của khu vực Châu Á – Thái Bình Dương (McKinsey, 2021); (iii) Số lượng người dùng dịch vụ Fintech là thấp so với quy mô dân số, cũng như tương đối thấp so với mức độ sở hữu tài khoản ngân hàng của người dân Việt Nam (Statista, 2021); (iv) Quy mô hoạt động Fintech của Việt Nam khá nhỏ so với khu vực (UOBGroup, 2020; KPMG, 2021), (v) Khung pháp lý chưa đầy đủ cho hoạt động Fintech phát triển (Cấn Văn Lực và Cộng sự, 2021)…v.v. Tóm lại, các nghiên cứu trong và ngoài nước về Fintech tại Việt Nam mới chỉ tập trung vào “công ty Fintech” (Fintech theo nghĩa hẹp), hoặc đã có tiếp cận Fintech theo nghĩa rộng (sáng tạo công nghệ tài chính) nhưng chưa chỉ ra được thực trạng tại Việt Nam theo hướng tiếp cận rộng này. 2.3 Về quản lý Fintech Để ứng phó với những rủi ro mới từ fintech, các quốc gia đã đưa ra các quy định dành cho các sản phẩm, mô hình mới cũng như việc ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực tài chính. Các quốc gia thường dùng nhiều cách tiếp cận khác nhau để cố gắng tạo ra một cơ chế quản lý hợp lý và hiệu quả nhất. Saal (2018) chỉ ra 5 cách tiếp cận đã được các quốc gia áp dụng trong việc quản lý Fintech là - Thay đổi từng bước (Incremental changes): các quy định pháp lý được cập nhật từng bước, phù hợp với sự tiến bộ của công nghệ cũng như tốc độ ứng dụng; - Cấp phép theo từng trường hợp (Case-by-case forbearance): xem xét cấp phép các sản phẩm dịch vụ Fintech theo từng trường hợp; - Thử nghiệm có cấu trúc (Structured experimental approach): các sản phẩm, dịch vụ và ứng dụng liên quan đến Fintech được thử nghiệm một cách có kiểm soát; - Một cửa (Single window): cho phép sản phẩm, dịch vụ và ứng dụng Fintech được hoạt động trên thị trường với các quy định pháp lý đã được đơn giản hóa; - Không động tay (Hand offs): cho phép Fintech hoạt động và các cơ quan quản lý chỉ quan sát và can thiệp sau đó nếu cần thiết. Ở một nghiên cứu khác, Amstad (2019) chỉ ra 3 cách tiếp cận chính là - Không kiểm soát (ignore): để Fintech hoạt động mà không cần sự quản lý. - Cùng loại rủi ro, cùng quy định (same risk, same rules): dịch vụ tài chính số có những rủi ro giống với dịch vụ truyền thống và vì vậy, cần được quản lý bởi những quy định tương tự; - Tính năng năng mới, quy định mới (new function new rules): thiết kế những quy định mới cho phù hợp với những tính năng mới được hiện thực hóa bởi công nghệ. Báo cáo của World Bank năm 2020 chỉ ra bốn cách tiếp cận phổ biến đang được áp dụng là: - Chờ đợi và quan sát: cho phép các mô hình kinh doanh mới, các đổi mới phát triển mà không bị cản trở bởi những yêu cầu, quy định;
  4. 730 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ HOÀN THIỆN HỆ SINH THÁI PHÁT TRIỂN FINTECH TẠI VIỆT NAM - Thử nghiệm và học hỏi: cho phép các mô hình, sản phẩm mới được hoạt động trong các khuôn khổ chặt chẽ, nhưng vẫn có sự linh hoạt nhất định; - Cơ chế thúc đẩy sáng tạo: quá trình đổi mới sáng tạo được thúc đẩy bởi cơ quan quản lý. Cách tiếp cận này có 3 dạng phổ biến Trung tâm đổi mới sáng tạo, Khung pháp lý thử nghiệm Sandbox và Công cụ tăng tốc pháp lý (Regulatory Accelerators); - Cải cách luật pháp: đưa ra những thay đổi trong quy định pháp lý một cách tổng thể, toàn diện để tạo ra một môi trường thực sự thuận lợi cho Fintech. 3. HOẠT ĐỘNG CỦA FINTECH TẠI VIỆT NAM 3.1. Các doanh nghiệp fintech Trong những năm gần đây, thị trường Fintech tại Việt Nam đã có những bước phát triển rất mạnh mẽ cả về mặt số lượng, sự đa dạng trong sản phẩm, dịch vụ và thu hút vốn đầu tư. Fintech xuất hiện tại Việt Nam từ năm 2017, và trong những năm gần đây đã chứng kiến sự phát triển cả về lượng và chất của các công ty khởi nghiệp Fintech. Theo nghiên cứu của Solidiance - Công ty tư vấn chiến lược hàng đầu, thị trường Fintech Việt Nam đạt 4,4 tỷ USD giá trị giao dịch vào năm 2017 và đạt khoảng 7,8 tỷ USD vào năm 2020, tương đương với mức tăng 77% trong vòng 03 năm (Tuyết & Thủy, 2021). Số lượng các công ty Fintech tại Việt Nam cũng tăng lên nhanh chóng, từ khoảng 40 công ty vào cuối năm 2013 lên đến khoảng 176 công ty ở thời điểm cuối năm 2022 (Hyperlead 2022). Hình 1: Số lượng công ty fintech tại Việt Nam 2016-2022 Nguồn: Statista, Hyperlead Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và tác động của đại dịch COVID-19, cùng với các động thái tích cực từ phía Chính phủ và các cơ quan chức năng (sẽ được đề cập chi tiết ở phần sau) hứa hẹn mang lại nhiều chuyển biến tích cực cho lĩnh vực Fintech tại Việt Nam. Fintech đang hiện diện trong nhiều mặt đời sống và sẽ ngày càng ảnh hưởng rộng hơn, mạnh mẽ hơn đến sự phát triển thị trường tài chính – ngân hàng Việt Nam. Ngân hàng số - digital banking Tại Việt Nam, mô hình ngân hàng số vẫn còn trong giai đoạn phát triển ban đầu. Hiện nay, thuật ngữ ngân hàng số thường được sử dụng để mô tả các kênh phân phối số của các ngân hàng thương mại truyền thống, còn các mô hình như ngân hàng số thuần túy (neobank) chưa xuất hiện.
  5. Phần 2: Hoàn thiện về Thể chế và Chính sách 731 Thời gian gần đây, đã xuất hiện một số mô hình hoạt động tương đối giống với mô hình neobank tại Việt Nam, một số thương hiệu tiêu biểu như Timo, Cake by VPBank hay Tnex. Tuy nhiên, những cái tên này vẫn chưa phải là một ngân hàng số đúng nghĩa. Cả 3 cái tên trên đều không được cấp phép hoạt động bởi NHNN, do đó không thể hoạt động như một ngân hàng độc lập mà chỉ là các kênh phân phối của các ngân hàng thương mại truyền thống1. Huy động vốn cộng đồng và cho vay ngang hàng Tại Việt Nam, mô hình gọi vốn cộng đồng chính thức xuất hiện lần đầu tiên vào khoảng đầu năm 2013 với nền tảng IG9, đã gọi vốn cộng đồng thành công cho 40 dự án với quy mô huy động bình quân từ 7-15 triệu đồng/dự án. Hiện nay, một số nền tảng huy động vốn cộng đồng nổi bật là FirstStep, Comicola, Fundstart, Charity Map, FundingVN… Trong đó, FirstStep là website cho nhiều lĩnh vực về khởi nghiệp như nông nghiệp, phần mềm, giải trí, trò chơi điện tử, từ thiện… FundingVN được thành lập dưới sự bảo trợ Trung tâm Hỗ trợ Thanh Niên Khởi nghiệp thuộc Hội Liên Hiệp Thanh niên TP.HCM. Betado là nền tảng crowdfunding được thành lập từ năm 2015 với danh mục, lĩnh vực hỗ trợ đa dạng từ âm nhạc, công nghệ, xã hội, kiến trúc, nghệ thuật cho đến phần mềm, truyện tranh. Một nền tảng crowdfunding khác là Comicola được Liên minh truyện tranh online thành lập năm 2015. Về phía huy đồng vốn cộng đồng để cho vay, mô hình cho vay ngang hàng (P2P lending) cũng đã phát triển ở Việt Nam trong những năm trở lại đây, với sự xuất hiện của các công ty hoạt động giống mô hình này từ năm 2016 với trang huydong.com. Kể từ đó, nhiều công ty P2P Lending khác đã dần đi vào hoạt động. Thống kê sơ bộ của Ngân hàng Nhà nước, Việt Nam hiện có khoảng 100 công ty P2P Lending (bao gồm cả công ty đã đi vào hoạt động chính thức và một số công ty đang trong giai đoạn thử nghiệm) như Lendbiz, Tima, Trust Circle, Vay mượn, Lendmo, Wecash, InterLoan… Tuy mới xuất hiện và tồn tại khoảng 5 năm, các công ty P2P Lending đã đưa ra các sản phẩm vay vốn trên các nền tảng trực tuyến khá đa dạng, như vay có tài sản bảo đảm và vay không có tài sản bảo đảm, cho vay cá nhân (vay tín chấp theo lương, vay theo sổ hộ khẩu, vay theo đăng ký xe máy, vay trả góp, vay theo hóa đơn điện, nước...) và doanh nghiệp (tài trợ các khoản phải thu, tài trợ bên mua hàng, tài trợ vốn lưu động, tài trợ thương mại điện tử...) Quản lý tài sản Đến cuối năm 2022, có 16 công ty Fintech trong lĩnh vực quản lý tài sản đang hoạt động tại Việt Nam. Các sản phẩm chủ yếu mà các công ty Fintech đang cung cấp trên thị trường bao gồm Ứng dụng quản lý tài sản (Money Lover, Spendee, MISA Money Keeper...) và Ứng dụng đầu tư chứng khoán (Infina, Finhay...). Hoạt động tư vấn tự động (robo-advisor) tại Việt Nam còn chưa thực sự phát triển so với các nước trong khu vực. Theo số liệu của Statista thì Việt Nam có giá trị tài sản được quản lý bởi robo-adivsor thấp hơn nhiều so với các nước khác trong ASEAN (chỉ khoảng 5 tỷ USD năm 2022) như Singapore (khoảng 14 tỷ USD), Thái Lan (khoảng 21 tỷ USD), Malaysia (khoảng 16 tỷ USD) hay Indonesia (khoảng 22 tỷ USD) (Phan Trần Trung Dũng 2023) Tuy còn trong giai đoạn phát triển ban đầu, nhưng những công ty Fintech quản lý tài sản tại Việt Nam đã được đánh giá rất cao về tiềm năng phát triển. Bằng chứng là việc Fintech AnFin đã nhận được vốn đầu tư lên tới 4,8 triệu USD ở vòng Pre-Series A, hay Finhay với khoản đầu tư lên tới 25 triệu USD trong năm 2022. 1 Tham khảo điều kiện và điều khoản tham gia của Timo, Tnex tại https://timo.vn/wp-content/uploads/2021/01/ Digital-Bank-TnC.pdf và https://www.tnex.com.vn/wp-content/uploads/2021/01/Dieu-khoan-dieu-kien-su-dung- DV-tren-ung-dung-TNEX_28012021.pdf
  6. 732 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ HOÀN THIỆN HỆ SINH THÁI PHÁT TRIỂN FINTECH TẠI VIỆT NAM Thanh toán Trong thập kỷ qua, Việt Nam đã chứng kiến sự phát triển đáng kể đặc biệt của lĩnh vực thanh toán điện tử, và đây đang là lĩnh vực Fintech phát triển mạnh nhất tại Việt Nam. Đến cuối năm 2022, NHNN đã cấp giấy phép cho 48 doanh nghiệp hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán tại Việt Nam. Theo thống kê của NHNN, thanh toán qua QR code trong năm 2022 tăng tới hơn 225% về số lượng và 244% về giá trị so với năm 2021. Trong 8 tháng đầu năm 2023, giao dịch TTKDTM tăng 69,7% về số lượng, 27,5% về giá trị; giao dịch qua Internet cũng tăng tương ứng 76% và 1,79%; qua điện thoại di động tăng tương ứng 65% và 77%; qua QR code tăng tương ứng 152% và 301% so với cùng kỳ. Trong khi đó, đến cuối năm 2022, tổng số tài khoản Mobile-Money được đăng ký và sử dụng là hơn 3,71 triệu tài khoản với gần 8,9 nghìn điểm kinh doanh được thiết lập và 15,3 nghìn đơn vị chấp nhận thanh toán1. Bên cạnh đó, thị trường Việt Nam cũng có khoảng 120 triệu ví điện tử, và có đến 3.300 tỷ đồng được người dân duy trì trong ví điện tử để thanh toán2 (Google, Bain & Temasek 2022) ước tính lĩnh vực thanh toán tại Việt Nam sẽ tiếp tục tăng trưởng mạnh, lên tới 19%/năm tới năm 2025 Hình 3: Giá trị giao dịch của thanh toán số tại Việt Nam (tỷ USD) Nguồn: Google, Temasek, Bain & Company Công nghệ bảo hiểm (Insurtech) Lĩnh vực insurtech tại Việt Nam còn khá non trẻ. Theo (Google, Bain & Temasek 2022), Insurtech của Việt Nam, tuy quy mô còn nhỏ so với các nước như Singapore hay Thái Lan, nhưng lại có tốc độ tăng trưởng lên tới gần 50% mỗi năm, cùng tốc độ với Indonesia và Philippines. Một số Startup Insurtech nổi bật tại Việt Nam có thể kể đến là SaveMoney, Papaya, OPES… Những công ty này phần lớn có qui mô nhỏ, chủ yếu tập trung vào giai đoạn tiếp cận khách hàng và phân phối sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ vốn có giá trị hợp đồng thấp và không cần nhiều sự tư vấn. Bên cạnh đó, các insurtech cũng cung cấp các dịch vụ công nghệ cho các công ty bảo hiểm, ví dụ như Papaya cung cấp dịch vụ xử lý hồ sơ bồi thường cho 2 công ty bảo hiểm là FWD và Bảo Long. Hình 4: Tăng trưởng bảo hiểm số tại Việt Nam (Tổng doanh thu phí của công ty bảo hiểm 1 năm, tỷ USD) Nguồn: Google, Temasek, Bain & Company 1 https://doanhnghieptiepthi.vn/xu-huong-thanh-toan-khong-dung-tien-mat-o-viet-nam-tang- manh-161230529145633248.htm 2 https://vnbusiness.vn/ngan-hang/nguoi-viet-ngay-cang-it-dung-tien-mat-1090365.html
  7. Phần 2: Hoàn thiện về Thể chế và Chính sách 733 Hoạt động tài chính liên quan đến tài sản kỹ thuật số Trong hệ sinh thái Fintech tại Việt Nam, mảng hoạt động liên quan đến tài sản kỹ thuật số (cryptos) và công nghệ blockchain có số lượng công ty lớn thứ 3, chỉ sau lĩnh vực thanh toán và cho vay ngang hàng. Những công ty này chủ yếu là các sàn giao dịch tiền kỹ thuật số, các nền tảng blockchain, và các doanh nghiệp cung cấp các giải pháp dựa trên công nghệ blockchain. Một doanh nghiệp nổi bật trong lĩnh vực tài sản kỹ thuật số trên thị trường Việt Nam là Sky mavis, công ty game đã tạo ra trò chơi Axie Infinity. Từ việc tham gia trò chơi, người chơi có thể kiếm được các đồng tiền kỹ thuật số AXS, và từ đó có thể giao dịch để đổi lấy tiền thật. Đã có thời điểm Sky mavis từng được định giá lên tới 3 tỷ USD, vốn hóa thị trường của đồng AXS lên tới hơn 10 tỷ USD với tổng giá trị giao dịch xấp xỉ 2 triệu USD/ngày1. Đến năm 2022, sau sự kiện bị tin tặc tấn công, cùng với thị trường tiền kỹ thuật số trên toàn cầu suy giảm mạnh thì Axie Infinity cũng không còn giữ được giá trị. Một đồng AXS chỉ còn giá trị khoảng 5-6 USD2, thấp hơn nhiều mức đỉnh 160 USD vào năm 2021. 3.2. Hoạt động, ảnh hưởng của công nghệ tài chính tới những ĐCTC truyền thống tại Việt Nam Nhận thức được xu hướng chuyển đổi số cũng như mức độ ảnh hưởng của các tiến bộ công nghệ với lĩnh vực tài chính, những ĐCTC tại Việt Nam đã và đang đầu tư một cách mạnh mẽ cho quá trình này. Bên cạnh việc đầu tư vào hạ tầng công nghệ, hợp tác với các công ty Fintech cũng là giải pháp mà các ĐCTC truyền thống đang sử dụng để đẩy nhanh tốc độ số hóa. Sự đầu tư của khu vực tài chính cho chuyển đổi số đã mang lại nhiều thay đổi tại các ĐCTC, từ quy trình hoạt động đến các sản phẩm dịch vụ cung cấp cho khách hàng. Cụ thể: Lĩnh vực ngân hàng: Các công ty Fintech có lợi thế về công nghệ, sáng tạo và mô hình tổ chức linh hoạt song so với các NHTM thì vẫn hạn chế về kinh nghiệm, uy tín và thương hiệu. Tuy vậy, sự trỗi dậy mạnh mẽ của Fintech trong thời gian qua sẽ là một thách thức với các NHTM, khiến thay đổi hoạt động truyền thống của NHTM. Trước thực tế các công ty Fintech đang phát triển mạnh mẽ và có khả năng trở thành đối thủ của ngân hàng (trước mắt là trong lĩnh vực thanh toán và sẽ mở rộng ra nhiều lĩnh vực khác), các NHTM Việt Nam cũng đang lựa chọn 2 giải pháp là đẩy mạnh chuyển đổi số và gia tăng hợp tác với Fintech: Nhận thức được tầm quan trọng của chuyển đổi số, các NHTM đã ứng dụng giải pháp kỹ thuật, công nghệ mới vào các hoạt động nghiệp vụ và cung ứng sản phẩm, dịch vụ để nâng cao hiệu quả hoạt động và tăng trải nghiệm cho khách hàng, khu vực ngân hàng được đánh giá là chuyển đổi số nhanh và mạnh nhất trong hệ thống tài chính. Các NHTM đã đầu tư đổi mới công nghệ và phát triển kênh bán hàng qua công nghệ số như Internet Banking, Mobile Banking… Không chỉ vậy, tiến bộ công nghệ cũng đang được ứng dụng nhiều hơn trong các nghiệp vụ nội bộ. Một số ngân hàng đã ứng dụng kết hợp công nghệ AI, ML và Big Data để đánh giá, phân loại khách hàng và quyết định giải ngân... giúp đơn giản hóa quy trình, thủ tục và rút ngắn thời gian chờ đợi của khách hàng. Các hoạt động quản lý nội bộ, ví dụ như quản lý công việc, chấm điểm hoàn thành nhiệm vụ, quản lý thông tin cán bộ… cũng dần được số hóa hay cao hơn là tự động hóa, giúp tăng năng suất lao động cũng như cải thiện hiệu quả quản lý trong các ngân hàng. (iii) Một số công nghệ của CMCN 4.0 cũng được các NHTM nghiên cứu thử nghiệm, đưa vào hoạt động như công 1 https://kinhtedothi.vn/axie-infinity-dieu-gi-da-xay-ra-voi-niem-tu-hao-viet-nam.html 2 Tra cứu tại https://coinmarketcap.com/currencies/axie-infinity/ vào ngày 22/6/2023
  8. 734 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ HOÀN THIỆN HỆ SINH THÁI PHÁT TRIỂN FINTECH TẠI VIỆT NAM nghệ Cloud Computing (VPBank ứng dụng nền tảng đám mây cho ra mắt ngân hàng số với tên gọi Yolo), công nghệ sổ cái (LienVietPostBank, VietinBank, SCB, ACB sử dụng để ghi nhận chi tiết các giao dịch), công nghệ Blockchain (HSBC thực hiện thành công giao dịch tín dụng thư), công nghệ định danh khách hàng điện tử (eKYC)… Các NHTM có lợi thế về quy mô, mạng lưới rộng lớn và nền khách hàng lâu năm với hệ thống dữ liệu lớn song bởi vậy sẽ luôn có độ trễ nhất định về công nghệ so với các công ty Fintech. Chính vì vậy, để rút ngắn thời gian, các NHTM Việt Nam cũng đang đẩy mạnh hợp tác với Fintech để cung cấp các sản phẩm, dịch vụ số dựa trên nền tảng đa kênh để đảm bảo trải nghiệm phong phú cho khách hàng (Techcombank và Fastcash, VIB và Weezi Digital, VietinBank và Công ty ON (Anh), BE GROUP (Thụy Điển)…) Lĩnh vực chứng khoán Tương tự như ngân hàng, xu hướng phát triển của Fintech cũng khiến cho các CTCK phải đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số và tăng cường hợp tác với các Fintech. Các CTCK tại Việt Nam đang quan tâm và áp dụng nhiều hơn các tiến bộ công nghệ để ứng dụng vào dịch vụ tư vấn đầu tư chứng khoán. Có thể kể đến một số sản phẩm Robo advisor đang khá thành công hiện nay, đó là TCWealth (của Công ty cổ phần Chứng khoán TCBS); Smart Robo (của Công ty cổ phần Chứng khoán VPS); iBroker (của Công ty cổ phần Chứng khoán BSC); Investment Robot Advisor (của Công ty Cổ phần Chứng khoán TVSI); Robo Advisor (của Công ty Cổ phần Chứng khoán MB). Ngoài ra, môi giới của các CTCK có thể ứng dụng các phương pháp như: tạo các nhóm trao đổi trên Zalo, Facebook, Telegram...; hoặc dùng các ứng dụng họp trực tuyến, như: Zoom, Microsoft Teams… để trao đổi với khách hàng, giúp tiết kiệm thời gian, chi phí, đồng thời tiếp cận được tệp khách hàng lớn hơn. Hầu hết CTCK cũng đã có các kênh phân phối số (ví dụ các app di động, trang web) với những dịch vụ như hỗ trợ giao dịch, quản lý tài sản đầu tư, kết nối với các báo cáo tư vấn đầu tư. Một số CTCK mạnh về công nghệ (như FPTS với phần mềm EzMobile Trading) cho phép nhà đầu tư có thể sử dụng các công cụ phân tích thị trường, tài sản và quá trình đầu tư của khách hàng ngay trên chính các app cài đặt trên điện thoại di động. Xu hướng hợp tác với Fintech tại các chứng khoán Việt Nam chưa thực sự mạnh mẽ, nhưng cũng đã bắt đầu để lại một số điểm nhấn. Thí dụ như việc Công ty chứng khoán DNSE và Ví điện tử ZaloPay vừa ký kết thỏa thuận hợp tác vào tháng 6/2023. Sự hợp tác này mang đến sản phẩm tài khoản chứng khoán đầu tiên trên ví điện tử tại Việt Nam. Ở trường hợp này, công ty chứng khoán là người gia nhập vào hệ sinh thái của Fintech (ZaloPay ghi nhận hơn 11,5 triệu người dùng thanh toán thường xuyên năm 2022, hàng chục ngàn đối tác và điểm thanh toán trên cả nước) thay vì ngược lại, cho thấy tiềm năng mà mối quan hệ hợp tác với công ty Fintech mang lại cho các công ty chứng khoán nhỏ. Lĩnh vực bảo hiểm Tuy có chậm hơn so với lĩnh vực ngân hàng và chứng khoán, các công ty bảo hiểm tại Việt Nam đang đẩy mạnh quá trình số hóa của mình. Những doanh nghiệp bảo hiểm dẫn đầu thị trường đã đưa ra nhiều sản phẩm dịch vụ mới dựa trên nền tảng số để nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, ví dụ bảo hiểm Bảo Việt đã áp dụng hàng loạt giải pháp ứng dụng công nghệ số toàn diện trên hệ thống, cho phép người dùng “tối đa hóa” lợi ích khi truy vấn thông tin chi tiết, đăng ký tham gia và nhận quyền lợi bảo hiểm dễ dàng thông qua thao tác trực tuyến; ứng dụng công nghệ AI, Chatbot trong các hoạt động giới thiệu, tư vấn sản phẩm bảo hiểm; nâng cấp chất lượng
  9. Phần 2: Hoàn thiện về Thể chế và Chính sách 735 dịch vụ chăm sóc khách hàng bằng ứng dụng giám định bồi thường số E-Claim. Đặc biệt, công ty này còn đầu tư hoàn thiện hạ tầng công nghệ thông tin hiện đại, điển hình là dự án chuyển đổi số ứng dụng các giải pháp trí tuệ doanh nghiệp trong hệ thống số liệu về tài chính, đầu tư, quản lý rủi ro… Prudential Việt Nam đưa ra Pulse by Prudential - ứng dụng chăm sóc sức khỏe trên nền tảng kỹ thuật số đầu tiên tại châu Á; Manulife Việt Nam triển khai eClaims giúp khách hàng có được những trải nghiệm tốt hơn, thuận tiện hơn trong quá trình thực hiện yêu cầu quyền lợi bảo hiểm trực tuyến. FWD, thông qua ứng dụng công nghệ, nhà bảo hiểm này đã giảm thiểu giao dịch bằng giấy và tiền mặt, chuyển đổi 100% các loại hình giao dịch qua công nghệ số… (D. Ngọc 2021). Ngoài việc tự đầu tư, xây dựng các ứng dụng này, các công ty bảo hiểm cũng hợp tác với các insurtech (như ví dụ của Papaya với công ty bảo hiểm FWD và Bảo Long đã nêu ở phần trên, hay Igloo hợp tác với Bảo hiểm Bảo Việt để triển khai dịch vụ bảo hiểm thiên tai và hỏa hoạn) để có thể mở rộng hoạt động, hay cải tiến quy trình hoạt động của mình. 3.3. Quản lý Fintech tại Việt Nam Khung pháp lý về các công nghệ tài chính và công ty Fintech tại Việt Nam vẫn ở trong giai đoạn sơ khai. Một trường hợp ngoại lệ trên thị trường là với lĩnh vực thanh toán, khi hành lang pháp lý đã được phát triển sớm và đầy đủ hơn một cách đáng kể. Bắt đầu từ Nghị định 101/2012/NĐ-CP về thanh toán không dùng tiền mặt; Nghị định 80/2016/NĐ-CP bổ sung một số điều của Nghị định 101/2012, trong đó bổ sung quy định các tổ chức không phải ngân hàng được Ngân hàng Nhà nước cấp phép sẽ được tham gia cung cấp dịch vụ trung gian thanh toán. NHNN cũng đã ban hành Thông tư 39/2014 Hướng dẫn về dịch vụ trung gian thanh toán, và sau đó là Thông tư 23/2019 sửa đổi, bổ sung một số điều của thông tư số 39/2014, với những quy định chi tiết hơn về hoạt động thanh toán, quy định để được nhận giấy phép cung ứng hoạt động trung gian thanh toán cũng như những quy định về hoạt động cung ứng ví điện tử. Gần đây nhất, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 316/QĐ-TTg ngày 09/3/2021 về việc phê duyệt triển khai thí điểm dùng tài khoản viễn thông thanh toán cho các hàng hóa, dịch vụ có giá trị nhỏ (dưới 10 triệu đồng/tháng). Với những lĩnh vực khác thì công tác quản lý lĩnh vực Fintech tại Việt Nam còn nhiều thiếu sót. Về cơ bản, cơ chế quản lý chung và khung khổ pháp lý điều chỉnh đối với từng mảng hoạt động Fintech cụ thể hiện chưa được đề cập tại bất kỳ văn bản pháp lý cụ thể nào (từ Luật tới các văn bản pháp lý thấp hơn là Nghị định hay Thông tư); chưa có quy định về Cơ chế quản lý, đơn vị đầu mối và cán bộ chuyên trách cũng như quy định về quyền hạn và trách nhiệm để xử lý các vấn đề liên quan tới hoạt động Fintech. Về ứng dụng các công nghệ mới tại các ĐCTC, một số quy định pháp lý hiện nay liên quan tới hoạt động nghiệp vụ tại Việt Nam còn chưa rõ ràng, chưa thuận lợi cho việc áp dụng các giải pháp dựa vào công nghệ, dữ liệu, dẫn đến việc các ĐCTC Việt Nam còn khá chậm trong việc ứng dụng những công nghệ tiên tiến. Thời gian gần đây, các cơ quan quản lý đã chủ động đưa ra nhiều giải pháp để xử lý các vấn đề về khung pháp lý cũng như thúc đẩy sự phát triển của Fintech. Một vài ví dụ cho xu hướng này là việc NHNN đã ban hành Thông tư 16/2020 sửa đổi Thông tư 23/2014, trong đó cho phép áp dụng thử nghiệm công nghệ định danh điện tử e-KYC để mở tài khoản thanh toán có lượng giao dịch nhỏ (dưới 100 triệu/tháng); Thông tư 06/2023 sửa đổi TT39/2016, cho phép các ngân hàng thực hiện hoạt động cho vay bằng phương tiện điện tử với những khoản vay giá trị nhỏ (dưới 100 triệu đồng); Nghị quyết số 100 của Chính phủ thông qua đề nghị xây dựng Nghị định của Chính phủ về cơ chế thử nghiệm có kiểm soát hoạt động Fintech trong lĩnh vực ngân hàng; Quyết định số 328/
  10. 736 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ HOÀN THIỆN HỆ SINH THÁI PHÁT TRIỂN FINTECH TẠI VIỆT NAM QĐ-NHNN thành lập Ban chỉ đạo về fintech (nay là Ban chỉ đạo chuyển đổi số ngành ngân hàng); NHNN cũng đang nghiên cứu để hình thành một Trung tâm đổi mới sáng tạo Fintech (Innovation Hub) với sự hợp tác của một số ngân hàng và doanh nghiệp lớn… Đây là những lực đẩy quan trọng cho sự phát triển của Fintech tại Việt Nam trong thời gian tới. 4. ĐỀ XUẤT Thị trường fintech tại Việt Nam, theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp, đã đạt được tốc độ phát triển rất nhanh trong thời gian qua. Tuy vậy, khung pháp lý, những biện pháp hỗ trợ cho lĩnh vực này lại chưa theo kịp với đà tăng của thị trường. Do đó, cần có nhiều giải pháp để cải thiện, tháo gỡ những vướng mắc này như: Một là, Việt Nam nên có cách tiếp cận chủ động hơn trong việc quản lý fintech, trong đó các cơ quan quản lý cần có quan điểm hỗ trợ, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chấp nhận rủi ro nhiều hơn. Ví dụ như trường hợp của công nghệ dùng robot đặt lệnh, tuy việc cấm công nghệ này có lợi ích trong ngắn hạn nhưng lại có tác động tiêu cực trong dài hạn. Thay vì chỉ có chỉ đạo cấm vô thời hạn như hiện nay, Ủy ban chứng khoán Nhà nước cần đưa ra được lộ trình để công nghệ này được đưa vào sử dụng trở lại. Hai là, Chính phủ cũng cần sớm hoàn thiện bộ khung cơ bản cho việc quản lý fintech, trong đó cần chỉ rõ cơ quan quản lý chịu trách nhiệm quản lý, giám sát với hoạt động fintech. Lãnh đạo một doanh nghiệp fintech lớn trong lĩnh vực thanh toán tại Việt Nam cho biết, hiện doanh nghiệp đang chịu sự giám sát của 6 Bộ, gây ra nhiều khó khăn trong hoạt động kinh doanh. Do đó, cần sớm có chỉ đạo về cơ quan đầu mối trong quản lý fintech để thúc đẩy sự phát triển của lĩnh vực này. Ba là, Ngân hàng Nhà nước cần phối hợp chặt chẽ với các Bộ, Ngành liên quan để sớm hoàn thiện trình Chính phủ ban hành Nghị định về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát hoạt động Fintech (Sandbox) trong lĩnh vực ngân hàng. Trong tương lai, Việt Nam cần tiếp tục nghiên cứu để đưa ra các mô hình tương tự cho Fintech trong lĩnh vực chứng khoán và bảo hiểm (do Bộ Tài chính đầu mối xây dựng và quản lý) để xây dựng một hệ sinh thái Fintech hoàn chỉnh, đa dạng. Bốn là, hình thành các trung tâm đổi mới sáng tạo dành riêng cho fintech. Theo thống kê của EY và UOB năm 2021, Việt Nam đang là nước có nhiều trung tâm nuôi dưỡng Fintech (Incubator and accelarator) thứ hai trong khu vực ASEAN với 24 trung tâm. Tuy nhiên, con số nàychưa bằng một nửa so với quốc gia dẫn đầu là Singapore (52). Với một hệ sinh thái Fintech đang phát triển nhanh chóng, cần có thêm nhiều các trung tâm đổi mới sáng tạo để hỗ trợ cho các doanh nghiệp. Năm là, NHNN cũng cần rà soát, nghiên cứu sửa đổi hoặc bổ sung các quy định về liên quan tới mô hình ngân hàng số 100% (xem xét bổ sung các quy định về mô hình này và cơ chế cấp phép trong dự thảo Luật các TCTD sửa đổi sắp tới), hoạt động của tổ chức không phải ngân hàng trong hoạt động trung gian thanh toán, ngân hàng đại lý trong hoạt động thanh toán, chuẩn kết nối Open API… Sáu là, Bộ Tài chính đầu mối nghiên cứu và tham mưu Chính phủ các cơ chế, chính sách ưu đãi về thuế, miễn giảm thuế và ưu đãi đầu tư cho các doanh nghiệp Fintech startup, đặc biệt trong giai đoạn đầu. Đồng thời cần quan sát và học hỏi kinh nghiệm xây dựng và vận hành một Sandbox từ NHNN để tạo ra mô hình dành cho Fintech trong lĩnh vực chứng khoán và bảo hiểm. Bảy là, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cần đầu mối nghiên cứu và tham mưu Chính phù về chính sách sử dụng vốn Nhà nước để hỗ trợ và đầu tư mạo hiểm đối với các doanh nghiệp khởi nghiệp nói chung và các doanh nghiệp khởi nghiệp trong lĩnh vực Fintech nói riêng. Ngoài ra, cũng cần phối
  11. Phần 2: Hoàn thiện về Thể chế và Chính sách 737 hợp với các Bộ, Ngành xây dựng cơ chế chính sách ưu đãi và khuyến khích đối với Trung tâm đổi mới sáng tạo Quốc gia và các tổ chức, cá nhân hoạt động tại Trung tâm. Cuối cùng, những chính sách hỗ trợ khác cũng cần được đẩy mạnh như tiếp tục cải thiện cơ sở hạ tầng về viễn thông, mạng internet, kết nối 5G; hoàn thiện cơ sở dữ liệu thông tin quốc gia cũng như ban hành các quy định cho phép các ĐCTC và công ty Fintech truy cập, sử dụng kho dữ liệu này; đầu tư cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại học và sau đại học để cải thiện nguồn cung cấp nhân lực chất lượng cao trong cả mảng tài chính và công nghệ. KẾT LUẬN Thị trường Fintech tại Việt Nam vẫn còn khá non trẻ, tuy nhiên trong những năm gần đây đã có những bước phát triển rất mạnh mẽ cả về mặt số lượng, sự đa dạng trong sản phẩm, dịch vụ và thu hút vốn đầu tư. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều thách thức tồn tại với lĩnh vực Fintech: các doanh nghiệp Fintech mới chỉ tập trung hoạt động trong mảng thanh toán, cho vay ngang hàng và tiền kỹ thuật số; trong đó ngoài lĩnh vực thanh toán, đa số công ty Fintech ở Việt Nam do đang ở giai đoạn phát triển sơ khởi nên có quy mô còn khiêm tốn, phần lớn các công ty Fintech tại Việt Nam là các công ty mới được thành lập với quy mô nhỏ…. Tương tự như thị trường tài chính quốc tế, thị trường tài chính Việt Nam cũng đang trải qua quá trình chuyển đổi số mạnh mẽ. Lĩnh vực ngân hàng đang là đầu tàu trong hoạt động này, với việc đa số các NHTM đã có kế hoạch đầu tư mạnh mẽ cho công nghệ cũng như cho ra mắt các sản phẩm dịch vụ mới dựa trên nền tảng công nghệ. Các công ty chứng khoán cũng đang quan tâm và áp dụng nhiều hơn các đột phá khoa học để ứng dụng vào trong dịch vụ tư vấn đầu tư chứng khoán. Lĩnh vực bảo hiểm, dù có chậm hơn so với lĩnh vực ngân hàng và chứng khoán, cũng đã đưa ra nhiều sản phẩm dịch vụ mới dựa trên nền tảng số để nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng. Hoạt động quản lý công ty Fintech cũng như công nghệ tài chính tại Việt Nam còn nhiều thiếu sót. Phương pháp chờ đợi và quan sát được các cơ quan quản lý sử dụng đã bộc lộ nhiều nhược điểm, khiến cho hành lang pháp lý hiện tại không theo kịp những thay đổi trên thị trường. Thời gian gần đây, Chính phủ và các cơ quan quản lý (đầu mối là NHNN) đã dần chuyển sang các phương pháp quản lý chủ động hơn để hỗ trợ cho lĩnh vực Fintech và quá trình chuyển đổi số của thị trường tài chính. Tuy nhiên, vẫn cần nhiều hơn nữa những giải pháp, chính sách hỗ trợ để lĩnh vực Fintech tiếp tục phát triển an toàn, đóng góp vào tăng trưởng chung của nền kinh tế. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. ADB. 2022. “Building Regulatory and Supervisory Technology Ecosystems: For Asia’s Financial Stability and Sustainable Development.” ADB. 8. Đã truy cập 6 21, 2023. https://dx.doi.org/10.22617/ TCS220330-2. 2. Alliance for Financal Inclusion. 2010. Enabling mobile money transfer: The Central bank of Kenya’s treatment of M-Pesa. Case study, AFI. Đã truy cập 6 16, 2023. https://www.gsma.com/ mobilefordevelopment/wp-content/uploads/2013/09/enablingmobilemoneytransfer92.pdf. 3. Amaral, Miguel. 2021. “Case 2. Digitalisation in finance: regulatory challenges and regulatory approaches.” Trong Case Studies on the Regulatory Challenges Raised by Innovation and the Regulatory Responses, của OECD/KDI. Paris: OECD Publishing. 4. Amstad, Marlene. 2019. Regulating Fintech: Objectives, Principles, and Practices. ADB. 5. Anh, Nguyễn Ngọc. 2023. Sự phát triển của tiền kỹ thuật số do ngân hàng trung ương phát hành và một số khuyến nghị cho Việt Nam. Tạp chí Công thương Điện tử.
  12. 738 KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ HOÀN THIỆN HỆ SINH THÁI PHÁT TRIỂN FINTECH TẠI VIỆT NAM 6. Anh, Nhĩ. 2023. VnEconomy. 22 4. Đã truy cập 6 30, 2023. https://vneconomy.vn/con-khoang-trong- hanh-lang-phap-ly-cho-fintech.htm. 7. Archondakis, Panos. 2023. Wealth Briefing. 1 6. Đã truy cập 9 12, 2023. https://www.wealthbriefing. com/html/article.php?id=198107#.ZQAeSXZBzcs. 8. BCG và QED Investors. 2023. “Global Fintech 2023: Reimagining the future of finance.” 9. Bettinger, Abraham. 1972. “FINTECH: A Series of 40 Time Shared Models Used at Manufacturers Hanover Trust Company.” Interfaces, vol. 2, no. 4 62-63. 10. BIS. 2019. Annual Economic Report . BIS. 11. Boston Consulting Group, QED Investors. 2023. Global fintech 2023: Reimagining the Future of Finance. BCG + QED. 12. Buckley RP, et al. 2019. The Dark Side of Digital Financial Transformation: The New Risks of FinTech and the Rise of TechRisks. EBI working paper, EBI. 13. BusinessofApps. 2023. BusinessofApps. Đã truy cập 9 12, 2023. https://www.businessofapps.com/ data/stock-trading-app-market/. 14. —. 2023. BusinessofApps. Đã truy cập 9 12, 2023. https://www.businessofapps.com/data/robinhood- statistics/. 15. Chan, Joelyn. 2019. ASEAN Today. 1 4. Đã truy cập 6 28, 2023. https://www.aseantoday.com/2019/04/ vietnams-wait-and-see-regulatory-approach-inhibits-its-emergence-as-a-regional-fintech-leader/. 16. Douglas W. Arner, Jànos Barberis, Ross P. Buckley. 2015. “The Evolution of Fintech: A new post- crisis paradigm.” Hong Kong. 17. Douglas W. Arner, Ross P. Buckley, Dirk A. Zetzsche & Robin Veidt. 2020. “Sustainability, FinTech and Financial Inclusion.” Eur Bus Org Law Rev 21 7-35. 18. Financial Services Information Sharing and Analysis Center. 2023. Navigating Cyber 2023. FS ISAC. 19. Financial Stability Board. 2020. BigTech Firms in Finance in Emerging Market and Developing Economies. FSB. 20. Financial Stability Board. 2017. Financial Stability Implications from FinTech. FSB. 21. FRANKENFIELD, JAKE. 2023. Investopedia. 9 9. Đã truy cập 9 15, 2023. https://www.investopedia. com/terms/d/digital-asset-framework.asp. 22. Furche, et al. 2017. FinTech and the Future of Central Banking. Economic Policy Papers Central Bank of Chile, Central Bank of Chile. 23. Goh, Celeste. 2022. S&P Global. 19 4. Đã truy cập 9 21, 2023. https://www.spglobal.com/ marketintelligence/en/news-insights/research/major-apac-banks-could-embrace-fintechs-in- emerging-asia-for-next-wave-of-growth. 24. González-Páramo, José Manuel. 2017. “Financial innovation in the digital age: Challenges for regulation and supervision.” 25. Google, Bain & Temasek. 2022. e-Conomy SEA 2022. Google Bain & Temasek. 26. Graham, Sarah. 2023. EY. 11 11. Đã truy cập 6 27, 2023. https://www.ey.com/en_gl/news/2023/01/ cybersecurity-is-number-one-risk-for-global-banks-but-geopolitical-risk-tops-european-banks- concerns. 27. Hà, Dương Ngân. 2023. “Ứng dụng công nghệ số trong lĩnh vực chứng khoán trên thế giới và Việt Nam.” Tạp chí Tài chính. Đã truy cập 9 2023, 28. https://mof.gov.vn/webcenter/portal/vclvcstc/ pages_r/l/chi-tiet-tin?dDocName=MOFUCM279870. 28. Hằng, Đào Mỹ. 2023. “Ứng dụng công nghệ tài chính trong thanh toán tại Việt Nam: Thực trạng và khuyến nghị.” Kỷ yếu HT khoa học quốc gia: Công nghệ tài chính và tiền kỹ thuật số tại Việt Nam 182-185. 29. Hornuf. 2018. “How do banks interact with Fintechs? Forms of alliances and their impact on bank value.” 30. Hyperlead. 2022. Báo cáo thị trường Fintech Việt Nam 2022. Hà Nội: Hyperlead.
  13. Phần 2: Hoàn thiện về Thể chế và Chính sách 739 31. Institut Montaigne. 4/2021. “China’s Fintech: The end of the Wild West.” 32. Johannes Ehrentraud, Denise Garcia Ocampo, Lorena Garzoni, Mateo Piccolo. 2020. Policy responses to fintech: a cross-country overview. FSI. 33. Juan Carlos Crisanto, Johannes Ehrentraud and Marcos Fabian. 2021. Big techs in finance: regulatory approaches and policy options. FSI. 34. Jungkiu Choi, P.s., Pauline Wray, Shobhit Shubhankar, Jeroen Vandersteen. 2020. “The rise of digital banking in Southeast Asian.” BCG. 1 3. https://www.bcg.com/the-rise-of-digital-banking-in- southeast-asia. 35. Kizzee, Ken. 2023. Parachute cloud. 18 4. Đã truy cập 6 28, 2023. https://parachute.cloud/cyber- attack-statistics-data-and-trends/#:~:text=Phishing%20attacks%20against%20financial%20 institutions,the%20financial%20sector%20(2022).&text=On%20average%2C%20financial%20 organizations%20bore,behind%20healthcare%20institutions%. 36. Kwon, K.Y., Molyneux, P., Pancotto, L. và cộng sự. 2023. “Banks and FinTech Acquisitions.” Journal of Financial Services Research. 37. Leadsquared. 2023. Leadsquared. 14 6. Đã truy cập 9 12, 2023. https://www.leadsquared.com/ industries/finance/wealthtech-wealth-management/. 38. Menon, Sai Satkriti. 2023. Fintech: Market Data Analysis & Forecast. Market Insight, Germany: Statista. 39. Ndung’u, Njuguna. 2018. “Njuguna Ndung’u.” University of Cambridge. 28 6. Đã truy cập 6 16, 2023. https://www.jbs.cam.ac.uk/wp-content/uploads/2020/08/2018-keynote-ndungu.pdf. 40. Ngọc, Diễm. 2021. Bộ Tài chính Việt Nam. 29 6. Đã truy cập 6 28, 2023. https://mof.gov.vn/webcenter/ portal/ttncdtbh/pages_r/l/chi-tiet-tin?dDocName=MOFUCM203830. 41. Ngọc, Đinh Bảo. 2022. Tạp chí Ngân hàng. 21 7. Đã truy cập 6 30, 2023. https://tapchinganhang.gov. vn/thi-truong-fintech-tai-viet-nam-co-hoi-va-thach-thuc.htm#:~:text=%2D%20Kh%C3%A1ch%20 h%C3%A0ng%20s%E1%BB%AD%20d%E1%BB%A5ng%20c%C3%A1c,gia%20 v%C3%A0o%20ho%E1%BA%A1t%20%C4%91%E1%BB%99ng%20Fintech. 42. Pham Ha Thanh, Doan Minh Duc, Nguyen Hoang Hiep. 2022. Vietnam Law and Legal Forum. 4 3. Đã truy cập 6 29, 2023. https://vietnamlawmagazine.vn/how-vietnam-legally-adapts-to-the-emergence- of-fintech-48465.html. 43. Phan Trần Trung Dũng, Nguyễn Thị Hà Thanh. 2023. “Đánh giá so sánh về tiềm năng thâm nhập của dịch vụ công nghệ tài chính, trường hợp so sánh giữa Lào và các quốc gia trong khu vực đối với dịch vụ Robo-advisor.” Kỷ yếu Hội thảo công nghệ tài chính và tiền kỹ thuật số tại Việt Nam. Hà Nội: Đại học Hòa Bình. 45-54. 44. Saal, Matthew. 2018. “Regulating Fintech.” World Bank. 30 10. Đã truy cập 7 18, 2023. https://thedocs.worldbank.org/en/doc/779871573749633796-0130022019/render/ Session420191030Internationalperspectiveonfintechregulation.pdf. 45. Sia, Siew Kien. 2021. “Designing a Future Ready Enterprise: The Digital.” 46. Statista. 2023. Fintech: Market Data Analysis & Forecast. Statista. 47. Tanda. 2019. “FinTech, BigTech and Banks - Digitalisation and its Impact on Banking Business Models.” 48. Thorsten, Beck. 2020. “Fintech and financial inclusion: Opportunities and pitfalls.” ADBI Working Paper Series, No. 1165. 49. Vinh, Hồng. 2023. VnEconomy. 1 6. Đã truy cập 6 29, 2023. https://vneconomy.vn/mobile-money-da- co-gan-4-trieu-nguoi-dung.htm. 50. World Bank. 2020. How Regulators Respond to Fintech: Evaluating the Different Approaches - Sandboxes and Beyond. Washington, DC: World Bank. 51. Yizhu Wang, Nathaniel Melican. 2022. S&P Global. 4 4. Đã truy cập 6 27, 2023. https://www.spglobal. com/marketintelligence/en/news-insights/latest-news-headlines/steady-m-a-continues-to-deepen- bank-fintech-convergence-69421059.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2