Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019 Nghiên cứu Y học<br />
<br />
<br />
GÃY XƯƠNG HÀM MẶT VÀ ĐỘI MŨ BẢO HIỂM Ở TRẺ EM<br />
TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 1<br />
Tạ Thị Ngọc Hà*, Nguyễn Văn Đẩu*<br />
TÓM TẮT<br />
Mục tiêu: Xác định nguyên nhân, đặc điểm vị trí gãy xương hàm mặt ở trẻ em. Tìm hiểu thực trạng đội mũ<br />
bảo hiểm cho trẻ em và so sánh mức độ nghiêm trọng về gãy xương hàm mặt giữa nhóm có đội mũ bảo hiểm và<br />
nhóm không đội mũ bảo hiểm tại Bệnh Viện Nhi Đồng 1.<br />
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiến cứu mô tả hàng loạt ca, tất cả các bệnh nhi dưới<br />
16 tuổi có chẩn đoán lâm sàng và cận lâm sàng gãy xương vùng hàm mặt nhập Bệnh viện Nhi Đồng 1 trong thời<br />
gian từ 1/1/2019 đến 31/05/2019.<br />
Kết quả: Ghi nhận 24 trường hợp gãy xương hàm mặt, tuổi trung bình là 10,1 tuổi. Tỉ lệ Nam: Nữ là 2:1.<br />
Trong đó có 22 trường hợp do tai nạn giao thông (chiếm 91,6%). Và chỉ có 5 trường hợp đội mũ bảo hiểm (chiếm<br />
26,3%), trong đó có 13 trường hợp gãy xương tầng mặt giữa, 8 trường hợp gãy xương hàm dưới, 3 trường hợp<br />
gãy xương kết hợp.Vị trí gãy xương thường gặp là gãy tầng mặt giữa. Và không có sự khác biệt nhiều về mức độ<br />
nghiêm trọng gãy xương hàm mặt giữa nhóm có đội mũ bảo hiểm và nhóm không đội mũ bảo hiểm.<br />
Kết luận: Tỉ lệ gãy xương hàm mặt ở trẻ em ngày càng gia tăng đáng kể, nguyên nhân chủ yếu là do tai nạn<br />
giao thông và vị trí gãy xương thường gặp là gãy tầng mặt giữa. Vấn đề đội mũ bảo hiểm cho trẻ chưa được các<br />
bậc phụ huynh quan tâm đúng mức và loại mũ bảo hiểm chúng ta đang sử dụng đa số là loại mũ bảo hiểm hở<br />
mặt, chỉ có tác dụng che chắn vùng đầu không có tác dụng bảo vệ vùng hàm mặt. Do đó, nên ban hành luật sử<br />
dụng mũ bảo hiểm bắt buộc cho trẻ và cần có loại mũ bảo hiểm phù hợp hơn để thay thế.<br />
Từ khóa: gãy xương hàm mặt, vai trò của mũ bảo hiểm<br />
ABSTRACT<br />
MAXILLOFACIAL FRACTURE AND HELMET FOR MAXILLOFACIAL REGION IN CHILDREN<br />
AT THE CHILDREN HOSPITAL 1<br />
Ta Thi Ngoc Ha, Nguyen Van Dau<br />
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 – No. 4 - 2019: 197 – 201<br />
Objective: To define the cause, characteristics of the position of the maxillofacial fracture in children. The<br />
situation of helmet wearing for children and compare the severity of maxillofacial fracture between the helmet and<br />
unhelmet wearing at Children's Hospital 1.<br />
Methods: Prospective case series study. All patients under 16 years old with clinical and subclinical<br />
diagnosis of maxillofacial fracture admitted to Children's Hospital 1 from January 1, 2019 to May 31, 2019.<br />
Results: There were 24 cases of maxillofacial fracture, the average age was 10.1 years old. The male to female<br />
ratio was 2:1. In which there are 22 cases due to traffic accidents (91.6%). And there are only 5 cases of helmet<br />
wearing (22.7%). There were 12 cases of middle third fractures, 7 cases of mandibular fractures and 3 combined<br />
fractures. Middle third fractures occurred most frequently (60%). And there is not much difference in the severity<br />
of maxillofacial fractures between the helmeted and non-helmeted using.<br />
Conclusions: The rate of maxillofacial fracture in children is increasing significantly, mainly due to traffic<br />
<br />
*Bệnh viện Nhi Đồng 1<br />
Tác giả liên lạc: BS. Tạ Thị Ngọc Hà ĐT: 0978584422 Email: ha_ngoc192@yahoo.com<br />
<br />
<br />
<br />
Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV. Nhi Đồng 1 197<br />
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019<br />
<br />
accidents and middle third fractures is the most common positions. The problem of wearing helmets for children<br />
has not been properly concerned by parents. And what kind of helmet we are using most of them are open-face<br />
helmets, only have the effect of covering the head area without protecting the maxillofacial area. Therefore, it is<br />
advisable to enact a law to use helmets for children and to have a more suitable helmet to replace.<br />
Key words: maxillofacial fracture in children, role of helmet<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ cứu nhiều, đặc biệt là đối tượng trẻ em.<br />
Chấn thương nói chung và chấn thương ĐỐITƯỢNG- PHƯƠNG PHÁPNGHIÊNCỨU<br />
hàm mặt nói riêng đang là một vấn đề nóng Đối tượng nghiên cứu<br />
bỏng trong hoàn cảnh của nước ta hiện nay, Bệnh nhi chấn thương hàm mặt nhập viện<br />
nơi mà phương tiện giao thông chủ yếu là xe 2 điều trị tại bệnh viện Nhi Đồng 1.<br />
bánh. Và có lẽ không có tổn thương nào mà<br />
Tiêu chí chọn mẫu<br />
bệnh nhân quan tâm và lo lắng hơn tổn<br />
Tất cả các bệnh nhi dưới 16 tuổi có chẩn<br />
thương vùng hàm mặt. Chấn thương hàm mặt<br />
đoán lâm sàng và cận lâm sàng gãy xương vùng<br />
gây nhiều tổn thương đa dạng, nếu những tổn<br />
hàm mặt.<br />
thương này không được điều trị sớm và đúng<br />
mức sẽ ảnh hưởng nhiều đến giải phẫu, chức Tiêu chí loại trừ<br />
năng, thẩm mỹ, tâm lý và sự phát triển toàn Các bệnh trên 16 tuổi có gãy xương hàm mặt<br />
diện của người bệnh(1,3). và các bệnh dưới 16 tuổi chấn thương những vị<br />
Đã có nhiều nghiên cứu về gãy xương hàm trí khác không có gãy xương hàm mặt.<br />
mặt được khảo sát ở đối tượng người lớn, còn ở Cỡ mẫu<br />
trẻ em thì rất ít. Gãy xương hàm mặt ở trẻ em Lấy trọn mẫu.<br />
nói chung hiếm gặp hơn so với người lớn. Tuy Phương pháp nghiên cứu<br />
nhiên, trong những tháng đầu năm 2019, theo<br />
Thiết kế nghiên cứu<br />
tình hình bệnh nhân nhập viện vì chấn thương<br />
hàm mặt tại bệnh viện Nhi Đồng 1, cho thấy tỉ lệ Nghiên cứu tiến cứu mô tả hàng loạt ca.<br />
các trẻ bị chấn thương hàm mặt ngày càng gia Thời gian và địa điểm nghiên cứu<br />
tăng đáng kể. Nguyên nhân chính gây chấn Từ 01/01/2019 đến 31/05/2019 tại khoa Răng<br />
thương là do tai nạn giao thông. Điều đặc biệt, Hàm Mặt Bệnh Viện Nhi Đồng 1.<br />
trong số những trẻ bị chấn thương này, đa số là Biến số nghiên cứu<br />
không đội mũ bảo hiểm hoặc đội mũ bảo hiểm<br />
Tuổi, giới tính, nguyên nhân gây chấn<br />
không đúng quy cách khi xảy ra tai nạn. Nhiều<br />
thương, vị trí gãy xương, có đội mũ bảo hiểm,<br />
bậc phụ huynh còn thờ ơ, hoặc chưa quan tâm<br />
không đội mũ bảo hiểm.<br />
đúng mức đến việc đội mũ bảo hiểm cho trẻ. Và<br />
có rất nhiều trẻ tự điều khiển xe máy, xe đạp Thu thập và xử lý số liệu<br />
điện khi chưa đủ tuổi cho phép. Số liệu được thu thập qua khai thác bệnh sử,<br />
Một vấn đề nữa là: loại mũ bảo hiểm mà thăm khám lâm sàng, các kết quả cận lâm sàng<br />
chúng ta đang sử dụng là loại mũ bảo hiểm hở và hồ sơ bệnh án.<br />
mặt (mũ bảo hiểm nửa đầu) có thể bảo vệ vùng Dân số nghiên cứu được chia thành 2 nhóm:<br />
hàm mặt khi xảy ra tai nạn hay không? Tác dụng nhóm có đội mũ bảo hiểm và nhóm không có<br />
bảo vệ vùng đầu, giảm nguy cơ chấn thương sọ đội mũ bảo hiểm, ghi nhận sự khác biệt về mức<br />
não của mũ bảo hiểm đã được làm rõ qua nhiều độ chấn thương giữa 2 nhóm.<br />
nghiên cứu trước đây, nhưng vai trò của mũ bảo Các số liệu được mã hóa, sau đó được nhập<br />
hiểm đối với vùng hàm mặt chưa được nghiên và phân tích bằng phần mềm stata 10.0.<br />
<br />
<br />
<br />
198 Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV. Nhi Đồng 1<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019 Nghiên cứu Y học<br />
<br />
Các biến số định lượng được trình bày dưới thông, được bố mẹ chở bằng xe máy hoặc tự<br />
dạng trung bình và độ lệch chuẩn. điều khiển xe máy, xe điện. Trong đó chỉ có 5 ca<br />
Các biến số định tính: tính tỉ lệ phần trăm. có đội mũ bảo hiểm, còn 14 ca không có đội mũ<br />
bảo hiểm (Bảng 4, 5).<br />
KẾT QUẢ<br />
Bảng 4. Hoàn cảnh chấn thương<br />
Đặc điểm chung của nhóm nghiên cứu<br />
Hoàn cảnh chấn thương n=22 %<br />
Qua nghiên cứu 24 trường hợp gãy xương Đi, chạy bộ 3 13,6<br />
hàm mặt tại bệnh viện Nhi Đồng 1, chúng tôi Được chở bằng xe máy 9 40,9<br />
nhận thấy tỷ lệ Nam/Nữ là: 2/1, lớn nhất là 16 Tự điều khiển xe máy, xe điện 10 45,5<br />
tuổi, nhỏ nhất là 2 tuổi, tuổi trung bình là 10,1 Bảng 5. Tỉ lệ sử dụng mũ bảo hiểm<br />
tuổi. Đa số các trường hợp gãy xương là do tai n=19 %<br />
nạn giao thông. Và điều đặc biệt là có đến 14 Đội mũ bảo hiểm 5 26,3<br />
phần lớn trẻ không đội mũ bảo hiểm hoặc đội Không đội mũ bảo hiểm 14 73,7<br />
<br />
mũ bảo hiểm không đạt yêu cầu. (tổng 22 ca, loại ra 3 ca đi , chạy bộ thì không đội mũ bảo hiểm<br />
nên chỉ khảo sát 19 ca tham gia phương tiện giao thông)<br />
Bảng 1. Phân bố bệnh theo giới tính<br />
Giới N=24 % Sự khác nhau về mức độ chấn thương giữa<br />
Nam 16 66,7 nhóm có đội mũ bảo hiểm và nhóm không đội<br />
Nữ 8 33,3 mũ bảo hiểm<br />
Nguyên nhân gãy xương hàm mặt ở trẻ em Bảng 6. Mức độ chấn thương<br />
Bảng 2. Phân bố nguyên nhân n= 19 Chấn thương Chấn thương<br />
sọ não hàm mặt<br />
Nguyên nhân N=24 %<br />
Đội mũ bảo hiểm 5 0 5<br />
Tai nạn giao thông 22 91,6<br />
Không đội mũ bảo 14 3 14<br />
Té ngã 2 8,4 hiểm<br />
Trong 24 trường hợp nghiên cứu, có 22 Chúng tôi khảo sát 19 trường hợp tham gia<br />
trường hợp do tai nạn giao thông, 1 trường hợp giao thông , được chia làm 2 nhóm, nhóm có sử<br />
do té lầu, 1 trường hợp do té cây. Nguyên nhân dụng mũ bảo hiểm (5 trẻ) và nhóm không có sử<br />
chính gây gãy xương hàm mặt là do tai nạn giao dụng mũ bảo hiểm (14 trẻ).<br />
thông, chiếm 91,6% (Bảng 2).<br />
Qua thăm khám lâm sàng và các kết quả cận<br />
Sự phân bố vị trí gãy xương lâm sàng: ghi nhận có 3 trẻ bị chấn thương sọ<br />
Bảng 3. Phân bố vị trí gãy xương não trong 14 trẻ không đội mũ, không có trẻ nào<br />
Vị trí N = 24 % bị chấn thương sọ não trong nhóm 5 trẻ có đội<br />
Gãy tầng mặt giữa 13 54,2 mũ bảo hiểm.<br />
Gãy xương hàm dưới 8 33,3<br />
Gãy kết hợp 3 12,5<br />
Về chấn thương hàm mặt: trong 14 trẻ<br />
không đội mũ bảo hiểm ghi nhận có gãy<br />
Qua nghiên cứu cho thấy gãy xương hàm<br />
xương hàm dưới và gãy xương tầng mặt giữa<br />
mặt ở trẻ em gặp nhiều nhất là gãy xương tầng<br />
khá nghiêm trọng.<br />
mặt giữa. Trong 24 trường hợp chấn thương, ghi<br />
nhận 13 trường hợp gãy tầng mặt giữa, 8 trường Trong 5 trẻ có đội mũ bảo hiểm ghi nhận có<br />
hợp gãy xương hàm dưới và 3 trường hợp gãy gãy xương hàm dưới và gãy xương tầng mặt<br />
xương kết hợp: gãy tầng mặt giữa kết hợp với giữa cũng khá nặng nề không kém so với nhóm<br />
gãy xương hàm dưới (Bảng 3). trẻ không đội mũ bảo hiểm. Chúng tôi nhận thấy<br />
không có sự khác biệt nhiều về mức độ chấn<br />
Thực trạng đội mũ bảo hiểm cho trẻ<br />
thương hàm mặt giữa 2 nhóm này (Bảng 6).<br />
Trong 22 trường hợp gãy xương do tai nạn<br />
Tuy nhiên về chấn thương hàm mặt thì giữa<br />
giao thông, có 19 trường hợp tham gia giao<br />
trẻ có đội mũ hay không đội mũ đều có mức độ<br />
<br />
<br />
Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV. Nhi Đồng 1 199<br />
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019<br />
<br />
chấn thương tương tự nhau, không có sự khác Lê Đức Lánh (2006 – 2010), gãy tầng mặt giữa<br />
biệt nhiều. Điều đó có nghĩa việc sử dụng loại chiếm 71,5%, gãy xương hàm dưới là 28,5%(2).<br />
mũ bảo hiểm như chúng ta hiện nay là không Nhưng kết quả này trái ngược với các nghiên<br />
phù hợp. cứu của thế giới. Gãy xương hàm dưới chiếm tỉ<br />
BÀN LUẬN lệ cao hơn gãy tầng mặt giữa, theo Galas: Gãy<br />
XHD chiếm 60%, theo Ortakoglu là 72,2% “Phân<br />
Qua nhiên cứu, chúng tôi nhận thấy tỉ lệ gãy<br />
tích gãy xương hàm mặt trong 5 năm khảo sát<br />
xương hàm mặt ở trẻ em điều trị tại khoa Răng<br />
trên 157 bệnh nhân”(4).<br />
hàm mặt (RHM) bệnh viện Nhi Đồng 1 ngày<br />
càng gia tăng. Cùng thời điểm của nghiên cứu Về thực trạng sử dụng mũ bảo hiểm cho trẻ em<br />
này năm 2018, chúng tôi thống kê được 15 ca Qua nghiên cứu này chúng tôi nhận thấy tỉ<br />
gãy xương. Năm 2019 là 24 ca tăng 9 ca so với lệ đội mũ bảo hiểm cho trẻ em còn rất thấp, chưa<br />
năm trước. Chấn thương gãy xương hàm mặt được quan tâm đúng mức. Nhiều bậc phụ<br />
xảy ra ở nam nhiều hơn nữ, với tỉ lệ nam:nữ là huynh còn thờ ơ với việc trang bị mũ bảo hiểm<br />
2:1. Nguyên nhân gây gãy xương hàm mặt phổ cho con em mình. Có lẽ do luật sử dụng mũ bảo<br />
biến nhất là do tai nạn giao thông, chiếm đến hiểm cho trẻ em ở nước ta chưa được ban hành<br />
91,6%, chiếm tỉ lệ khá cao. Kết quả về nguyên nghiêm ngặt và các bậc phụ huynh chưa lường<br />
nhân gây gãy xương hàm mặt trong nghiên cứu trước được các nguy cơ, các rủi ro đối với vùng<br />
này cũng phù hợp với các nghiên cứu trước đây đầu mặt của trẻ khi xảy ra tai nạn.<br />
khảo sát trên đối tượng người lớn ở Việt Nam và Và với vai trò của mũ bảo hiểm<br />
các nước đang phát triển trên thế giới. Tác dụng bảo vệ vùng đầu, giảm nguy cơ<br />
Theo số liệu nghiên cứu của viện Răng Hàm chấn thương sọ não của mũ bảo hiểm đã được<br />
Mặt Hà Nội năm 2010: 80% do tai nạn giao làm rõ qua nhiều nghiên cứu trước đây. Theo<br />
thông và 20% do các nguyên nhân khác như té Cochrane năm 2009 “Mũ bảo hiểm giảm 42%<br />
ngã, tai nạn sinh hoạt, tai nạn lao động. Một nguy cơ tử vong và giảm 69% nguy cơ chấn<br />
nghiên cứu ở Ấn Độ được đăng trên tạp chí Hàn thương sọ não”. Qua kết quả nghiên cứu trên,<br />
Quốc năm 2016, cho thấy chấn thương hàm mặt chúng tôi nhận thấy mức độ nghiêm trọng về<br />
do tai nạn giao thông chiếm 73,8% và 26,2% do gãy xương hàm mặt giữa nhóm có bảo hiểm và<br />
các nguyên nhân khác(6). nhóm không có bảo hiểm là như nhau, không có<br />
Việc chẩn đoán gãy xương hàm mặt ở trẻ em sự khác biệt nhiều. Theo cảm nhận của chúng tôi<br />
khó khăn hơn nhiều so với người lớn và thường loại mũ bảo hiểm mà chúng ta đang sử dụng là<br />
bị bỏ sót, đặc biệt là ở những trẻ quá nhỏ, những loại mũ bảo hiểm hở mặt (mũ bảo hiểm nửa<br />
trẻ không hợp tác. Do đó để có một chẩn đoán đầu) chỉ bảo vệ phần đầu, sọ não không có che<br />
xác định chính xác cần phải dựa vào nhiều yếu chắn được vùng mặt khi xảy ra tai nạn.<br />
tố: khai thác bệnh sử, khám lâm sàng, các kết Loại mũ kín mặt<br />
quả cận lâm sàng. Trong đó phim CT scanner là Loại mũ bảo hiểm mà chúng ta đang sử<br />
cận lâm sàng có giá trị nhất cho chẩn đoán. dụng là loại mũ bảo hiểm hở mặt chỉ có tác dụng<br />
Mức độ nghiêm trọng của gãy xương hàm bảo vệ được vùng đầu, không có tác dụng che<br />
mặt phụ thuộc vào nguyên nhân, cơ chế xảy ra chắn vùng hàm mặt. Do đó cần phải có một loại<br />
chấn thương, hoàn cảnh xảy ra chấn thương. mũ bảo hiểm phù hợp hơn để thay thế, loại mũ<br />
Qua nghiên cứu này cho thấy gãy xương hàm bảo hiểm kín mặt vừa có tác dụng bảo vệ vùng<br />
mặt ở trẻ em gặp nhiều ở gãy xương tầng mặt đầu, vừa có tác dụng bảo vệ vùng hàm mặt. Cần<br />
giữa hơn là gãy xương hàm dưới. Kết quả này khuyến khích mọi người sử dụng loại mũ bảo<br />
cũng phù hợp với nghiên cứu của Lê Phong Vũ - hiểm kín mặt để giảm thiểu tối đa nguy cơ, mức<br />
<br />
<br />
<br />
200 Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV. Nhi Đồng 1<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 4 * 2019 Nghiên cứu Y học<br />
<br />
độ nghiêm trọng về chấn thương hàm mặt khi ban hành luật sử dụng mũ bảo hiểm bắt buộc<br />
xảy ra tai nạn(5) (Hình 1). cho trẻ em. Đề xuất nên có loại mũ bảo hiểm kín<br />
mặt có kết cấu vừa che chắn phần đầu, vừa che<br />
chắn phần mặt để thay thế loại mũ bảo hiểm<br />
chúng ta đang sử dụng.<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
1. Borle RM (2014). “Maxilofacial trauma”, in: Borle RM, Textbook<br />
of oral and maxillofacial surgery, 2th, pp.423. Elsevier India.<br />
2. Lê Phong Vũ, Lê Đức Lánh (2011). “Dịch tễ lâm sàng và điều trị<br />
gãy xương hàm dưới tại bệnh viện đa khoa trung tâm Tiền<br />
Giang từ năm 2006 đến 2010”. Y học TP. Hồ Chí Minh, 15(2):208-<br />
Hình 1. Mũ bảo hiểm hở mặt và mũ bảo hiểm kín mặt 212.<br />
KẾT LUẬN 3. Nguyễn Bắc Hùng (2000). Chấn thương vùng hàm mặt - Bài<br />
giảng phẫu thuật tạo hình. Bộ môn Phẫu thuật tạo hình, Trường<br />
Gãy xương hàm mặt ở trẻ em ngày càng gia Đại Học Y Hà Nội.<br />
4. Ortakoglu K, et al (2004). “An analysis of maxilofacial fracture:<br />
tăng đáng kể, nguyên nhân chủ yếu là do tai nạn<br />
A 5-year survey of 157 patients”. Mil Med, 169(9):723-727.<br />
giao thông và vị trí gãy xương thường gặp là gãy 5. Ruslin M, et al (2018). “The influence of helmet on the<br />
tầng mặt giữa. Vấn đề đội mũ bảo hiểm cho trẻ prevention of maxillofacial fractures sustained during<br />
motorcycle accidents”. Cogent Engineering, 5(1):e1-7.<br />
nói chung chưa được các bậc phụ huynh quan 6. Singaram M, et al (2016). “Prevalence, pattern, etiology, and<br />
tâm đúng mức. Và loại mũ bảo hiểm chúng ta management of maxillofacial trauma in a developing country: a<br />
đang sử dụng đa số là loại mũ bảo hiểm hở mặt, retrospective study”. J Korean Assoc Oral Maxillofac Surg,<br />
42(4):174–181.<br />
chỉ có tác dụng che chắn vùng đầu không có tác<br />
dụng bảo vệ vùng hàm mặt. Do đó để giảm Ngày nhận bài báo: 20/07/2019<br />
thiểu tỉ lệ gãy xương hàm mặt, giảm thiểu mức Ngày phản biện nhận xét bài báo: 30/07/2019<br />
độ nghiêm trọng gãy xương hàm mặt, ngoài việc Ngày bài báo được đăng: 05/09/2019<br />
tuyên truyền, giáo dục đến mọi người chấp hành<br />
nghiêm chỉnh luật an toàn giao thông, còn phải<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Hội Nghị Khoa Học Nhi Khoa BV. Nhi Đồng 1 201<br />