intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

GIA NHẬP WTO VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐỐI VỚI TÌNH HÌNH PHÂN PHỐI THU NHẬP Ở VIỆT NAM - 3

Chia sẻ: Le Nhu | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:17

67
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Các nghiên cứu đều suy luận ở mức độ tương đối tổng hợp (chỉ dừng lại ở khoảng 20 ngành) ; không có nghiên cứu nào tính đến các tác động mang tính động : tất cả các mô hình được sử dụng đều là mô hình tĩnh (trừ nghiên cứu CEPII/ISD, 2007 ; ở đây, chúng tôi không bình luận nghiên cứu này, vì nghiên cứu này chưa hoàn thiện khi chúng tôi viết báo cáo này). Nhiều nghiên cứu (Dimaranan, 2005 ; Nguyễn và Ezaki, 2005) sử dụng mô hình EGC đa quốc gia GTAP, điều đó cho...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: GIA NHẬP WTO VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐỐI VỚI TÌNH HÌNH PHÂN PHỐI THU NHẬP Ở VIỆT NAM - 3

  1. dữ liệu được phân tách chi tiết đến khoảng 100 sản phẩm (Ma trận hạch toán xã hội), các nghiên cứu đều suy luận ở mức độ tương đối tổng hợp (chỉ dừng lại ở khoảng 20 ngành) ; không có nghiên cứu nào tính đến các tác động mang tính động : tất cả các mô hình được sử dụng đều là mô hình tĩnh (trừ nghiên cứu CEPII/ISD, 2007 ; ở đây, chúng tôi không bình luận nghiên cứu này, vì nghiên cứu này chưa hoàn thiện khi chúng tôi viết báo cáo này). Nhiều nghiên cứu (Dimaranan, 2005 ; Nguyễn và Ezaki, 2005) sử dụng mô hình EGC đa quốc gia GTAP, điều đó cho phép tích hợp tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO đối với các nước khác (hàng hóa Việt Nam tiếp cận thị trường các nước khác dễ dàng hơn, biến động giá trên thị trường thế giới…). 35/82
  2. Bảng 7 : Dự báo dựa trên 23 kịch bản dựa trên các mô hình EGC về tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO (biên động tính bằng %) Công trình nghiên cứu Số kịch bản GDP Xuất khẩu Nhập khẩu Min Max Min Max Min Max 7 0,2 3,3 0,6 12,1 na na Roland-Holst (2002) 4 4 15 -2 56 -1 36 Vanzetti và Hương (2006) 2 6,74 7,88 15,22 18,81 na na Dimaranan (2005) 3 -0,27 5,31 -0,82 20,53 -1,28 27,54 Fujii và Roland-Holst (2007) Fukase và Martin (1999) (1) 3 0,4 2,4 0,3 8,8 na na 3 0,0 0,1 0,6 2,2 0,5 2,1 Tarp Jensen và Tarp (2005) 1 -0,55 -0,55 18,24 18,24 15,39 15,39 Nguyễn và Ezaki (2005) Nguồn : dựa trên nghiên cứu của Abbott (2007) ; có cập nhật của các tác giả. (1) Tác động của việc Mỹ giành cho Việt Nam quy chế tối huệ quốc. Những kết quả chung được trình bày tại Bảng 7. Việc Việt Nam gia nhập WTO sẽ kéo theo việc Việt Nam phải tự do hóa thương mại cho các nước thành viên khác và ngược lại, các nước thành viên khác cũng phải tự do hóa thương mại đối với Việt Nam . Tuy nhiên, phần lớn các nước thành viên của WTO đều đã giành cho Việt Nam quy chế tối huệ quốc (MFN), do vậy, việc còn lại là quá trình Việt Nam đơn phương tự do hóa thương mại đối với các nước thành viên khác14. Nhìn chung, các nghiên cứu này đều ít chú trọng đến vấn đề cắt giảm thuế quan (kể cả vấn đề chuyển đổi các hàng rào phi thuế quan). Không có nghiên cứu nào dựa trên các dữ liệu cụ thể về cắt giảm thuế quan như quy định trong Hiệp định WTO. Tác động của việc tự do hóa thương mại đơn phương (kịch bản được đưa ra trong nhiều công trình nghiên cứu) luôn được đánh giá là tích cực trong các giả thiết được trình bày trong phần trên và trong trường hợp của một nước nhỏ (không ảnh hưởng đến giá cả trên thị trường thế giới). Các nghiên cứu đều kết luận mức lợi ích thu được từ việc gia nhập WTO là không đáng kể: mức lợi ích thu được đối với Việt Nam tối đa chỉ bằng 14 Trên thực tế, Việt Nam cũng được hưởng lợi từ việc hàng hóa Việt Nam tiếp cận thị trường các nước khác dễ dàng hơn nhờ việc xóa bỏ hạn ngạch đối với hàng dệt may xuất khẩu sang thị trường Mỹ và Liên minh châu Âu. 36/82
  3. 3,3% GDP (Roland-Holst, 2002), trừ hai nghiên cứu mới đây đưa ra giả thiết cạnh tranh hoàn hảo và tận dụng hết các yếu tố sản xuất. Theo nghiên cứu của Vanzetti và Hương (2006), mức lợi ích thu được tương đương 15% GDP, có tính đến yếu tố thất nghiệp. Theo nghiên cứu của Dimaranan (2005), mức lợi ích thu được khoảng 7,9% GDP trong trường hợp tự do hóa thương mại toàn bộ, tức là đi xa hơn rất nhiều so với việc gia nhập WTO thuần túy (nhưng mức tác động sẽ giảm 70% nếu tính đến quy định của WTO buộc bãi bỏ cơ chế hoàn thuế (duty drawbacks), cơ chế này cho phép miễn thuế hải quan đối với hàng hóa nhập khẩu phục vụ cho việc sản xuất hàng xuất khẩu). Tác động của việc tự do hóa thương mại đa phương có thể tích cực hoặc tiêu cực tùy theo từng nghiên cứu. Nghiên cứu của Nguyễn và Ezaki (đánh giá tác động của nhiều kịch bản hội nhập khu vực mà chúng tôi không đi sâu bình luận ở đây) đưa ra mức tác động tiêu cực là -0,5% GDP (với mức tăng trưởng tiêu dùng cao) với việc sử dụng các giả thiết ít thực tế như Nhà nước chắc chắn sẽ bù trừ các khoản giảm thu ngân sách (giảm thu và giảm chi ngân sách với mức hơn 40%) ; nghiên cứu của Tarp Jensen và Tarp (2005) đưa ra mức lợi ích thu được là 5,3 điểm GDP trong trường hợp tự do hóa thương mại đa phương (kết hợp với tự do hóa thương mại đơn phương sau khi gia nhậpWTO). Như nhận xét của Abbott (2007), tất cả các nghiên cứu này đều đánh giá mức độ tác động rất thấp so với tỷ lệ tăng trưởng trung bình 7,5%/năm của Việt Nam, với đà tăng trưởng này, cứ 10 năm GDP của Việt Nam lại tăng gấp đôi. Cũng có thể có cùng nhận xét như vậy về tác động đối với xuất khẩu (10% đến 20% về dài hạn) ; cần phải so sánh với mức tăng trưởng gần 20%/năm đối với xuất khẩu ! Sự vênh nhau này có thể được lý giải theo hai cách : hoặc là vì sự tăng trưởng của Việt Nam bắt nguồn từ các nguyên nhân khác chứ không phải từ chính sách tự do hóa thương mại, hoặc là vì các nghiên cứu đã đánh giá thấp mức độ tác động thực tế của chính sách này. Các nghiên cứu đều nhận xét rằng các Hiệp định thương mại song phương mà Việt Nam ký với các nước trước đây (ASEAN, USBTA,...) đã tạo ra sự tăng trưởng thương mại lớn hơn rất nhiều so với những gì thu được từ việc cắt giảm thuế quan vốn chỉ ở mức khiêm tốn. Sự tăng trưởng thương mại làm xuất hiện những sản phẩm mới được đưa vào trao đổi (với một sự chuyên môn hóa mạnh mẽ hơn). Kinh nghiệm cho thấy việc gia nhập WTO sẽ tiếp tục tăng cường đà tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam dựa trên sự phát triển của thương mại quốc tế. Giống như các công trình nghiên cứu khác về tác động của tự do hóa thương mại dựa trên các mô hình EGC (xem phần 3.1 phía trên), các công trình nghiên cứu về Việt Nam có hai hạn chế chính : thiếu tính hiện thực trong việc sử dụng các yếu tố của các mô hình ; các mô pphỏng chỉ quan tâm đến vấn đề cắt giảm thuế quan (dù mức giảm không nhiều) chứ khong quan tâm đến các tác động quan trọng khác. Kết quả khiêm tốn thu được một phần cũng do những hạn chế này. Tất cả các mô hình được sử dụng cho đến nay đều có cách tiếp cận mang tính tĩnh (trừ nghiên cứu của CEPII/ISD, nhưng ở đây, chúng tôi không bình luận nghiên cứu này ở đây). Lợi ích tĩnh mang lại từ việc cắt giảm thuế quan (tam giác Harberger về lợi ích gắn với việc tái phân bổ nguòn lực) thường ở mức khiêm tốn, nhất là khi thuế quan của Việt Nam được duy trì ở mức thấp và việc cắt giảm thuế quan sau khi gia nhập WTO chỉ ở mức khiêm tốn. Từ giữa những năm 1990, giới nghiên cứu bắt đầu quan tâm đến những lợi ích động thu được từ việc tự do hóa thương mại (tác động đối với cạnh tranh, 37/82
  4. nâng cao hiệu suất sản xuất….), được coi là các yếu tố cần thiết để có thể thu được các kết quả tác đọng lớn hơn. Nhưng những tác động này được mô hình hóa dựa trên những yếu tố đặc thù nhất thời, mà không dựa trên các mô hình tăng trưởng rõ ràng; theo Roland-Holst (2002), những lợi ích thu được trong việc gia tăng hiệu suất sản xuất chủ yếu là nhờ cải cách các chính sách trong nước. Nhưng những lợi ích này lại được tích hợp vào mô hình như là các yếu tố ngoại sinh. Những khía cạnh phi thuế quan của WTO (cạnh tranh, đầu tư trực tiếp ...) cũng cần phải được đưa vào các mô phỏng. Để dự đoán tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO, cũng cần phải tính đến những cải cách thể chế và Việt Nam đã tiến hành trong quá trình gia nhập. Chỉ có một nghiên cứu duy nhất có tính đến tác động đối với cạnh tranh trong trường hợp của Việt Nam, đó là nghiên cứu của Dee (2005) về thương mại dịch vụ (không được đưa vào Bảng 7). Ý tưởng đưa ra là việc mở cửa lĩnh vực dịch vụ cho các hãng nước ngoài sẽ làm giảm quyền lực độc quyền của các hãng trong nước. Tuy nhiên, nghiên cứu của Abbott lưu ý rằng kinh nghiệm của các nước khác cho thấy thay vào độc quyền nhà nước, sẽ xuất hiện độc quyền/độc quyền nhóm của các hãng đa quốc gia (như vậy, sẽ không được hưởng lợi từ giảm độc quyền). Hạn chế thứ hai gắn với những khó khăn trong việc mô hình hóa quá trình mở cửa rất nhanh của nền kinh tế Việt Nam. Nghiên cứu Abbott đã bình luận hết sức chi tiết vấn đề về nhu cầu xuất khẩu (và cả nhập khẩu). Do thiếu dữ liệu, nên đã không tính toán được hệ số co dãn thay thế Armington15 trong trường hợp của Việt Nam. Do tốc độ tăng trưởng xuất khẩu rất nhanh, cho nên các hệ số co dãn chuẩn được sử dụng trong các mô hình không còn phù hợp nữa (ví dụ, chúng không cho phép đánh giá được tác động của Hiệp định thương mại Việt Nam-Mỹ). Tác động của việc gia nhập WTO đối với tình hình phân phối thu nhập Hai nghiên cứu trình bày trong phần trên tập trung đánh giá tác động của việc gia nhập WTO đối với tình hình phân phối thu nhập, đặc biệt là tác động đối với tình trạng nghèo đói. Các nghiên cứu này sử dụng kết hợp một mô hình cân đối chung EGC với một mô hình mô phỏng vi mô. Như nhận xét trong nghiên cứu của Abbott : « một điều rất ngạc nhiên là những tác động không đáng kế đối với GDP [thu được từ các nghiên cứu tác động] thể hiện bằng một sự tác động đối với tình trạng nghèo đói không xác định ». Như vậy dấu hiệu tác động thay đổi tùy theo từng nghiên cứu, tùy theo từng kịch bản và từng giả thiết kinh tế vĩ mô. Nó phụ thuộc vào loại biện pháp điều chỉnh chính sách thuế, vốn có tác động không kém so với biện pháp cắt giảm thuế quan. Nghiên cứu thứ nhất được thực hiện bởi Tarp Jensen và Tarp (2005) sử dụng một mô hình cân bằng tổng thể EGC dựa trên ma trận MCS 2000 được xây dựng bởi chính các tác giả (Tarp Jensen, 2004). Mô hình này tích hợp dữ liệu điều tra về 6 000 hộ gia đình trong cuộc điều tra VLSS 1997/1998, đại diện cho toàn bộ dân số Việt Nam. Ba loại mô phỏng vi mô được thực hiện: 15 Hệ số co dãn Armington dùng để đo mức độ biến động tương đối của nhu cầu nhập khẩu khi mức biến động của giá là 1% (Hàm CES : Constant Elasticity of Substitution). Điều này cũng đúng với hàm nhu cầu xuất khẩu. 38/82
  5. - Trong mô phỏng thứ nhất, và cũng là mô phỏng chi tiết nhất, phân phối thu nhập và tiêu dùng của các hộ gia đình được mô hình hóa như là yếu tố nội sinh đối với 6 000 hộ gia đình; -Trong mô phỏng thứ hai, có đưa vào dữ liệu biến động về tiêu dùng của một tập hợp gồm 16 nhóm hộ gia đình đại diện được cung cấp bởi mô hình cân bằng tổng thể EGC để giảm các chỉ dấu tiêu dùng và nghèo đói cho toàn bộ các hộ gia đình thuộc diện điều tra (cách làm top-down với yếu tố tiêu dùng tổng hợp) ; - Trong mô phỏng thứ ba, cũng sử dụng cách làm top down để đưa vào yếu tố biến động giá của các yếu tố sản xuất đối với 6 000 hộ gia đình tùy theo khối lượng các yếu tố sản xuất mà các hộ gia đình có thể cung cấp, từ đó đánh giá mức biến động thu nhập của các hộ gia đình đó. Sau đó, tiến hành mô phỏng ba kịch bản khác nhau : xóa bỏ thuế xuất khẩu ; tự do hóa thương mại toàn bộ (xóa bỏ hoàn toàn thuế hải quan) ; kết hợp hai kịch bản trước. Theo Tarp Jensen và Tarp (2005), việc xóa bỏ thuế hải quan sẽ không ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách Nhà nước (vì được bù trừ bằng việc tăng các loại thuế khác) và sẽ làm gia tăng tình trạng đói nghèo. Trái lại, nếu Nhà nước quyết định không bù trừ khoản giảm thu ngân sách do xóa bỏ thuế hải quan bằng việc tăng các loại thuế khác thì tỷ lệ nghèo đói sẽ giảm 9%. Việc phân chia ba vùng địa lý (Bắc, Trung và Nam) cho thấy miền Nam có mức giảm nghèo lớn nhất và miền Bắc có mức giảm nghèo thấp nhất. Tuy nhiên, nghiên cứu này sử dụng phương pháp quá giản đơn. Ma trận hạch toán xã hội về phân phối giá trị gia tăng giữa các yếu tố sản xuất có cấu trúc như nhau đối với tất cả các lĩnh vực hoạt động (xem phần dưới đây). Phương pháp giản đơn này không đảm bảo tính xác thực của kết quả mô phỏng đánh giá tác động của chính sách kinh tế đối với phân phối thu nhập. Theo nghiên cứu Fujii và Roland-Holst (2007), phần lớn những người nghèo ở nông thôn có hai kênh để hưởng lợi từ sự tăng trưởng ở thành thị : di cư ra thành thị và buôn bán nông sản. Nhưng cho đến này, chưa có nghiên cứu nào về Việt Nam tính đến yếu tố di cư. Do vậy, để Việt Nam, một nước có tỷ lệ đô thị hóa thập, với 75% dân số sống ở các vùng nông thôn (chủ yếu sống bằng nông nghiệp) có thể được hưởng lợi từ việc gia nhập WTO, thì nhất thiết việc gia nhập này phải mang lại những lợi ích cho lĩnh vực nông nghiệp và các hộ gia đình ở nông thôn. Nghiên cứu thứ hai của Fujii và Roland-Holst (2007) sử dụng một mô hình mô phỏng vi mô tích hợp (EGC- điều tra VLSS 1997/1998). Hơn nữa, các tác giả còn phân tích tác động về mặt địa lý của việc gia nhập WTO đối với tình trạng nghèo đói ở mức độ rất cụ thể, bằng việc lập các « bản đồ về nghèo » đói theo phương pháp được đề xuất trong nghiên cứu của Elbers (2002, 2003)16. 16 Các « bản đồ nghèo đói » này sử dụng các dữ liệu của cuộc thống kê dân số 1999 kết hợp với dữ liệu của cuộc điều tra VLSS 1997/1998. Nguyên tắc được sử dụng cho các Bản đồ nghèo đói này là lập phương trình thu nhập dựa trên kết quả điều tra hộ gia đình (VLSS), sau đó áp dụng các phương trình này cho toàn bộ dân số (số liệu thống kê dân số). Như vậy, có thể đánh giá được tình trạng nghèo đói của từng cá nhân 39/82
  6. Các giả thiết về giá và khối lượng được cung cấp bởi GTAP. Mô hình cân đối chung giả thiết sử dụng hết các yếu tố sản xuất, lao động và vốn lưu chuyển linh hoạt giữa các ngành, lĩnh vực. Đất đai là một yếu tố sản xuất đặc thù trong lĩnh vực nông nghiệp. Không có cạnh tranh không hoàn hảo, không có tiết kiệm theo quy mô và cũng không có những lợi ích có tính chất động thu được từ thương mại. Ba kịch bản được đề xuất: - UL (Unilateral Liberalization) tương ứng với việc gia nhập WTO (chỉ tính đến tác động của việc cắt giảm thuế quan về phía Việt Nam và xóa bỏ trợ cấp xuất khẩu)17 ; FL (Full Liberalization) tương ứng với việc gia nhập WTO kết hợp với tự do hóa - thương mại đa phương (giả thiết về một Hiệp định của WTO) ; - DDST tương ứng với kịch bản loại FL nhưng ở đó Việt Nam xóa bỏ trợ cấp xuất khẩu nhưng vẫn tiếp tục được hưởng chế độ đối xử đặc biệt giành cho các nước đang phát triển ; điều này có nghĩa là mức cắt giảm thuế quan thấp hơn và tiếp tục được hỗ trợ trong nước cho sản xuất. Nghèo đói trên phạm vi toàn quốc giảm 0,8% trong kịch bản UL và giảm 6,8% trong kịch bản FL. Trong kịch bản DSDT, tỷ lệ nghèo đói tăng 0,6%. Trên phạm vi vùng, sự thay đổi mức nghèo đói rất khác nhau: dao động từ - 2,4% đến - 14,3% trong kịch bản FL. Mức dao động này có tính đến những khác biệt trong phân phối thu nhập ban đầu cũng như tính không thuần nhất trong thành phần các hộ gia đình và các cá nhân. Một kết quả đáng kể khác, mối quan hệ tương liên giữa tỷ lệ nghèo đói ban đầu (ex ante) và sự biến động về tỷ lệ nghèo đói giữa các vùng trong hai kịch bản FL và DSDT (-0,71 và -0,60). Kịch bản FL cho kết quả giảm nghèo cao nhất trong phạm vi vùng và trong các vùng nghèo nhất. Mặc dù có sự tương liên này, người ta cũng nhận thấy sự khác biệt lớn giữa các vùng nghèo : tỷ lệ nghèo đói giảm nhanh nhất (trừ kịch bản DSDT) trong các vùng duyên hải trong khi đó vùng Tây Bắc và biên giới Việt Nam không có cải thiện đáng kể (nhưng cũng không xấu đi). Sau đây, chúng tôi trình bày về hai nghiên cứu đánh giá tác động trong giai đoạn quá khứ (ex post) của tự do hóa thương mại. Hai nghiên cứu này phân tích sự thay đổi về thu nhập và tiêu dùng của một nhóm 4 300 hộ gia đình trong giai đoạn 1992/1993- 1997/1998, cứ cách 5 năm lại được hỏi 2 lần trong khuôn khổ điều tra VLSS. Các nghiên cứu này nhằm đánh giá tác động của tự do hóa thương mại dựa trên nghiên cứu tác động của sự biến động giá cả một số mặt hàng nông sản : lương thực (gạo) mà các hộ gia đình là nhà sản xuất hoặc người tiêu dùng (trong nhiều trường hợp vừa là nhà sản xuất, vừa là người tiêu dùng) và cây công nghiệp (cà phê). Khác với các nghiên cứu sử dụng mô hình cân bằng tổng thể EGC, các nghiên cứu này suy luận dựa trên các cân đối bộ phận và dựa trên việc đánh giá các mô hình toàn kinh tế sử dụng dữ liệu cá nhân. xuất phát từ những đặc điểm cá nhân thu được từ cuộc tổng điều tra dân số (cho phép tính toán được mức thu nhập) và tình trạng nghèo đói của các một vùng. 17 Nhưng kịch bản này hình như không tính đến việc hàng hóa Việt Nam tiếp cận thị trường các nước khác dễ dàng hơn nhờ việc gia nhập WTO (đặc biệt là việc xóa bỏ hạn ngạch xuất khẩu vào thị trường Mỹ và châu Âu). 40/82
  7. Niimi, Vasudeva và Winters (2003) đánh giá các mô hình logit đa quốc gia áp dụng cho những thay đổi về tình trạng nghèo tiền tệ, biết rằng ½ các hộ gia đình trong nhóm đã thoát nghèo trong giai đoạn nghiên cứu (với một số nhỏ tái nghèo). Theo kết quả nghiên cứu, việc tăng sản xuất cà phê sẽ làm tăng gấp đôi cơ may thoát nghèo, trong khi đó việc tăng sản xuất gạo sẽ chỉ làm tăng 50% cơ may thoát nghèo. Các tác giả kết luận tự do hóa thương mại có tác động tích cực đối với các hộ gia đình thuộc đối tượng nghiên cứu. Isik-Dikmelik (2006) đánh giá các mô hình hồi quy đa biến động với cùng một nhóm các gia đình. Nghiên cứu nhận thấy sự tăng trưởng thu nhập từ nông nghiệp đạt tốc độ nhanh hơn rất nhiều sự tăng trưởng thu nhập từ các nguồn khác của các hộ gia đình nông thôn. Nghiên cứu kết luận rằng các biện pháp cải cách thực hiện trong những năm 1990, đặc biệt là tự do hóa thị trường lúa gạo, đã góp phần cải thiện đáng kể đời sống của người nông dân. Cách tiếp cận này có ưu điểm là dựa trên những giả thiết lý thuyết rất hạn chế và xác định được những tác động kinh tế vi mô rất cụ thể. Tuy nhiên, cách làm này chủ yếu mang tính miêu tả và giới hạn trong một khoảng thời gian ngắn (5 năm). Phương pháp này không cho phép phân biệt giữa các yếu tố có ảnh hưởng đến sự biến động giá cả (đặc biệt là những tác động của các chính sách trong nước và các chính sách thương mại, sự biến động giá trên thị trường thế giới...). Như vậy, nó lại rơi vào nhược điểm của các phương pháp thuộc dạng « trước-sau » (before-after), không đảm bảo mối quan hệ nhân quả giữa chính sách được thực hiện và mức độ cải thiện đời sống của người dân. Do vậy, sẽ là thiếu cơ sở khi cho rằng những tác động nhận thấy có nguồn gốc từ cải cách chính sách thương mại. 3.3. Nhược điểm của các nghiên cứu về tác động của việc gia nhập WTO đối với Việt Nam Nhìn chung, các nghiên cứu về tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO cho đến nay vẫn còn một số nhược điểm nhất định. Phần lớn các nghiên cứu này tập trung phân tích tác động của việc tự do hoá thương mại nói chung, chứ không chỉ riêng tác động của việc gia nhập WTO. Mặt khác, các nghiên cứu này quá tổng hợp, không cho phép dánh giá cụ thể tác động của các chính sách thương mại đối với tình hình phân phối thu nhập. Trong trường hợp của Việt Nam , các nghiên cứu cũng có cùng những hạn chế như trên và chỉ đề cập một phần rất nhỏ đến tác động của việc gia nhập WTO: - những nghiên cứu về tác động trong giai đoạn quá khứ (ex post) của việc tự do hoá thương mại mang lại rất ít thông tin có thể sử dụng trực tiếp để đánh giá tác động tiềm tàng của việc gia nhập WTO đối với Việt Nam. Các nghiên cứu này chủ yếu phân tích các loại tác động nói chung, vượt ra ngoài phạm vi vấn đề tự do hoá ngoại thương. - các nghiên cứu cho tương lai (ex ante) được thực hiện dựa trên các mô hình EGC lại tập trung đánh giá tác động của việc tự do hoá hải quan mà không đưa vào các tác 41/82
  8. động khác của việc gia nhập WTO. Hơn nữa, các nghiên cứu này quá tổng hợp, không cho phép phân tích được tác động đối với vấn đề phân phối thu nhập. Chính vì vậy, cần có những nghiên cứu bổ sung thêm trong lĩnh vực này nhằm đưa vào các nguồn tác động khác nhau của việc gia nhập WTO, chứ không chỉ giới hạn ở vấn đề tự do hoá hải quan và phân tích tác động đối với từng loại hộ gia đình khác nhau. Nghiên cứu bổ sung này được giới thiệu trong phần sau. 4. Phân tích tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO đối với tình hình phân phối thu nhập : các mô phỏng từ mô hình vi mô-vĩ mô Trong phần này, tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO đối với tình hình phân phối thu nhập sẽ được đánh giá dựa trên mô hình cân bằng tổng thể (EGC) áp dụng cho nền kinh tế Việt Nam và tập trung vào những vấn đề đã nêu trong ba phần trước của nghiên cứu. Thông qua việc miêu tả cụ thể các luồng trao đổi thương mại, các mô hình EGC cho phép mô phỏng các chính sách tự do hóa và do vậy vẫn thường được sử dụng để phân tích tác động của loại chính sách này. Bên cạnh đó, các mô hình này có thể được kết hợp với các mô hình mô phỏng vi mô nhằm phân tích sâu sắc hơn tác động của các chính sách đó đối với tình hình phân phối thu nhập. Trong khuôn khổ báo cáo của chúng tôi, các mô phỏng được thực hiện mang tính khảo sát dựa trên một mô hình EGC tĩnh được xây dựng từ một ma trận hạch toán xã hội mới (từ năm 2000) và được kết hợp trình tự với một mô hình mô phỏng vi mô kế toán nhằm phân tích các vấn đề phân phối thu nhập. Loại công cụ này đã từng được sử dụng để nghiên cứu tác động của các chính sách xóa đói giảm nghèo ở Madagascar (Cogneau và Robilliard, 2006) và tác động của các chính sách thương mại ở Inđônêxia (Robilliard và Robinson, 2001). Phần này chia thành 3 phần nhỏ. Trong phần nhỏ thứ nhất, chúng tôi sẽ bước đầu phân tích cấu trúc và những biến chuyển của thị trường lao động trong giai đoạn 1997-2004 (việc làm và thu nhập) nhằm làm rõ trong bối cảnh nào các hộ gia đình bị tác động từ việc gia nhập WTO. Phần nhỏ thứ hai sẽ trình vắn tắt các giai đoạn xây dựng mô hình vĩ mô-vi mô có liên hệ với các cú sốc xảy ra sau khi gia nhập WTO, và chúng tôi sẽ cố gắng mô hình hóa các cú sốc này. Phần nhỏ cuối cùng tập trung phân tích các kết quả thu được từ các kịch bản mô phỏng khác nhau. 4.1. Cấu trúc và những biến chuyển của thị trường lao động Việt Nam 1997- 2004 Một phần lớn của cú « sốc » kinh tế vĩ mô phát sinh do việc gia nhập WTO sẽ được truyền đến các hộ gia đình thông qua thị trường lao động (nguồn cung các yếu tố sản xuất, năng xuất của các yếu tố). Loại yếu tố sản xuất mà hộ gia đình năm giữ (lao động có tay nghề hay không có tay nghề), thu nhập (sự biến động về tiền lương và thu nhập từ lao động), tỷ lệ sử dụng các yếu tố (số lượng việc làm có trong giai đoạn tương lai ex ante) là những yếu tố mấu chốt xác định khả năng của các hộ gia đình trong việc hưởng lợi từ những thay đổi về kinh tế vĩ mô. Ví dụ, hiện tượng gia tăng số lượng việc làm không đòi hỏi tay nghề và tăng tiền lương trong ngành dệt may có lợi trước tiên cho các hộ gia đình nắm giữ loại yếu tố sản xuất này và các hộ gia đình này có thể gia tăng sự tham gia vào thị trường lao động. 42/82
  9. Khai thác số liệu của các cuộc điều tra VHLSS (Vietnam Household Living Standard Survey) cho phép hình dung được một cách khá cụ thể về cấu trúc của thị trường lao động Việt Nam. Cuộc điều tra VHLSS 2004, tức là cuộc điều tra mới nhất cho đến nay, cung cấp các dữ liệu về quy mô và cấu trúc của nguồn nhân lực tùy theo trình độ tay nghề, sự phân bố nhân lực theo các ngành, lĩnh vực và theo khu vực, các tập hợp mang tính quyết định để có thể hiểu được cách thức phân phối thu nhập từ lao động trong dân cư. Các số liệu của cuộc điều tra VHLSS 2004 giúp chúng tôi cập nhật ma trận hạch toán xã hội 2000 (được lập dựa trên cuộc điều tra VLSS 1997-1998) và là cơ sở để thực hiện các mô phỏng vi mô. So sánh những biến chuyển quan sát được trong những năm qua cũng cho phép thu được nhiều thông tin bổ ích. Thật vậy, sự kiện Việt Nam gia nhập WTO là kết tinh của cả một quá trình tích cực, chủ động hội nhập quốc tế. Trong tinh thần đó, những xu hướng quan sát được trong thời gian vừa qua sẽ giúp chúng ta xác định những hướng phát triển chính trong thời gian tới. Để làm việc này, chúng tôi sẽ phân tích kết quả 3 cuộc điều tra tiến hành gần đây ở Việt Nam 1997-1998, 2002 và 2004. Tỷ lệ lao động làm công ăn lương gia tăng Sự tăng trưởng kinh tế đầy ấn tượng của Việt Nam trong thập kỷ vừa qua đã làm tăng mạnh tỷ lệ lao động làm công ăn lương, là một trong những hiện tượng rõ nét nhất trên thị trường lao động trong những năm vừa qua: tỷ lệ này tăng từ 19%, năm 1997 lên 32%, năm 2004 (Bảng 7). Xuất phát từ những mức rất thấp vào đầu kỳ, tỷ lệ này đã tăng lên trong tất cả các vùng trên cả nước. Ngay cả những vùng có tỷ lệ lao động làm công ăn lương thấp (Đông Bắc, Tây Bắc, Tây Nguyên), thì số người làm công ăn lương cũng có xu hướng tăng lên. Các tỉnh Đông Nam Bộ (xung quanh TP Hồ Chí Minh) có tỷ lệ lao động làm công ăn lương tăng nhanh nhất: đến cuối kỳ, tỷ lệ lao động làm công ăn lương chiếm 50% số người trong độ tuổi lao động. Bảng 7 : Tỷ lệ lao động làm công ăn lương theo từng vùng 1997-2004 Người trong độ Tỷ lệ lao động làm công ăn Tỷ l ệ % Dân số tuổi lao động lương 2004 2004 1997 2002 2004 11,4 12,1 9,2 18,6 20,3 Đông Bắc 3,0 3,0 4,5 13,4 13,6 Tây Bắc 21,8 23,0 16,5 31,5 34,9 Đông bằng sông Hồng 12,8 12,2 13,0 18,2 20,6 Duyên hải Bắc Trung B 8,6 8,3 23,2 31,0 33,7 Duyên hải NamTrung 5,7 5,1 4,4 19,5 22,3 Tây Nguyên 15,9 14,9 37,0 48,1 49,5 Đông Nam Bộ Đồng bằng sông Mêkông 20,9 21,5 19,3 32,6 33,1 100 100 18,6 29,5 31,8 Tổng Nguồn : VLSS 1998, VHLSS 2002 và 2004 ; tính toán của tác giả. Có thể phân tích tỷ lệ lao động làm công ăn lương theo cách phân loại được sử dụng trong ma trận hạch toán xã hội MCS, từ đó phân tách các yếu tố (khu vực cư trú, giới tính, trình độ chuyên môn ; xem phần 4.2.). 43/82
  10. Edited by Foxit Reader Copyright(C) by Foxit Software Company,2005-2007 For Evaluation Only. Thứ nhất, hơn ¾ số người trong độ tuổi lao động có việc làm sống ở khu vực nông thôn. 80% nguồn nhân lực là lao động giản đơn không có tay nghề (theo ma trận hạch toán xã hội, đó là những người có trình độ học vấn dước bậc trung học cơ sở ; Bảng 8). 15% được coi là có tay nghề một phần (những người có trình độ trung học phổ thông). Nhân lực có trình độ cao (đại học) chỉ chiếm 5% tổng số người trong độ tuổi lao động. Trong giai đoạn 1997-2004, cơ cấu về trình độ nghề nghiệp hầu như không thay đổi. Thứ hai, tỷ lệ lao động làm công ăn lương tăng nhanh nhất trong nhóm lao động có tay nghề : chiếm 86% trong số những người có tay nghề cao, trong khi chỉ chiếm ¼ trong số những người không có tay nghề. Lao động làm công ăn lương chủ yếu sống ở đô thị và chủ yếu là nam giới. Như đã trình bày trong các phần trên, quá trình phổ biến quan hệ làm công ăn lương tác động đến mọi tầng lớp dân cư mặc dù vẫn còn sự cách biệt lớn về trình độ học vấn. Cho dù sự cách biệt lớn này vẫn còn duy trì trong những năm tới, thì tỷ lệ lao động làm công ăn lương cũng rất có thể sẽ tiếp tục tăng trong tất cả các thành phần dân cư (nguồn nhân lực là lao động có tay nghề cao sẽ ngày càng khan hiếm). 44/82
  11. Bảng 8 : Tỷ lệ lao động làm công ăn lương theo thành phần dân cư 1997- 2004 (khu cư trú, giới tính, trình độ tay nghề) Tỷ l ệ % Cấu trúc* Tỷ lệ lao động làm công ăn lương 2004 1997 2002 2004 Nông thôn 75,7 12,2 23,7 25,2 Đô thị 24,3 42,4 50,4 52,4 Nam giới 50,2 23,2 36,8 39,0 Nữ giới 49,8 14,3 22,3 24,5 Không có tay nghề 80,2 14,4 23,3 25,1 Có tay nghề một phần 14,8 30,7 44,1 49,4 Có tay nghề cao 5,0 70,0 87,5 86,4 100 18,6 29,5 31,8 Tổng Nguồn : VLSS 1998, VHLSS 2002 và 2004, tính toán của tác giả. * : Tổng số dân trong độ tuổi lao động. Lao động làm công ăn lương đặc biệt phát triển trong các ngành công nghiệp (kể cả xây dựng) trong giai đoạn 1997-2004 : + 18 điểm % trong ngành dệt, + 16 điểm đối với các ngành chế tạo, + 9 điểm đối với ngành xây dựng (Bảng 9). Trong ngành nông nghiệp, lao động làm công ăn lương ít phổ biến, chiếm một tỷ lệ thấp và không thay đổi từ năm 2002 (dưới 10%). Trái lại, trong đánh bắt nuôi trồng thủy hải sản, số lượng lao động làm công ăn lương tăng cao (+12 điểm) do sự phát triển nhanh của ngành này. Về cơ cấu, tỷ lệ việc làm trong lĩnh vực nông nghiệp đã giảm 14 điểm, giảm từ 2/3 xuống còn ½ tổng số việc làm. Số việc làm này được chuyển sang cho ngành dịch vụ và sản xuất hàng hóa với tỷ lệ bằng nhau. Ngành sản xuất hàng hóa có tốc độ tăng trưởng việc làm cao nhất (chiếm 20% tổng số việc làm, năm 2004). 45/82
  12. Edited by Foxit Reader Copyright(C) by Foxit Software Company,2005-2007 For Evaluation Only. Bảng 9 : Tỷ lệ lao động làm công ăn lương theo ngành Cơ cấu (người trong độ Tỷ lệ lao động Tỷ l ệ % tuổi lao động) làm công ăn lương 1997 2002 2004 1997 2002 2004 Nông nghiệp 65,2 52,3 51,0 4,6 10,4 8,2 Đánh bắt, nuôi trồng thủy hải sản 1,9 3,0 3,3 15,6 31,0 27,3 Lương thực 2,3 2,4 2,6 40,9 46,9 46,6 Dệt 2,8 3,7 3,5 53,9 60,2 72,2 Các hàng hóa khác 5,1 7,1 7,0 52,0 60,0 68,0 Xây dựng 2,3 6,1 5,2 88,6 74,5 97,3 Dịch vụ 20,4 25,5 27,5 39,9 43,4 47,6 100 100 100 18,6 29,5 31,8 Tổng Nguồn : VLSS 1998, VHLSS 2002 và 2004, tính toán của tác giả. Vấn đề lao động thiếu việc làm Khả năng đáp ứng đối với cú sốc về nhu cầu lao động phụ thuộc vào số lượng lao động sẵn có trong nền kinh tế trong mối quan hệ với tỷ lệ sử dụng lao động trong giai đoạn tương lai (ex ante). Nếu nền kinh tế Việt Nam tạo đủ việc làm cho người lao động, thì một cú sốc tích cực về nhu cầu lao động sẽ dẫn đến hiện tượng tăng lương. Trái lại, nếu còn một tỷ lệ lao động thiếu việc làm, thì cú sốc về nhu cầu lao động sẽ được hấp thu nhờ tăng số lượng việc làm hoặc thông qua tăng lương, hoặc cả hai. Các cuộc điều tra VHLSS cho phép chúng tôi tính toán được chỉ số tỷ lệ sử dụng yếu tố lao động. Chỉ số này phản ánh mối quan hệ giữa số giờ thực tế làm việc trong năm (tính cho tất cả các loại việc làm) với số giờ làm việc có thể có (mỗi người dân trong độ tuổi lao động, có việc làm hoặc thất nghiệp, có thể làm việc tối đa 48 giờ/tuần, là thời giờ làm việc theo quy định của pháp luật Việt Nam)18 . Bảng 10 cho thấy mặc dù tỷ lệ thất nghiệp ở Việt Nam rất thấp, nhưng thị trường lao động vẫn còn lâu mới đạt được trạng thái đủ việc làm : trên phạm vi toàn quốc, có khoảng ¼ tổng số lao động không được sử dụng trong năm 2004. Do vậy, một cú sốc về nhu cầu lao động, gây ra bởi việc tăng nhu cầu sản xuất (tăng nhu cầu xuất khẩu và/hoặc tăng tiêu dùng nội địa) có thể được hấp thu mà không làm tăng chi phí đơn vị lao động có thể ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam. 18 Chỉ số này chưa tính đến biến đổi về tỷ lệ hoạt động (khối lượng lao động bổ sung từ những người hiện không tham gia thị trường lao động, nhưng có thể sẽ xuất hiện trên thị trường lao động khi tình hình được cải thiện (tạo việc làm, tăng lương). 46/82
  13. Edited by Foxit Reader Copyright(C) by Foxit Software Company,2005-2007 For Evaluation Only. Bảng 10 : Tỷ lệ việc làm theo trình độ tay nghề, năm 2004 Loại nhân công Không có Có tay nghề Có tay nghề Tỷ l ệ % tay nghề một phần cao Tổng Đông Bắc 77,8 79,8 87,2 78,5 Tây Bắc 73,7 81,3 82,5 74,7 Đồng bằng sông Hồng 79,3 80,2 85,4 79,9 Duyên hải Bắc Trung bộ 78,7 79,1 82,4 78,9 Duyên hải Nam Trung bộ 75,4 78,6 82,1 76,2 Tây Nguyên 78,0 79,6 81,1 78,2 Đông Nam Bộ 75,5 79,3 83,3 76,8 Đồng bằng sông Mêkông 67,4 72,9 83,8 68,2 75,0 78,9 84,2 76,0 Tổng Nguồn : VHLSS 2004, tính toán của tác giả. Tỷ lệ thiếu việc làm tương đối đồng đều giữa các vùng (trừ Đồng bằng sông Mêkông nơi có tỷ lệ thiếu việc làm cao nhất19), nhưng không đồng đều theo trình độ tay nghề. Nhóm lao động có tay nghề càng cao thì tỷ lệ thiếu việc làm càng thấp: tỷ lệ thiếu việc làm trong nhóm có tay nghề cao là 16%, trong khi tỷ lệ này là 25% trong nhóm không có tay nghề. Do vậy, nếu có tăng trưởng việc làm, thì sẽ chủ yếu tập trung vào nhóm việc làm có tay nghề thấp. Bên cạnh đó, sức ép tăng lương sẽ mạnh hơn trong các ngành đòi hỏi lao động có tay nghề cao. Một số ngành này hiện đang rơi vào tình trạng thiếu lao động (như ngành tin học). Tiền lương thực tế tăng mạnh trong những năm vừa qua Mặc dù tỷ lệ lao động thiếu việc làm còn cao, nhưng tiền lương thực tế vẫn liên tục tăng trong giai đoạn 1997 - 2004. Tăng trưởng kinh tế đã làm tăng thu nhập bình quân hàng năm của người làm công ăn lương lên 36,6% trong giai đoạn nay, tức là với tỷ lệ tăng trung bình hàng năm là 4,6%20. Tiền lương thực tế tăng cả ở khu vực nông thôn và thành thị (tương ứng là 42% và 46% trong giai đoạn 1997 - 2004). Tỷ lệ tăng lương chung trên phạm vi toàn quốc đạt mức thấp hơn (37%), điều này là do ảnh hưởng của cơ cấu lao động, với xu hướng nông thôn hóa đội ngũ làm công ăn lương. Năm 1997, 52% những người làm công ăn lương sống ở nông thôn. Năm 2004, tỷ lệ này tăng lên 72%. Những thay đổi về mức lương tùy theo trình độ học vấn có mối quan hệ tương liên chặt chẽ với tỷ lệ thiếu việc làm : mức lương của người lao động không có tay nghề tăng không nhiều (+24% so với +43% đối với người lao động có tay nghề). Mức lương của nam giới tăng thấp hơn mức lương 19 Tình trạng thiếu việc làm ở do dòng bằng sông Mê Kông là do lao động trong nông nghiệp trong vùng chiếm tỷ lệ lớn. Đây là loại lao động thời vụ. Tuy nhiên, còn số đưa ra có thể cao hơn so với thực tế, cần phải có những kiểm tra bổ sung 20 Tuy nhiên, cũng cần phải nhấn mạnh rằng số liệu về tỷ lệ tăng trưởng mức lương thực tế cao nhất trong giai đoạn 2002-2004 (+6% trung bình năm) là những số liệu có độ tin cậy thấp, lấy từ cuộc điều tra năm 2002 (đánh giá thấp mức thu nhập và chi tiêu; Perterson, 2005). 47/82
  14. của nữ giới (tương ứng là +32% và +45%). Những mức thay đổi khác nhau này có tác động không nhỏ đối với tình hình phân phối thu nhập. Bảng 11 : Thay đổi mức lương theo loại lao động 1997-2004 Tỷ lệ tăng Lương bình quân năm trưởng danh Tỷ lệ tăng trưởng thực tế (1 000 đ) nghĩa (%) 1997 2002 2004 2002/97 2004/02 2002/97 2004/02 2004/97 Nông thôn 4 008 5 633 7 335 40,5 30,2 23,4% 15,4% 42,4% Thành thị 7 846 12 145 14 716 54,8 21,2 35,9% 7,4% 46,0% Nam giới 6 351 8 537 10 757 34,4 26,0 18,0% 11,7% 31,8% Nữ giới 5 119 7 284 9 542 42,3 31,0 24,9% 16,1% 45,1% Không có tay nghề 4 781 5 906 7 609 23,5 28,8 8,5% 14,2% 23,9% Có tay nghề một phần 6 511 9 773 12 296 50,1 25,8 31,8% 11,6% 47,0% Có tay nghề cao 10 561 15 741 19 364 49,0 23,0 30,9% 9,1% 42,7% 5 863 8 060 10 290 37,5 27,7 20,7 13,2 36,6 Tổng Nguồn : VLSS 1998, VHLSS 2002 và 2004, tính toán của tác giả. Xu hướng tăng lương thực tế có thể được nhận thấy ở tất cả các vùng. Tuy nhiên, xu hướng này rõ nét hơn trong các vùng nghèo nhất (Đông Bắc, Tây Bắc và Tây Nguyên), vị trí tương đối của các vùng này dần được cải thiện. Đây cũng là những vùng sâu, vùng xa, dân số ít, tỷ lệ lao động làm công ăn lương thấp (từ 10% đến 20%, năm 2004). Các tỉnh thuộc vùng Đông Nam Bộ là các tỉnh có mức lương cao nhất (cao hơn 2 lần so với các tỉnh lân cận thuộc Đồng bằng sông Mêkông). Sự chênh lệch giá cả chỉ là một nguyên nhân nhỏ dẫn đến sự chênh lệch về mức lương này. Trái lại, vùng Thủ đô Hà nội (Đồng Bằng sông Hồng) có mức lương thấp hơn mức lương trung bình cả nước. 48/82
  15. Bảng 12 : Thay đổi mức lương theo vùng 1997-2004 Lương trung bình Tỷ lệ tăng nă m trưởng danh Tỷ lệ tăng trưởng thực tế (1000 đ) (%) nghĩa 1997 2002 2004 2002/97 2004/02 2002/97 2004/02 2004/97 Đông Bắc 4 180 7 718 10 344 84,6 34,0 62,1 18,8 92,6 Tây Bắc 3 932 6 654 9 400 69,2 41,3 48,6 25,3 86,0 Đồng bằng sông Hồng 5 479 7 575 9 878 38,3 30,4 21,4 15,6 40,3 Duyên hải Bắc Trung Bộ 4 324 6 398 8 355 48,0 30,6 29,9 15,8 50,4 Duyên hải Nam Trung Bộ 5 487 7 544 9 342 37,5 23,8 20,7 9,8 32,5 Tây Nguyên 4 106 6 192 8 780 50,8 41,8 32,4 25,7 66,4 12 Đông Nam Bộ 8 498 547 15 072 47,6 20,1 29,6 6,5 38,0 Đồng bằng sông Mêkông 4 155 5 610 7 139 35,0 27,3 18,5 12,8 33,7 5 863 8 060 10 290 37,5 27,7 20,7 13,2 36,6 Tổng 8,3 13,0 3,8 6,4 4,6 Trung bình năm Nguồn : VLSS 1998, VHLSS 2002 và 2004, tính toán của tác giả. Tăng thu nhập từ lương trong ngân sách gia đình Sự kết hợp hai xu thế tích cực này (tăng tỷ lệ lao động làm công ăn lương và tăng lương thực tế) có tác động đến ngân sách gia đình. Trong cơ cấu chi phí tiêu dùng của các hộ gia đình, thu nhập từ tiền lương chiếm một tỷ lệ ngày càng tăng. Tỷ lệ này đã tăng gần gấp đôi trong 6 năm : từ 21%, năm 1997 lên 38%, năm 2004. Tỷ lệ thu nhập từ lương trong ngân sách gia đình tăng nhanh nhất trong các vùng có tỷ lệ lao động làm công ăn lương thấp nhất và mức lương thấp nhất (tức là những vùng nghèo nhất). Năm 2004, tỷ lệ thu nhập từ tiền lương trong chi phí tiêu dùng là 30% trong các vùng nghèo nhất so với 44% trong các vùng giàu nhất (Đông Nam Bộ). Năm 1997, sự chênh lệch này là 6% (Đông Bắc) so với 34%. Tỷ trọng tiền lương trong tổng chi tiêu tăng lên trong tất cả các loại hộ gia đình. Tỷ trọng này càng cao hơn trong nhóm các hộ giàu, tuy nhiên không thấp hơn ¼ trong tất cả các loại hộ gia đình (24% đối với nhóm nghèo nhất, so với 44% đối với nhóm giàu nhất). Ngay cả ở khu vực nông thôn, tỷ trọng tiền lương trong tổng chi tiêu cũng đạt mức gần 1/3 (43% ở đô thị), điều này cho thấy quá trình nông thôn hoá đội ngũ làm công ăn lương. 49/82
  16. Edited by Foxit Reader Copyright(C) by Foxit Software Company,2005-2007 For Evaluation Only. Bảng 13 : Tỷ trọng thu nhập từ lương trong ngân sách của các hộ gia đình 1997- 2004 (theo vùng và theo nhóm hộ gia đình) Tỷ l ệ % 1997 2002 2004 1997 2002 2004 Đông Bắc 9,8 32,7 36,0 Nhóm 1 15,6 31,2 23,5 Tây Bắc 5,6 25,9 29,6 Nhóm 2 14,5 35,4 29,9 Đông Bằng sông Hồng 18,2 36,9 38,4 Nhóm 3 16,3 35,0 33,6 Duyên hải Bắc Trung Bộ 13,8 26,7 30,1 Nhóm 4 17,6 35,0 38,0 Duyên hải Nam Trung Bộ 24,1 40,5 39,8 Nhóm 5 26,5 42,8 43,5 Tây Nguyên 4,2 29,2 29,4 Đông Nam Bộ 34,1 50,8 44,0 Đô thị 33,4 47,2 43,1 Đông bằng sông Mêkông 16,7 34,4 32,6 Nông thôn 12,3 31,6 32,6 20,8 38,4 37,6 20,8 38,4 37,6 Tổng Tổng Nguồn : VLSS 1998, VHLSS 2002 và 2004, tính toán của tác giả. Tăng trưởng việc làm trong khu vực công nghiệp nhưng tăng lương ở mức thấp Các ngành sản xuất hàng hoá, đặc biệt là ngành dệt may là những ngành chịu tác động rõ rệt nhất từ những thay đổi về thuế quan, nhu cầu xuất khẩu và dòng đầu tư nước ngoài đổ vào. Phân tích những biến đổi về việc làm và tiền lương trong ngành công nghiệp sẽ cung cấp cho chúng ta những cứ liệu để có thể hiểu rõ hơn những biến đối có thể xảy ra sau khi gia nhập WTO. Tiền lương trong khu vực công nghiệp biến đổi chậm hơn trong các khu vực khác (+18% tăng lương thực tế so với 37% đối với tất cả đội ngũ làm công ăn lương), đặc biệt là ngành dịch vụ (+58%). Xu hướng này có thể sẽ còn tiếp tục trong bối cảnh một chính sách trả lương chặt chẽ hơn dưới sức ép cạnh tranh quốc tế ngày càng tăng trong các ngành sản xuất hàng tiêu dùng. Tác động tích cực chủ yếu của xu hướng này chủ yếu là làm tăng việc làm, chứ không làm tăng lương. Thật vậy, trong giai đoạn 1997-2004, các ngành công nghiệp đã đóng góp rất lớn vào tăng trưởng việc làm, với mức tăng trưởng là +57% nguồn nhân lực trong các ngành công nghiệp (so với 8% đối với toàn bộ nền kinh tế) và +104% đối với những người làm công ăn lương (so với +84% đối với tất cả các ngành khác). Số người làm công ăn lương trong khu vực công nghiệp đã tăng lên gấp đôi trong giai đoạn 1997 - 2004. 50/82
  17. Bảng 14 : Cơ cấu và sự biến đổi của việc làm trong các ngành công nghiệp theo từng loại nhân công 1997-2004 Tỷ lệ lao động làm Lương thực tế công ăn lương (%) Việc làm (2004) (1000) % cơ cấu. (1000đ) Biến đổi % Lao động Lao động làm làm công, công, ăn Tổng ăn lương lương 1997 2004 2004 2004/97 2 978 2 311 36,6% 68,4% 77,6% 14 111 37,4% Đô thị 5 505 4 007 63,4% 48,0% 72,8% 7 535 24,2% Nông thôn 5 222 4 228 66,9% 63,2% 81,0% 10 477 16,6% Nam giới 3 262 2 090 33,1% 49,7% 64,1% 8 854 20,1% Nữ giới 6 418 4 627 73,2% 56,7% 72,1% 8 065 14,4% Không có tay nghề Có tay nghề một 1 663 1 321 20,9% 59,1% 79,5% 12 273 17,7% phần 403 369 5,8% 67,2% 91,8% 25 079 10,6% Tay nghề cao 8 484 6 318 100,0% 57,5% 74,5% 9 940 18,4% Tổng Công nghiệp 1 586 1 144 53,9% 72,2% 9 165 11,1% Tổng dệt 45 572 14 482 18,6% 31,8% 10 290 36,6% Tổng toàn quốc Nguồn : VLSS 1998 và VHLSS 2004, tính toán của tác giả. Phân tích thành phần giới tính của nhân công trong các ngành công nghiệp cho thấy nam giới chiếm 2/3 tổng số nhân công (66,9%). Trái lại, ngành dệt may là một ngoại lệ trong các ngành công nghiệp ở đó nữ giới chiếm tỷ lệ rất cao (76%). Giữa các nhóm nhân công vẫn còn tồn tại sự cách biệt nhất định về tiền lương, tuy nhiên sự phát triển của các ngành công nghiệp đã góp phần thu hẹp cách biệt này. Trong giai đoạn 1997-2004, tỷ lệ tăng lương khá cao đối với lao động nữ (+20% so với +16% đối với lao động nam), mặc dù mức thu nhập trung bình của lao động nữ vẫn thấp hơn thu nhập trung bình của lao động nam. Nhóm lao động không có tay nghề hoặc tay nghề thấp trong các ngành công nghiệp cũng được hưởng tỷ lệ tăng lương khá cao (tương ứng là +15% và +18% so với +11% đối với nhóm lao động tay nghề cao). Tiền lương ở khu vực nông thôn tăng nhanh hơn ở khu vực đô thị, như vậy xu hướng nông thôn hoá đội ngũ nhân công trong các ngành công nghiệp (năm 2004, 77% số việc làm trong các ngành công nghiệp nằm ở khu vực nông thôn, so với 56% trong các ngành dịch vụ) đã có tác động tích cực đối với tình hình thu nhập của các vùng nông thôn. 51/82
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2