intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Giá trị dinh dưỡng của Cá TRÔI

Chia sẻ: Nguyen Uyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:11

236
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Cá Trôi là một loài cá nước ngọt thuộc gia đình Cá chép (Cyprinidae) rất phổ biến tại Việt Nam và các quốc gia Đông Nam Á. Cá đã được nghiên cứu khá kỹ lưỡng và trở thành một trong những loài cá được nuôi tại nhiều quốc gia trên thế giới như Trung Hoa, Việt Nam, Thái lan trong các môi trường nhân tạo từ quy mô nhò như ao, hồ cá gia đình đến các trại nuôi công nghiệp để khai thác thương mãi. Tên gọi của cá trong dân gian có những điểm cần chú ý...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Giá trị dinh dưỡng của Cá TRÔI

  1. Giá trị dinh dưỡng của Cá TRÔI Cá Trôi là một loài cá nước ngọt thuộc gia đình Cá chép (Cyprinidae) rất phổ biến tại Việt Nam và các quốc gia Đông Nam Á. Cá đã được nghiên cứu khá kỹ lưỡng và trở thành một trong những loài cá được nuôi tại nhiều quốc gia trên thế giới như Trung Hoa, Việt Nam, Thái lan trong các môi trường nhân tạo từ quy mô nhò như ao, hồ cá gia đình đến các trại nuôi công nghiệp để khai thác thương mãi. Tên gọi của cá trong dân gian có những điểm cần chú ý như Cá trôi đen thật sự là Cá trắm đen (Black carp= Mylopharyngodon piceus) và Cá trôi Ấn độ (Cá Rohu, Labeo rohita) là một loài khác hẳn với cá trôi Việt. Mật và ruột cá trám đen (bị gọi là cá trôi đen) là thủ phạm gây ra nhiều vụ ngộ độc tại Việt Nam, có thể gây chết người như tại Đồng Nai (25 tháng 11, 2006). Nhiều trường hợp nuốt mật cá trám đen, được truyền miệng là có khả năng bổ dương, kích dục thay cho..Viagra (!), đã phải đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện..
  2. (Xin đọc các bài về gia đình Cá chép trong Đặc tính dinh dưỡng và Trị liệu của Cá và Thủy sản, tập 2 của cùng tác giả) Tên khoa học và các tên khác : Cirrhina= Cirrhinus molitorella thuộc họ Cyprinidae Các tên khác : Mud carp, White Lady carp Carpe de vase (Pháp), Carpa de fango (Tây Ban Nha) Giống Cirrhinus có khoảng 24 loài trong đó có những loài rất tương cận với Cá trôi Việt và gặp hay được nuôi tại Việt Nam như : Cá trôi Tàu = Chinese Mud Carp. Cirrhinus chinensis Cá trôi vảy nhỏ = Small scale Mud Carp Cirrhinus microlepsis Cá trôi Mrigal= Mrigal carp Cirrhinus cirrhosus = C. mrigala Đặc điểm sinh học : Cá có thể dài đến 30 cm, thân hình thoi dẹp. Chiều dài của thân gấp 3.3-3.8 chiều cao. Ngực và bụng tròn. Đầu lớn vừa, ngắn và rộng. Mõm tù Miệng dưới nằm ngang, hơi uốn cong, có 2 cặp râu : một đôi râu mồm dài và
  3. một đôi râu hàm tương đối nhỏ. Mắt nằm chếch trên và ở phần nửa trước đầu. Răng mọc chen chúc, có đỉnh hình móc. Vây lưng khá cao, không có tia gai cứng, viền sau vây hơi lõm xuống. Vây ngực nhỏ hơn vây bụng. Vây hậu môn ngắn.Vây đuôi chẻ sâu. Các vây đều màu xám. Thân phủ vẩy tròn to : có khoảng 7-8 vẩy ở phía trên vây ngực có sắc tố màu xanh-đen tạo thành những đốm đen nhỏ. Thân cá lưng màu xám xanh nhạt hay xám nâu, phía bụng trắng nhạt hơn. Ruột cá rất dài, gấp từ 8 đến 20 lần thân. Cá Trôi phân bố trong vùng Nam Trung Hoa và Bắc Việt Nam, Thái lan tại lưu vực các sông Trân châu (Pearl river, Trung Hoa) Mekong, Chao Phraya (Thái lan), sông Hồng.. Tại Việt Nam cá phân bố tự nhiên ở các sông, suối trong vùng đồng bằng, cao nguyên và được nuôi khắp nơi trong các ao, hồ, đầm, và trong cả các ao cá gia đình. Cá thường được nuôi ghép chung với các loại cá kinh tế khác như cá mè trắng, mè hoa, trám cỏ..Cá sinh sống ở vùng nước có độ sâu 5-20m. Thực phẩm của cá là các chất bã hữu cơ vụn, các vi tảo sống bám ở đáy như tảo silic, tảo xanh, các động vật nguyên sinh.
  4. Cá thuộc loại có trọng khối trung bình 0.5 kg , cá lớn đạt đến 5 kg, tuy nhiên thường khai thác ở mức 0.3-1 kg. Cá nuôi nhân tạo thành thục ở lứa tuổi 3 năm (khi dài 25cm, cân nặng 0.30 kg). Sức tăng trưởng tùy thuộc vào điều kiện nuôi và nguồn thức ăn. Cá kỷ lục, bắt tại Quảng đông năm 2004, có chiều dài đến 100cm và nặng 11.25 kg. Trong môi trường tự nhiên, khoảng thời gian cuối Xuân, đầu Hè, cá thành thục di chuyển từ vùng hạ lưu các sông ngược lên vùng trung lưu, tìm các vùng nước có lưu lượng cao hay chảy mạnh có những điều kiện thích hợp để đẻ trứng. Khi đẻ trứng cá tập trung thành đàn đông và phát ra tiếng kêu 'u, u'. từng đợt rất rõ. Cá không sinh sản được trong điều kiện nước đứng. Sức sinh sản khá cao : cá nặng 1kg có thể cho đến 100 ngàn trứng. Trứng trôi xuôi về hạ lưu để nở.. Tại Bắc Việt Nam trên các sông lớn như sông Thao, sông Đà, hạ lưu sông Hồng và tại các hồ như hồ Thác Bà, Ba Bể.. số lượng cá do bị đánh bắt quá mức đã bị sút giảm đến mức báo động.. Cá trôi Tàu : Cá tuy phân bố phần lớn tại lưu vực sông Trân châu, sông Min nhưng c ũng gặp tại lưu vực sông Hồng, Bắc Việt Nam. Tại Trung Hoa, cá được gọi dưới nhiều tên khac nhau như Lăng ngư (líng-yù), tên Quảng đông là Thổ lăng ngư, Tuyết lăng ngư. Tên gọi này gây nhầm lẫn với
  5. Cá lăng Việt Nam, thường dùng làm món chả cá, tên khoa học Macrones nemurus, là một loài cá thuộc gia đình Catfish. Cá trôi vảy nhỏ : Tên Thái lan : Pla nuan chan; Lào : Pa phone. Cá phân bố phần lớn tại lưu vực sông Mekong, thuộc Thái- Lào, Campu chea và gặp cả tại vùng đồng bằng sông Cửu Long khi cá di chuyển để sinh đẻ. Tại Việt Nam, cá ở dạng 'cá bột' chỉ lớn dưới 20cm, có nơi gọi là cá rói. Cá sinh sống tại những phụ lưu lớn, và di chuyển vào đồng ruộng trong mùa nước lụt. Cá lớn trung bình 65cm, thân trăng bạc, rất nhiều vảy nhỏ. Cá rất được ưa chuộng tại Thái lan và Campuchea, trong khu Biển hồ.. Cá trôi Mrigal : Đây là loài rất phổ biến tại Pakistan, Ấn độ và một nguồn thực phẩm rất quan trọng trong vùng. Cá được du nhập và thả nuôi tại Việt Nam. Cá khai thác thương mại dài trung bình 40 cm, tuy nhiên có thể lớn đến 1m. Vây lưng khá cao. Tổng sản lượng trên thế giới lên đến 550 ngàn tấn : Ấn độ và Bangladesh là 2 quốc gia sản xuất nhiều nhất, Lào, Thái và Myanmar cũng là những nước nuôi nhiều cá mrigal. Cá trôi nuôi : Theo tài liệu của Cơ Quan Lương Nông Thế giới FAO thì tại Trung Hoa việc nuôi cá trôi được thực hiện sau cá chép rất nhiều, có thể từ đời Nhà Tang (618-904), do tên họ của Nhà Vua được phát âm giống như tên cá Chép nên dân Tầu được khuyến cáo là nuôi.. cá trôi thay thế (?)..
  6. Nghề nuôi cá trôi cho đến nay chưa được phát triển mấy, tuy cá đã được di thực đến các quốc gia Indonesia, Singapore, Nhật, Taiwan, Hong Kong. FAO và các Cơ quan quốc tế khác đã tài trợ cho nhiều dự án nghiên cứu nhằm phát triển việc nuôi cá trôi tại Việt Nam, Lào và Campuchea.. Việc nuôi cá trôi trong quy mô công nghiệp hiện chỉ được tổ chức tại Trung Hoa. Đa số các dự án tại Việt Nam, Lào chỉ trong quy mô nhỏ, và phổ biến trong phạm vi kinh tế gia đình. Tại Việt Nam, cá trôi trước 1975 chỉ có tại miền Bắc, và sau đó đã được đưa vào nhiều nơi tại miền Nam và được thả tại nhiều hồ và thủy vực như Trị An, Long Khánh.. Nguồn cá giống thường được vớt từ tự nhiên; cá nuôi, do điều kiện môi sinh, chỉ sanh sản bằng cách chích kích thích tố, thường là LRH-A Hiện nay, Trung Hoa là quốc gia có sản lượng cao nhất, lên đến trên 250 ngàn tấn cá mỗi năm, theo sau là HongKong với khoảng 200 tấn và Taiwan, 50 tấn (số lượng sản xuất tại HongKong và Taiwan sụt giảm rất nhiều từ trên 500 tấn vào những năm 89-90, do nhu cầu tiêu thụ giảm sụt). Giá trị dinh dưỡng : Cá trôi thuộc loại cá nhiều xương, thịt chắc và ngon, giá tương đối rẻ nên được FAO xem là một nguồn cung cấp chất đạm tốt cho dân chúng tại
  7. các vùng nông thôn của các quốc gia nghèo. Cá thường được tiêu thụ dưới dạng cá tươi ngay nơi câu, đánh bắt, tuy nhiên có thể phơi khô hay ướp muối và đóng hộp (riêng tại Trung Hoa) Cá trôi được xếp vào loại 'cá nạc' trong họ Cá chép, các số liệu về dinh dưỡng rất giống với cá trắm : 100 gram cá (bỏ xương) chứa : - Calories 279 - Chất đạm 22 g - Chất béo 15.5 g - bão hòa 3.3 g - chưa bão hòa, 6.5 g đơn
  8. - chưa bão hòa, 4.5 g đa - Cholesterol 90 mg - Carbohydrates 10 g Số lượng khoáng chất và Vitamins trong cá cũng gần như trong Cá trắm, cá mè..như Calcium (78 mg), Potassium (373mg), Phosphorus (400 mg).. Vitamins B1 (0.2mg), B6 (0.15 mg), B12 (1mcg).. Cá trôi trong ẩm thực : Ca dao Việt Nam có câu : 'Đầu trôi, môi chép, mép mè' để ghi nhận phần đầu cá trôi là phần 'ngon' nhất khi dùng cá trôi. Tại Việt Nam cũng như tại Trung Hoa, cá trôi thường được chiên dòn, hay hấp chín rồi sốt tàu xì (Cá chưng tàu xì), nấu canh với rau cải. Trong vùng Quảng đông, cá trôi Tàu là một nguồn thực phẩm quan trọng, có thể xay nhuyễn làm chả cá, còn được phơi khô, ướp muối.
  9. Một sản phẩm công nghiệp sản xuất tại Trung Hoa:' Cá trôi tàu chiên, sốt tàu xị' đóng hộp được bán tại các Chợ thực phẩm Á đông ở Hoa Kỳ dưới tên Fried Dace with Salted Black Bean (Dau-si Laing yiu) được ghi là có thành phần dinh dưỡng : 56 gram thành phẩm cung cấp 260 calories, chứa 23g Chất béo (6g chất béo bão hòa), 35 mg cholesterol, 13 g Chất đạm, 750 mg Sodium..) * Cá trôi trong Đông, Nam dược : Dược học cổ truyền Việt Nam và Trung Hoa dùng thịt và mật cá trôi làm thuốc : Thịt cá trôi được gọi là Lãng ngư, Hoàn ngư, có sách gọi là Linh ngư Thịt cá trôi = Hoàn ngư nhục được xem là có vị ngọt, tính bình, không độc có các tác dụng 'lơi cơ nhục' hay khoẻ gân cốt, 'hoạt huyết, hành Khí', 'trục thủy, lợi thấp' được dùng để trị các trường hợp kết nhiệt nơi bàng quang, trị hoàng đản, bụng trướng nước. Mật cá trôi = Hoàn ngư đảm, thường hòa nước để thoa trị 'lạnh khớp xương', đau cổ họng. Theo Tuệ tĩnh (Nam dược thần hiệu) : Hoàn ngư = Cá trôi, vị ngọt, tính bình, không độc, bổ dưỡng, ấm dạ dầy, hòa trung ích khí, trị đau bụng.
  10. Theo Hải thượng Lãn ông (Lĩnh nam Bản thảo) : Hồn ngư tên tục gọi là Trôi Không độc, ngọt bình hay dưỡng bồi. Ấm vị, hòa trung và ích khí Hóc xương, đau bụng phải dùng rồi Các sách thuốc cổ Trung Hoa như Bàn thảo Cương mục, Cung thị Dị giản phương, Tứ xuyên Trung dược có ghi một số phương thuốc từ mật cá nhưng đều dưới dạng dùng ngoài và sấy khô để trị mụn nhọt, lở loét, hoẵc chế biến làm thuốc trị mắt sưng đỏ..Không có sách nào ghi việc dùng mật cá làm thuốc bổ, hay dùng mật tươi. Tài liệu sử dụng : FAO Fisheries & Aquaculture : Cirrhinus molitorella Từ điển Động vật và Khoáng vật dùng lảm thuốc tại Việt Nam (Vỏ văn Chi) Cá nước ngọt Việt Nam (tập 1) (Nguyễn văn Hảo và Ngô Sỹ Vân) Fishes and Fish dishes of Laos (Alan Davidson)
  11. Les poissons d'importance commerciale au VietNam (Bulletin de la Société des Etudes Indochinoises, 3è trimestre 1964) Tiến sĩ Dược Khoa Trần Việt Hưng
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2